IV/ Các nước đang phát triển, thông báo và thời kỳ quá độ
1/ Đối với các nước đang phát triển
Trong trường hợp những biện pháp áp dụng đối với việc đầu tư có liên quan tới thương mại được sử dụng không phù hợp với quy định tại điều 3 trong Hiệp định chung động chạm tới lợi ích của nước ký Hiệp định chung là nước có mức sống thấp, kinh tế đang ở vào giai đoạn phát triển sơ khởi – các nước đang phát triển, thì họ có thể đáp lại theo trình tự và quy định tại khoản 3 điều 18 trong Hiệp định chung. Trường hợp các biện pháp áp dụng đối với việc đầu tư được sử dụng không phù hợp với quy định tại điều 11 trong Hiệp định chung thì họ cũng được làm như thế.
Khi có yêu cầu, các nước ký Hiệp định chung có thể đồng ý cho nước ký kết Hiệp định chung là nước đang phát triển tạm thời áp dụng những biện pháp đã được quy định đối với xuất khẩu để giúp ngành công nghiệp nào đó của họ phát triển. Nhưng với điều kiện phải được các nước ấy công nhận: 1) Không còn có biện pháp nào giúp thực hiện mục đích ấy mà lại gây ra thiệt hại ít hơn đối với thương mại; 2) Biện pháp được sử dụng không gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với công nghiệp trên lãnh thổ nước khác, hoặc không cản trở nghiêm trọng việc xây dựng công nghiệp của nước khác, hoặc không khiến lợi ích của nước khác bị đánh giá sai; 3) Đã được các nước khác đồng ý về thời gian biểu rút bỏ biện pháp ấy.
2/ Về thông bao và thời kỳ quá độ
Kể từ ngày hiệp định về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại bắt đầu có hiệu lực, các nước ký hiệp định này không được sử dụng các biện pháp áp dụng đối với đầu tư trái với khoản 4 điều 3 và khoản 6 điều 11 trong Hiệp định chung. Trong vòng 90 ngày kể từ ngày hiệp định này bắt đầucó hiệu lực phải thông báo cho Toàn thể các nước ký Hiệp định chung về các biện pháp áp dụng đối với đầu tư có liên quan với thương mại mà mình đang thực hiện không phù hợp với hiệp định; phải từng bước xóa bỏ các biện pháp đó; phải sửa đổi các biện pháp áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại vẫn tiếp tục được thực hiện sau ngày kết thúc vòng đàm phán Uruguay và có thể dẫn đến hậu quả là hạn chế nhiều hơn đối với thương mại, nhưng không sửa đổi nội dung của các biện pháp áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại đã được thông báo theo hiệp định.
Các nước ký Hiệp định chung đồng ý rằng, trong các thời hạn sau đây, kể từ ngày hiệp định này bắt đầu có hiệu lực, phải hủy bỏ các biện pháp áp dụng đối với đầu tư đã được thông báo cho Toàn thể các nước ký Hiệp định chung: 2 năm đối với các nước phát triển, 5 năm đối với các nước phát triển, 7 năm đối với các nước chậm phát triển nhất. Những biện pháp không phù hợp với hiệp định này đã được thực thi chưa đầy 180 ngày trước khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực không được hưởng thời ỳ quá độ nói trên.
Các nước ký Hiệp định chung có thể gia hạn thời kỳ quá độ đối với các nước đang phát triển có nhiều khó khăn trong việc thực hiện hiệp định này.
Các nước có thể sử dụng biện pháp hoặc duy trì biện pháp cũ đối với đầu tư, nếu ủy ban phụ trách vấn đề này tin chắc rằng biện pháp ấy có thể thúc đẩy điều chỉnh một cách tích cực kết cấu ngành, đồng thời, nếu kết hợp với các chính sách khác thì nó có thể tăng mức độ tự do hóa công nghiệp hoặc giảm một cách toàn diện sự viện trở đối với ngành công nghiệp.
V/ Các quy tắc và yêu cầu khác
1/ Về sự trong sáng
Các nước ký Hiệp định chung đồng ý rằng, các quy định về công bố và thực thi điều lệ thương mại tại điều 10 trong Hiệp định chung được áp dụng cho tất cả các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại.
Như vậy, các nước ký hiệp định này phải nhanh chóng công bố các biện pháp được áp dụng một cách phổ biến đối với đầu tư có liên quan tới thương mại để chính phủ và các hãng của các nước khác đều biết. Nhưng không đòi hỏi các nước công khai các tài liệu mật có thể gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật, hoặc mâu thuẫn với lợi ích xã hội, hoặc có thể gây thiệt hai lợi ích của các xí nghiệp thương nghiệp nhà nước hoặc tư nhân, mà chỉ báo cáo lên Ban thư ký Hiệp định chung và Ủy ban về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại. Bất kỳ nước nào ký Hiệp định chung cũng có thể gửi văn bản tới các nước khác yêu cầu được cung cấp tài liệu về các biện pháp ấy, và yêu cầu này phải được đáp ứng nhanh chóng, toàn diện, kịp thời. Không được sự đồng ý của nước cung cấp tài liệu, thì không được công bố tài liệu ấy, trừ trường hợp nó đã được công bố công khai.
Các nước cần lập ra một tổ chức chuyên môn để trả lời các nước khác về nội dung của các biện pháp được thực thi có liên quan như thế nào tới các mặt khác.
Bất kỳ nước nào, nếu họ chưa được nước khác thông báo cho biết các biện pháp áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại mà nước đó đã thực hiện, thì có thể nhắc nhở nước ấy. Nếu sau đó vẫn không được thông báo thì có thể yêu cầu Ủy ban về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại lưu ý tới những biện pháp ấy.
2/ Thương lượng và giải quyết tranh chấp
Hiệp định về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại sử dụng trình tự thương lượng được quy định tại điều 22 và giải quyết tranh chấp quyền lợi được quy định tại điều 22 trong Hiệp định chung.
Theo các quy định ấy, khi một nước nào đó cho rằng biện pháp mà nước khác áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại gây ra hậu quả đối với họ thì họ có thể dựa vào Hiệp định chung yêu cầu thương lượng theo hiệp định này. Nếu qua thương lượng hai bên đều nhận thấy rằng, biện pháp ấy đã gây ra tác dụng phụ, thì nước áp dụng biện pháp ấy phải sửa đổi hoặc khi cần thiết thì phải hủy bỏ biện pháp ấy.
3/ Ủy ban về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại
Các nước ký Hiệp định chung đã quyết định thành lập Ủy ban chuyên xử lý các vấn đề các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại, gồm đại biểu cảu các nước ký Hiệp định chung. Hằng năm ủy ban này họp ít nhất một lần. Nó thi hành chức trách được quy định trong hiệp định này và do Toàn thể các nước ký Hiệp định chung giao phó.
Hàng năm ủy ban này phải tổng kết và báo cáo cho Toàn thể các nước ký Hiệp định chung tình hình, hiệu quả thực thi hiệp định này và thành tích xóa bỏ tác dụng phụ của các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại. Để các nước hiểu rõ hơn những hạn chế và sự bóp méo thương mại do các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại gây ra, cứ 5 năm rà lại hiệp định này một lần, sửa đổi các quy định về nghĩa vụ cho rõ.
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Lý Cương – Từ “Câu lạc bộ các nhà giàu trên thế giới” đến “Liên hợp quốc kinh tế và thương mại” – NXB CTQG 1996.