Biện chứng pháp Nāgārjuna – Phần VII


Ngoài ra:

XLIII. Nếu pramānas (phương tiện nhận thức đúng) là tất cả  những dữ kiện (sarvathā) được lập trong sự liên quan với prameyas (đối tượng nhận thức đúng), thì đối tượng nhận thức đúng này không được lập trong sự liên quan với phương tiện nhận thức đúng này.

Nếu pramānas (phương tiện nhận thức đúng) được lập trong sự liên quan với prameyas (đối tượng nhận thức đúng) này, thì prameyas này không được lập trong sự liên quan với pramānas. Tại sao? Bởi vì đối tượng được lập (sādhya) không hình thành phương tiện (instrument) mà nhờ nó được lập (sādhya). Thế nhưng, pramānas này người ta nói, là các phương tiện mà nhờ đó prameyas này được lập (sādhanāni ca kila prameyānām parmānāni).

XLIV. Và nếu prameyas (đối tượng nhận thức đúng) được lập ngay cả không lệ thuộc pramānas (phương tiện nhận thức đúng), vậy những gì có phải bạn đạt được bằng sự thành lập pramānas này (kim te pramānasiddhyā)? Mục đích của chúng mà chúng phục vụ thì được lập [rồi] (tāni yadartham prasiddam tat).

(Lời bình này chỉ là một đoạn văn).

XLV. Ngoài ra, nếu bạn lập pramānas (phương tiện nhận thức đúng) trong sự liên quan với prameyas (đối tượng nhận thức đúng), thì chắc chắn có một sự thay đổi lẫn nhau của pramānasprameyas (vratyaya evam sati te dhruvam pramānaprameyānām).

Hơn nữa, nếu bạn nghĩ, để tránh sự nhầm lẫn đã phát biểu trước đó, “phương tiện nhận thức đúng” chỉ hiện hữu trong sự liên quan với “đối tượng nhận thức đúng”, thì có một sự thay đổi lẫn nhau của pramānasprameyas. Pramānas của bạn trở thành prameyas, vì chúng được lập bởi prameyas (prameyaih sādhitatvāt). Và prameyas này trở thành pramānas, bởi vì chúng thành lập pramānas này (pramānānām sādhakatvāt).

XLVI. Bây giờ, nếu bạn nghĩ rằng xuyên qua sự thiết lập của pramānas (phương tiện nhận thức đúng) được hình thành prameyas (đối tượng nhận thức đúng), và xuyên qua sự thiết lập của prameyas được hình thành pramānas, thì cũng không phải prameyas, cũng không phải pramānās được lập đối với bạn.

Bây giờ, nếu bạn nghĩ rằng xuyên qua sự thiết lập của phương tiện nhận thức đúng (pramānas) được hình thành đối tượng nhận thức đúng (prameyas), và xuyên qua sự thiết lập của prameyas được hình thành pramānas – bởi vì pramānas đòi hỏi prameyas – thì lúc ấy cũng không phải pramānas cũng không phải prameyas được lập. Tại sao?

XLVII. Bởi vì, nếu đối tượng nhận thức đúng (prameyas) này nhờ có được sự thiết lập của chúng đối với phương tiện nhận thức đúng (pramānas), và nếu pramānas ấy được lập bởi chính prameyas ấy, vậy làm thế nào pramās này (sidhyanti hi pramānair yadi prameyāni tāni tair eva sādhyāni ca prameyaih) sẽ hình thành [prameyas này]?

Bởi vì, nếu đối tượng nhận thức đúng (prameyas) này nhờ sự thiết lập của chúng đối với phương tiện nhận thức đúng (pramānas) này, và nếu pramānas này được lập bởi chính prameyas ấy (tāni ca pramānāni tair eva prameyaih sādhayitavyāni), [thì chúng ta gặp khó khăn theo sau:] prameyas này đã không được lập, pramānas này không được lập, vì nguyên nhân (kārana) của chúng không được lập. Vậy làm thế nào, lúc ấy, pramānas này sẽ lập prameyas này?

XLVIII. Và nếu phương tiện nhận thức đúng (pramānas) này nhờ sự thiết lập của chúng đối với đối tượng nhận thức đúng (prameyas) này, và nếu prameyas ấy là được thành lập bởi chính pramānas ấy, vậy làm thế nào prameyas này sẽ thành lập [pramānas này]?

Và nếu pramānas này nhờ có sự thiết của chúng đối với prameyas ấy được lập bởi chính pramānas ấy, [thì chúng ta gặp khó khăn theo sau:] pramānas không được lập, prameyas không được lập, vì cái nhân của chúng không được lập. Vậy làm thế nào, lúc ấy, prameyas sẽ thành lập pramānas này?

XLIX. Nếu cậu trai này là được người cha sinh ra (utpādya), và nếu người cha là được chính cậu trai ấy sinh ra, vậy hãy kể cho tôi nghe rằng người nào của họ sinh ra người nào khác nữa (vada tatrotpādayati kah kam).

Giả sử vài người nói: Cậu trai là được người cha sinh ra (utpādaniya), và người cha là được chính cậu trai ấy sinh ra, vậy hãy kể cho tôi nghe ai là được sinh ra bởi ai (kena ka utpādayitavya iti). Đúng trong cách giống nhau này bạn nói: đối tượng nhận thức đúng (prameyas) này là được phương tiện nhận thức đúng (pramānas) thành lập, và chính phương tiện nhận thức đúng (pramānas) ấy lần lượt được chính đối tượng nhận thức đúng (prameyas) ấy thành lập. Bây giờ, cái nào của các cái này là được lập đối với bạn mà nhờ đó các cái khác được lập (tatredānum te katamaih katamāni sādhayitavyāni)?

L. Hãy kể cho tôi nghe người nào của hai vị này là cha, và người nào là cậu trai. Cả hai người của họ thật sự mang gương mặt của người cha và gương mặt của cậu trai (tāv ubhāv api ca pitrputralaksanadharau), nguyên do chúng ta phát sinh ra nghi ngờ ở đây (yato bhavati no tra samdehah).

Về người cha ấy và cậu trai ấy, được đề cập trước đó, vậy người nào là cậu trai, và người nào là người cha? Cả hai người của họ, như những người sinh (utpādakatvāt), mang gương mặt của người cha, và, như được sinh (utpādyatvāt), gương mặt của cậu trai. Chúng ta phát sinh ra nghi ngờ ở đây: người nào của hai vị này là cha, và người nào là cậu trai? Cũng trong cách giống nhau này, về phương tiện nhận thức đúng (pramānas), và đối tượng nhận thức đúng (prameyas) theo ý bạn, cái nào là pramānas, và cái nào là prameyas? Vì cả hai của các việc này, như những tình trạng đó cái nào hình thành (sādhakavāt), là pramānas, và như những tình trạng đó cái nào là được lập (sādhyatvāt), prameyas. Chúng ta phát sinh ra nghi ngờ ở đây liên quan đến cái nào của những cái này là “phương tiện nhận thức đúng” (pramānas), và cái nào khác còn lại là “đối tượng nhận thức đúng” (prameyas)?

LI. “Phương tiện nhận thức đúng” (pramānas) này không được lập bởi chính chúng (svatah) hoặc bởi cái khác (parasparatah), hoặc bởi pramānas khác (parapramātah), hoặc bởi pramānas khác (parapramānaih). Cũng không phải là chúng được đối tượng nhận thức đúng (prameyas) này thành lập, hoặc ngẫu nhiên (akasmāt).

Sự nhận thức (perception, pratyaksa) thì không được lập bởi chính sự nhận thức ấy, sự suy luận (inference, anumāna) thì không được thành lập bởi chính sự suy luận ấy, sự so sánh (comparison, upamāna) thì không được lập bởi chính sự so sánh ấy, và chứng cớ (testimony, āgama) thì không được lập bởi chính chứng cớ ấy. Cũng không phải là chúng được lập bởi cái khác, nghĩa là, sự nhận thức bởi sự suy luận, sự so sánh và chứng cớ, sự suy luận bởi sự nhận thức, sự so sánh và chứng cớ, sự so sánh bởi sự nhận thức, sự suy luận và chứng cớ, và chứng cớ bởi sự nhận thức, sự suy luận và sự so sánh. Cũng không phải là sự nhận thức, sự suy luận, sự so sánh và chứng cớ được lập, riêng biệt (yathāsvam), bởi một sự nhận thức khác, một sự suy luận khác, một sự so sánh khác, và bởi một chứng cớ khác. Cũng không phải là phương tiện nhận thức đúng (pramānas) này được lập bởi đối tượng nhận thức đúng (prameyas), tập hợp hoặc một số (samastavyastaih), được bao gồm trong lãnh vực riêng của chúng hoặc trong số đó của phương tiện nhận thức đúng (pramānas) khác cũng thế (svvișayaparavișayasamgrītaih). Cũng không phải là chúng được lập bởi sự kết hợp của các nhân được đề cập trước đó (samuccayenaiteșām kāranānām pūrvoddiștānām), bất cứ con số gì của chúng: hai mươi, ba mươi, bốn mươi hoặc hai mươi sáu. Trong những trường hợp này, sự phát biểu của bạn: “Bởi vì các pháp được nhận biết là được hiểu xuyên qua phương tiện nhận thức đúng (pramānādhigamyatvāt prameyānām bhāvānām), những pháp ấy được nhận biết (prameyā bhāvāh) hiện hữu cũng như phương tiện nhận thức đúng xuyên qua các pháp đó được nhận biết được hiểu (santi ca te prameyā bhāvās tāni ca pramānāni yais te pramānah prameyā bhāvāh samadhigatā iti), thì không có giá trị.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: E.H. Johnston & Arnold Kunst – Biện chứng pháp Nāgārjuan – NXB PĐ 2014

Advertisement

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s