Sự biến động quá lớn ảnh hưởng nặng nề đến những khách hàng có nhu cầu tiêu thụ thực sự cũng như người sản xuất. Xavier Gravelat, Chủ tịch Hiệp hội các nhà xuất khẩu khoáng sản New Caledonia, cho rằng các hiện tượng như trên là “hoàn toàn sai trái, thậm chí đáng ghê tởm”. New Caledonia chiếm từ 6 – 7% nguồn cung nikel của thế giới.
Nguyên nhân xuất phát từ Trung Quốc. Xiang Guangda là tỷ phú sở hữu Tsingshan Holding Group, tập đoàn số một thế giới trong lĩnh vực kinh doanh nikel và thép không gỉ. Trong giới kinh doanh, ông có biệt danh là “Big Shot” và nổi tiếng với những phe đặt cược nhiều rủi ro. Trước chiến tranh Ukraine, Xiang Guangda đã đánh cược giá nikel sẽ giảm. Theo một cuộc điều tra của hãng thông tấn Bloomberg, riêng Xiang Guangda đã nắm trong tay 12% tổng số các hợp đồng mua bán nikel tại LME. Khi giá nikel bắt đầu tăng do chiến tranh và nguồn cung từ Nga bị ảnh hưởng mạnh, Xiang Guangda bắt đầu hoảng sợ. Ông tìm cách mua lại nikel và đẩy giá tăng vọt. Điều đó làm cho vấn đề của ông càng trầm trọng.
Trong bối cảnh đó, sự can thiệp của LME vào phiên giao dịch ngày 8/3 gây nghi ngờ lớn. Với việc ra lệnh hủy khẩn cấp các giao dịch, lãnh đạo thị trường trên thực tế đã hỗ trợ cho Big Shot, quẳng cho ông một chiếc phao cứu sinh đúng lúc. Cơ quan quản lý tài chính Anh phản ứng ra sao? Họ hầu như không có phản ứng gì. Từ trước đến nay, cơ quan này chịu trách nhiệm giám sát các ngân hàng và thị trường chứng khoán vẫn có truyền thống để LME tự hành động. Điều đáng chú ý là từ năm LME rơi vào tay Thị trường chứng khoán Hong Kong, cổ đông lớn nhất của tập đoàn lại là Chính quyền Hong Kong. Liệu có mối liên hệ nào giữa sự cố của Xiang Guangda và điều này hay không?
Giá nguyên liệu từng bị kiểm soát chặt chẽ
Giáo sư Chalmin cho biết: “Trong thập kỷ 1960, mọi người có thể ngủ ngon vì biết chắc ngày mai giá USD, dầu lửa, đồng và lúa mì sẽ không thay đổi. Còn ngày nay thì ia cũng tin rằng tất cả sẽ biến động”. Tương tự như các loại ngoại tệ trước khi xuất hiện hệ thống Bretton Woods năm 1971, giá nguyên liệu được điều tiết chặt chẽ. Dầu lửa là ví dụ điển hình. Cho đến tận những năm 1960, sản xuất vàng đen gần như chịu sự chi phối hoàn toàn của 7 tập đoàn dầu lửa khổng lồ của Mỹ và Anh – tiền thân của BP, Shell và Exxon ngày nay. Họ tiến hành hút dầu thô ở nước ngoài, chủ yếu là ở vùng Vịnh, sau đó tự lọc dầu tại các nhà máy của chính mình và bán ra cũng ở các cây xăng do họ kiểm soát. Hiếm khi các chuyến hàng lớn được giao dịch bên ngoài hệ thống. Ngành công nghiệp dầu mỏ được tổ chức chặt chẽ theo chiều dọc. Không có thị trường, giá dầu được quyết định chủ yếu dựa trên giá thành. Việc Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) giành lại quyền điều hành trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 đã làm thay đổi cán cân sức mạnh, nhưng không làm thay đổi cơ cấu giá. Sau đó, một số nước đã tiến hành quốc hữu hóa và kiểm soát trữ lượng dầu khí, nhưng giá cả vẫn do các tập đoàn ấn định.
Tất cả chỉ thay đổi sau khi Ronald Reagan lên làm tổng thống Mỹ. Vốn là người ủng hộ tuyệt đối việc giảm bớt sự can thiệp của nhà nước, nhà lãnh đạonày không chấp nhận việc Chính phủ Mỹ tùy tiện định giá dầu ở mức thấp, thấp hơn nhiều so với mức giá của OPEC, để hỗ trợ người tiêu dùng. Ngày 28/01/1981, Reagan cho phép thả nổi thị trường dầu. Các tập đoàn dầu lửa Mỹ đã lợi dụng cơ hội này để tăng sản lượng, khiến cho giá thị trường sụp đổ. OPEC mất khả năng can thiệp và mất dần thị phần do sản lượng dầu ở Biển Bắc tăng quá nhanh. Sau vài năm, tổ chức này cũng phải bỏ ý định và chấp nhận quy luật cung cầu. Từ đó, OPEC chỉ giới hạn hành động ở việc tăng giảm lượng khai thác để tác động đến xu hướng giá.
Nông nghiệp lại là lĩnh vực khác. Có hàng nghìn nhà sản xuất và họ phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Từ năm 1848, Sàn giao dịch Chicago đã thiết lập những hợp đồng tương lai đầu tiên về việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, châu Âu định đưa biến động giá cả thị trường vào khuôn khổ. Năm 1957, Chính sách nông nghiệp chung của châu Âu đã ấn định giá cả ở mức cao nhằm khuyến khích các nhà đầu tư và cải thiện năng suất. Tuy nhiên, hệ thống nhanh chóng bộc lộ những bất cập. Đầu năm 1990, giá ngũ công châu Âu tăng gần gấp đôi so với giá bên ngoài. Do đó, ngành chăn nuôi châu Âu ngày càng tiêu thụ ít ngũ cốc do châu Âu sản xuất. Để trợ giá, các chính phủ đã dành một phần lớn ngân sách và kho bãi để tích trữ và kích thích xuất khẩu. Dần dần, chính sách quản lý giá bị bãi bỏ và biến mất hoàn toàn vào năm 2006. Từ đó đến nay, giá cả hoàn toàn do thị trường thế giới quyết định. Theo giáo sư Chalmin, điều này khiến cho kẻ mạnh càng mạnh thêm và kẻ yếu càng yếu đi.
Các trung tâm giao dịch chiếm ưu thế
Với việc tự do hóa giá nguyên liệu, một nghề mới đột nhiên thịnh hành: trung gian môi giới. Rất nhiều nhân tố mới bắt đầu tham gia mua bán khối lượng lớn dầu mỏ, lúa mì và khoáng sản. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ cuối năm 1989, mở toang cánh cửa dẫn tới các nguồn nguyên liệu lớn được đổ vào thị trường thế giới, xu hướng này lại càng tăng, đặc biệt là sau sự bùng nổ của kinh tế Trung Quốc. Hàng loạt tên tuổi mới lộ diện như Glencore, Vitol, Trafigura, Cargill và Louis-Dreyfus. Năm 2019, 4 tập đoàn đứng đầu sàn giao dịch nguyên liệu đã có doanh số lên đến 725 tỷ USD. Trong ngành nông nghiệp, 7 công ty kiểm soát một nửa thương mại toàn cầu. Các công ty này chủ yếu đặt trụ sở tại Thụy Sỹ, ít khi xuất hiện trên truyền thông và thích đứng trong bóng tối. Theo Blas, họ không ngại đùa giỡn với cái đói của hàng triệu người trên thế giới.
Giữa năm 2010, một vụ hạn hán lớn đã khiến sản lượng lúa mì của Nga giảm mạnh. Nhiều người thắc mắc liệu Moskva có dừng xuất khẩu hay không. Ngày 3/8, Yury Ognev, trung gian cho các giao dịch ngũ cốc của Glencore tại Nga, đã lên truyền hình kêu gọi Moskva phong tỏa xuất khẩu. Ông nói: “Theo quan điểm cá nhân của tôi, chính phủ có mọi lý do để ngừng xuất khẩu”. Để chắc chắn thông điệp được truyền tải, Yury Ognev đã gửi thêm một thông cáo báo chí cho các phóng viên. Hai ngày sau, Nga thông báo ngừng xuất khẩu, khiến giá lúa mì thế giới tăng vọt.
Điều mà Yury Ognev không nói ra là Glencore đã âm thầm mua rất nhiều hợp đồng tương lai tại Sàn chứng khoán Chicago và đánh cược rằng giá lúa mì sẽ tăng mạnh. Tuyên bố của Yury Ognev đã giúp Glencore vớ bẫm. Năm 2010, bộ phận giao dịch nông sản của Glencore đã thu về khoản lợi nhuận 659 triệu USD. Cùng năm, giá lương thực nhảy múa đã góp phần làm bùng phát phong trào Mùa xuân Arab. Theo Blas, các hãng trung gian đã trở thành những “tay buôn quyền lực”.
Thiên nhiên – hàng hóa mới của giao dịch tài chính
Trong khi giá cả đang nhảy múa, một loại nguyên liệu mất giá nhanh chóng: Đó là CO2. Giá CO2 theo Giấy phép ô nhiễm của EU có lúc giảm từ 90 euro/tấn xuống còn 58 euro/tấn, trước khi trở lại mức 80 euro/tấn. Thông thường dầu càng đắt, thì quyền phát thải khí gây ô nhiễm càng tăng giá.
Tại sao lại có xu hướng ngược như vậy? Nhiều nhà phân tích cho rằng đó là bằng chứng của hiện tượng giao dịch theo mô hình thị trường tài chính: Trước cơn bão tài chính, các nhà đầu tư cần tiền và do đó quyết định bán quyền phát thải mà họ nắm giữ. Theo nhận định của Frédéric Hache, nhà hoạt động của Tổ chức quan sát tài chính xanh, thị trường phát thải CO2 đang thay đổi về quy mô. Tương tự như thị trường nguyên liệu đầu những năm 2000, một dòng vốn đầu tư bên ngoài bắt đầu đổ vào “tài sản môi trường”.
Vấn đề là rất nhiều sản phẩm tài chính như vậy có hại cho hành tinh. Đã xuất hiện thêm nhiều dự án bù đắp cho lượng phát thải carbon, chủ yếu là dự án trồng cây theo mô hình độc canh. Những dự án như vậy lấy đi rất nhiều đất đai lẽ ra dành cho nông nghiệp và do đó có nguy cơ đẩy giá lương thực lên cao.
Nguồn: TLTKĐB – 29/04/2022