Song song với lịch sử Hoa Kỳ
Thật khó nắm bắt mức độ quan trọng của áp lực ngòi pháp luật và sự đáp ứng chính trị nhanh nhạy ở Hoa Kỳ nếu đọc một cách thiếu suy xét toàn bộ lịch sử Hoa Kỳ trong thư viện. Cũng sẽ chẳng dễ đối với hầu hết các nhà chính trị và các nhà kỹ trị có đầu óc cải cách để khám phá lịch sử Mỹ, điều mà họ nên chú ý nhất, cái gọi là, mối liên hệ giữa hợp pháp hóa quyền sở hữu và tạo vốn. Để có ích cho xã hội và kinh tế, cần phải tổng hợp lịch sử để soi rọi vấn đề đang bàn. Nhìn chung, các chuyên gia về quyền sở hữu đã không viết về quá trình quá độ từ các quyền ngoài pháp luật sang một hệ thống quyền sở hữu hợp pháp được tích hợp. Có thể có nhiều lý do giải thích điều này.
Thứ nhất, quá trình lịch sử vẫn còn chưa hoàn tất. Ngược với niềm tin phổ biến, các hệ thống quyền sở hữu mở cho mọi công dân là hiện tượng tương đối mới gần đây – chưa quá 200 năm – và những hệ quả đầy đủ của thời kỳ quá độ chưa nổi lên rõ nét. Trong hầu hết các quốc gia phương Tây, nhiệm vụ chính của cải cách quyền sở hữu rộng rãi chỉ mới hoàn tất khoảng một thế kỷ trước; ở Nhật Bản nó mới tồn tại hơn 50 năm nay. Bời vì toàn bộ quá trình tạo ra các hệ thống quyền sở hữu được tích hợp là kết quả của một sự tiến hóa vô thức chứ không phải của một kế hoạch có ý thức, cho nên không đáng ngạc nhiên là cần có thời gian để cho tất cả các bài học hữu ích củ việc tạo quyền sở hữu ở các quốc gia phát triển trở nên rõ ràng đối với dân chúng ở thế giới đang phát triển.
Thứ hai, theo truyền thống, quyền sở hữu được xem xét từ quan điểm của các quốc gia tiên tiến. Hầu hết các tài liệu khoa học nảy nở ngày nay về quyền sở hữu đều coi căn nguyên của nó ở phương Tây là điều nghiễm nhiên.
Thứ ba, lý do khó nắm bắt quá trình tạo quyền sở hữu hình thức là rất khó theo dõi mạch của câu chuyện. Sự hấp thụ chậm các tập quán, thói quen và các chuẩn mực ngoài pháp luật vào luật chính thức đã bị che khuất bởi các sự kiện lịch sử. Việc cấp các quyền sở hữu chính thức cho những người định cư và những người chiếm đất ở Hoa Kỳ, cái cuối cùng tạo cơ sở cho phát triển vốn và các giao dịch trong một thị trường mở rộng, được nhìn nhận một cách điển hình như một chiến lược chính trị để giúp những tham vọng đế quốc của Mỹ, giúp những người tiên phong khai thác tài nguyên khổng lồ của đất nước, và làm dịu những căng thẳng cục bộ. Chính những bước đi này, cái có lẽ đã giúp Hoa Kỳ vượt qua sự xung đột giữa hệ thống luật pháp và những thỏa thuận ngoài pháp luật của những người chiếm đất và những người tiên phong khác, đã không là điểm lưu tâm chủ yếu của các chuyên gia về quyền sở hữu.
Điều mà tôi tập trung trong bài này, tôi phải nhấn mạnh lại một lần nữa, không phải là đi viết lại lịch sử Hoa Kỳ, mà là sắp xếp lại bài tường thuật quen biết theo cách sao cho nó giúp chúng ta hiểu rằng: sự hỗn độn ở các quốc gia thế giới thứ ba và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thực ra là sự tìm kiếm một trật tự pháp lý mới. Thế thì, hãy xem thời kỳ quá độ chuyển tiếp của “luật” ngoài pháp luật từ rừng cây và đồng cỏ của nước Mỹ phôi thai sang các cuốn sách luật của nó.
Bỏ lại đằng sau luật pháp Anh cổ lỗ
Thế kỷ XVI đã chứng kiến sự khởi đầu của một cuộc di cư chưa từng có của những người Tây Âu sang bờ Bắc và Nam Mỹ – điều mà sử gia Bernard Bailyn đã gọi là “một trong những sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử thành văn”. Ở Bắc Mỹ thuộc Anh, theo Hoffer, một “đoàn đàn ông và đàn bà rét mướt, mệt mỏi và sợ sệt… tập họp lại ở bờ tây Đại Tây Dương, mắt nhìn chằm chằm vào rừng hoang vu dày đặc cây cối. Tay nắm chắc súng và Kinh Thánh, một số chắc hẳn gợi lại những ký ức của thế giới mà họ đã bỏ lại đằng sau.
Giữa những ký ức này là những ý niệm làm sao để xây dựng và duy trì các cộng đồng, giải quyết các tranh chấp, kiếm đất, và thiết lập các định chế chính quyền. Hệ thống háp luật đã đóng một vai trò nổi bật trong giải quyết các tranh chấp do các hành dộng này luôn luôn gây ra. Thật vậy, luật “đã có mặt khắp nơi” ở Mỹ lúc ban đầu do “các chính phủ thuộc địa đầu tiên đã dựa trên các văn bản pháp lý – ‘các hiến chương’… Các nền kinh tế thuộc địa đã hoạt động dưới các luật điều tiết giá cả, lưng, và chất lượng các mặt hàng. Luật đã cho người dân các công cụ đến bán hoặc để lại bằng chúc thư đất của họ cho người khác, đã tạo một diễn đàn để giải quyết những tranh cãi về hàng rào bị đổ và gia súc bị lạc, và thậm chí chỉ bảo người dân thờ cúng, kết hôn, nuôi dạy con cái, và đối xử với những người hầu và hàng xóm ra sao”.
Ban đầu, các nhà thực dân đã cố thử áp dụng các học thuyết của luật quyền sở hữu Anh để mang lại trật tự. Nhưng thông luật Anh đã không hình dung được một xã hội đã nhanh chóng sinh ra các hình thức mới tiếp cận tài sản trong lúc không có một hệ thống cấp chứng thư sở hữu được thiết lập và được chấp nhận phổ biến. Thông luật Anh, thí dụ, đã không chỉ dẫn về việc các tòa án giải quyết ra sao các trường hợp những người đã mua hoặc thừa kế đất có quyền sở hữu không rõ ràng. Kết quả là, “việc xét xử công khai về quyền sở hữu ở các tòa án địa phương trở nên tuyệt đối cần thiết. Tất cả các bên liên quan có thể khai và làm chứng, và quyết định củ tòa tỏ ra là tương đối hiệu quả và là sự đảm bảo công khai nơi mà chẳng có cái gì khác tồn tại”.
Tuy vậy hầu hết các nhà thuộc địa này có ít hiểu biết về các chi tiết chuyên môn kỹ thuật của luật Anh. Nhiều người không biết hoặc chẳng cần biết sự khác nhau giữa trát hợp pháp, luật và công lý, và những sự tinh tế khác. Quan trọng hơn, thông luật Anh về quyền sở hữu thường không phù hợp để giải quyết các vấn đề mà các nhà thuộc địa phải đối phó. Đất quá dồi dào ở Bắc Mỹ thuộc Anh đã ban tặng cho những người định đầu tiên những cơ hội không thể hình dung nổi ở châu Âu mà họ đã bỏ đi. Đi đến “một lục địa ở nơi phần lớn đất đai sạch một cáh tự nhiên hoặc được những người da đỏ dọn sạch, người Anh [và những người châu Âu khác] đã xô tới chia lô nguồn của cải mới của họ… Kết quả là, sự quan tâm tỉ mỉ đến chi tiết dễ bị bỏ qua. Sự không chính xác trong chia lô và trong ghi chép được chấp nhận, và người ta ít chú ý đến các kế hoạch chặt chẽ, những cái mà [các nhà chức trách thuộc địa] cho là phải được tuân thủ”. Không phải tất cả đất đai đều màu mỡ, tiêu nước tốt, hoặc ở gần các đồng cỏ để cung cấp cỏ cho gia súc và người của những người định cư. Trong khi tìm kiếm đất thích hợp, các nhà thuộc địa Mỹ thường di chuyển một cách ngẫu hứng, định đặt ranh giới, canh tác đất đai, xây nhà – và sau đó bỏ lại hết để đi tìm vùng đất màu mỡ hơn.
Kết quả đối với các quyền sở hữu là rất hay biến đổi và ngoài pháp luật. Trong phân tích sử thay đổi pháp lý ở Massachusetts, David Thomas Konig đã đưa ra một phác họa về thất bại quan liêu và kỹ thuật, cái làm trầm trọng thêm vấn đề nhập cư. Thí dụ, thiếu một hệ thống đo đạc thống nhất đã gây ra những sự khác biệt và không theo quy tắc. Khắp Massachusetts, các nhà chức trách thuộc địa thường không thống nhất phải chia đất thế nào. “Không có sự thống nhất chẳng hạn như về việc liệu phải dùng đường thẳng hoặc các đường nét tự nhiên để phân tách các lô đất”. Một nhà thuộc địa “cho rằng việc phân cho ông ta 300 mẫu ở Reading có hình vuông vức, nhưng ông ta hoang mang nhận ra sau đó rằng lô đất của hàng xóm của ông ta ở thị trấn bên cạnh đã được vạch ra theo một “hình tròn” mà cung của nó cắt mất diện tích [của ông ta]”. Những thiếu sót kỹ thuật trong thủ tục đo đạc cũng làm tăng thêm sự bất trắc và nhầm lẫn. Konig lưu ý rằng những khó khăn trong việc bù trừ mức độ biến thiên kinh tuyến ở Bắc Mỹ thường gây ra những yêu sách tài sản chồng chéo lên nhau, cho đến khi John Winthrop IV đưa ra một bảng biến thiên cho đo đạc đất vào năm 1763.
Trong việc ra các quyết định cho một loạt các bất động sản gây bối rối, mà bản chất của chúng có ít hoặc chẳng có tiền lệ nào ở Anh, các nhà chức tráh thuộc địa không thể dễ dàng làm theo luật Anh. Thay vào đó, “các tòa án thường hướng về các tục lệ của địa phương và biến đổi chúng thành một bộ phận mới của luật, cải tạo ổn định cho những việc giải quyết đất”. Trong các vấn đề từ sự tự trị chính trị nội địa đến việc sử dụng và phân chia đất đai, các nhà thực dân đã bắt đầu đi chệch một cách đáng kể khỏi các luật Anh, những cái có ít thuộc địa. Như Peter Charles Hoffer nhấn mạnh: “Về mặt lý thuyết chúng là một phần của lãnh địa riêng của nhà vua [và tuân thủ mọi luật của đức vua], nhưng thực tế giành quyền ưu tiên hơn lý thuyết. Xa nước Anh, dân cư thưa thớt, giàu tài nguyên thiên nhiên, và được chiếm hữu bởi những người đàn ông và đàn bà biết rõ những ý định riêng của mình và chớp lấy thỏa thuận khi họ nhìn thấy, các thuộc địa đã dịch dần đến cách tự cai trị”.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – SCDRC
Nguồn tham khảo: Hernando de Soto – Bí ẩn của vốn – NXB CTQG 2016