Những nước bình thường: phương Đông 25 năm hậu cộng sản – Phần cuối


Andrei Shleifer và Daniel Traisman

…….

CÁC QUI LUẬT VỀ SỰ THU HÚT GIỮA CÁC QUỐC GIA

Bài nghiên cứu các giá trị trung bình này làm lu mờ sự khác biệt to lớn diễn ra từ khi tính đồng phục [uniformity] do Moscow áp đặt lên chư hầu của mình cáo chung. Ngày nay, sự tương phản giữa các quốc gia hậu cộng sản đa dạng này là rất rõ nét. Ba Lan đã trở thành một nước dân chủ thị trường tự do có lợi tức quốc gia tăng lên hơn hai lần kể từ năm 1990; Tajikistan vẫn là một nước độc tài, trên mình còn mang thương tích chiến tranh và cực kỳ nghèo khổ, do một nhà lãnh đạo duy nhất đứng đầu suốt hơn 20 năm.

Một lý giải được lặp đi lặp lại nhiều lần về sự cách biệt giữa các thành quả kinh tế là, tại một số nước các quan chức chính phủ đã phá hoại hiệu quả bằng cách theo đuổi các cải tổ quá táo bạo. Theo luận cứ này, một đường lối chậm rãi hơn, có bài bản hơn đã giúp một số nước khác thực hiện các cuộc chuyển đổi thành công hơn. “Các chính sách theo đường lối tuần tự [gradualist policies] sẽ ít gây thiệt hại trong ngắn hạn, nhưng sẽ dẫn đến ổn định kinh tế và xã hội rộng lớn hơn, và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong dài hạn,” nhà kinh tế Joseph Stiglitz đã lập luận trong cuốn sách ông xuất bản năm 2002, Globalization and Its Discontents [Toàn cầu hóa và những nỗi bất bình]. “Trong cuộc chạy đua giữa con rùa và con thỏ, hình như con rùa lại thắng cuộc một lần nữa.” Lý giải này đã thu hút những người trong khối Xô-viết cũ khi họ nhận thấy các đặc quyền của mình bị tiến trình tự do hoá đe dọa và những người ở phương Tây mất lòng tin vào các thế lực kinh tế thị trường. Nhưng lý luận như vậy là sai lầm: khoảng giữa thập niên 1990, các nước theo đuổi cải tổ một cách nhiệt tình đã thành công vượt bậc so với những nước trì hoãn cải tổ.

Chỉ nhìn sơ vào các dữ liệu cũng đủ cho ta hậu thuẫn kết luận này. Để đo lường tiến độ của sự cải tổ, chúng tôi dựa vào các chỉ số được Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu đưa ra, điều chỉnh chúng để định cho mỗi nước một số điểm hàng năm từ 0 đến 100, tùy theo mức độ mà nước đó tiến gần đến kinh tế thị trường tự do. Chúng tôi gọi những nước vượt lên trên 40 điểm trong ba năm đầu của thời kỳ quá độ là “những nước cải tổ triệt để [radical reformers].” Chín quốc gia hội đủ tiêu chuẩn này: Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Estonia, Ba Lan, Nga, và Slovakia. Chúng tôi gọi những nước có điểm từ 25 đến 40 là những nước “cải tổ tuần tự [gradual reformers],” và những nước chưa vươn tới 25 điểm là “những nước cải tổ chậm [slow reformers].”

Việc so sánh thành tích kinh tế của ba nhóm nước này cho thấy rằng những cải tổ nhanh chóng hơn và triệt để hơn sẽ giảm thiểu, chứ không tăng thêm khó khăn kinh tế. Công bằng mà nói, khi bắt đầu quá trình chuyển đổi, các nước thuộc nhóm cải tổ triệt để đã chứng kiến sự suy giảm sản lượng trầm trọng hơn một chút so với các nước thuộc nhóm cải tổ tuần tự. Nhưng sau ba năm, những nước cải tổ triệt để đã xốc tới phía trước, vượt xa các nước cải tổ tuần tự. Trong khi đó, những nước cải tổ chậm gặp nhiều khó khăn nhất và ngày nay tiếp tục tụt hậu so với hai nhóm kia.

Cuối cùng những nước cải tổ tuần tự đã bắt kịp những nước cải tổ triệt để, nhưng việc này chỉ xảy ra sau nhiều năm chịu thiệt thòi vì phải trả giá đắt cho hiệu quả thấp [underperformance]. So với những nước hăng hái đi theo thị trường tự do, những nước cải tổ tuần tự mất nhiều thời gian hơn để lấy lại mức tiêu thụ hộ gia đình đã có trước đó và để ổn định giá cả lạm phát. Và trong mức độ người ta có thể phán đoán, dựa vào các dữ liệu thống kê hiện có, nạn thất nghiệp đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến những nước chậm cải tổ như Armenia và Madedonia, nghiêm trọng hơn các nước khác cùng kinh qua thời kỳ quá độ. Nhìn chung, không có bằng chứng nào cho thấy đường lối cải tổ tuần tự có thể giảm bớt sự nhức nhối của quá trình chuyển đổi. Tất cả mọi dấu hiệu đều chỉ theo chiều ngược lại: chính những con thỏ, chứ không phải những con rùa, đã thắng cuộc đua.  Nhiều con rùa cuối cùng cũng theo kịp, nhưng chỉ sau khi lặn lội một hành trình gian khổ hơn.

Ngoài sự khác biệt vì cải tổ nhanh hay chậm, một mô hình nổi bật khác phát sinh từ vị trí địa lý của một quốc gia ở trong khu vực. Những tiên đoán trước đây, rằng tất cả các nước đang chuyển đổi rồi sẽ giống các quốc gia phương Tây, đã không trở thành hiện thực. Quá trình hội tụ quả thật đã diễn ra, nhưng ở hướng khác: giữa các nước hậu cộng sản và các lân bang phi cộng sản. Trên nhiều phương diện, các quốc gia hậu cộng sản đã trở nên tương tự với những nước phi cộng sản gần biên giới của chúng nhất.

Những quốc gia Baltic xích gần với Phần Lan hơn, những nước trong vùng Caucasus xích gần với Iran và Thổ Nhĩ Kỳ hơn. Những quốc gia Trung Á trở nên gần giống với Afghanistan và Iran hơn. Những nước Trung Âu thì xích gần với Áo và Đức hơn, nhưng thỉnh thoảng vẫn được các nước láng giềng ở phía Đông níu kéo. Có vài ngoại lệ đối với mô hình này – đáng lưu ý nhất là Belarus, một nước đã trở nên độc tài hơn so với những nước hậu cộng sản láng giềng. Nhưng trong hầu hết mọi trường hợp, sau khi thoát khỏi gọng kềm của Moscow, các chư hầu Xô-viết cũ đã nhanh chóng bung ra, hội nhập vào môi trường khu vực của mình.

Các đặc tính của những nước láng giềng không cộng sản gần gũi nhất của mỗi quốc gia vào thời điểm 1990 có thể gợi ý mạnh mẽ về đường hướng phát triển sau này của quốc gia đó. Nếu xét đến khởi điểm của từng nước, chúng ta sẽ thấy rằng hễ các nước láng giềng phi cộng sản càng giàu có, càng dân chủ và càng tự do về mặt kinh tế, thì cuối cùng nước hậu cộng sản đó sẽ trở nên giàu có, dân chủ và tự do về mặt kinh tế hơn trước. Sự hội tụ này còn biểu hiện trong nhiều cung cách tế nhị hơn nữa – chẳng hạn, trong tỉ lệ sinh viên đăng ký vào đại học, trong mức tiêu thụ rượu cồn, và thậm chí trong tuổi thọ trung bình. Đôi khi, các nước láng giềng còn ảnh hưởng trực tiếp lên viễn ảnh phát triển của những nước hậu cộng sản này, như trường hợp quân chiến đấu Hồi giáo từ bên kia biên giới Afghanistan tấn công vào Tajikistan hay khi các công ty Đức thành lập các nhà máy sản xuất tại Cộng hòa Séc. Nhưng một động lực quan trọng hơn thúc đẩy tính đồng qui này chắc hẳn là những đặc tính văn hóa cơ bản đã có trước chế độ cộng sản và các biên giới quốc gia hiện nay.

NHỮNG KỲ VỌNG TO LỚN

Mười năm về trước, chúng tôi đã lập luận trong tạp chí này rằng Nga đã trở thành “một quốc gia bình thường,” với các khuyết tật chính trị và kinh tế tương tự khuyết tật của những quốc gia cùng trình độ phát triển. Chúng tôi dự đoán rằng tăng trưởng kinh tế của Nga sẽ tiếp diễn, đồng thời hiện đại hóa xã hội theo bước phát triển đó. Tiên đoán này đã trở thành hiện thực: GDP tính theo đầu người của Nga đã tăng thêm 39 phần trăm kể từ năm 2004, và sự thâm nhập Internet tại Nga đã tăng lên 4 lần, qua mặt Hy Lạp.

Quay sang chính trị, chúng tôi phác họa hai kịch bản có thể xảy ra. Kịch bản thứ nhất nêu lên “sự cạnh tranh ngày một gia tăng giữa các đảng phái dân chủ và sự xuất hiện của một xã hội dân sự ngày một vững mạnh hơn.” Kịch bản thứ hai tiên đoán một “sự tuột dốc hướng tới một chế độ độc tài được quản lý bởi các cán bộ nhà nghề trong ngành công an dưới chiêu bài của các thủ tục dân chủ hình thức.” Tiên đoán của chúng tôi cho rằng Nga sẽ vạch ra một con đường nằm giữa hai thái cực này – một tiên đoán hóa ra là quá lạc quan, xa vời thực tế. Cuối cùng, Tổng thống Nga đã chọn phương án thứ hai.

Việc Putin chọn con đường độc tài rõ ràng làm cho Nga trở thành nguy hiểm hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, việc này vẫn chưa làm cho Nga trở nên bất bình thường về mặt chính trị. Thật vậy, trên một biểu đồ đối chiếu chỉ số Chính thể [Polity scores] của nhiều quốc gia khác nhau với chính lợi tức của chúng, Nga vẫn chỉ chệch hướng một chút so với mô hình tổng quát. Đối với một nước có lợi tức quốc gia như Nga, chỉ số Chính thể dự kiến vào năm 2013 là 76 trên thang điểm 100. Chỉ số thực của Nga là 70, ngang hàng với Sri Lanka và Venezuela.

Nếu Nga thậm chí trở nên giàu có hơn nữa mà không chịu tự do hóa chính trị, nó mới thực sự trở thành bất bình thường. Chỉ có ba nhóm nước giàu hơn Nga hiện nay là các nước dân chủ phát triển, các nước độc tài dầu lửa (hầu hết nằm trong vùng Vịnh Ba Tư), và các quốc gia đô thị (city-states) như Singapore và Macao. Rõ ràng là Nga không thể trở thành một quốc gia đô thị, và nó không có đủ tài nguyên thiên nhiên để trở thành một nước độc tài kiểu Ả-rập. (Lợi tức từ dầu khí hàng năm của Nga là 3.000 USD mỗi đầu người, so với 34.000 USD đối với Kuwait.) Vì thế Nga hiển nhiên phải chọn giữa trải qua bế tắc kinh tế và theo đuổi phát triển kinh tế song song với dân chủ hóa mạnh mẽ hơn trước. Hiện nay, Điện Kremlin có vẻ quyết tâm đi theo lựa chọn thứ nhất, nhưng những lựa chọn của nó có thể thay đổi theo thời gian.

Tuy vậy, chủ nghĩa độc tài ngày càng gia tăng của Nga chắc chắn không làm cho thế giới sao lãng những tiến bộ ngoạn mục của khu vực hậu cộng sản này nói chung. Hai mươi lăm năm về trước, những nước thuộc về khối Đông tiêu biểu cho một trong hai nền văn minh loại trừ lẫn nhau trên thế giới [an alternative civilization]. Vào lúc đó mà tưởng tượng chúng nhanh chóng hòa nhập vào dòng chính toàn cầu [the global mainstream], phải cần đến một sự bạo gan nào đó. Thời kỳ quá độ đã gây ra không ít thất vọng. Nhưng nhìn chung, những thay đổi từ năm 1989 đến nay là một thành công nổi bật.

Đã đến lúc phải xét lại cái cảm thức sai lầm về giai đoạn này. Những cải tổ thị trường, những nỗ lực xây dựng dân chủ, những cuộc tranh đấu chống tham nhũng đã không thất bại, mặc dù chúng vẫn chưa hoàn tất. Luận điệu cho rằng một đường lối cải tổ kinh tế tuần tự sẽ có hiệu quả hơn và ít gây đau đớn hơn đã bị các bằng chứng dữ liệu bác bỏ. Thời kỳ quá độ hậu cộng sản không hề cho thấy sự bất cập của chủ nghĩa tư bản tự do hay sự rối loạn chức năng của thể chế dân chủ. Nói đúng hơn, nó chứng minh tính ưu việt và lời hứa hẹn trường tồn của cả hai.

Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh: “Normal Countries. The East 25 Years After Communism”. Foreign Affairs số tháng Mười Một/Mười Hai 2014.

Bản tiếng Việt @ 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra

Advertisement

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s