PGS, TS. Vũ Văn Phúc
Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
……..
2. Tham mưu để bổ sung, hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới (từ Đại hội VI)
2.1. Tham mưu để từng bước bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của Đảng ta
Phát huy sự chủ động, vai trò, trách nhiệm của mình, các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng đẩy mạnh hoạt động, triển khai nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đề xuất, kiến nghị, chuẩn bị Dự thảo Báo cáo Chính trị và các văn kiện để Đại hội VI của Đảng (12-1986) thảo luận và đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, tạo ra luồng sinh khí mới trong toàn xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước vững bước tiến lên.
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội VI đã đánh giá, phân tích sâu sắc những thành tựu và hạn chế, khuyết điểm, sai lầm, trong đó có sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, phân phối lưu thông, cải tạo xã hội chủ nghĩa,… coi đó “là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, “bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng”.
Đại hội VI đề ra ba Chương trình kinh tế lớn là lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, xem đó là mũi nhọn phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới; đồng thời chủ trương kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới, áp dụng những biện pháp kích thích sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá, xoá bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ, chia cắt thị trường; lập lại trật tự, kỷ cương; giữ ổn định chính trị – xã hội, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Đại hội VI khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tiến hành đổi mới chính sách kinh tế gắn với đổi mới chính sách xã hội, coi sự tác động qua lại giữa hai loại chính sách này là nhân tố cơ bản bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đây là lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, chính sách xã hội và mối tương quan của nó với chính sách kinh tế được đặt đúng tầm.
Đại hội VI còn nhấn mạnh vấn đề phải làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, đẩy lùi và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh các quan hệ xã hội; đổi mới quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, căn cứ vào tình hình thực tiễn, các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng không ngừng tổng kết thực tiễn tham mưu để các hội nghị Trung ương tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới đất nước.
Sau Đại hội VI, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đảng, làm cho Nghị quyết Đại hội VI đi dần vào cuộc sống. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VI (tháng 4-1987) về lưu thông phân phối, quyết định bỏ chính sách hai giá, thực hiện “bốn giảm” (giảm tốc độ lạm phát; giảm nhịp độ tăng giá; giảm tốc độ bội chi ngân sách; giảm bớt khó khăn về đời sống của người ăn lương, của Quân đội, Công an, người về hưu, nhân dân lao động), tiếp tục xoá bỏ tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”. Nghị quyết Trung ương 3 khóa VI (tháng 8-1987) quyết định chuyển hoạt động của các đơn vị công nghiệp quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế, thực hiện tự chủ trong kinh doanh. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-1988) về tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, thực hiện việc khoán đến hộ (“khoán 10”), tạo động lực mới thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh, toàn diện.
Nhận rõ những nguy cơ từ cải tổ ngày càng theo hướng hữu khuynh ở Liên Xô, Đông Âu, như việc thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập, phủ nhận sạch trơn quá khứ cách mạng; chĩa mũi nhọn phê phán vào Đảng Cộng sản, vào chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tung ra các tư tưởng, quan điểm xa lạ làm cho tình trạng khủng hoảng ở các nước này ngày càng trầm trọng, xã hội ngày càng hỗn loạn, các cơ quan tham mưu ở Trung ương đã kiến nghị, đề xuất để Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989), cùng với việc tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, đã nêu ra 6 nguyên tắc đổi mới, trong đó nhấn mạnh: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức đúng hơn và có phương pháp phù hợp hơn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập… Việc khẳng định các nguyên tắc đó đã góp phần ngăn chặn có hiệu quả những tư tưởng hoang mang, dao động; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Đại hội VII (tháng 6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,trong đó, cùng với xác định rõ nội dung và tính chất của thời đại, đã làm nổi bật hai nội dung cơ bản: 1) quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần xây dựng; 2) những phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ mới. Cương lĩnh chỉ rõ: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; có mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, phải kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, kiên định và phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng và khoa học. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu các chương trình, các đề tài khoa học cấp nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh, do các cơ quan tham mưu ở Trung ương thực hiện, Cương lĩnh khẳng định vị trí tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.
Cương lĩnh xác định Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạochăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực phẩm chất trong sạch, đủ sức gánh vác công việc của Đảng.
Đó là những nội dung cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 phản ánh những nhận thức mới của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội VII còn khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; trong đó kinh tế quốc doanh là chủ đạo, kinh tế quốc doanh cùng kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đại hội chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Đại hội VII của Đảng đã trịnh trọng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Hội nghị Trung ương 3 khoá VII (tháng 6-1992) đề ra tư tưởng chỉ đạo và 4 phương châm trong hoạt động đối ngoại của Đảng ta.
Trước sự thay đổi nhanh chóng, mang tính bước ngoặt của tình hình thế giới, của phong trào cách mạng thế giới, trên cơ sở đề xuất, kiến nghị của các cơ quan tham mưu chiến lược của Trung ương, Trung ương Đảng quyết định triệu tập Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01-1994) tiếp tục phát triển và cụ thể hoá tư tưởng của Đại hội VII, xác định mục tiêu tổng quát của quá trình đổi mới nói riêng, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung, là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hội nghị cũng chỉ ra những nguy cơ mà đất nước phải vượt qua. Đó là: tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tệ tham nhũng và quan liêu; “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Hội nghị đưa ra quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ mới; khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, xem “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, tiếp tục làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ; chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đại hội cũng làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; tiếp tục khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu, là khâu đột phá trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (tháng 12-1996) nhấn mạnh hơn vai trò quốc sách hàng đầu của phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đó là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; khẳng định việc phát triển giáo dục – đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, với những tiến bộ khoa học – công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện công bằng trong giáo dục – đào tạo; coi khoa học và công nghệ là động lực phát triển kinh tế – xã hội, là điều kiện để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp,…
Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII (tháng 6-1997) tập trung giải quyết vấn đề tiếp tục xây dựng Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Lần đầu tiên trong quá trình đổi mới, Hội nghị đã ra Nghị quyết về chiến lược cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chỉ ra 5 quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ, mục tiêu của công tác cán bộ và xác định tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới.
Để văn hoá thực sự là “nền tảng tinh thần” của xã hội – một vấn đề đã được khẳng định tại Hội nghị Trung ương 4 khoá VII (tháng 01-1993) nhằm nâng cao vai trò động lực của văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII (tháng 7-1998) đã đề cập một cách toàn diện những nội dung cốt lõi nhất của vấn đề xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII (tháng 10-1998) quyết định mở cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong 2 năm 1999 – 2001; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu; chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Nghị quyết Đại hội VIII và Nghị quyết các Hội nghị Trung ương nêu trên đã tháo gỡ được nhiều khó khăn, nhưng đi vào thực tế, tình hình lại có những diễn biến phức tạp mới: thiên tai dồn dập diễn ra từ năm 1997 đến năm 1999 đã gây thiệt hại lớn đối với nhiều vùng của đất nước; cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông Nam Á và một số nước trên thế giới đã tác động mạnh, làm cho kinh tế nước ta đứng trước những khó khăn mới. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương 8 khoá VIII (tháng 12-1999) đã đánh giá đúng tình hình, xác định những chủ trương và giải pháp mới nhằm ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh tế – xã hội.
Đại hội IX (tháng 4-2001) là Đại hội mở đầu thế kỷ XXI ở Việt Nam. Đại hội đã nhìn lại một cách tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII (1996 – 2000), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội (1991 – 2000), rút ra 4 bài học qua 15 năm đổi mới (1986 – 2000): Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới; định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI với phương hướng tổng quát là: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đại hội xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (điểm mới là có thêm từ “dân chủ”).
Đại hội IX đánh giá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn về vị trí, vai trò và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội nhấn mạnh tính khó khăn, phức tạp của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ; khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ.
Đại hội đã làm rõ vai trò động lực to lớn của đại đoàn kết toàn dân, của vấn đề dân chủ, của việc quan tâm tới lợi ích chính đáng của con người; chỉ ra nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay: đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Đại hội nâng đường lối đối ngoại lên mức cao hơn, toàn diện hơn: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Đường lối này đã được cụ thể hoá trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá IX với cách nhìn nhận mới và thống nhất về các vấn đề đối tác và đối tượng, định hướng cho chính sách và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn mới.
Hội nghị Trung ương 5 khoá IX (tháng 02-2002) đã ra các nghị quyết: Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010; Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; Đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Đảng khẳng định: Kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi người lao động, các hộ sản xuất – kinh doanh, các doanh nghiệp không giới hạn quy mô, lĩnh vực, địa bàn, phân phối theo lao động và vốn cùng mức độ tham gia dịch vụ. Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư nhân được phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô; những đảng viên đang làm chủ doanh nghiệp tư nhân chấp hành tốt Điều lệ Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước thì vẫn là đảng viên của Đảng; công tác tư tưởng, lý luận phải góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội bức xúc, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, ngăn chặn suy thoái về đạo đức, lối sống…
Hội nghị Trung ương 7 khoá IX (tháng 01-2003) khẳng định vai trò động lực chủ yếu của đại đoàn kết toàn dân tộc; vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hội nghị Trung ương 8 khoá IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; khẳng định quan điểm toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và những định hướng lớn trên vấn đề này.
Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 01-2004) đã kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, tiếp tục khẳng định phương hướng chính trị cơ bản trong những thập niên đầu thế kỷ XXI mà Đại hội đã nêu lên, nhấn mạnh vấn đề tạo bước tiến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, tạo sự chuyển biến toàn diện và sâu sắc trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng…
Có cơ sở để khẳng định rằng, sau Đại hội VI, các Đại hội VII (6-1991), Đại hội VIII (6-1996), Đại hội IX (4-2001) là những bước phát triển quan trọng, hoàn thiện đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng. Đó là quá trình đổi mới từ thấp đến cao, từ đổi mới bộ phận, từng mặt đến đổi mới toàn diện, ngày càng đi vào chiều sâu.
Đại hội X của Đảng (4-2006) trên cơ sở tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới, đã khẳng định công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét căn bản. Văn kiện Đại hội X đã khái quát 8 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng; 8 phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X và các nghị quyết Trung ương khóa X đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã ra Nghị quyết về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nửa cuối nhiệm kỳ Đại hội X, các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng đã tích cực tham gia tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, đồng thời tích cực chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng. Đại hội XI (tháng 01-2011) đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh, làm rõ thêm 8 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, 8 phương hướng cơ bản và 8 mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng nắm vững. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đánh dấu một bước tiến quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng, trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Với sự tham mưu tích cực của các ban, ngành, các cơ quan Trung ương, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã thảo luận, ban hành nhiều nghị quyết, kết luận quan trọng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế (Hội nghị Trung ương 3); về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay (Hội nghị Trung ương 4); một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020 (Hội nghị Trung ương 5); về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (Hội nghị Trung ương 6); về đổi mới, tăng cường công tác dân vận; về tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (Hội nghị Trung ương 8); về xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững (Hội nghị Trung ương 9);… Các nghị quyết, kết luận của Trung ương khóa XI nêu trên là bước phát triển mới về nhận thức trên cơ sở tổng kết thực tiễn thực hiện đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, với sự kiến nghị, đề xuất của các cơ quan tham mưu, sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân, Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành bổ sung, sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 2013, một văn kiện chính trị – pháp lý quan trọng của Nhà nước ta, sự thể chế hóa Cương lĩnh, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng ta trong thời kỳ mới.
(còn tiếp)