Nâng cao chất lượng tham mưu, góp phần xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới – Phần cuối


PGS, TS. Vũ Văn Phúc

Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

……….

Sáu là, xây dựng lý luận mở cửa, hội nhập quốc tế

Đảng ta đã chủ động xây dựng, từng bước bổ sung, ngày càng hoàn thiện một nền lý luận và đường lối đối ngoại Việt Nam của thời kỳ đất nước mở cửa, hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá.

Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá, sự vận động và phát triển của luận điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo: từ “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” (năm 1991) tới “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lâp và phát triển” (năm 2001), và “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” trong thế “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” (năm 2011) đã thể hiện một cách hết sức biện chứng và minh triết quan điểm, phương châm, nghệ thuật ngoại giao và khát vọng của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế.

Bảy là, phát triển lý luận về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền

Thành tựu lý luận nổi bật của gần 30 năm đổi mới là, Đảng ta đã từng bước làm rõ toàn diện hơn, sâu sắc hơn và thấu triệt hơn những vấn đề cơ bản về tính quy luật của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong thời đại ngày nay.

Với sự tham mưu, kiến giải của các cơ quan tham mưu, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta hết sức chú trọng tổng kết những vấn đề cơ bản trên các phương diện lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức bao trùm toàn bộ đời sống kinh tế xã hội đất nước trong công cuộc đổi mới. Đặc biệt, những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn nguyên giá trị, và Đại hội IX, X, XI của Đảng đã rút ra những bài học quý báu. Có thể nói, đó là sự kết tinh tập trung, cụ thể và sinh động về mặt lý luận cầm quyền của Đảng.

Nhìn lại 30 năm, bước đầu có thể hình dung khái lược những thành tựu lý luận mới mẻ về vấn đề Đảng cầm quyền được thể hiện một cách tập trung trên 10 bình diện chủ yếu: 1) Quy luật cầm quyền; 2) Quan niệm cầm quyền; 3) Cơ sởcầm quyền; 4) Phương lược cầm quyền; 5) Nội dung cầm quyền; 6) Cơ chế cầm quyền; 7) Phương thức cầm quyền; 8) Nguồn lực cầm quyền; 9) Môi trường cầm quyền; và 10) Nguy cơ đối với cầm quyền.

Tám là, xác định và phát huy động lực to lớn của cách mạng Việt Nam

Đảng ta khẳng định: “Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Đó là một bước tiến mới, một bổ sung mới trong nhận thức và hành động thực hiện đại đoàn kết toàn dân như một mục tiêu, một nhiệm vụ, một công tác hàng đầu, một đạo lý sống và hành xử Việt Nam. Đó là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh có tính chân lý trong thời đại ngày nay: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Là then chốt của thành công”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Phương châm thực hiện là đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài; đoàn kết trên cơ sở những điểm tương đồng, trên tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau hướng tới tương lai; củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên cơ sở liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một sáng tạo lớn, một sự phát triển mới của Đảng trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Khẳng định và phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc là “động lực chủ yếu” hợp thành hệ động lực gồm động lực kinh tế, động lực văn hoá… của sự nghiệp đổi mới là một nỗ lực lớn và mới của công tác lý luận. Và, xét về cấu trúc lý thuyết đổi mới, nó là một trong những trụ cột lý luận căn bản và mới mẻ góp phần làm nên diện mạo và tố chất của con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Như vậy, với sự vào cuộc chủ động, tích cực đóng góp, hiến kế của hệ thống các cơ quan tham mưu, qua kiểm nghiệm bằng thực tiễn gần 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã từng bước hình thành, không ngừng bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên tất cả mọi phương diện: về xây dựng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; về giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh; về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; về đường lối và chính sách đối ngoại; về hội nhập kinh tế quốc tế tiến tới hội nhập quốc tế; về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh; về nhận thức và giải quyết 8 mối quan hệ lớn…

3. Đánh giá chung về công tác tham mưu của các cơ quan Đảng Trung ương trong quá trình hình thành, bổ sung, hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới của Đảng 

Đường lối đổi mới đất nước của Đảng được hình thành, là kết quả của quá trình tìm tòi, thử nghiệm trong thực tiễn của nhân dân; là kết quả của quá trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn của các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng; là quá trình từng bước đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta trên cơ sở khảo sát, tổng kết, phân tích thấu đáo thực tiễn sinh động trong nước và quốc tế. Đó là kết quả của sự đấu tranh gian nan, căng thẳng, gay gắt giữa cái cũ và cái mới, giữa những quan niệm, cách nhìn nhận vấn đề lý luận và thực tiễn của các nhà khoa học, các chuyên gia trên các lĩnh vực khác nhau, của các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà hoạt động thực tiễn và sáng kiến của quảng đại nhân dân.

Công tác tham mưu ngày càng bám sát, nắm bắt kịp thời, trúng hơn các vấn đề thực tiễn phát triển đất nước đặt ra, từ đó kiến nghị, đề xuất, tham mưu với Trung ương để Trung ương ban hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định phù hợp, kịp thời với tình hình đất nước. Nhờ đó, các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương phát huy tác động tích cực, nhanh chóng đi vào cuộc sống, quyết định sự phát triển đất nước theo hướng bền vững.

Hệ thống các cơ quan tham mưu ở Trung ương không ngừng được củng cố, tổ chức lại, phân công, phân nhiệm hợp lý hơn, nhờ vậy phát huy tốt hơn sức mạnh tổng hợp, năng lực của từng cơ quan, cũng như của cả hệ thống.

Xác lập được cơ quan đầu mối, chủ trì, điều phối các đề án, dự án để chuẩn bị trình Trung ương xem xét, ban hành nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quyết định.

Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tham mưu không ngừng được bổ sung, nâng cao chất lượng, được thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tham mưu được đa dạng hóa: đào tạo tâp trung, bồi dưỡng ngắn hạn, đào tạo, bồi dưỡng trong nước, ngoài nước,…

Phương thức, cách thức tham mưu được đổi mới không ngừng, ngày càng khoa học, bài bản hơn. Các chủ trương, nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định, quy chế của Trung ương đều dựa trên sự chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, nghiêm túc thông qua việc triển khai chuẩn bị các đề án, đề tài nghiên cứu khoa học của các cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng. Các Ban Chỉ đạo, các Tổ Biên tập đề án đều tiến hành khảo sát thực tiễn ở các địa phương, bộ, ngành; lấy ý kiến góp ý của các đối tượng sẽ chịu tác động trực tiếp của các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, chính sách sẽ được ban hành; tổ chức tọa đàm, hội thảo khoa học để xin ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các cán bộ lãnh đạo, quản lý; đồng thời, xin ý kiến các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương,… Trên cơ sở đó, các Tổ Biên tập đề án chắt lọc những ý kiến hợp lý, có giá trị, có cơ sở khoa học và thực tiễn để đưa vào dự thảo đề án để trình Ban Chỉ đạo. Các Ban Chỉ đạo cho ý kiến, thảo luận, hoàn chỉnh đề án trình Bộ Chính trị. Sau khi Bộ Chính trị cho ý kiến, các đề án được hoàn thiện trước khi trình Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương. Tại các Hội nghị Trung ương, Trung ương thảo luận kỹ và Bộ Chính trị có tiếp thu, giải trình thêm những vấn đề Trung ương đặt ra trong quá trình thảo luận. Cuối cùng, Trung ương biểu quyết về những vấn đề lớn về chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng.

Hội đồng Lý luận Trung ương, Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương ngày càng phát huy vai trò đầu mối, thực hiện chức năng thẩm định, đánh giá rất quan trọng đối với các đề án, dự thảo nghị quyết, kết luận, chỉ thị sẽ trình ra Trung ương để xem xét, quyết định ban hành nghị quyết, kết luận, chỉ thị.

Bên cạnh những đóng góp tích cực, quan trọng nêu trên, công tác tham mưu chiến lược của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế sau:

– Công tác tổ chức nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận của Đảng chưa ngang tầm, còn nhiều bất cập, lạc hậu nên làm hạn chế trong tổ chức, chỉ đạo thực tiễn. Chất lượng tham mưu còn hạn chế, nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu.

– Năng lực của các cơ quan tham mưu, của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tham mưu, nhất là trong dự báo tình hình vẫn là khâu yếu, còn nhiều bất cập, dẫn đến bị động, mà chưa dự báo đúng, trúng để chủ động tham mưu kịp thời vấn đề thực tiễn đặt ra.

– Nhận thức của một số cơ quan tham mưu, của cán bộ, công chức về một số vấn đề cơ bản trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc còn hạn chế, chưa sâu sắc, chưa thống nhất cao nên trong việc tham mưu để hoạch định và thực hiện một số chủ trương, giải pháp còn lúng túng, quyết tâm chưa cao, thiếu dứt khoát.

– Tham mưu trong tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới vẫn là khâu yếu. Chưa làm đúng, thậm chí có nơi, có lúc còn làm sai nghị quyết, chủ trương của Đảng đã đề ra. Một số chính sách chưa sát với thực tiễn nên tính khả thi thấp. Chưa thật đồng bộ trong sự phối hợp giữa các ngành, các cấp.

– Tham mưu trong công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, kết luận của Trung ương chưa được tiến hành thường xuyên, chưa chặt chẽ.

– Tham mưu về công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương cũng thực hiện chưa đều đặn. Có nghị quyết, kết luận, chỉ thị sau 15 năm, thậm chí 20 năm mới được sơ kết, tổng kết,…

– Phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm đổi mới, một số vấn đề còn lúng túng, vướng mắc. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế, bất cập cũng ảnh hưởng ngược lại, làm cho chất lượng tham mưu chưa cao.

– Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức làm công tác tham mưu còn nhiều bất cập trước yêu cầu đổi mới, thiếu và yếu cả về phẩm chất chính trị, trình độ trí tuệ, năng lực chuyên môn; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tham mưu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cơ quan tham mưu, kể cả ở cơ quan tham mưu cấp Trung ương còn thiếu gương mẫu.

– Kết quả tham mưu của các cơ quan tham mưu chất lượng chưa cao, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, yêu cầu của Trung ương. Chính vì vậy mà có nghị quyết, kết luận của Trung ương chưa thực sự sát hợp với thực tiễn đất nước, khó triển khai trong cuộc sống.

4. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác tham mưu, góp phần hoàn thiện đường lối đổi mới 

Để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác tham mưu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, thời gian tới cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau:

– Nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan tham mưu, của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các cơ quan tham mưu cấp chiến lược. Trước tình hình mới, yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận mang tính đột phá để tham mưu cho Đảng: đổi mới tư duy quyết liệt hơn nữa; phải có những đột phá về mặt lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta để tham mưu phát triển hơn nữa đường lối đổi mới.

– Các cơ quan tham mưu, cán bộ làm công tác tham mưu trước hết phải nắm vững chủ trương, đường lối, chiến lược, chương trình, mục tiêu phát triển trên các lĩnh vực của Đảng và Nhà nước để tham mưu đúng và trúng vấn đề.

– Các cơ quan tham mưu, cán bộ làm công tác tham mưu phải nắm vững chương trình, kế hoạch công tác toàn khóa, hằng năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Quốc hội, của Chính phủ để xây dựng kế hoạch công tác, chủ động đề xuất các đề án, dự án trình Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của thực tiễn phát triển bền vững đất nước.

– Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, các cơ quan làm công tác tham mưu phải chủ động, tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, khảo sát, tổng kết thực tiễn trên các lĩnh vực được phân công tham mưu, để dự báo đúng tình hình, phát hiện trúng vấn đề, đề xuất, kiến nghị với Trung ương ra nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo, chỉ đạo. Đồng thời, tham mưu thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện nghị quyết, góp phần phản ánh với Trung ương về kết quả, hiệu quả thực hiện, mức độ đi vào cuộc sống của các nghị quyết, chỉ thị; phản ứng, sự tham dự của các đối tượng chịu tác động vào quá trình triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch, do Trung ương ban hành.

– Nâng cao phẩm chất chính trị, thái độ, tinh thần trách nhiệm làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các cơ quan làm công tác tham mưu; tăng cường khả năng tự đề kháng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,…

– Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt làm công tác tham mưu ở các cơ quan Đảng Trung ương, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, ngày càng phức tạp, khó khăn của công tác tham mưu chiến lược.

– Có chế độ, chính sách, biện pháp để thu hút, huy động tối đa, triệt để, hiệu quả sự tham gia, đóng góp ý kiến, hiến kế của các nhà khoa học, các chuyên gia ở các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ sở đào tạo đại học; các cán bộ nguyên lãnh đạo, quản lý cấp cao, đặc biệt là của đội ngũ nguyên cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở các cơ quan tham mưu chiến lược.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ triển khai thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), phấn đấu để thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XI, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương khóa XI; chuẩn bị mọi điều kiện, tiền đề để phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đồng thời đang tích cực chuẩn bị tiến hành đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Các cơ quan tham mưu, nhất là cơ quan tham mưu cấp chiến lược của Đảng phải nỗ lực tối đa thể hiện được vai trò, vị trí của mình, đáp ứng được yêu cầu và sự mong đợi của Trung ương Đảng. Trước mắt là tập trung thực hiện có hiệu quả việc tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới và chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng./.

Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn/

Advertisement

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s