Đến cuối năm 1996, một phần mềm truy cập cạnh tranh đầu tiên của Microsoft đã được phát triển. Đó là Internet Explorer 3.0, nó ngang ngửa với phần mềm truy cập của Netscape. Cuộc chiến đấu hủy diện thực sự đã có thể bắt đầu. Microsoft cho không phần mềm truy cập Explore trong khi Netscape sau giai đoạn cho không ban đầu phải bán phần mềm truy cập Navigator vì đây là nguồn thu chính của công ty này. Nhưng ảnh hưởng quyết định đến kết cục của trận đánh này nằm ở chiến lược thứ hai. Microsoft đã tận dụng sự độc quyền của mình về hệ điều hành đã được thể nghiệm cho các máy PC để bắt các nhà sản xuất máy PC phải cài đặt thêm Internet Explorer vào hệ điều hành Windows 95. Những người mua PC có Windows 95 đương nhiên có thêm Explorer tặng không. Đột nhiên, thị trường máy PC mới bị khép lại đối với Netscape. Đến tháng 6/1998, Windows 98 ra đời có cài đặt thêm Internet Explorer vào hệ điều hành. Từ đó trở đi, không có hệ điều hành Windows nào lại thiếu phần mềm truy cập Internet. Bằng Windows NT (New Technology), Microsoft đã chiếm lĩnh được thị trường hệ điều hành dành cho máy tính nối mạng. Năm 1999, Windows NT-5 được đưa ra thị trường. Như vậy, có thể nói sự thống trị đã được hoàn tất và điều đó đồng nghĩa với việc phần mềm cho máy chủ của Netscape phá sản. Cuộc chiến về phần mềm truy cập có lẽ đã kết thúc với việc xóa sổ hoàn toàn đối thủ. Nhật ký phát hành nội bộ của Microsoft có thể ghi câu: “làm việc dơ bẩn” Cyberspace do Netscape gây ra đã được tẩy rửa.
Trên mặt trận Java, Microsoft đã mở đầu cuộc tiến công bằng việc tìm cách mua bản quyền Java của Sun Microsystems. Khi đã có giấy phép trong tay, Microsoft có thể phát triển một phương án ngôn ngữ Java riêng tối ưu cho Windows. Chiến lược tiếp theo là làm cho phương án Java cải tiến của Microsoft ngày càng trở nên không tương thích với phương án Java của Sun Microsystems. Trong tương lai, một số nhà lập trình Java sẽ dùng phương tiện phần mềm của Sun để viết những chương trình ứng dụng. Một số khác sẽ sử dụng phần mềm của Microsoft. Tính thống nhất và toàn năng của nền tảng Java sẽ bị phá hủy và như vậy sẽ ngăn chặn được nguy cơ đối với tiêu chuẩn Windows.
Mặt trận thứ ba là những máy tính mạng không dùng hệ điều hành của Microsoft. Loại này đã được liên minh chống Microsoft là Sun, Oracle, Netscape và IBM tuyên truyền quảng cáo. Nhưng Microsoft cũng có biện pháp để ngăn chặn nguy cơ này. Cùng với Intel và các nhà sản xuất máy PC khác là Compaq và Dell, Microsoft đã triển khai hai mô hình đối lập mới. Mô hình thứ nhất là mô hình máy PC tinh giản có gắn liền một bộ nhớ cứng cố định. Nó có thể được một trung tâm quản lý dữ liệu bảo trì và bổ sung các phần mềm mới. Như vậy, chi phí bảo trì cao cho các máy PC để bàn trong các doanh nghiệp hiện nay sẽ không còn nữa. Đây chính là cơ sở mạnh nhất của liên minh chống Microsoft. Mô hình thứ hai là cổng vào Windows phù hợp với máy tính mạng, chỉ khác là nó chạy bằng chương trình của Windows.
Đầu năm 1998, hai năm sau khi có lời tuyên chiến Trân Châu Cảng của Bill Gates, trận thắng quyết định đầu tiên đã thuộc về Microsoft, dù chưa thể được gọi là một chiến thắng hoàn toàn. Năm 1997, Netscape công bố một thiệt hại là 115 tỷ USD. Công ty này còn 50% các phần mềm truy cập đã được cài đặt trước kia, nhưng không có ai mua mới hoặc cài đặt mới phần mềm Navigator của nó nữa, dù sau đó Netscape đã tuyên bố cho không. Netscape sụp đổ. Windows 98 và Windows NT-5 đã kết thúc cuộc chiến. Ngôn ngữ Java bị rạn nứt và những máy tính mạng của liên minh chống Microsoft bây giờ cũng dùng các cổng vào mạng chạy Windows. Khi thay thế những dumb terminal ở các mạng Mainframe thì các cổng chạy Windows có nhiều lợi thế. Không những nó nối kết được với Internet, như một máy tính mạng, mà nó còn nối kết được với tất cả các máy dùng các chương trình Windows khác có từ trước trong các doanh nghiệp. Viện nghiên cứu thị trường International Data Corporation ước tính, đến năm 2002 sẽ có nhiều cổng vào mạng đơn giản hơn là các máy PC truyền thống được sử dụng trong các doanh nghiệp. Nhưng 75% số cổng vào mạng sẽ dùng phần mềm Windows. Còn các máy tính mạng của liên minh chống Microsoft chỉ có 25%. Liên minh này chọn phương hướng đúng, nhưng cuộc chiến không cân sức so với toàn bộ sức lực mà Microsoft đã dồn vào mục tiêu duy nhất của nó. Microsoft đã chặn đứng được nguy cơ do Netscape Navigator và Java tạo ra. Pháo đài của độc quyền Windows được giữ vững. Bây giờ Bill Gates muốn bành trướng quyền lực của mình vượt ra ngoài thế giới của máy PC và mở rộng đế chế ra toàn bộ thế giới máy tính. Ông ta thâm nhập một cách hệ thống vào tất cả các thị trường phần mềm còn lại: thị trường phần mềm doanh nghiệp, thị trường phần mềm cho điện tử dân dụng và trước hết là thị trường phần mềm cho bản thân Internet. Ở khắp mọi nơi, ông ta sử dụng một cách lão luyện đòn bẩy của sự độc quyền về hệ điều hành máy PC mà ông ta nắm trong tay.
Trên thị trường phần mềm quản lý doanh nghiệp, Microsoft với Windows NT đã đẩy Sun Microsystems và các nhà sản xuất khác theo hệ điều hành Unix cho các máy tính chủ ra khỏi thị trường. Đến cuối năm 1997, Windows NT đã giành được 55% thị phần về các hệ điều hành cho máy tính chủ cho trang Web. Các máy tính chủ với hệ điều hành Unix bị đẩy xuống chỉ còn 36%. Hệ điều hành Windows NT-5 trong dự kiến sẽ là phần mềm phong phú nhất được thiết kế cho doanh nghiệp với 27 triệu tuyến mã. Windows NT sẽ ngự trị thị trường các hệ điều hành máy chủ như bây giờ Windows đang ngự trị 90% trong các máy PC. Từ lĩnh vực các hệ điều hành máy chủ, Microsoft còn tham vọng chiếm lĩnh phần mềm thị trường chương trình ứng dụng trong các doanh nghiệp. Đó là thị trường phần mềm cho email, từ trước đến giờ vẫn do IBM chiếm lĩnh với chương trình Lotus và thị trường phần mềm ngân hàng dữ liệu, từ trước đến nay do Oracle và IBM làm chủ.
Với các thị trường điện tử dân dụng, Microsoft muốn dùng Windows CE (Consumer Electronics) để chiếm lĩnh. Trên những thị trường này, Windows CE luôn có những địch thủ là hệ điều hành chuyên dụng và Java. Thị trường đã phát triển mạnh mẽ là lĩnh vực máy tính nhỏ nhất Personal Digital Assistant (PDA), còn gọi là Palmtop. Những máy này được sử dụng để ghi nhớ những cuộc hẹn, ghi lại dữ kiện địa chỉ, nhận và gửi email, kết nối với máy PC ở văn phòng hay ở nhà. Mớit ham gia thị trường vào mùa thu năm 1996, nhưng đến đầu năm 1998 Windows CE đã chiếm được 20% thị phần máy Palmtop. Một thị trường đại chúng đang lên đối với hệ điều hành CE có thể so sánh về quy mô với hệ điều hành Windows là thị trường hộp Settop. Những thiế bị này cho phép các máy thu hình với kỹ thuật tín hiệu tương tự hiện nay có thể thu được các chương trình truyền hình kỹ thuật số và có thể nối máy thu hình vào Internet. Thị trường thứ ba mà Windows CE có thể thâm nhập vào là máy tính điều khiển ô tô cũng như hệ thống định hướng hành trình trong ô tô.
Hướng bành trướng chính của Microsoft đương nhiên chính là bản thân mạng Internet. Chúng ta đã thấy Microsoft giành giật quyền kiểm soát ở thị trường phần mềm truy cập, thị trường hệ điều hành cho máy tính mạng và máy chủ của mạng Internet và Intranet như thế nào. Từ lĩnh vực phần mềm điều hành, Microsoft lấn sang các thị trường phần mềm ứng dụng cho Internet. Tất cả các chương trình của Microsoft đều được trang bị khả năng kết nối Internet. Ví dụ, chương trình phần mềm Backoffice cho các doanh nghiệp có chứa một máy chủ thương mại (Commerce Server). Đó là một chương trình giúp các doanh nghiệp bán hàng trực tuyến qua Internet.
Các hệ điều hành và phần mềm ứng dụng cho Internet và Intranet là lĩnh vực kinh doanh chính của Microsoft. Nhưng Bill Gates không thỏa mãn với điều đó. Ông tận dụng sự vượt trội của Microsoft trong lĩnh vực lập trình để lập nên một trang Web trên Internet và tham gia vào thị trường đại chúng đang phát triển về thương mại điện tử (Electronic Commmerce). Đến cuối năm 1997, Microsoft đã tạo lập không dưới 16 trang Web.
+ Expedia kinh doanh du lịch, mỗi tuần có hai triệu khách hàng.
+ Expedia là một trong ba nhà cung cấp dịch vụ du lịch trực tuyến lớn nhất.
+ Carpoint kinh doanh ô tô. Nó đã phát triển để trở thành một trong những trang Web nổi tiếng về kinh doanh ô tô trực tuyến.
+ Boardwalk kinh doanh nhà và dịch vụ cầm đồ.
+ Sidewalk cung cấp khách hàng toàn bộ chương trình chiếu phim, kịch hát và các dịch vụ văn hóa khác ở từng thành phố, cạnh tranh với các tờ báo trực tuyến địa phương.
+ Slate là tạp chí trên trang Web, tương tự như tạp chí Time và Newsweek, tặng kkho6ng cho đến đầu năm 1998 và đã thu hút được 60.000 độc ỉa.
+ MS-NBC cung cấp tin tức và chương trình giải trí qua Internet, là dự án liên doanh 250 triệu USD với NBC. Đó là hãng truyền hình cáp lớn của Mỹ thuộc tập đoàn General Electrics. NBC truyền các chương trình truyền hình cáp cũng như Internet. Microsoft chăm sóc trang Web này và hiện có nhiều người truy cập vào đây hơn cả trang Web của CNN và USD Today.
Bên cạnh những trang Web riêng kể trên, Microsoft còn lập những dịch vụ trực tuyến riêng. Đó là Microsoft Network MSN, tương tự như dịch vụ trực tuyến Prodigy của IBM trước đây. Nhưng MSN thua xa mạng trực tuyến đang đứng đầu là American-Online.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Konrad Seitz – Cuộc chạy đua vào thế kỷ XXI – NXB CTQG 2004.