Khi Chân Đế còn hoạt động ở Quảng Châu, một trong những cộng sự chính của ông là Huệ Khải có đề cập đến một truyện ký về Thế Thân có nhan đề Biệt Truyện. Sau đó một trăm năm, Pháp Tạng (640 – 710) xác nhận có truyện ký này và thêm rằng có thêm một cuốn nữa tên là Bổn Truyện. Ngoài ra, Tĩnh Mại, trong Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Kỷ viết năm 664 sdl, có liệt kê một truyện ký khác về Thế Thân mang tên Bà Tẩu Bàn Đậu Truyện và ghi rằng do Cửu Ma La Thập dịch. Với tất cả các cuốn này, bây giờ chúng ta biết rõ rằng vào cuối thế kỷ thứ VII đã có ít nhất năm truyện ký về Thế Thân được giới văn học của thế kỷ đó biết đến. Đó là:
1/ Bà Tẩu Bàn Đậu Truyện do Cửu Ma La Thập dịch.
2/ Bà Tẩu Bàn Đậu Pháp Sư Truyện do Chân Đế dịch.
3/ Biệt Truyện được Huệ Khải và Pháp Tạng đề cập.
4/ Bổn Truyện được Pháp Tạng dẫn.
5/ Thiên Thân Bồ Tát Truyện được Huệ Chiểu dẫn.
Tất cả các truyện ký này ngày nay đều không còn ngoài cuốn số 2. Thật không dễ trả lời câu hỏi cuốn nào trong số năm cuốn này có thể nhận ra là chỉ có tên mà không có thật và, vì thế, có thể xem như là một với một trong bốn cuốn còn lại hay không. Péri đã tập trung giải quyết câu hỏi này và đã do dự đề nghị rằng các cuốn số 1 và 4 là một, trong khi các cuốn số 2, 3 và có thể cả cuốn 5 chắc chắn là giống nhau. Một lần nữa, tiêu chuẩn cho sự nhận dạng này lại là sự tương tự về văn từ của chúng. Kết quả, sự nhận dạng vẫn dựa trên một nền tảng không chắc chắn, như chúng ta đã bàn về các sử truyện Trung Quốc.
Trong trường hợp này, các trích dẫn từ Bổn Truyện của Pháp Tạng thật sự có đặc điểm của các truyện ký được cho là của La Thập về phương diện chúng có đầy các chuyện thần dị. Nhưng những mô tả theo cách thần thoại như thế không liên quan gì đến khả năng Bổn Truyện phải tương đồng với Bà Tậu Bàn Đậu Truyện được xem là do La Thập dịch, bởi vì hai cuốn này có thể lấy thông tin từ cùng một nguồn, và trong trường hợp này nguồn tài liệu đó thường từ Ấn Độ. Và dù sao đi nữa thì một truyện ký Ấn Độ vẫn luôn luôn có khuynh hướng có nhiều điều thần dị. Thật ra Péri đã chú ý đến sự kiện Huệ Tường, trong Pháp Hoa Kinh Truyện Ký, đã nhiều lần nói đến phát biểu của Chân Đế về sự xuất hiện của một Tây Vực Truyện Ký nào đó. Kết quả là chỉ một mình sự kiện có tương đồng về ngôn ngữ trong hơn một bản văn thì không phải là chứng cứ cụ thể để kết luận chúng giống nhau và được viết hoặc dịch bởi cùng một người. Ta cũng có thể nói như vậy về phần còn lại của sự xác minh về chúng do Péri đưa ra.
Thật ra giờ đây vấn đề trở nên hoàn toàn sáng tỏ khi giả định của Péri không được chứng minh là đúng. Cho dù đúng, đó vẫn là giả định chứ không phải sự thật. Sự thật là trong tất cả các bản dịch cũng như các bản còn giữ được hoặc được dẫn bởi Chân Đế không có chỗ nào cho thấy ông ấn định thời điểm 1100 năm cho Thế Thân, và trong tất cả các trích dẫn của nhiều người viết sau đó cũng không có chỗ nào nói rõ hay hàm ý Chân Đế có ý đó. Ngược lại, ông đã được dẫn như là người bác bỏ điều đó, như chúng ta đã biết. Vì thế, chúng ta có thể hoàn toàn tin chắc rằng Chân Đế không đưa ra hai thời điểm khác nhau về Thế Thân, và theo ông thì Thế Thân sinh vào năm 900 sau P.N. Mọi khẳng định của các học giả như Frauwallner chỉ là tưởng tượng riêng của họ.
Một tình huống gây nhiều ngạc nhiên hơn khi những người chống lại giả thuyết hai-Thế Thân của Frauwallner dường như mặc nhiên thừa nhận sự chính xác trong giả định của Péri cũng như khẳng định của Frauwallner cho rằng có hai thời điểm về Thế Thân. Trong một bài phê bình dài về cuốn On the Date of the Buddhist Master of the Law Vasubandhu của Frauwallner, Sakurabe không hề nhắc đến giả định của Péri và khẳng định của Frauwallner. Jaini thì khẳng định thẳng thừng rằng “Chân Đế có đưa ra hai thời điểm về Thế Thân” nhưng lại không chịu khó kiểm tra xem điều đó có thật hay không. Wayman, mặc dù bác bỏ giả thuyết hai-Thế Thân do Frauwallner suy đoán, đã hoàn toàn im lặng về nền tảng thiết lập giả thuyết này. Đó là chưa kể đến sự kiện ông tự gánh lấy thuyết hai-Thế Thân của riêng ông, một thuyết chắc chắn không có gì khả quan hơn thuyết của Frauwallner, nếu không phải là bi đát hơn, do việc ông sử dụng các chứng cứ non nớt của các sử gia Tây Tạng ở đời sau. Vấn đề này cuối cùng đã được Lê Mạnh Thát giải quyết dứt khoát khi ông phát hiện việc “Chân Đế đưa ra hai thời điểm về Thế Thân” chỉ là một phát biểu sai lạc.
Bây giờ, nếu giả định của Péri là sai thì chúng ta phải tìm ra ai là người đầu tiên ghi lại các thời điểm này mà không cần phải dựa vào bất cứ giả định nào. Chúng ta biết rằng:
1/ Chân Đế nói đến thời điểm 900 P.N. về Thế Thân.
2/ Huyền Tráng mô tả thời điểm 1000 P.N.
3/ Huệ Khải đưa ra thời điểm 1100 P.N.
Đây là ba thời điểm và những người ghi lại chúng sớm nhất, và người ta có thể tự mình nhận ra đã có sai lệch lớn về thời gian giữa các thời điểm này. Để giải quyết, tôi đề nghị trước hết hãy bàn đến hai thời điểm sớm hơn ở đây, bởi vì các thời điểm do Chân Đế và Huyền Tráng đưa ra thì dễ dàng phối hợp hơn thời điểm của Huệ Khải.
Theo Chân Đế, Thế Thân sinh vào năm 900 P.N. Phổ Quang, trong Câu Xá Luận Ký, cho chúng ta thông tin: “Chân Đế nói, “Một ngàn hai trăm sáu mươi lăm năm đã trôi qua kể từ khi Đức Phật qua đời đến nay””. Chúng ta biết đích xác Chân Đế và Phổ Quang sống vào năm nào. Vì thế, để biết được thời điểm 900 P.N. dành cho Thế Thân chính xác chỉ cho năm nào, chúng ta phải biết Đức Phật qua đời năm nào; và để biết được Đức Phật qua đời năm nào, chúng ta phải xác định nhóm từ “đến nay” của Phổ Quang chính xác có nghĩa là gì. Frauwallner đã diễn dịch là “đến thời Chân Đế”, tức khoảng 564 sdl khi Chân Đế bắt đầu dịch Câu Xá Luận ở Quảng Châu. Do điều này mà Sakurake đã chỉ ra rằng trong trường hợp đó nhân vật được gọi là Thế Thân-lớn-tuổi-hơn có lẽ sinh vào thế kỷ thứ III sdl, đúng hơn là năm 320 sdl như Frauwallner đề nghị. Tuy nhiên, diễn dịch của Frauwallner sai lầm không phải về điểm này mặc dù một tính toán sai lầm như thế thật là đáng thương. Diễn dịch này sai bởi vì dường như nó đã dựa vào một kiến thức nghèo nàn về Hán ngữ của người diễn dịch.
Nhóm từ “đến nay”, khi được dùng bởi một tác giả, ngay cả trong trường hợp tác giả này dẫn thông tin từ một tác giả khác, luôn luôn chỉ cho cái “nay” của tác giả trích dẫn chứ không phải của tác giả được trích dẫn. Thí dụ, trong Nhị Giáo Luận, Đạo An viết:
Theo Pháp Sư Cựu Ma La Thập Niên Kỷ và Thạch Trụ Minh, phù hợp với Xuân Thu, thì Như Lai sinh vào năm thứ 5 của Chu Hoàn Vương, tức năm Ất Sửu, […], và Ngài nhập diệt vào năm thứ 15 của Tương Vương, tức năm Giáp Thân. Từ đó đến nay đã một ngàn hai trăm linh năm năm.
Chúng ta biết rằng Đạo An viết Nhị Giáo Luận năm 568 sdl và năm thứ 15 của Chu Hoàn Vương tương đương với năm 687 tdl. Chỉ tính nhẩm từ năm 687 tdl xuống đến năm 568 sdl sẽ cho ta con số 1205 năm. Vì thế, không còn nghi ngờ gì nữa về năm mà nhóm từ “đến nay” trong đoạn văn trên nói đến. Nó chỉ cho năm 568 sdl của Đạo An chứ không phải năm của La Thập, người được Đạo An trích dẫn. Kết quả, đối với những gì Phổ Quang đã đề cập về lời của Chân Đế, ta phải hiểu rằng hai chữ “đến nay” nhằm chỉ cho thời điểm của Phổ Quang chứ không phải của Chân Đế như Frauwallner diễn giải.
Nếu nhóm từ này chỉ cho thời của Phổ Quang, vậy Quang đã sống khi nào? Ta biết rằng Quang là học trò và cũng là đồng sự thân cận của Huyền Tráng. Tuy nhiên, điều chúng ta không biết là thời điểm ông viết Câu Xá Luận Ký, tức tác phẩm trong đó ta tìm thấy câu nói vừa dẫn. Thật may là chúng ta biết Huyền Tráng dịch Câu Xá Luận trong khoảng thời gian 651 – 654. Vậy, đương nhiên Phổ Quang phải viết Câu Xá Luận Ký sau năm 654 sdl, thời điểm Huyền Tráng hoàn tất việc dịch và giảng Câu Xá Luận cho những đồng sự của ông. Rất có khả năng Câu Xá Luận Ký đã được viết sau năm 664 sdl, khi Tráng chết và Phổ Quang phải tự lo liệu lấy và có thời gian cho riêng mình. Trong bất cứ trường hợp nào, ta có thể chắc chắn rằng câu nói trên của Phổ Quang hẳn phải được đưa ra sau 654 sdl, thời điểm mà Huyền Tráng chính thức hoàn tất việc dịch Câu Xá Luận. Như vậy, nếu ta chọn sau năm 664 sdl làm thời điểm Quang bắt đầu viết Câu Xá Luận Ký, ta có thể thấy rằng năm đó thật sự là thời điểm được Phổ Quang diễn tả qua hai chữ “đến nay”. Nói cách khác, cho đến năm 664 sdl thì một ngàn hai trăm sáu mươi năm đã trôi qua kể từ khi Phật Niết bàn. Vì thế ta có thể nói năm 664 sdl tương ứng với năm 1265 sau P.N. Một khi điều này đã được xác quyết, việc tìm ra Thế Thân sinh vào thời nào đương nhiên sẽ trở thành đơn giản.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Lê Mạnh Thát – Triết học Thế Thân – NXB THTPHCM 2006