Trang South China Morning Post của Hong Kong ngày 8/5 đăng bài cho rằng ngành năng lượng mặt trời của Việt Nam tăng trưởng mạnh, song chính sách chậm trễ đang khiến các nhà đầu tư lo lắng. Kinh nghiệm của Trung Quốc có thể mang lại bài học kinh nghiệm, song Hà Nội vẫn cảnh giác với việc để nhà đầu tư Trung Quốc tham gia các dự án được coi là quan trọng đối với an ninh quốc gia.
5 năm kể từ khi Hà Nội triển khai các chính sách khuyến khích sản xuất năng lượng mặt trời và năng lượng gió – đóng góp khoảng 1/10 tổng sản lượng điện vào cuối năm 2021, ngành công nghiệp này hiện đang đi vào bế tắc. Việt Nam chủ yếu dựa vào thủy điện, than và khí đốt tự nhiên để sản xuất điện. Việt Nam nhập khẩu than và từ năm nay sẽ nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG). Việt Nam cũng nhập khẩu điện từ Lào và Trung Quốc.
Zhou Xizhou, chuyên gia lĩnh vực năng lượng đang làm việc tại S&P Gobal, cho biết nhu cầu điện của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong thời kỳ hậu đại dịch và ước tính mức tăng trung b2inh sẽ là 5% mỗi năm cho đến năm 2030.
Tình trạng lấp lửng
Tháng 01/2022, Bộ Công Thương đề xuất tạm dừng phê duyệt đầu tư đối với các dự án điện mặt trời và điện gió chưa được thực hiện. Các nhà phát triển năng lượng mặt trời và năng lượng gió cho rằng họ bị nhà nước “bỏ rơi” với tương lai không rõ ràng về các kế hoạch mua điện và băn khoăn liệu họ có nên tiếp tục kinh doanh hay không.
Giám đốc một công ty Đài Loan đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo ở châu Á, châu Phi, châu Âu và châu Mỹ cho biết việc thiếu khả năng dự đoán gây khó khăn cho các nhà đầu tư: “Giữa các lần thông báo về chính sách mới, có khoảng trống chính sách kéo dài hàng tháng hoặc hơn một năm”. Ví dụ, biểu giá điện hỗ trợ (FIT) cho các dự án năng lượng mặt trời quy mô lớn chỉ vừa mới được công bố vào tháng 4/2020 – 10 thág sau khi các mức giá trước đó hết hạn. FIT cho các nhà phát triển thời hạn chỉ 8 tháng để hoàn thành các dự án trong bối cảnh chuỗi cung ứng bị gián đoạn do đại dịch COVID-19. Không rõ điều gì sẽ xảy ra nếu họ bỏ lỡ thời hạn.
Bài học, đầu tư từ Trung Quốc?
Liu Huan, Tổng giám đốc công ty con tại Việt Nam của Sungrow Power Supply, một công ty năng lượng tái tạo niêm yết tại Thâm Quyến, cho biết tình hình hiện tại – với nhiều dự án cơ sở hạ tầng hỗ trợ – là điều dễ hiểu: “Chính quyền trung ương và địa phương phê duyệt nhiều đề xuất hơn mức lưới điện có thể hỗ trợ vì họ không thể biết dự án nào cuối cùng sẽ được xây dựng”.
Ông tin rằng điều này sẽ được cải thiện khi các cơ quan chức năng của Việt Nam có thêm kinh nghiệm trong việc xử lý các dự án năng lượng tái tạo. Ông Liu Huan lấy ví dụ về bài học từ Trung Quốc – quốc gia đã thúc đẩy đáng kể việc sản xuất điện gió và mặt trời thông qua FiTs từ năm 2009: “Qua nhiều năm phát triển năng lượng tái tạo, nhà chức trách nhận thức được mức độ tin cậy của từng doanh nghiệp địa phương và thị trường đã dần loại bỏ các doanh nghiệp nhỏ hơn và có vấn đề”.
Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu năng lượng và tăng trưởng Xanh (CEGR) – tổ chức nghiên cứu và tư vấn phi lợi nhuận có trụ sở tại Hà Nội, cho biết Bộ Công thương hiện đang xây dựng quy hoạch phát triển điện mới gọi là Quy hoạch điện 8 (QHĐ 8), theo đó, vạch ra kế hoạch phát triển điện đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo ông: “Bộ đang giới thiệu các công cụ mô hình hiện đại để phát triển QHĐ 8”. QHĐ 8 sẽ phân tích kỹ lưỡng việc tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo như gió và mặt trời vào lưới điện quốc gia. Tuy nhiên, ông Sơn chỉ ra rằng: “Việt Nam chưa có phòng thí nghiệm quốc gia nào có thể thực hiện những nghiên cứu phức tạp như Phòng thí nghiệm năng lược tái tạo quốc gia (NREL) hay Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Berkeley ở Mỹ. NREL có siêu máy tính của riêng mình và do đó có thể tiến hành mô phỏng hệ thống điện quốc gia trong vòng vài ngày. Nếu không có năng lực như vậy, chính phủ VIệt Nam cần tới tuần hoặc vài tháng để hoàn thành công việc đó. Do đó, nhà quy hoạch điện của Việt Nam cần tạm thời cắt bỏ việc phê duyệt dự án để tiến hành phân tích tình huống cơ sở”.
Bà Vũ Chi Mai, Trưởng bộ phận năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng tại Cơ quan hợp tác quốc tế Đức, cho biết Tập đoàn điện lực Việt Nam và chính phủ đã chủ động giải quyết vấn đề bằng cách đề xuất các thay đổi pháp lý để cho phép các nhà phát triển tư nhân đầu tư vào mạng lưới truyền tải điện. Những người trong ngành cho biết Chính phủ Việt Nam có thể sẽ thận trọng với các nhà đầu tư Trung Quốc do những cẳng thẳng về lãnh thổ và lịch sử giữa hia bên.
Một nhà quản lý của công ty Trung Quốc tham gia lĩnh vực năng lượng mặt trời và năng lượng gió của Việt Nam cho biết việc thúc đẩy các dự án điện gần bờ biển hoặc biên giới quốc gia rất “rắc rối” hoặc thậm chí là các dự án quy mô lớn vì tính nhạy cảm song phương. Ông cho biết nếu căng thẳng leo thang, những điều này có thể ảnh hưởng đến các quy trình xoay quanh dòng tiền và đầu tư xuyên biên giới.
Giám đốc CEGR Hà Đăng Sơn cho biết với bản chất của quá trình chuyển đổi năng lượng sạch, việc trì hoàn có thể là cần thiết để đưa ra các quyết định chính sách sáng suốt hơn: “Chúng ta phải kiên nhẫn. Quá trình chuyển đổi năng lượng đi kèm với rất nhiều điểm nghẽn, đặc biệt là với năng lực của các nhà lập kế hoạch và sự phối hợp của chính phủ”.
Nguồn: TKNB – 11/05/2022