Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XVIII


2/ Cùng cố hệ thống phòng thủ của Mỹ và các đồng minh

Là một thành phần quan trọng trong việc chống đỡ lại sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc, Mỹ phải chuẩn bị cho việc Trung Quốc sử dụng các chiến lược ép buộc kinh tế để tìm cách thúc đẩy các lợi ích quốc gia. Mỹ có một lợi ích rõ ràng không chỉ trong việc củng cố các chủ thể kinh tế của riêng mình, mà còn trong việc hỗ trợ cho các đồng minh và đối tác nước ngoài để Trung Quốc không tìm được các cách gián tiếp nhằm vào Mỹ và lợi ích của Mỹ.

Thiết lập một quỹ dự trữ cho những chủ thể chịu sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc. Mỹ, dẫn đầu là Bộ Tài chính và Bộ Thương mại, nên thiết lập một quỹ dự trữ cho các công ty và các thành phố chịu sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc. Quỹ này nên đặt tiền đề dựa trên khái niệm bảo vệ các thể chế tôn trọng luật kinh tế quốc tế và các nguyên tắc thị trường cạnh tranh. Quỹ nên hỗ trợ các thực thể bị Trung Quốc đối xử bất công theo một cách chống cạnh tranh mà có thể có ý nghĩa an ninh quốc gia quan trọng đối với Mỹ và một liên minh các đồng minh quan trọng. Tư cách thành viên nhìn chung nên được định hướng theo các nước thành viên G7 và các nước khác. Mỹ nên tận dụng quỹ này và yêu cầu các chính phủ đồng minh đóng góp. Mỹ cũng nên tìm kiếm sự đóng góp từ các công ty thuộc khu vực tư nhân, những công ty mà bản thân họ có thể là ứng cử viên để nhận được hỗ trợ từ một quỹ như vậy, nếu bị Trung Quốc nhắm trực tiếp vào bằng một hành động ép buộc kinh tế. Các nhà lãnh đạo của quỹ này nên xem xem các lựa chọn sửa đổi cấu trúc của nó theo hướng là một phương tiện đảm bảo cho sự tham gia của các thực thể này. Khi đứng đầu một quỹ như vậy, Mỹ có thể tăng cường nỗ lực thuyết phục các quốc gia khác hợp tác chặt chẽ và tích cực hơn với Mỹ áp đặt phí tổn lên Trung Quốc vì những thách thức của họ đối với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Hơn nữa, bằng cách báo hiệu cho Trung Quốc biết rằng Mỹ và các đồng minh đang thực hiện các bước chặn trước để bảo vệ lợi ích tập thể của họ, Washington có thể ngăn chặn Bắc Kinh khỏi ít nhất một số trường hợp gây áp lực ép buộc kinh tế đối với các thực thể sẽ sử dụng quỹ địa phương.

Xem xét và cập nhật các Quy định phản đối tẩy chay. Mỹ, với sự dẫn dắt của một phái đoàn trong Quốc hội và một nhóm nghiên cứu tại Bộ Thương mại, nên xem xét các Quy định phản đối tẩy chay để đánh giá cách thức Mỹ có thể cập nhật chúng hay ban hành các biện pháp phù hợp khác để hỗ trợ các công ty Mỹ là mục tiêu của cạnh tranh kinh tế Trung Quốc nhắm tới. Các nhà lãnh đạo Mỹ nên hợp tác chặt chẽ với các đối tác nước ngoài để xem xét làm thế nào các quyền hạn pháp lý tương đương có thể được thông qua trong các quyền hạn phán xét khác nhau, đặc biệt là các nền kinh tế lớn toàn cầu khác.

Những khuyến nghị về thu hút khu vực tư nhân

Chính phủ Mỹ nên tiếp cận khu vực tư nhân theo một cách chính thức và minh bạch hơn. Một số thách thức mà Trung Quốc đặt ra cho Mỹ trong thời đại cạnh tranh nước lớn không thể được giải quyết chỉ bởi mình Chính phủ Mỹ, và việc đối phó với những thách thức nhất định của Trung Quốc sẽ đòi hỏi phải hợp tác với các công ty khu vực tư nhân của Mỹ. Chính phủ Mỹ càn gia tăng tăng hợp tác với khu vực tư nhân để cải thiện việc chia sẻ thông tin về sự ép buộc kinh tế và chiến thuật của Trung Quốc để giảm thiểu phí tổn phát sinh không mong muốn của các biện pháp của Mỹ. Ngoài ra, một cách tiếp cận hợp tác với khu vực tư nhân có thể xây dựng dựa trên các cách tiếp cận theo quy định để đưa ra các chiến lược hiệu quả hơn. Ví dụ, Chính phủ Mỹ không có các công cụ điều tiết hiệu quả để có thể ngăn chặn hợp pháp các công ty của Mỹ làm theo các loại ép buộc kinh tế nhất định của Trung Quốc, như việc Trung Quốc yêu cầu các công ty Mỹ kiểm duyệt các thông tin trên truyền thông xã hội và kiềm chế nói về các vấn đề chính trị như Tây Tạng. Tuy nhiên, Chính phủ Mỹ có thể khuyến khích khu vực tư nhân thiết lập các cơ chế và cam kết tự nguyện để chống lại áp lực như vậy của Trung Quốc.

Tăng cường dòng chảy thông tin và hợp tác với khu vực tư nhân

Can dự tốt hơn với khu vực nhân sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh của Mỹ với Trung Quốc ở cả lĩnh vực kinh tế và an ninh quốc gia. Các quan chức Mỹ và khu vực tư nhân nên thực hiện một số bước đi để cải thiện hợp tác trong hỗ trợ chính sách của Mỹ.

Cải thiện chia sẻ thông tin. Bộ Thương mại, Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính nên thiết lập một cơ chế chia sẻ thông tin để thu thập thông tin về các trường hợp sử dụng biện pháp ép buộc kinh tế của Trung Quốc nhằm vào các công ty Mỹ và công bố một báo cáo định kỳ về việc Trung Quốc sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế. Cảnh báo này được gửi trực tiếp tới Chính phủ Mỹ trên cơ sở bí mật, hoặc gửi trực tiếp hoặc nặc danh tới những người dùng khác trong hệ thống cảnh báo và Chính phủ Mỹ. Các nhà phân tích chính phủ, từ các cộng đồng tài chính và tính báo, có thể chắt lọc các bài học từ những cảnh báo cho các báo cáo định kỳ, đồng thời triệu tập tới các phiên nghe báo cáo định kỳ hoặc hội nghị để các đại diện khu vực tư nhân có thể trực tiếp chia sẻ thông tin và tham gia chủ đề này.

Thúc đẩy một bộ quy tắc ứng xử khu vực tư nhân với Trung Quốc. Các hiệp hội thương mại khu vực tư nhân hàng đầu, bao gồm Phòng Thương mại Mỹ và các hiệp hội thương mại chuyên về các hoạt động chế tạo và công nghệ cao, cùng với Bộ Ngoại giao Mỹ và Hội đồng an ninh quốc gia, nên thúc đẩy phát triển một bộ quy tắc ứng xử khu vực tư nhân với Trung Quốc. Bộ quy tắc ứng xử tự nguyện nên bao gồm các cam kết của các công ty Mỹ để kiềm chế tham gia các hoạt động nhất định ở Trung Quốc hay với các thực thể Trung Quốc mà sẽ chống lại các giá trị và lợi ích của Mỹ, như hỗ trợ kiểm duyệt và giám sát của Trung Quốc. Bộ quy tắc này cũng nên bao gồm các cam kết của các công ty Mỹ chống lại áp lực ép buộc kinh tế của Trung Quốc theo tiêu chí cụ thể được xác định bởi các nhà soạn thảo và các bên ký kết ban đầu. Chính phủ Mỹ nên xem xét một gói ưu đãi có thể có hiệu lực đối với các công ty tự nguyện ký vào bộ quy tắc ứng xử. Các quan chức Mỹ cũng nên phối hợp với các đối tác nước ngoài để thúc đẩy các quá trình tương tự ở các nước khác, và chào đón các quan sát viên từ các nước đồng minh và đối tác đến Mỹ học hỏi.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020

Thông điệp Liên bang 2023 tiết lộ gì về kế hoạch của Putin ở Ukraine?


Theo thehill.com thông điệp Liên bang của Tổng thống Nga Vladimir Putin đã nhấn mạnh những rủi ro trong cuộc chiến của ông ở Ukraine. Nội dung nổi bật trong bài phát biểu là việc ông thông báo rằng Nga sẽ đơn phương ngừng tham gia hiệp ước hạt nhân cuối cùng còn lại với Mỹ – một động thái càng làm dấy lên lo ngại về mối đe dọa hạt nhân ở phương Tây.

Bên cạnh đó, Thông điệp Liên bang cũng đưa ra những dấu hiệu về cách nhà lãnh đạo Nga có thể đối phó với năm thứ hai của cuộc chiến và cách Putin định hình về cuộc chiến cho cả dư luận trong nước và thế giới.

Daniel Goure – chuyên gia quốc phòng và là Phó Chủ tịch Viện nghiên cứu Chính sách công Lexington – nhận định: “Đây gần như thực sự là một bài phát biểu thời chiến mà chúng ta đã nghe cho đến nay”.

Putin không còn định hình cuộc chiến như “chiến dịch quân sự đặc biệt” để giải phóng Ukraine. Giờ đây, ông ta đang biến nó thành một cuộc chiến sống còn chống lại nền văn minh phương Tây.

Xung đột giữa các nền văn minh

Trong thông điệp liên bang, Putin phát biểu: “Giới tinh hoa phương Tây không giấu giếm mục tiêu, đó là “sự thất bại chiến lược của Nga”. Các chuyên gia cho rằng việc dàn dựng cuộc chiến bao trùm – đổ lỗi cho đế quốc Mỹ và các đồng minh để khơi mào chiến tranh bất chấp những nỗ lực hòa bình của Nga sẽ mang lại cho Putin “vỏ bọc chính trị” cần thiết khi ông chuẩn bị cho một cuộc chiến kéo dài. Nhà lãnh đạo Nga đã kỳ vọng rằng “chiến dịch quân sự đặc biệt” của ông chỉ mất vài ngày. Giờ đây, ông cần biện minh cho một cuộc chiến tổng lực đã cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người, khiến nước Nga bị cô lập trên trường quốc tế và sẽ phải chịu thêm nỗi đau trong nhiều tháng hoặc nhiều năm nữa.

Andress Kasekamp – giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Toronto và là chuyên gia nghiên cứu về chiến tranh – lưu ý rằng Putin cũng cần giải thích lý do tại sao nỗ lực chiến tranh của Nga đang thất bại. Theo giáo sư Kasekamp, trên bình diện quốc tế, việc đổ lỗi cho phương Tây, đặc biệt là Mỹ, về cuộc chiến sẽ làm vẩn đục “các vùng biển ngoại giao” và có thể giúp thuyết phục một số quốc gia ở châu Phi, châu Á và Mỹ Latinh duy trì lập trường trung lập, thay vì lên án hành động gây hấn của Nga.

“Tống tiền” hạt nhân

Theo Giáo sư Kasekamp, thông báo Nga sẽ đình chỉ tham gia hiệp ước hạt nhân New Start là “sự làm bộ và cố gắng nhấn một nút mà Putin nghĩ rằng đối với các nhà hoạch định chính sách của Mỹ, ông có thể thu hút sự chú ý và khiến họ khó chịu”. Leon Aron, một chuyên gia về Nga tại Viện Doanh nghiệp Mỹ (AEI), cho biết tống tiền hạt nhân là công cụ duy nhất còn lại của Putin. Trong khi Putin đe dọa sử dụng hạt nhân từ trước khi chiến tranh bắt đầu, chuyên gia Aron cho rằng việc Putin đình chỉ hiệp ước hạt nhân New Start là một động thái cụ thể nhằm hỗ trợ cho việc tống tiền hạt nhân của ông chủ Điện Kremlin.

Liệu Putin có thực sự sủ dụng vũ khí hạt nhân hay chỉ gia tăng mối đe dọa? Cho đến nay, đòn “đe dọa sử dụng hạt nhân” của Putin đã phát huy tác dụng – với việc Mỹ và các đồng minh phương Tây tham gia điều mà ông Kasekamp gọi là “tự răn đe”, chờ đợi hàng tháng trước khi cung cấp vũ khí sát thương vì sợ khiêu khích Putin. Và mỗi loại vũ khí bổ sung lại gây ra một cuộc tranh luận mới xung quanh cùng một nỗi sợ leo thang với bối cảnh là vũ khí hạt nhân của Nga.

Chuẩn bị cho một cuộc chiến lâu dài

Thiếu lựa chọn hạt nhân, chiến lược của Putin dường như là duy trì cuộc chiến tranh tiêu hao hiện tại và khuyến khích người Nga thích nghi với thực tế mới này.

Với việc Tổng thống Biden đưa ra bài phát biểu hôm 21/2 hứa hẹn sẽ sát cánh cùng Ukraine đến cùng. Putin đã gửi thông điệp riêng về “cam kết bất diệt” trong cuộc chiến. Giáo sư Kasekamp phân tích: “Kế hoạch trò chơi của Putin luôn là ông ta nghĩ rằng mình có thể tồn tại lâu hơn phương Tây”. Và mặc dù Biden có thể có quyết tâm hỗ trợ Ukraine về lâu dài, nhưng điều đó có thể nhanh chóng thay đổi nếu đảng Cộng hòa giành được Nhà Trắng vào năm 2024 hoặc nếu sự thống nhất của NATO tan vỡ do những thay đổi ở các quốc gia khác.

Nguồn: TKNB – 27/02/2023

Thế giới trải qua một năm nhiều biến động – Phần III


III/ Nền kinh tế thế giới ngày càng trì trệ

(Giáo sư Giang Thụy Bình, Học viện ngoại giao Trung Quốc)

Dưới tác động của nhiều yếu tố như đại dịch COVID-19, cuộc khủng hoảng Ukraine, chính sách tài khóa và tiền tệ của các quốc gia…, nền kinh tế thế giới nhanh chóng đi đến đình trệ do lạm phát trong năm 2022.

Thế giới đối phó chậm chạp với lạm phát

Năm 2020, chịu ảnh hưởng của dịch bệnh, thế giới phải đối mặt với cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái những năm 1930, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế của toàn cầu giảm xuống còn -3%, trong đó ở các nước phát triển là -4,4%, các thị trường mới nổi và nền kinh tế đang phát triển là -1,9%. Năm 2021, thế giới có sự phục hồi mạnh mẽ nhất sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đạt 6%, trong đó các nền kinh tế phát triển đạt 5,2% và các thị trường mới nổi và nền kinh tế đang phát triển đạt 6,6%.

Đến quý IV/2021, trong bối cảnh nhiều quốc gia thực thi chính sách tài khóa và tiền tệ siêu nới lỏng, mặc dù nền kinh tế được phục hồi đã kích thích nhu cầu mở rộng, nhưng không thể khắc phục kịp thời sự đứt gãy chuỗi cung ứng do dịch bệnh gây ra, thị trường xuất hiện tình trạng cung không đủ cầu nghiêm trọng, dấu hiệu lạm phát bắt đầu xuất hiện. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tại Mỹ, Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) và Anh lần lượt đạt 6,7%, 4,6% và 4,9%. Chính phủ các nước chưa thực sự quan tâm đến dấu hiệu lạm phát vừa mới xuất hiện, nên đã bỏ lỡ cơ hội tốt để đưa ra các biện pháp kiểm soát. Cuộc khủng hoảng Ukraine nổ ra vào tháng 2/2022 đã giáng một đòn nặng nề hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, khiến mặt bằng giá cả toàn cầu tăng nhanh và liên tục lập mức cao mới. Đến tháng 9/2022, CPI ở Mỹ, Eurozone và Anh lần lượt đạt 8,2%, 9,9% và 10,1%. Lạm phát tại một số thị trường mới nổi và nền kinh tế đang phát triển thậm chí còn nghiêm trọng hơn, CPI của Thổ Nhĩ Kỳ lên tới 83,5% trong tháng 9/2022.

Trước áp lực lạm phát ngày càng tăng và không thể chịu nổi, các nền kinh tế lớn của phương Tây như Mỹ bắt đầu tăng lãi suất và thu hẹp bảng cân đối kế toán của họ. Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã tăng lãi suất 6 lần liên tiếp kể từ tháng 3/2022, trong đó 4 lần gần đây nhất đều ở mức 75 điểm cơ bản, lập kỷ lục về các đợt tăng lãi suất trong thời gian ngắn. Các nền kinh tế phương Tây khác và nhiều thị trường mới nổi cũng làm theo, khiến thế giới bước vào một chu kỳ tăng lãi suất mới. Tuy nhiên, động thái liên tục tăng lãi suất của FED và làn sóng tăng lãi suất trên toàn cầu do động thái này của FED gây ra không có tác dụng kiềm chế lạm phát nhanh chóng, mà lại gây ra tác động nghiêm trọng đến sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) liên tiếp hạ dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2022 lần lượt là 0,5, 0,8 và 0,4 điểm phần trăm vào tháng 1, tháng 4 và tháng 7/2022. Dự báo mới nhất được công bố vào tháng 10 dự báo tốc độ tăng trưởng toàn cầu năm 2022 ở mức 3,2%, thấp hơn 2,8 điểm phần trăm so với năm 2021. Trong đó, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển đạt 2,4%, các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển đạt 3,7%, các thị trường mới nổi và nền kinh tế đang phát triển ở châu Âu thậm chí bằng 0%. Năm 2023, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của toàn cầu sẽ tiếp tục giảm xuống còn 2,7%, trong đó tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển chỉ đạt 1,1%.

Trong ngắn hạn, thế giới khó thoát khỏi sự trì trệ

Năm 2023, triển vọng kinh tế toàn cầu khó thoát khỏi tình trạng đình trệ do lạm phát. Thứ nhất, không có nhiều dư địa để thực hiện chính sách vĩ mô để điều tiết kinh tế. Năm 2023, các nền kinh tế lớn trên thế giới sẽ khó đưa ra các biện pháp chính sách hiệu quả hơn. Một là, sau những đợt tăng lãi suất liên tiếp, dư địa cho chính sách tiền tệ đã rất hạn hẹp; hai là, bản thân việc tăng lãi suất chính là “con dao hai lưỡi”, ngay cả khi có thể có tác dụng nhất định trong việc kiềm chế vật giá leo thang, thì cái giá phải trả do sự tác động nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế vẫn rất cao; ba là, việc Mỹ và phương Tây tăng lãi suất đã tác động nghiêm trọng đến kinh tế toàn cầu, đặc biệt là các thị trường mới nổi và nền kinh tế đang phát triển.

Thứ hai, dịch bệnh vẫn tiếp tục gây ra tác động đối với chuỗi cung ứng và các hoạt động kinh tế xã hội toàn cầu.

Thứ ba là tác động địa chính trị. Cuộc khủng hoảng Ukraine khiến Mỹ và phương Tây thực hiện các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga và Nga cũng thực hiện các biện pháp đáp trả, cũng như việc Mỹ dựa vào đồng minh của mình để thực hiện sự tách rời với Trung Quốc sẽ tiếp tục tiếp diễn, từ đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chuỗi cung ứng và hoạt động kinh tế toàn cầu.

Cuối cùng, sự phối hợp quốc tế sẽ trở nên khó khăn hơn. Do tác động trực tiếp của các xung đột địa chính trị nên, sự điều phối quốc tế trên các phương diện quan trọng sẽ khó triển khai hiệu quả hơn. Không chỉ các cơ chế quản trị đa phương như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và IMF vẫn chưa thể phát huy vai trò của nó, mà cơ chế G20 từng thể hiện tốt vai trò điều phối quốc tế sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 cũng đang ngày càng bộc lộ những dấu hiệu của sự mệt mỏi.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu trì trệ do lạm phát, một số vấn đề kinh tế-xã hội sẽ trở nên nghiêm trọng hơn và cần được quan tâm giải quyết. Trước tiên, sự phân hóa kinh tế toàn cầu ngày càng nghiêm trọng. Việc phương Tây, đặc biệt là Mỹ liên tục tăng lãi suất đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các thị trường mới nổi và nền kinh tế đang phát triển trên các phương diện như dòng vốn chảy ra ngoài, đồng tiền mất giá, lạm phát từ nước ngoài đưa vào và nợ gia tăng. Trong nội bộ các nền kinh tế phát triển, do có sự khác biệt lớn về mức độ và cường độ tăng lãi suất, tỷ giá hối đoái biến động mạnh, đồng USD tăng giá mạnh trong khi đồng tiền của các nước khác mất giá mạnh, đồng USD tăng giá mạnh trong khi đồng tiền của các nước khác mất giá mạnh, thị trường tài chính biến động mạnh, xu hướng kinh tế thể hiện sự phân hóa rõ nét. Trong nội bộ các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, cuộc khủng hoảng lương thực, khủng hoảng năng lượng, tăng lãi suất ở Mỹ và phương Tây, xung đột địa chính trị đã gây ra những hậu quả khác nhau đối với các nền kinh tế, khiến xu hướng kinh tế đã bị phân hóa ngày càng nghiêm trọng.

Hai là, vấn đề quản trị toàn cầu đã trở nên nghiêm trọng hơn. Xu hướng phân hóa của nền kinh tế toàn cầu khiến việc điều phối kinh tế quốc tế trở nên khó khăn hơn. Xung đột địa chính trị đã làm tổn hại nghiêm trọng đến quản trị kinh tế toàn cầu, đặc biệt là các biện pháp trừng phạt của Mỹ và phương Tây đối với Nga và các biện pháp đáp trả của Nga, sự tách rời với Trung Quốc…, khiến sự chia rẽ toàn cầu tăng lên. Cuộc khủng hoảng năng lượng và lương thực lan rộng, gánh nặng nợ ngày càng tăng đã cản trở nghiêm trọng việc quản trị môi trường và hợp tác xóa đói giảm nghèo trên toàn cầu.

Cuối cùng, cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt trở nên nghiêm trọng hơn. Trước đây, khi đề cập đến cuộc sống nghèo khó, dường như đó chỉ là vấn đề của các nước nghèo, nhưng hiện nay có ngày càng nhiều quốc gia phát triển ở châu Âu và Mỹ cũng phải đối mặt với vấn đề đói nghèo. Bên cạnh việc nền kinh tế đình trệ, dịch bệnh liên tục tái bùng phát, thu nhập giảm mạnh, áp lực lạm phát tăng nhanh đã khiến gánh nặng chi phí sinh hoạt của nhiều nước phát triển ở châu Âu, Mỹ tăng lên cao, khiến ngày càng nhiều gia đình rơi vào cảnh nghèo đói.

(còn tiếp)

Nguồn: Tạp chí Tri thức thế giới (TQ) – số 24/2022

TLTKĐB 3-11/01/2023

Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XVII


Xây dựng một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ đối với các biện pháp hạn chế nhập khẩu. Để đảm bảo các chuỗi cung ứng chủ chốt, Quốc hội Mỹ nên xây dựng luật mà sẽ cho phép cơ quan hành pháp của Mỹ thiết lập một chế độ kiểm soát nhập khẩu vì các mục đích an ninh quốc gia và để bảo vệ các chuỗi cung ứng của Mỹ. Điều này sẽ khiến Mỹ tránh xa khỏi thông lệ gần đây hơn của Chính phủ Mỹ trong việc hạn chế hàng nhập khẩu của Trung Quốc vì lý do an ninh quốc gia theo cách đặc biệt dưới các quyền hạn pháp lý khác nhau. Quốc hội đã cấm nhập khẩu các thiết bị viễn thông nhất định của Trung Quốc một cách hiệu quả, hạn chế sử dụng các nguồn tài trợ liên bang cho việc mua sắm các phương tiện giao thông công cộng nhất định do các công ty Trung Quốc sản xuất, và Chính quyền Trump đã chuyển sang giới hạn nhiều hơn nữa việc nhập khẩu các sản phẩm IT nhất định của Trung Quốc. Tuy nhiên, với một quy chế mới, Mỹ nên nắm lấy một cấu trúc điều chỉnh chính thức, xuyên suốt để giới hạn hàng nhập khẩu từ Trung Quốc trên cơ sở an ninh quốc gia rõ ràng. Chính quyền Mỹ nên sử dụng một cách vừa phải các biện pháp hạn chế theo một quy chế mới, và một cấu trúc điều chỉnh mạch lạc có nhiều khả năng dẫn đến việc sử dụng hợp lý hơn là việc mở rộng hơn nữa cách tiếp cận đặc biệt hiện nay. Một cấu trúc như vậy có thể sẽ gia tăng đáng kể những cân nhắc liên quan tới nghĩa vụ của WTO, mà Văn phòng đại diện thương mại Mỹ sẽ cần giải quyết trong việc thực hiện những biện pháp hạn chế như vậy.

Nghiên cứu về việc phát triển một cấu trúc pháp lý rộng hơn và linh hoạt hơn để áp đặt thuế quan lên các sản phẩm được sản xuất bởi các công ty cụ thể, thay vì đơn giản từ một quốc gia cụ thể. Quốc hội Mỹ nên thành lập một nhóm nghiên cứu, mà sẽ lắng nghe các chuyên gia độc lập và trong chính quyền, và yêu cầu một nghiên cứu từ Cơ quan giám sát trách nhiệm chính phủ (GAO), về các cách thức phát triển một cấu trúc pháp lý mà sẽ mở rộng khả năng của Mỹ để phân biệt các loại thuế quan được áp đặt lên các sản phẩm nhập khẩu từ các công ty cụ thể, mà hiện nói chung chỉ có sẵn trong một số trường hợp hạn chế nhất định. Theo luật pháp của Mỹ hiện nay, Mỹ thường áp dụng các loại thuế quan đối với các sản phẩm nhập khẩu cụ thể từ Trung Quốc, thay vì áp dụng thuế quan đối với các sản phẩm được sản xuất bởi các công ty Trung Quốc cụ thể, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, ví dụ như “bán phá giá”. Tuy nhiên, khi Mỹ tiếp tục sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế để giải quyết các vấn đề thương mại cụ thể và các phạm vi kinh tế khác của Trung Quốc, Mỹ sẽ hưởng lợi từ một cấu trúc thuế quan mà có đủ khả năng phân biệt rộng hơn và dễ dàng hơn giữa hàng hóa nhập khẩu từ các loại công ty Trung Quốc khác nhau, chẳng hạn giữa công ty nhà nước và công ty tư nhân. Quá trình nghiên cứu và đánh giá do Quốc hội Mỹ dẫn dắt có thể cung cấp định hướng trên con đường đi tới chính sách thuế quan của Mỹ.

Các khuyến nghị tăng cường các khuôn khổ đa phương hợp tác với các đồng minh

Mỹ nên khẳng định mối quan hệ liên minh và đối tác trong cuộc cạnh tranh kinh tế Mỹ-Trung: Sự hỗ trợ của các chính phủ đồng minh, đặc biệt khi họ đại diện cho các nền kinh tế toàn cầu lớn và các bên giám sát tiền tệ mạnh hay các trung tâm chuỗi cung ứng quan trọng, có ý nghĩa trọng yếu nhằm làm cho các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc trở nên hiệu quả. Khi các nước thứ ba không phối hợp hay hỗ trợ Mỹ, các nền kinh tế của họ có thể trở thành đấu trường để Trung Quốc lách luật hay tránh áp lực kinh tế của Mỹ. Mặt khác, Trung Quốc có thể tăng cường vị thế kinh tế của mình bằng việc kéo các đồng minh của Mỹ lại gần Trung Quốc hơn trên các khía cạnh kinh tế, một bước đi mà nước này có thể làm suy yếu các mối quan hệ liên minh của Mỹ. Ngoài ra, các biện pháp của Mỹ nhằm vào Trung Quốc có thể tác động bất lợi đáng kể đến kinh tế của các nước đồng minh mà phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc, và Mỹ phải xem xét những tác động này trong việc triển khai các biện pháp ép buộc kinh tế của mình.

Hơn nữa, với kinh nghiệm của Mỹ về các biện pháp trừng phạt trong nhiều năm qua đã cho thấy rằng áp lực kinh tế đơn phương của Mỹ có thể gây tác động đáng kể khi thực hiện với các nước tương đối nhỏ. Quy mô thị trường của Mỹ so với quy mô của một nước như Iran, Venezuela, hay Cuba có nghĩa là hầu hết các công ty ở các nước đồng minh, như các công ty có trụ sở ở châu Âu, sẽ tuân thủ các biện pháp trừng phạt của Mỹ vì phí tổn tiềm tàng của việc bất tuân – không được tiếp cận thị trường Mỹ trong một thời gian dài – nhìn chung vượt xa phí tổn của việc bị cấm kinh doanh ở một nước bị trừng phạt. Tính toán rủi ro doanh nghiệp này là đúng cho dù chính phủ của một công ty lựa chọn đứng về phía Mỹ trong việc áp đặt các biện pháp trừng phạt hợp pháp hay các biện pháp ép buộc kinh tế khác đối với nước mục tiêu. Tuy nhiên, hoàn toàn không để đảm bảo rằng các doanh nghiệp sẽ tuân thủ biện pháp của Mỹ khi nói đến các biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc. Các công ty ở các nước đồng minh đối mặt với một lựa chọn khó khăn hơn nhiều nếu và khi buộc phải lựa chọn giữa thị trường Mỹ và Trung Quốc, làm giảm tác động của các biện pháp đơn phương của Mỹ. Với lo ngại về sự cạnh tranh của Trung Quốc, các vi phạm thương mại và rủi ro an ninh quốc gia lan rộng ở châu Âu, và giữa các nước đồng minh của Mỹ ở châu Á, Mỹ có cơ hội xây dựng một liên minh đa phương để thực hiện các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc và nên nỗ lực xây dựng sự hỗ trợ đa phương đối với các biện pháp như vậy bất kỳ nơi nào có thể.

1/ Xây dựng một cấu trúc đa phương

Không có cơ quan thường trực nào của các chính phủ có cùng chí hướng tận tâm tạo ra một cách tiếp cận chung đối với việc triển khai các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc. Mỹ nên đầu tư vào việc thiết lập một cấu trúc hợp tác đa phương để tăng cường tác động của các biện pháp của Mỹ, và đồng thời học hỏi và ủng hộ các hành động và ý tưởng của các quốc gia khác mà cũng lo ngại về ép buộc kinh tế sẽ thúc đẩy thành công các lợi ích của Mỹ.

Thành lập một nhóm “cùng chí hướng” về các biện pháp hạn chế đầu tư và kiểm soát thương mại nhằm vào Trung Quốc. Văn phòng đại diện thương mại Mỹ, Bộ Thương mại và Bộ Tài chính nên cùng thành lập một nhóm cùng chí hướng gồm các nước công nghiệp quan trọng để phát triển một cách tiếp cận tập thể đối với việc áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và nhập khẩu với Trung Quốc và các biện pháp hạn chế đối với đầu tư của Trung Quốc. Các nước có cùng chí hướng quan trọng nên bao gồm Anh, Đức, Pháp, Hàn Quốc, Israel, Nhật Bản, Canada và Australia; EU cũng nên tham gia với tư cách một quan sát viên.

Thành lập một nhóm quốc tế Tech-N. Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, và Bộ Thương mại nên dẫn đầu Chính phủ Mỹ trong việc thành lập một nhóm quốc tế mới gồm các nền dân chủ tiên tiến và dẫn đầu về công nghệ để phối hợp chính sách công nghệ (Tech-N). Tổ chức này sẽ giúp thiết lập các chuẩn mực và tiêu chuẩn quốc tế, thúc đẩy an ninh chuỗi cung ứng, chống lại việc sử dụng công nghệ bất hợp pháp, và tối đa hóa và phối hợp chi tiêu R&D.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020

Thế giới trải qua một năm nhiều biến động – Phần II


II/ Tình hình an ninh quốc tế bất ổn khiến toàn cầu xuất hiện xu thế rạn nứt

(Diêu Vân Trúc, Ủy viên Trung tâm nghiên cứu chiến lược và an ninh quốc tế, Đại học Thanh Hoa)

Sự kiện lớn nhất trong lĩnh vực an ninh quốc tế năm 2022 là cuộc khủng hoảng Ukraine bùng nổ vào ngày 24/2 và kéo dài cho đến nay. Cuộc khủng hoảng này không những khiến các quốc gia trên thế giới bắt đầu thay đổi cách đánh giá đối với tình hình an ninh toàn cầu và điều chỉnh sâu sắc an ninh của mình, mà còn tác động nghiêm trọng đến cơ cấu cung cầu năng lượng và lương thực toàn thế giới.

Hình thành trận tuyến an ninh quân sự và gia tăng đấu tranh ý thức hệ

Cuộc khủng hoảng Ukraine đã khiến thế giới xuất hiện xu hướng hình thành trận tuyến an ninh quân sự rõ ràng. Ở châu Âu, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) can dự sâu vào cuộc khủng hoảng và lợi dụng cuộc khủng hoảng để gia tăng số lượng thành viên. Ngày 18/5/2022, Thụy Điển và Phần Lan chính thức gửi đơn xin gia nhập NATO. Việc làm này sẽ giúp họ nâng cao mức độ liên kết của thể chế tác chiến liên minh, đổi mới phương thức can thiệp quân sự, xây dựng và hoàn thiện cơ chế hợp tác và phối hợp trong các lĩnh vực khác nhau, hình thành sự đồng thuận về tăng cường mạnh mẽ can thiệp quân sự.

Ngay sau khi khủng hoảng Ukraine bùng phát, Mỹ đã rêu rao nguy cơ tương tự ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông Á. Mỹ có ý đồ lợi dụng vấn đề Đài Loan để củng cố đồng minh quân sự, tăng cường hợp tác quốc phòng với những nước đồng minh và đối tác khác ở châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Trung Quốc. Mỹ cũng tích cực phát triển quan hệ đối tác quốc phòng bằng cách lợi dụng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa một số quốc gia láng giềng với Trung Quốc. Ấn Độ đã trở thành nước thành viên duy nhất không phải là đồng minh của Mỹ trong cơ chế an ninh bốn bên (Bộ Tứ) do Mỹ lãnh đạo. Tuy nhiên, những quốc gia có tranh chấp lãnh thổ và quyền lợi biển với Trung Quốc cũng có sự phụ thuộc kinh tế chặt chẽ và mối quan hệ lịch sử, văn hóa lâu đời với Trung Quốc, đã hạn chế nhất định xu thế hình thành trận tuyến về quân sự của khu vực Đông Á.

Cuộc khủng hoảng Ukraine khiến thế giới xuất hiện xu thế tăng cường đấu tranh ý thức hệ. Chính quyền Biden của Mỹ đã lợi dụng sự khác biệt giữa “dân tộc với độc tài” và định vị cạnh tranh chiến lược nước lớn nhằm khoét sâu hố ngăn cách giữa các nước phát triển phương Tây với những quốc gia như Trung Quốc và Nga. Tuy hai bên không tạo thành tuyến đối đầu đối kháng toàn diện, nhưng lại là giới tuyến cạnh tranh quyết liệt, đối đầu lâu dài, có lúc xung đột. Cuối cùng, tình hình sẽ leo thang căng thẳng hay hòa dịu là vấn đề nan giải buộc thế giới phải đối mặt.

Cùng với cuộc khủng hoảng Ukraine, khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng đang xuất hiện xu thế chia rẽ trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Tình hình chính trị khá ổn định trên bán đảo Triều Tiên kể từ năm 2017 không còn tồn tại. Mỹ không muốn nối lại đối thoại với Triều Tiên. Mùa Hè năm 2022, họ đã tổ chức cuộc tập chung quy mô lớn đầu tiên với Hàn Quốc kể từ năm 2017, tăng thêm số lượng vũ khí chiến lược được triển khai trên bán đảo Triều Tiên và các khu vực lân cận, tăng cường các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Triều Tiên. Đồng thời, Triều Tiên ngày càng tiến hành nhiều vụ thử tên lửa và vũ khí tối tân khác. Tháng 9/2022, Hội đồng nhân dân tối cao Triều Tiên đã ban hành Sắc lệnh chính sách lực lượng hạt nhân, đưa ra nhiều kịch bản đối với việc sử dụng trước và trả đũa bằng vũ khí hạt nhân. Đồng thời, mong muốn hợp tác của các cường quốc trong vấn đề bán đảo Triều Tiên đang ở mức thấp nhất kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Tháng 5/2022, Trung Quốc và Nga đều phủ quyết dự thảo nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc được áp đặt nhằm trừng phạt Triều Tiên vì vụ thử tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM). Đây là bất đồng đầu tiên của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc liên quan đến vấn đề Triều Tiên kể từ năm 2006. Khả năng Đông Bắc Á xảy ra cuộc khủng hoảng mới làm gia tăng sự chia rẽ giữa các nước trong khu vực.

Khủng hoảng hạt nhân trở lại và thách thức toàn cầu tăng vọt

Cuộc khủng hoảng Ukraine cũng khiến thế giới lần đầu tiên phải đối mặt với mối đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Ngày 26/3, khi trả lời phỏng vấn, Phó Chủ tịch Hội đồng an ninh Liên bang Nga Dmitry Medvedev cho biết Nga có thể sử dụng vũ khí hạt nhân khi an ninh bị đe dọa, nhưng ông vẫn cho rằng đàm phán là giải  pháp đúng đắn nhất. Ngày 22/8, Thứ trưởng Ngoại giao Nga Ryabkov cảnh báo NATO nếu coi nhẹ giới hạn đỏ của Nga có thể châm ngòi cho cuộc chiến tranh hạt nhân. Về vấn đề này, cùng với cảnh báo Nga không leo thang rủi ro sử dụng vũ khí hạt nhân, Mỹ liên tục đưa ra các cam kết như không đưa quân can thiệp vào cuộc khủng hoảng Ukraine, không cung cấp vũ khí tấn công cho Ukraine, không tấn công các mục tiêu trong lãnh thổ Nga… Đương nhiên, Mỹ và Nga vẫn duy trì kết nối cấp cao sau khi khủng hoảng Ukraine bùng nổ. Từ tháng 10-11/2022, trong nhiều bối cảnh khác nhau, hai bên đã đưa ra những tuyên bố riêng liên quan, nói rằng chiến tranh hạt nhân không thể thắng và không thể tiến hành. Khi thế giới một lần nữa thực sự đối mặt với khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân, cần phải đi sâu đánh giá lại về quá trình kiểm soát và giải trừ vũ khí hạt nhân trong những năm gần đây đã chạm đáy, nỗ lực ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân bế tắc, việc sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi chiến tranh và thảm họa.

Hiện nay, các mối đe dọa đối với sự tồn tại của toàn nhân loại ngày càng gia tăng, mong muốn hợp tác toàn cầu đang giảm sút. Xã hội loài người đang phải đối mặt với những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, chủ nghĩa khủng bố và các lực lượng cực đoan lan rộng… Mặc dù những vấn đề an ninh nghiêm trọng này cần phải được giải quyết khẩn cấp thông qua hợp tác quốc tế, nhưng trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, tiềm năng và hiệu quả hợp tác của cộng đồng quốc tế đang mờ dần. Trong thời đại thiếu an ninh và ổn định, nếu các quốc gia trên thế giới chỉ chú trọng lợi ích trước mắt của mình thì xã hội loài người nhất định sẽ phải tiếp tục trả giá đắt.

(còn tiếp)

Nguồn: Tạp chí Tri thức thế giới (TQ) – số 24/2022

TLTKĐB 3-11/01/2023

Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XVI


Cung cấp thông tin rõ ràng và công khai về các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc. Trong mọi trường hợp Mỹ sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế nhằm vào Trung Quốc, dù là một biện pháp trừng phạt tài chính, hạn chế xuất khẩu hay biện pháp nào khác, thì một quan chức Mỹ phải cung cấp thông tin rõ ràng và công khai về mục tiêu và biện pháp khắc phục cho hành động này. Điều này sẽ đặc biệt quan trọng khi cơ sở pháp lý của biện pháp được gắn trực tiếp với vấn đề chính sách khác, như là Iran hay Triều Tiên, và gián tiếp với Trung Quốc với tư cách bên hỗ trợ.

Tiến hành đánh giá toàn chính phủ về các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc. Chính quyền cần tiến hành đánh giá toàn chính phủ về các biện pháp ép buộc kinh tế liên quan đến Trung Quốc 4 năm một lần để đánh giả tỷ lệ, tính thích đáng về mặt pháp lý, và những hủy bỏ hay thay đổi thích hợp đối với các biện pháp cho phù hợp với chính sách phát triển. Bản đánh giá này cần lưu ý các ảnh hưởng về kinh tế của các biện pháp ép buộc kinh tế và mức độ mà chúng hỗ trợ các mục tiêu chiến lược cốt lõi của Mỹ đối với Trung Quốc.

5/ Báo hiệu và lên kế hoạch hiệu quả cho việc leo thang

Ngoài việc xác định và đưa ra các mục tiêu chính sách rõ ràng liên quan đến các biện pháp ép buộc kinh tế cụ thể, các nhà hoạch định chính sách nên tập trung nhiều hơn vào các chiến lược để báo hiệu các mục tiêu đó cho Trung Quốc và các nước thứ ba. Tương tự, các nhà hoạch định chính sách nói chung nên báo hiệu các trường hợp theo đó Mỹ sẽ xem xét leo thang hoặc giảm leo thang các biện pháp ép buộc kinh tế cụ thể. Việc báo hiệu hiệu quả sẽ khuyến khích Trung Quốc đưa ra những nhượng bộ và kiềm chế các hành động mà sẽ làm gia tăng leo thang của Mỹ, và sẽ giảm khả năng Trung Quốc vô tình kích hoạt vòng xoáy leo thang bằng cách tự leo thang sau việc hiểu sai về các mục tiêu của một biện pháp ép buộc kinh tế cụ thể của Mỹ. Lên kế hoạch cho việc leo thang tiềm năng có nghĩa là đánh giá tỉ mỉ cách thức Trung Quốc có thể phản ứng với một biện pháp ép buộc kinh tế cụ thể của Mỹ, bao gồm cả việc xác định rõ Trung Quốc có hay không trả đũa và/hoặc leo thang để đáp trả và nếu có thì bằng cách nào, và lên kế hoạch cho các hành động phòng thủ chống lại các biện pháp ép buộc kinh tế của Trung Quốc. Việc báo hiệu hiệu quả cũng rất quan trọng để cho phép các đồng minh hiểu chính sách của Mỹ và xây dựng sự hỗ trợ của đồng minh cho các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ.

Phát triển các khái niệm chiến lược về can dự kinh tế với Trung Quốc. Một điều phối viên chính sách kinh tế mới đối với Trung Quốc ở Nhà Trắng nên thành lập một nhóm biệt phái từ các cơ quan chính phủ Mỹ khác nhau để xem xét và phát triển các khái niệm chiến lược liên quan đến ràng buộc kinh tế với Trung Quốc. Nhóm này nên là chuyên gia về cơ sở pháp lý và lịch sử chính sách kinh tế Mỹ liên quan tới Trung Quốc, và cũng nên là chuyên gia về lên kịch bản và mô hình, đề ra chiến lược tác chiến và các hoạt động quản lý khủng hoảng. Nhóm này nên xây dựng một bộ khung cho cạnh tranh kinh tế của Mỹ với Trung Quốc mà sẽ cung cấp các văn kiện vạch kế hoạch dài hạn, trong đó có Chiến lược an ninh quốc gia và Chiến lược quốc phòng, cũng như đặt kế hoạch chiến lược ngắn hạn. Nhóm này cũng nên đưa ra các khuyến nghị về cách thích ứng, trên cơ sở liên tục, các hoạt động phối hợp của Chính phủ Mỹ để liên kết các mục tiêu và báo hiệu cho Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế và cạnh tranh kinh tế.

Phối hợp thông tin về cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc. Điều phối viên chính sách kinh tế đối với Trung Quốc, bên cạnh công việc điều phối chính sách ngắn hạn trong liên ngành, nên phối hợp việc truyền đạt thông tin của các quan chức Chính phủ Mỹ liên quan đến cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc và sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế. Điều này có thể bao gồm tạo ra các đề tài bàn luận chung cho các quan chức Chính phủ Mỹ can dự với các đối tác ngoại giao nước ngoài và khu vực tư nhân. Trên thực tế, điều này sẽ giúp trang bị kiến thức cho nhiều quan chức Chính phủ Mỹ, những người trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc về vấn đề cạnh tranh kinh tế Mỹ – Trung và các công cụ ép buộc kinh tế trong mối quan hệ này. Điều đó cũng làm gia tăng tính nhất quán trong thông tin và một nền văn hóa hợp tác mới quanh việc báo hiệu trong lĩnh vực này.

6/ Củng cố các thể chế của Mỹ có trách nhiệm phát triển và triển khai các biện pháp ép buộc kinh tế

Chính phủ Mỹ cần khẩn trưởng đầu tư nguồn lực đáng kể vào bộ máy chính quyền và năng lực vận hành để kiểm soát và điều phối cạnh tranh kinh tế Mỹ – Trung trong tương lai. Điều này sẽ giúp hỗ trợ chính sách có hiểu biết, mạnh mẽ, đảm bảo tốt hơn sự liên kết chính sách với các mục tiêu, và củng cố văn hóa hợp tác và lên kế hoạch dài hạn được nêu trong các khuyến nghị trước đây. Về hoạt động cụ thể, Mỹ có thể triển khai các hoạt động huấn luyện mới và thiết lập các nguồn lực mới có tác động ngay lập tức và dài hạn.

Thực hiện một loạt bài huấn luyện đàm phán thường xuyên về chiến tranh kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc. Nhà Trắng nên phối hợp với các quan chức Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Ngoại giao, và Bộ Quốc phòng, cùng với USTR, các ủy ban quốc hội và các văn phòng quan trọng, một loạt các bài huấn luyện đàm phán thường xuyên hay các trò chơi chiến tranh tập trung vào các chủ đề về leo thang cạnh tranh kinh tế, hay chiến tranh kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc. Các cơ quan này nên có sự tham gia của các quản lý cấp cao và những viên chức cấp cao được bổ nhiệm vì nhu cầu chính trị trong các phiên này để gia tăng cơ hội học tập nhằm xem xét vấn đề quan trọng này về hiệu quả kinh tế và an ninh quốc gia. Kết quả của những hoạt động này nên được chia sẻ rộng rãi trong Chính phủ Mỹ, phổ biến tới nhiều nhân viên chuyên nghiệp chịu trách nhiệm về việc đưa ra các ý tưởng và các lựa chọn chính sách trong các cơ quan nhà nước và cơ quan pháp lý để sử dụng trong cuộc cạnh tranh chiến lược của Mỹ với Trung Quốc.

Thu thập và chia sẻ dữ liệu về sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc. Bộ Tài chính và Bộ Thương mại phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao và USTR nên thành các nhóm nghiên cứu chuyên biệt để xem xét dữ liệu và các nghiên cứu cụ thể về sự ép buộc và ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc. Những nguồn dữ liệu này nên được chia sẻ với Điều phối viên chính sách kinh tế đối với Trung Quốc tại Nhà Trắng và trong toàn bộ liên ngành. Dữ liệu và phân tích liên quan cũng nên được chia sẻ với Quốc hội Mỹ và các đối tác và đồng minh nước ngoài, nếu phù hợp.

7/ Tiếp tục hiện đại hóa bộ công cụ

3 năm qua, Mỹ đã thực hiện các bước đi quan trọng để hiện đại hóa bộ công cụ các biện pháp ép buộc kinh tế mà có thể được triển khai trong cạnh tranh với Trung Quốc. Những bước đi này bao gồm mở rộng chế độ kiểm soát xuất khẩu của Mỹ, mở rộng đánh giá CFIUS đối với đầu tư nước ngoài ở Mỹ, và bắt đầu giới hạn nhập khẩu các sản phẩm nhất định của Trung Quốc mà đe dọa tới an ninh quốc gia. Tất cả các biện pháp này đều được đưa thêm vào thuế quan mở rộng mà Trump đã áp đặt đối với hơn 360 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc. Mỹ phải tiếp tục hiện đại hóa bộ công cụ ép buộc kinh tế của mình như một phần của cuộc cạnh tranh đang quyết liệt hơn với Trung Quốc, điều chỉnh các công cụ hiện nay và cũng như tạo ra các quyền hạn mới.

Mở rộng các biện pháp hạn chế đối với mục đích sử dụng cuối cụ thể các thành phẩm của Mỹ, cũng như “những người dùng cuối” nhất định. Mỹ nên mở rộng chế độ kiểm soát xuất khẩu để cấm việc bán các sản phẩm của Mỹ cho các mục đích sử dụng cuối mới có lựa chọn ở Trung Quốc mà thách thức lợi ích và giá trị Mỹ, như giám sát toàn bộ người dân và các vi phạm nhân quyền nghiêm trọng ở Trung Quốc. Việc mở rộng như vậy sẽ đòi hỏi sự can dự đáng kể với khu vực tư nhân để giải quyết các thách thức về thực hiện để giảm thiểu chi phí ngoài ý muốn, bao gồm cả đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ của Mỹ. Các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Mỹ hiện được thiết kế chủ yếu để hạn chế việc bán các sản phẩm cụ thể, hoặc cho Trung Quốc với tư cách một quốc gia (ví dụ, hạn chế phần lớn xuất khẩu vũ khí sang Trung Quốc) hoặc cho những “người sử dụng cuối” cụ thể ở Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ cũng có một số hạn chế nhất định đối với “mục đích sử dụng cuối”, ví dụ như các công ty của Mỹ không thể xuất khẩu hàng hóa cho được sử dụng cuối ở Trung Quốc cho mục đích quân sự, ngay cả nếu sản phẩm vốn không dành cho mục đích quân sự và đang được xuất khẩu cho những người dùng cuối dân sự.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020

Thế giới trải qua một năm nhiều biến động – Phần I


Ngày 12/11/2022, Hội thảo tình hình quốc tế 2022 và Diễn đàn Tri thức thế giới 2022 đã được tổ chức tại Nhà xuất bản Tri thức thế giới theo hình thức kết hợp trực tiếp và trực tuyến. Diễn đàn do tạp chí Tri thức thế giới và Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế của Đại học Sơn Đông phối hợp tổ chức, và tạp chí Tri thức thế giới đang cai tổ chức. Tại lễ khai mạc, Chủ tịch Hội đồng quản trị Nhà xuất bản Tri thức thế giới Thôi Xuân và Tham tán Vụ Quy hoạch chính sách Bộ Ngoại giao Lý Dực đã có bài phát biểu chào mừng; Trưởng ban Học tập Viện khoa học xã hội Trung Quốc, Viện trưởng Viện nghiên cứu vấn đề quốc tế Đại học Sơn Đông Trương Uẩn Lĩnh có bài phát biểu chính. Cuộc hội thảo do Phó Tổng biên tập Nhà xuất bản Tri thức Thế giới kiêm Tổng biên tập Tạp chí Tri thức thế giới La Khiết chủ trì.

20 chuyên gia và học giả nổi tiếng đến từ Viện nghiên cứu quốc tế Trung Quốc, Viện khoa học xã hội Trung Quốc, Viện quan hệ quốc tế hiện đại Trung Quốc, Học viện ngoại giao, Đại học Thanh Hoa, Đại học Nhân dân Trung Quốc, Đại học Sơn Đông và Đại học Phúc Đán đã có những phân tích đánh giá về tình hình khu vực, quốc tế và quốc gia cụ thể. Dưới đây là một số bài phân tích chọn lọc của những chuyên gia, học giả trên với nội dung như sau:

1/ Hòa bình và phát triển thế giới đối mặt với thử thách nghiêm trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Lạnh

(Trương Uẩn Lĩnh, Viện trưởng Viện nghiên cứu vấn đề quốc tế, Đại học Sơn Đông, Ủy viên Ban học tập, Viện khoa học xã hội Trung Quốc)

Tình hình quốc tế năm 2022 thực sự nghiêm trọng và một số vấn đề tiếp tục xấu đi. Có thể nói hòa bình thế giới và sự phát triển toàn cầu đang đối mặt với thử thách nghiêm trọng nhất kể từ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.

Khủng hoảng Ukraine có ảnh hưởng sâu rộng đến cải cách trật tự quốc tế

Trương Uẩn Lĩnh cho rằng khủng hoảng Ukraine trên thực tế là phần mở rộng của chấn động hậu Chiến tranh Lạnh. Chiến tranh Lạnh kết thúc thực chất là sự điều chỉnh mang tính chất đảo ngược trật tự quốc tế và cục diện thế giới – tuy đã tạo ra lợi ích cho hòa bình và phát triển trong thời gian dài nhưng nhiều mâu thuẫn chưa được giải quyết căn bản, những rối ren do sự điều chỉnh gây ra cần thời gian dài mới có thể thực sự được giải quyết.

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và Liên Xô tan rã, Nga là quốc gia kế thừa di sản địa chính trị của Liên Xô. Nước này đã có nhiều nỗ lực, ví dụ như thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), sau đó thành lập Liên minh Á-Âu và Tổ chức hiệp ước an ninh tập thể, cố gắng lôi kéo các nước Liên Xô trước đây, duy trì lợi ích và an ninh của mình trong không gian hậu Xô Viết. Tuy nhiên, một số nước Đông Âu và Trung Á liên tục ngả về phương Tây, thậm chí còn gia nhập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Liên minh châu Âu (EU), dẫn đến nhiều mâu thuẫn cũ và mới đan xen lẫn nhau, bao gồm cả mâu thuẫn vấn đề lịch sử để lại, mâu thuẫn dân tộc và cạnh tranh kinh tế. Nga cũng cảm thấy các lợi ích địa chính trị của mình bị chèn ép, dẫn đến va chạm và xung đột thường xuyên ở khu vực Trung Á và biên giới giữa Nga với EU. Viễn cảnh chung sống hòa bình giữa Nga với EU và NATO dần tan vỡ.

Các mặt liên quan đến cuộc khủng hoảng Ukraine thậm chí còn lớn hơn. Nga đã lựa chọn các biện pháp quân sự để giải quyết những mối quan ngại an ninh của mình, trực tiếp xung đột với giới hạn đỏ về lợi ích của Mỹ, NATO và EU. Nga bị trừng phạt toàn diện, hình thành thế đối đầu trận tuyến trên quy mô lớn. Mỹ và phương Tây đã lôi kéo hàng chục quốc gia để thành lập một nhóm viện trợ cho Ukraine. Mặc dù không trực tiếp tham chiến, nhưng họ được coi là các bên tham gia không chính thức vì trang bị vũ khí của họ và các chuyên gia trên thực tế đã đi sâu can dự. Trận tuyến quy mô lớn như vậy là điều chưa từng có kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi thế trận này hình thành, cục diện chiến trường không diễn biến như dự kiến của Nga. Các bên sẽ làm gì tiếp theo và cục diện châu Âu sẽ thay đổi như thế nào là điều đáng được quan tâm nhất.

Trong cuộc khủng hoảng này, Trung Quốc cần phát huy vai trò gì? Lập trường nhất quán của Trung Quốc rất rõ ràng, ủng hộ tất cả nỗ lực có lợi cho việc thiết lập cơ chế an ninh châu Âu cân bằng, hiệu quả và bền vững. Châu Âu phải tạo ra môi trường lớn cho sự chung sống hòa bình và an ninh chung mà tất cả các bên có thể chấp nhận và không bên nào phải tìm kiếm an ninh tuyệt đối. Việc làm thế nào để thúc đẩy thành lập cơ chế an ninh như vậy là vấn đề đáng được thảo luận thêm. Xét ở mặt nào đó, khủng hoảng Ukraine có thể là cơ hội để thực hiện thỏa thuận như vậy. Tiến trình lịch sử này không thể thiếu lợi ích và ảnh hưởng của Trung Quốc. Cần phải bắt đầu nghiên cứu cách thức thực hiện chủ trương, có triển vọng trong tiến trình hình thành cơ chế an ninh châu Âu và không gian để các bên làm việc vẫn còn.

Kinh tế thế giới suy thoái phản ánh vấn đề sâu xa trong quản trị toàn cầu

Hai nhân tố lớn đan xen là đại dịch COVID-19 và xung đột địa chính trị khiến quỹ đạo phát triển kinh tế thế giới có sự thay đổi lớn. Hệ thống trao đổi qua lại từng thông suốt trước đây bị tắc nghẽn: dòng chảy hàng hóa, dịch vụ và tài chính bị hạn chế rất nhiều, tác động lớn đến nền kinh tế thế giới với nhân tố cơ bản là mở cửa, phụ thuộc lẫn nhau, phân công lao động quốc tế, chuỗi cung ứng…, dẫn đến giá năng lượng và lương thực tăng lên, nợ cao, tốc độ tăng trưởng toàn cầu chậm lại rõ rệt.

Vấn đề sâu xa phản ánh sự biến động của kinh tế thế giới là quá trình điều chỉnh toàn cầu sau cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế 2008 vẫn đang diễn ra và cơ chế quản lý hợp tác được dự báo ngày càng bộc lộ sự bất lực. Trước năm 2008, toàn cầu hóa kinh tế về cơ bản do chủ nghĩa tự do mới thúc đẩy – tuy phát triển với tốc độ cao nhưng cũng tích tụ hàng loạt vấn đề nghiêm trọng. Do đó, sau này đã xuất hiện sự “điều chỉnh đảo ngược”; chủ nghĩa bảo thủ, chủ nghĩa bảo hộ và tư tưởng chống toàn cầu hóa liên tục xuất hiện; nhà đầu tư ngày càng trở nên kém lạc quan và khó lường trước những dự báo tương lai. Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế bùng nổ, Nhóm các nền kinh tế lớn (G20) được thành lập, lần đầu tập hợp các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế đang phát triển, cố gắng hình thành cơ chế phối hợp quản lý kinh tế thế giới. Mặc dù G20 giành được một số thành quả, nhưng theo thời gian, những bất đồng không ngừng gia tăng và những hành động đồng thuận ngày càng giảm. Thực tiễn đã chứng minh, nếu chỉ dựa vào G20 để giải quyết vấn đề phát triển mất cân bằng thì khó thực hiện mục tiêu vì năng lực hợp tác ứng phó với khủng hoảng của cộng đồng quốc tế còn khá yếu, chức năng điều chỉnh và cải cách chưa được phát huy, cần hợp tác mạnh mẽ hơn nữa. Những vấn đề kinh tế thế giới hiện nay không phải do quy luật chu kỳ truyền thống gây ra, mà phản ánh những mâu thuẫn tổng hợp mang tính cơ cấu của sự phát triển.

Xét từ góc độ quy luật lịch sử, tăng trưởng kinh tế thế giới cứ sau 20 – 30 năm sẽ trải qua một lần điều chỉnh lớn – hiện đang ở điểm cuối của đợt điều chỉnh lớn. Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, trên cơ sở những nước phát triển phương Tây chiếm địa vị chủ đạo trong nền kinh tế thế giới, Nhóm các nền công nghiệp phát triển (G7) đã đóng vai trò to lớn trong việc phối hợp, dẫn dắt sự phát triển của kinh tế thế giới. Cùng với việc động lực chính của tăng trưởng kinh tế thế giới chuyển sang nhóm các nước đang phát triển, việc chỉ dựa vào G7 là không hiệu quả. Sau khi G20 được thành lập, việc quản trị kinh tế thế giới bước sang giai đoạn mới và vai trò của các nước đang phát triển tăng lên. Tuy nhiên, với sự quay trở lại của cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, Mỹ đã chuyển từ “Nước Mỹ trước tiên” sang cạnh tranh chiến lược toàn diện với Trung Quốc, chính trị hóa và chiến lược hóa vấn đề kinh tế, xuất hiện tổ hợp “vòng tròn bạn bè” mang tính bài ngoại, làm suy yếu năng lực cùng quản trị hợp tác toàn cầu. Đặc biệt là thế giới đang phải đối mặt với thách thức nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, liên quan đến vấn đề thay đổi căn bản mô hình phát triển truyền thống, cục diện này khiến cho việc điều chỉnh phát triển kinh tế thế giới trở nên phức tạp và khó khăn hơn.

Trong bối cảnh đó, kinh tế thế giới có thể bước vào thời kỳ tăng trưởng chậm trong một thời gian tương đối dài, đồng thời đi cùng với những hiện tượng như xung đột địa chính trị gay gắt, cạnh tranh chiến lược quyết liệt giữa các nước lớn, vấn đề xuyên quốc gia nổi cộm… Sự phát triển của Trung Quốc cũng ở một giai đoạn mới; về cơ cấu, cần có những điều chỉnh lớn, phần lớn dựa vào nhu cầu trong nước và đổi mới công nghệ. Xét từ môi trường quốc tế, Trung Quốc cần môi trường tổng hợp mở cửa, hợp tác, ổn định và hòa bình, do đó cần đi sâu cải cách, tăng cường mở cửa, đồng thời nỗ lực hơn trong việc thiết lập môi trường phát triển tốt đẹp.

Tình hình càng phức tạp, Trung Quốc càng phải nắm được xu thế lớn – một trong những công việc quan trọng nhất là bảo vệ hòa bình. Hòa bình và phát triển vẫn là hai chủ đề lớn của thế giới, đều đang đứng trước thách thức nghiêm trọng. Vấn đề hàng đầu của nhân loại trong thế kỷ 21 là vấn đề hòa bình, không có hòa bình sẽ không có phát triển. Đối đầu, xung đột và chiến tranh không thể giải quyết vấn đề mà chỉ làm trầm trọng thêm khủng hoảng và gây ra thảm họa. Trong thời kỳ có nhiều thay đổi lớn, Trung Quốc cần thực sự phát huy vai trò nước lớn kiểu mới, làm được nhiều việc lớn hơn trong giảm xung đột và ngăn chặn chiến tranh, là quốc gia kiến tạo hòa bình thế giới.

(còn tiếp)

Nguồn: Tạp chí Tri thức thế giới (TQ) – số 24/2022

TLTKĐB 3-11/01/2023

Đằng sau chủ trương của Nhật Bản mở rộng ODA cho các nước chung chí hướng


Theo tờ Nikkei Asia, Nhật Bản đang xem xét mở rộng chương trình viện trợ phát triển cho các nước đang phát triển để tài trợ cho các dự án như cơ sở quân sự và hệ thống radar ven biển. Nếu kế hoạch này được triển khai, nó sẽ đánh dấu sự thay đổi lớn so với cách tiếp cận phi quân sự trước đây của Tokyo. Điều này diễn ra trong bối cảnh Nhật Bản đang tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc.

Hiện nay, chương trình viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản chỉ giới hạn tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng dân sự, chứ không tài trợ cho bất kỳ dự án nào có liên quan đến quân sự. Điều này đã tạo ra cơ hội cho Trung Quốc cung cấp viện trợ quân sự cho các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á và một số khu vực khác đang cần các cơ sở quân sự hiện đại thông qua Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI), qua đó giúp mở rộng ảnh hưởng của Bắc Kinh.

Trong bối cảnh đó, Nhật Bản dự định sẽ xây dựng một hạng mục hỗ trợ an ninh mới nhằm mở rộng các phương án ngoại giao trong bối cảnh môi trường an ninh ngày càng thách thức. Sự thay đổi này diễn ra khi Nhật Bản thực hiện sự thay đổi chính sách lớn hơn, bao gồm tăng chi tiêu quốc phòng và nới lỏng các hạn chế về xuất khẩu vũ khí. Bên cạnh đó, sự thay đổi này cũng phù hợp với Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) mà Nhật Bản mới sửa đổi gần đây, trong đó nhấn mạnh sử dụng ngoại giao để “ngăn chặn khủng hoảng” và “tạo môi trường quốc tế ổn định”.

Danh mục viên trợ phát triển mới sẽ dành cho quân đội của các quốc gia mà Tokyo coi là thân thiện và quan hệ hợp tác với quốc gia đó được coi là có ý nghĩa đối với an ninh của Nhật Bản. Các dự án tiềm năng bao gồm: xây dựng và bảo trì các bệnh viện quân sự hoặc các sân bay và cảng biển quân sự-dân sự.

Trong dự toán ngân sách của năm tài khóa 2023, Chính phủ Nhật Bản đã phân bổ 2 tỷ Yen (khoảng 15 triệu USD) cho mục đích này. Dự án đầu tiên sẽ được thực hiện năm 2023, và số tiền viện trợ dự kiến sẽ tăng lên trong vài năm tới.

Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng có ý định cung cấp các thiết bị đóng góp cho hòa bình và an ninh dựa trên luật lệ. Các thiết bị này sẽ bao gồm các radar và hệ thống phân tích dữ liệu để giúp các quốc gia giám sát lãnh hải và không phận, cũng như các phương tiện bọc thép phục vụ cho các hoạt động chống khủng bố. Nhật Bản cũng sẽ cho phép bán thiết bị này để phục vụ cho các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và các hoạt động nhân đạo như cứu trợ thiên tai.

Phía tiếp nhận sẽ phải thực hiện các biện pháp để đảm bảo thiết bị này không được sử dụng trong các cuộc xung đột quốc tế hoặc ngoài mục đích đã nêu. Bất kỳ việc chuyển nhượng thiết bị nào cho nước thứ ba đều cần được sự chấp thuận của Nhật Bản.

Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản cũng có kế hoạch tăng cường hỗ trợ phát triển phi quân sự. Trong 6 tháng đầu năm nay, Bộ Ngoại giao Nhật Bản dự kiến sẽ sửa đổi văn bản hướng dẫn cấp vốn ODA, trong đó kêu gọi tăng vốn ODA lên tương đương 0,7% tổng thu nhập quốc dân (GNI).

Ngoài việc mở rộng chương trình ODA, Nhật Bản òn có kế hoạch nới lỏng các hạn chế về xuất khẩu vũ khí sau các cuộc bầu cử địa phương vào tháng 4/2023. Việc triển khai đồng thời 2 biện pháp này có thể mở ra nhiều phương án để cung cấp hỗ trợ quốc phòng cho các nền kinh tế mới nổi.

Còn theo hãng Jiji Press, Bộ Ngoại giao Nhật Bản dự định sẽ đề nghị Chính phủ phân bổ 2 tỷ Yen (khoảng 15 triệu USD) trong dự thảo ngân sách của tài khóa 2023 để giúp các quốc gia có chung chí hướng tăng cường an ninh quốc gia. Số tiền này sẽ được sử dụng để cung cấp trang thiết bị, vật tư và hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng liên quan tới quân sự của các quốc gia tiếp nhận.

Nguồn: TKNB – 06/01/2023

Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XV


2/ Cải thiện các đánh giá về các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ và các điểm dễ bị tổn thương của Mỹ trước sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc

Chính phủ Mỹ vẫn chưa nghiên cứu một cách hệ thống các điểm dễ bị tổn thương của Mỹ trước sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc hay phân tích chặt chẽ những tác động và phí tổn của các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc. Với khả năng Trung Quốc sẽ khai thác các điểm dễ bị tổn thương và khả năng các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ có những khoản phí tổn phát sinh và những hậu quả khó lường, Mỹ sẽ cần một quy trình rõ ràng và chặt chẽ hơn để đánh giá sự ép buộc kinh tế trong quan hệ Mỹ-Trung.

Tạo một quy trình liên ngành để đảm bảo các chuỗi cung ứng quan trọng. Nhà Trắng nên đứng đầu một quy trình liên ngành, bao gồm Tài chính, Thương mại, Ngoại giao, Quốc phòng, Năng lượng, An ninh nội địa và Cộng đồng tình báo, để xác định một cách hệ thống những rủi ro mà Trung Quốc gây ra cho chuỗi cung ứng của Mỹ. Các nỗ lực hiện tại nhằm hạn chế hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc để đảm bảo các chuỗi cung ứng là thất thường và tập trung vào các vấn đề riêng lẻ mà thu hút sự chú ý của công chúng, như giao thông công cộng. Mỹ cần xem xét toàn diện những công nghệ và hàng hóa mà cơ sở hạ tầng dân sự của Mỹ dựa vào rất nhiều hay độc quyền từ Trung Quốc trong bối cảnh có rủi ro an ninh quốc gia, và hành động để đảm bảo các chuỗi cung ứng này, và Bộ Quốc phòng cũng cần nghiên cứu một cách hệ thống các chuỗi cung ứng quốc phòng để xác định các điểm dễ bị tổn thương tiềm tàng.

Thành lập một văn phòng trong Bộ Thương mại để tiến hành phân tích một cách hệ thống các biện pháp ép buộc kinh tế. Quốc hội nên chuẩn chi và phê chuẩn ngân sách cho việc thành lập một phòng phân tích trong Bộ Thương mại, thông qua hợp tác chặt chẽ với các đối tác ở các cơ quan khác, để phân tích kinh tế một cách hệ thống và chặt chẽ về các phí tổn của các biện pháp ép buộc kinh tế, bao gồm các biện pháp trừng phạt, kiểm soát thương mại và một số hạn chế đầu tư. Văn phòng này nên đánh giá chi phí đối với các công ty Mỹ và hiệu quả kinh tế chung, và nên tìm kiếm sự tham vấn chính  thức từ Bộ Ngoại giao, cộng động tình báo và các cơ quan khác, nếu thấy phù hợp. Văn phòng này nên đưa ra các phân tích ngắn và dài hạn mà được chuyển cho các nhà lãnh đạo an ninh quốc gia trong Chính phủ Mỹ và cho các ủy ban tư pháp trong Quốc hội.

Thành lập một cơ quan tư vấn bên ngoài về các tác động thương mại của các biện pháp ép buộc kinh tế. Bộ Tài chính Mỹ, Văn phòng đại diện thương mại Mỹ (USTR) và Bộ Thương mại nên cùng thiết lập một cơ quan tư vấn bên ngoài để thu thập phản hồi và đánh giá các tác động kinh tế và thương mại của các biện pháp ép buộc kinh tế đối với các công ty và kinh tế Mỹ. Thành viên của các cơ quan này phải được lựa chọn từ một bộ phận tiêu biểu rộng rãi các ngành công nghiệp Mỹ và được bổ nhiệm tạm thời, có thể gia hạn. Một ban chỉ đạo các thành viên nên hỗ trợ việc thành lập và giám sát nghiên cứu bởi nhóm cố vấn, mà nên được chia sẻ trong toàn chính phủ Mỹ và với các ủy ban tư pháp của Quốc hội nếu thấy phù hợp.

3/ Duy trì đòn bẩy dài hạn

Trung Quốc đã phản ứng với các biện pháp ép buộc kinh tế đang gia tăng của Mỹ bằng việc mở rộng các nỗ lực tự bảo vệ mình khỏi đòn bẩy kinh tế của Mỹ. Thí dụ, phản ứng với các hạn chế xuất khẩu của Mỹ trong 2 năm qua đối với ZTE và Huawei, Trung Quốc đã thúc đẩy nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào chất bán dẫn của Mỹ và các nhà cung cấp IT khác. Với quy mô và phạm vi kinh tế toàn cầu của Trung Quốc, Mỹ không thể đơn giản cô lập Trung Quốc khỏi nền kinh tế toàn cầu. Mỹ sẽ lãng phí thời gian và nguồn lực vòa việc vô ích này và làm xói mòn sự tập trung chiến lược hơn vào việc hạn chế các hành động của Trung Quốc trong các lĩnh vực cốt lõi hẹp và hỗ trợ các đấu trường kinh tế hoặc công nghệ, nơi Mỹ duy trì đòn bẩy lâu dài. Như một nguyên tắc chính sách, Mỹ nên tìm cách duy trì đòn bẩy kinh tế đối với Trung Quốc trong dài hạn để có thể thúc đẩy lợi ích quốc gia cốt lõi của Mỹ nói chung, và để sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế để thực hiện một cách cụ thể. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ nên cân bằng các lợi ích ngắn hạn của các biện pháp ép buộc kinh tế ngay lập tức với nguy cơ rằng chúng sẽ giảm bớt đòn bẩy của Mỹ đối với Trung Quốc trong dài hạn, trong khi đó cũng thực hiện các bước khẳng định để gia tăng đòn bẩy của Mỹ đối với Trung Quốc.

Thúc đẩy quyền tiếp cận thị trường lớn hơn cho các công ty của Mỹ trong thỏa thuận thương mại giai đoạn 2. Trong quá trình đàm phán song phương, bao gồm cả thỏa thuận thương mại giai đoạn 2 và trong các cuộc thảo luận bên ngoài lộ trình này, Bộ Tài chính và Bộ Thương mại Mỹ cũng như USTR nên thúc đẩy các đối tác Trung Quốc cho phép các công ty Mỹ có quyền tiếp cận thị trường lớn hơn, đặc biệt là các công ty tài chính. Mỹ nên làm việc với các nước cùng chí hướng để thiết lập các tiêu chuẩn cao cho các dịch vụ tài chính mà theo đó các công ty dịch vụ tài chính Trung Quốc sẽ phải tuân theo. Mỹ cũng nên làm việc cùng với các nước mà Trung Quốc đang nhắm tới để triển khai, các ứng dụng thanh toán trong nước và nước ngoài, trong đó có cả kiều hối, để ủng hộ cạnh tranh, minh bạch, ổn định và liêm chính trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Điều này có thể sẽ giúp, cả trực tiếp và gián tiếp, duy trì đòn bẩy tài chính của Mỹ đối với Trung Quốc trong dài hạn hơn.

Nâng cao và tăng cường các cuộc điều tra và hành động thực thi pháp luật. Bên cạnh việc thúc đẩy các cuộc điều tra mới và quan trọng trong lĩnh vực công nghệ của Mỹ, các quan chức tại Bộ Tư pháp Mỹ nên tìm cách giúp duy trì và mở rộng vị thế thống trị của Mỹ ở nhiều đấu trường công nghệ bằng việc nâng cao và tăng cường các cuộc điều tra và hoạt động thực thi pháp luật để trấn áp hành vi trộm cắp và tài sản trí tuệ và gián điệp thương mại của Trung Quốc. Nơi mối đe dọa cụ thể tồn tại trong một ngành công nghiệp nhạy cảm hoặc liên quan tới một công nghệ cụ thể, các quan chức Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao và Thương mại có thể xem xét các hạn chế về visa đặc biệt, hay các yêu cầu nâng cao đối với việc thẩm định chuyên sâu, hay các biện pháp hạn chế, liên quan tới thương mại, xuất khẩu, hay tái xuất khẩu, đối với các công ty Trung Quốc mà có thể liên kết với trộm cắp hoặc gián điệp.

4/ Nhận dạng và truyền đạt các mục tiêu rõ ràng

Tương tự như việc Mỹ chưa bao giờ thực hiện các hoạt động quân sự nhằm trực tiếp vào Trung Quốc mà không có mục tiêu rõ ràng, Mỹ không nên thực hiện các biện phép ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc mà không có các mục tiêu chính sách rõ ràng nào. Tuy nhiên, trong các trường hợp chính sách gần đây, điều này thường xuyên xảy ra. Do vậy, trong hai năm qua, sự thiếu rõ ràng trong các mục tiêu của các biện pháp ép buộc kinh tế đặc biệt, thì Trung Quốc ít có động cơ hơn đưa ra những nhượng bộ để được giảm các biện pháp ép buộc và một động cơ lớn hơn tương đối để tìm cách tránh né chúng. Thiếu rõ ràng trong các mục tiêu cũng làm tăng khả năng Trung Quốc leo thang. Nếu Trung Quốc coi một biện pháp ép buộc kinh tế nào đó của Mỹ là hung hăng, thì Trung Quốc nhiều khả năng hơn tìm cách trả đũa bằng leo thang thay vì tìm cách giải quyết bằng thương lượng. Thiếu các mục tiêu rõ ràng, và những thách thức trong việc truyền đạt thông tin về các mục tiêu, cũng đã ảnh hưởng tới nhận thức và chính sách của các nước thứ ba đối với Mỹ. Trong khi các nước Đông Nam Á hưởng lợi chủ yếu từ các tác động của cuộc cạnh tranh thương mại Mỹ-Trung, thì nhận thức về triển vọng của Mỹ lại giảm trong 2 năm qua.

Cung cấp một phát biểu chính sách công chính thức về cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc. Một quan chức cấp cao Chính phủ Mỹ – nhân viên Nhà Trắng hay một thư ký nội các – nên có một phát biểu chính sách công, chính thức về cạnh tranh kinh tế và quan hệ song phương với Trung Quốc và đưa ra một chỉ thị chính sách tổng thống chính thức về cạnh tranh kinh tế Mỹ-Trung đặt ra cơ sở hợp lý về chính sách và các mục tiêu mà sẽ chỉ dẫn Mỹ trong việc sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế. Cách giải quyết này cần làm rõ rằng Mỹ sẽ sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế để đạt được các mục tiêu chính sách và sẽ sửa đổi hay loại bỏ các biện pháp nếu Trung Quốc điều chỉnh chính sách của nước này để phù hợp với tiêu chuẩn rõ ràng. Chính quyền có thể và nên cập nhật lập trường chính sách này với các bài phát biểu hằng năm hoặc nửa năm một lần để phù hợp với môi trường kinh tế năng động và mối quan hệ song phương.

Bổ nhiệm một điều phối viên chính sách kinh tế đối với các vấn đề Trung Quốc tại Nhà Trắng. Nhà Trắng nên đặt ra một Điều phối viên chính sách kinh tế đối với các vấn đề Trung Quốc để giám sát các chính sách kinh tế khác nhau áp dụng cho Trung Quốc, cho dù là các biện pháp ép buộc hay các biện pháp nhằm hỗ trợ tăng trưởng, phát triển và cùng can dự kinh tế. Điều phối viên này nên giám sát một quá trình liên ngành để đánh giá và giảm mức độ gây xung đột của các sáng kiến kinh tế liên quan tới Trung Quốc.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020

Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XIV


Các điểm dễ bị tổn thương chính của Trung Quốc trước Mỹ

Việc đẩy mạnh các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ trong 2 năm qua đã làm nổi bật một số điểm dễ bị tổn thương của Trung Quốc, trong đó bao gồm chuỗi cung ứng công nghệ cao. Công ty Fujian Jinhua Integrated Circuit nằm trong Danh sách đen của Mỹ vốn phụ thuộc vào thiết bị sản xuất vi mạch của Mỹ và đồng minh, dường như tạm ngừng phần lớn các hoạt động của công ty. Nhưng như việc Huawei nằm trong Danh sách đen của Mỹ cho thấy, các công ty lớn Trung Quốc đang thích nghi để giảm thiểu các điểm dễ bị tổn thương trong chuỗi cung ứng của họ. Trung Quốc vẫn tương đối phụ thuộc vào Mỹ nói chung như một thị trường xuất khẩu, mặc dù số lượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc đến Mỹ trong lượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc trên toàn cầu giảm trong vài năm qua.

Nhiều công ty Trung Quốc, đặc biệt là các công ty đa quốc gia, vẫn phụ thuộc vào quyền tiếp cận hệ thống tài chính của Mỹ vì thực tế rằng nhiều hàng xuất khẩu của họ được định giá bằng USD. Tương tự, nhiều ngân hàng lớn của Trung Quốc vẫn phụ thuộc vào quyền tiếp cận hệ thống tài chính toàn cầu để phục vụ khách hàng Trung Quốc ở nhiều quốc gia và tham gia các giao dịch xuyên biên giới. Các nhà đầu tư Trung Quốc cũng phụ thuộc vào khả năng huy động vốn thông qua niêm yếu và giao dịch tại thị trường Mỹ. Tuy nhiên, sẽ có chi phí phát sinh đáng kể đối với thị trường toàn cầu nếu các quan chức Mỹ đưa một ngân hàng hoặc một công ty Trung Quốc lớn và có liên kết toàn cầu vào danh sách trừng phạt của Mỹ, hay nói cách khác là cấm các nhà đầu tư Trung Quốc tham gia các thị trường vốn của Mỹ.

Liên quan tới chính sách công, và để phục vụ an ninh quốc gia Mỹ, những gì các nhà hoạch định chính sách Mỹ hiện cần đến là một bộ nguyên tắc về cách thức áp dụng các biện pháp ép buộc kinh tế trong cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung rộng lớn hơn. Họ cũng cần sự hướng dẫn để hiểu Mỹ và các nước đồng minh dễ tổn thương thế nào trước sự ép buộc kinh tế Trung Quốc trong các hoàn cảnh khác nhau, và các điểm chuẩn để hiểu việc thực thi và tác động của các biện pháp ép buộc kinh tế trong mối quan hệ song phương. Về vấn đề thực hiện, Chính phủ Mỹ cũng cần tổ chức các hoạt động nội bộ để chia sẻ thông tin, lên kế hoạch kịch bản và báo hiệu rõ ràng cho Trung Quốc và các nước khác. Ngoài ra cần phải thiết lập hoặc điều chỉnh các cấu trúc liên minh quốc tế để thích nghi tốt hơn hoạt động hợp tác giữa Mỹ và các đối tác nước ngoài khi nói đến việc sử dụng hoặc phòng thủ chống lại sự ép buộc kinh tế. Mặc dù sự phát triển toàn diện của các khái niệm chiến lược và hướng dẫn như vậy nằm ngoài phạm vi của bản báo cáo này, nhưng các nguyên tắc và khuyến nghị sơ bộ đã được nêu ở dưới đây.

VI/ Các khuyến nghị chính sách

Những luận điểm chính

+ Các khoản đầu tư mạnh trong nước của Mỹ là cần thiết để duy trì lợi thế cạnh tranh của Mỹ so với Trung Quốc. Hơn nữa, các biện pháp ép buộc kinh tế là một phần chủ chốt của bộ công cụ của Mỹ để cạnh tranh với Trung Quốc.

+ Mỹ cần một cách tiếp cận có hệ thống hơn để triển khai các biện pháp ép buộc kinh tế chống lại Trung Quốc mà được dẫn dắt bởi những đánh giá tốt hơn về những điểm dễ bị tổn thương của Mỹ và về những tác động, có một sự tập trung rõ ràng và báo hiệu hiệu quả hơn, tích hợp tốt hơn các biện pháp ép buộc kinh tế khác nhau, và liên tục cập nhật bộ công cụ.

+ Mỹ cần tập trung nhiều hơn vào việc đảm bảo sự hỗ trợ của các đồng minh cho các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc.

* * *

Trong cuộc cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc, và khi các biện pháp ép buộc kinh tế trở nên ngày càng quan trọng trong mối quan hệ Mỹ-Trung, thì các nhà hoạch định chính sách trong cơ quan hành pháp và trong Quốc hội Mỹ cần một bộ nguyên tắc rõ ràng để sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc.

Tuân thủ một bộ nguyên tắc sẽ tối đa hóa lợi thế mà các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc sẽ đạt được các mục tiêu chính sách được dự định trong khi giảm thiểu các phí tổn phát sinh không mong muốn. Phần này phác thảo một loạt các nguyên tắc chủ chốt và các khuyến nghị chính sách có liên quan. Một vài trong số đó sẽ giúp Mỹ hiểu hơn về các công cụ ép buộc kinh tế của mình khi cân nhắc việc áp dụng chúng với Trung Quốc, và để tổ chức hệ thống hóa cách sử dụng. Các nguyên tắc và các khuyến nghị chínhs ách khác sẽ hữu ích cho Mỹ, các đồng minh và các đối tác, gia tăng khả năng chống đỡ trước sự ép buộc kinh tế từ Trung Quốc ở cấp độ quốc gia và địa phương.

Những khuyến nghị để tăng cường sự cạnh tranh của Mỹ và cải thiện cách tiếp cận chính sách đối với sự ép buộc kinh tế

Chính phủ và Quốc hội Mỹ trước hết phải nỗ lực tăng cường sự cạnh tranh của Mỹ, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và công nghệ, để cạnh tranh hiệu quả hơn với Trung Quốc và sử dụng sự ép buộc kinh tế trong bối cảnh cạnh tranh này. Mỹ phải tập trung mạnh mẽ vào việc phát triển và duy trì một nền kinh tế hùng mạnh mà có thể bảo vệ và tận dụng được việc sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế. Việc để cho động cơ kinh tế này không hoạt động hay ngừng lại sẽ làm suy yếu mức độ mà Mỹ có thể sử dụng sự ép buộc kinh tế và khiến nước này dễ bị tổn thương hơn trước sự ép buộc kinh tế do các nước khác thực hiện. Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách Mỹ phải cải thiện việc thực thi chính sách và thông điệp để truyền tải các hình thức rõ ràng và hiệu quả của sự ép buộc kinh tế trong quan hệ song phương.

1/ Đầu tư vào việc duy trì lợi thế cạnh tranh của Mỹ

Các biện pháp ép buộc kinh tế có thể hạn chế Trung Quốc tiếp cận các công nghệ cụ thể của Mỹ và giảm sự phụ thuộc của Mỹ vào các chuỗi cung ứng của Trung Quốc trong các công nghệ chủ chốt, như thiết bị mạng viễn thông điện thoại di động, mà Trung Quốc có thể khai thác để ăn cắp thông tin. Nhưng trong một kỷ nguyên cạnh tranh nước lớn với một nền kinh tế gần như ngang nhau, Mỹ phải đầu tư vào việc duy trì lợi thế cạnh tranh và không thể chỉ đơn giản tập trung vào việc giới hạn khả năng của Trung Quốc trong việc mua hay đánh cắp công nghệ từ Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Trung Quốc đang cạnh tranh với Mỹ về các công nghệ như viễn thông và trí tuệ nhân tạo và sẽ vượt qua Mỹ ở những lĩnh vực này trong trung và dài hạn nếu Mỹ không đầu tư vào việc duy trì khả năng cạnh tranh của mình. Mặc dù việc chi tiêu liên bang cho nghiên cứu và phát triển (R&D) như một phần của nền kinh tế gần đây đã được gia tăng chút ít sau khi bị giảm dần giữa những năm đầu những năm 2000 và năm 2016, nhánh hành pháp trong những năm gần đây đã đề xuất cắt giảm chi tiêu R&D, với việc Quốc hội cuối cùng đưa ra sự gia tăng khiêm tốn.

Tăng chi tiêu R&D liên bang. Nhánh hành pháp nên tăng khoản chi tiêu liên bang cho R&D lên tới 1,2% GDP, phù hợp với các mức chi tiêu trong những năm 70 của thế kỷ 20, để duy trì lợi thế cạnh tranh của Mỹ đối với Trung Quốc trong dài hạn. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ cũng nên tìm cách tận dụng và khuyến khích đầu tư tư nhân để mở rộng công nghệ đổi mới ở Mỹ, một lợi thế quan trọng khác của Mỹ trong cuộc cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc.

Đầu tư vào giáo dục lực lượng lao động tương lai của Mỹ. Nhánh hành pháp nên triển khai một sáng kiến đào tạo giáo dục và huấn luyện kỹ năng mới và quan trọng để hỗ trợ phát triển lực lượng lao động Mỹ trong tương lai. Điều này phải bao gồm đầu tư vào giáo dục STEM ở mọi cấp độ. Hội đồng Khoa học và công nghệ quốc gia nên làm việc với Quốc hội để phát triển một kế hoạch thực hiện những khuyến nghị trong bản báo cáo của mình, “Vạch ra một tiến trình tới thành công: Chiến lược của Mỹ về giáo dục STEM”. Ngoài ra, đối với các chương trình như Học bổng Boren cho sinh viên và người đi làm, Học bổng Khoa học và kỹ thuật quốc phòng cho người đi làm, Chương trình học bổng ngôn ngữ quan trọng, và Chương trình nghiên cứu ngôn ngữ và khu vực nước ngoài, các cơ quan tài trợ nên thăm dò các lựa chọn như đem lại quy chế ưu tiên cho ngành dân chính mà sử dụng lao động thời vụ là các cựu chiến binh trong chương trình này, chủ động nhận những người từng tham gia chương trình vào làm cố vấn chính phủ và cấp cho những người hoàn thành những chương trình này quyền miễn trừ an ninh. Chính phủ Mỹ cũng nên trang bị tốt hơn cho các nhà quản lý tuyển dụng trong chính phủ để hiểu cách thức tuyển dụng những ứng cử viên đã hoàn thành các chương trình này.

Điều chỉnh chính sách nhập cư hiện có. Chính quyền cũng nên điều chỉnh cho thích ứng chính sách nhập cư để cho phép nhiều hơn các cá nhân có kỹ năng cao được nhập cư và đưa sinh viên có triển vọng hơn tiếp tục học ở nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ bằng việc loại bỏ mức trần cấp visa H-1B. Kể từ năm 2005, visa H-1B đã bị giới hạn ở mức 85.000 người mỗi năm, không tương xứng với 199.000 người nộp đơn xin visa trong năm 2018. Tương tự, chính quyền không nên bỏ chương trình thực tập không bắt buộc (OPT), mà cho phép sinh viên STEM nhận visa F-1 để làm việc đến 3 năm sau khi tốt nghiệp ở Mỹ.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020