Công nghiệp quốc phòng – công cụ xây dựng quyền lực và quan hệ địa chính trị của Ấn Độ – Phần cuối


Israel

Israel là tác nhân mới trong cuộc chạy đua vũ trang của Ấn Độ. Sự hội tụ các yếu tố khiến Ấn Độ trở nên hấp dẫn đối với Isreal, điều này giải thích cho các hợp đồng mà các công ty Israel thực hiện với Bộ Quốc phòng Ấn Độ. Ngày 2/6/2022, trong chuyến thăm New Delhi của Bộ trưởng Quốc phòng Israel Benjamin Gantz, hai nước đã ký kết Tầm nhìn Hợp tác quốc phòng Ấn Độ – Israel. Trong lịch sử, Ấn Độ và Israel cùng đấu tranh chống Đế quốc Anh và hiện đều đối mặt với những mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo. Bên cạnh đó, hai nước còn có chung những giá trị dân chủ ở châu Á. Đại sứ Israel tại Ấn Độ Ron Malka từng phát biểu: “Nhìn về phía Đông của Israel, Ấn Độ là quốc gia dân chủ đầu tiên và duy nhất. Tương tự, quốc gia dân chủ nhất mà Ấn Độ tìm thấy ở phía Tây của họ là Israel. Bên cạnh những nền văn minh giàu có và lâu đời, hai nước cũng phải đối mặt với những thách thức và mối đe dọa như nhau, điều này khiến Ấn Độ và Israel trở thành những đồng minh tự nhiên, chứ không chỉ là những đối tác chiến lược. Israel nhỏ hơn 150 lần so với Ấn Độ nhưng quy mô hợp tác giữa hai nước là rất lớn”. Tiếp đó, ông liệt kê những yếu tố thúc đẩy Ấn Độ trở thành đồng minh đặc biệt của Israel: lực lượng lao động dồi dào, gồm cả lành nghề và không lành nghề, khả năng của Ấn Độ trong việc tháo gỡ hoặc giảm thiểu xung đột với các quốc gia láng giềng, cùng chung cuộc chiến chống khủng bố, cùng tìm cách bảo vệ biên giới bằng những bức tường hay chướng ngại vật không thể vượt qua, cùng nghiên cứu trong những lĩnh vực hiện đại nhất như phòng thủ mạng, viễn thông và không gian vũ trụ. Bán vũ khí cho Ấn Độ không chỉ mang lại sự hấp dẫn về kinh tế, mà trên hết, về mặt chiến lược, đó là một sự đầu tư dài hạn bằng cách tạo ra đồng minh trước những mối đe dọa của Iran đối với sự tồn vong của Israel. Cũng như Nga, Israel không ngần ngại bán công nghệ mới nhất của mình cho Ấn Độ, khách hàng quan trọng nhất cho ngành công nghiệp quốc phòng Israel.

Năm 2017, Tập đoàn Hàng không Vũ trụ Israel (IAI) đã bán hệ thống phòng không Barak 8 cho Ấn Độ với giá 630 triệu USD, và một hợp đồng bổ sung đã được hai bên ký kết năm 2018 trị giá 777 triệu USD. Tháng 8/2019, một nhà máy đã được khánh thành ở thành phố Hyderabad (Ấn Độ) để sản xuất tên lửa chống tăng với sự hợp tác giữa công ty quốc phòng Rafael Advanced Defense Systems của Israel và công ty Astra Microwaves của Ấn Độ. Có thể nhận thấy, liên minh Israel-Ấn Độ hứa hẹn tương lai tươi sáng vì các công ty quốc phòng Israel chấp thuận chuyển nhượng một phần hoạt động sản xuất của họ cho Ấn Độ, và trên hết Israel đã thử nghiệm vũ khí của họ trong chiến đấu và không ngần ngại bán vũ khí đó cho Ấn Độ khi nước này muốn sử dụng chúng để chống lại Pakistan!

Anh

Anh chiếm vị trí đặc biệt trong nhóm các quốc gia xuất khẩu vũ khí cho Ấn Độ. Vào đầu những năm 2020, Anh cung cấp 3% vũ khí nhập khẩu của Ấn Độ và trong triển lãm quốc phòng DefExpo 2020, 13 công ty Anh đã giới thiệu sản phẩm của họ cho quân đội Ấn Độ. Chính phủ Anh tìm cách phát triển việc bán hàng sang Ấn Độ vì những lý do chính trị: hai nước cùng chia sẻ các giá trị dân chủ, cùng chống khủng bố. Ngoài ra còn có những lý do địa chiến lược và kinh tế: phát triển ảnh hưởng của Anh trên quy mô toàn cầu thông qua Ấn Độ, chủ yếu ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Cộng đồng đông đảo người Ấn Độ ở Anh cũng là yếu tố thúc đẩy sự phát triển troa đổi thương mại giữa hai nước.

Tháng 4/2019, hai nước đã ký kết biên bản ghi nhớ nhằm tăng cường sự hợp tác công nghiệp trong dài hạn. Biên bản ghi nhớ này sẽ mang lại lợi ích cho quân đội Anh và Ấn Độ. Ngày 30/4/2019, khi được hỏi tại Hạ viện về chủ đề này, Bộ trưởng Quốc phòng Anh Stuart Andrews đã trả lời: “Biên bản ghi nhớ nhấn mạnh mong muốn của Anh và Ấn Độ trong việc tăng cường mối quan hệ quốc phòng song phương. Nó sẽ giúp chúng tôi xác định những nhu cầu chung về năng lực quốc phòng và an ninh và từ đó cho phép các ngành công nghiệp quốc phòng và an ninh của chúng tôi tập trung và hợp tác hiệu quả hơn vào các cơ hội sở hữu vũ khí cả ở Anh và ở Ấn Độ. Những cải tiến công nghệ và năng lực công nghiệp có được từ sự hợp tác này sẽ tăng cường an ninh chung và sự thịnh vượng của chúng tôi trong dài hạn”. Biên bản ghi nhớ này cho thấy Anh coi Ấn Độ là một thị trường ưu tiên cần phát triển, và điều này đã được chứng minh vào tháng 4/2022 trong chuyến thăm của Thủ tướng Boris Johnson tới New Delhi khi ông và người đồng cấp Ấn Độ Narendra Modi đã khẳng định sẽ đưa quan hệ hợp tác giữa hai nhà nước lên tầm đối tác chiến lược toàn diện với lộ trình đến năm 2030, trong đ1o hai bên sẽ cùng nhau hợp tác nghiên cứu và sản xuất.

Bản đồ các quốc gia cung cấp vũ khí cho thị trường quốc phòng Ấn Độ cho thấy thị trường này rất hạn chế và chỉ các quốc gia có cùng mục tiêu địa chính trị với Ấn Độ mới lọt vào danh sách các nhà cung cấp. Một số quốc gia, có mặt tại triển lãm quốc phòng DefExpo 2020 nhưng không được Ấn Độ đặt hàng, đang tìm cách khẳng định thâm nhập thị trường nước này, và điều thú vị là trong số những ngước này có Australia và Nhật Bản, các đồng minh của Ấn Độ và Mỹ trong khuôn khổ Đối thoại An ninh Bốn bên (Bộ tứ). Đơn đặt hàng quân sự củng cố quan hệ chiến lược giữa các đồng minh, nhưng cũng kéo theo hoạt động đầu tư vào Ấn Độ vì luật pháp Ấn Độ quy định nhà cung cấp có nghĩa vụ bù đắp công nghiệp khi các hợp đồng vượt quá mức tiền nhất định (296 triệu USD theo Thủ tục Mua sắm Quốc phòng 2016). Công ty bán vũ khí trên thị trường Ấn Độ phải mua các linh kiện ở Ấn Độ, hoặc trực tiếp sản xuất ở nước này thông qua liên doanh bằng cách đầu tư vốn vào một công ty Ấn Độ hay chuyển giao công nghệ. Do vậy, có một nghịch lý là Ấn Độ càng nhập khẩu nhiều thì nước này càng sử dụng sự phụ thuộc này để buộc các nhà cung cấp chuyển giao bí quyết và công nghệ. Tuy nhiên, phương pháp này không thuyết phục lắm đối với sự phát triển công nghiệp của Ấn Độ, bởi những người bán thường đưa ra nhiều cam kết để đủ điều kiện ký hợp đồng bán vũ khí nhưng sau đó dường như họ ít sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ của mình.

So với nhập khẩu, lượng xuất khẩu vũ khí của Ấn Độ không đáng kể, với mức thâm hụt hơn 3 tỷ USD trong năm 2017. Tờ rơi dành cho khách tham quan tại triển lãm quốc phòng DefExpo 2020 trích dẫn 84 quốc gia nhập khẩu sản phẩm quốc phòng của Ấn Độ. Tuy nhiên, số liệu về xuất khẩu của Ấn Độ hoàn toàn không giống với số liệu của SIPRI và đều cao hơn đáng kể.

Người ta nhận thấy rằng ngoài các mặt hàng bảo hộ, mũ bảo hiểm, áo chống đạn, thậm chí xe cộ, các sản phẩm của Ấn Độ thể hiện một trình độ công nghệ ở mức bình thường. Không quốc gia nào sản xuất máy bay, tàu chiến hay tên lửa đặt hàng từ Ấn Độ. Điểm đến các sản phẩm quốc phòng của Ấn Độ thường là những thị trường bị phong tỏa (như Afghanistan và Nepal) – hầu như buộc phải mua sản phẩm của Ấn Độ vì lý do an ninh, các nước láng giềng (như Myanmar, Sri Lanka), các thị trường đảo quốc được tài trợ (Seychelles, Muritius nhận tàu tuần duyên cho lực lượng bảo vệ bờ biển của họ) – giúp mở rộng ảnh hưởng của Ấn Độ ở Ấn Độ Dương, và cuối cùng là các nước châu Phi (Mozambique, Namibia) đánh dấu bước mở cửa mới của Ấn Độ đối với thị trường này.

Nguồn: www.diploweb.com

TLTKĐB – 07/11/2022

Công nghiệp quốc phòng – công cụ xây dựng quyền lực và quan hệ địa chính trị của Ấn Độ – Phần đầu


Cuộc chiến mà Nga phát động ở Ukraine thu hút lại sự chú ý vào tầm quan trọng của việc có một ngành công nghiệp quốc phòng. Vậy Ấn Độ, một trong hai gã khổng lồ châu Á thì sao? Ấn Độ nhập khẩu số lượng lớn hàng quốc phòng, vừa để trang bị quân đội quốc gia, vừa để tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với Nga, Mỹ, Israel, Pháp và Anh. Qua đó, Ấn Độ tìm cách buộc các cường quốc này đầu tư vào Ấn Độ để phát triển sản xuất quốc gia và có được bí quyết và công nghệ. Đồng thời, Ấn Độ đang cố gắng chinh phục các thị trường quốc tế và thành công một cách khiêm tốn theo hai cách. Đầu tiên, bằng cách xuất khẩu linh kiện cho các nhà cung cấp hoặc các quốc gia khách hàng của họ. Sau đó, bằng cách xuất khẩu các sản phẩm quốc gia đã được quân đội Ấn Độ kiểm chứng và sử dụng. Chiến lược khôn ngoan này cho phép Ấn Độ khẳng định được vị thế trong một thị trường rất khắt khe và tự định vị như một cường quốc cung cấp cho các nước thuộc khu vực xung quanh Ấn Độ Dương và đặc biệt là các nước châu Phi.

Kể từ năm 2014, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã không ngừng đặt mục tiêu tự chủ chiến lược trong lĩnh vực sản xuất quốc phòng. Năm 2015, tại Triển lãm hàng không vũ trụ quốc tế Aero India, trước các tập đoàn sản xuất vũ khí trên toàn cầu, ông phát biểu: “Đối với nhiều người trong số các bạn, Ấn Độ là một cơ hội kinh doanh lớn. Chúng tôi nổi tiếng là nhà nhập khẩu thiết bị quốc phòng lớn nhất trên thế giới. Nhưng đó là lĩnh vực mà chúng tôi không muốn trở thành số một”. Năm 2020, trong lễ khánh thành triển lãm Defexpo, ông nhấn mạnh vào sức mạnh tổng hợp có thể được tạo ra giữa Ấn Độ và các nhà cung cấp vũ khí với khẩu hiệu “sản xuất ở Ấn Độ, cho Ấn Độ, cho thế giới”. Ngày 18/7/2022, ông nhắc lại những lợi ích của việc tự chủ về sản xuất quốc phòng: “Không phải là khôn ngoan khi trang bị cho binh sĩ của chúng ta cùng một loại vũ khí được trang bị cho binh sĩ của 10 nước khác. Họ có thể tài năng hơn, họ được đào tạo tốt hơn, họ sử dụng vũ khí tốt hơn. Nhưng tôi còn phải chấp nhận rủi ro này cho đến khi nào đây? Tại sao binh sĩ của tôi phải mang vũ khí giống như những binh sĩ của các nước khác?”, và “phụ thuộc vào nước ngoài cho mọi nhu cầu nhỏ của quốc phòng không chỉ là một sự đe dọa nghiêm trọng đến lòng tự trọng của đất nước chúng ta, mà hơn thế còn là một tổn thất kinh tế mang tính chiến lược”. Do vậy, ông coi sản xuất vũ khí là một nhu cầu thiết yếu: “Nếu chúng ta không tôn trọng vũ khí được sản xuất ở Ấn Độ, thì làm sao chúng ta có thể mong đợi thế giới coi trọng chúng? Điều đó là không thể. Chúng ta phải tự bắt đầu và tên lửa Brahmos là một ví dụ về công nghệ bản địa của chúng ta. Các bạn của tôi, Ấn Độ đã phát triển Brahmos và ngay nay cả thế giới đang xếp hàng để mua được nó. Chúng ta nên tự hào về những gì chúng ta phát triển”. Việc tìm kiếm độc lập và xây dựng quyền lực thông qua sự phát triển Cơ sở Công nghiệp và công nghệ quốc phòng Ấn Độ (BITD) đã trở thành mục tiêu khi giành độc lập vào năm 1947.

Để đạt được mục tiêu này, trước tiên Ấn Độ củng cố các liên minh chiến lược thông qua việc nhập khẩu vũ khí có mục tiêu và yêu cầu sản xuất một phần vũ khí ở trong nước, sau đó phát triển sản xuất quốc gia theo mọi hướng và thông qua các đơn đặt hàng quân sự, đưa các công ty sản xuất của Ấn Độ ra thị trường quốc tế.

Số liệu của Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) đưa  ra đánh giá về nhập khẩu vũ khí của Ấn Độ, và các nước cung cấp có thể được chia thành 4 nhóm: 1 nhà cung cấp chính (Nga với 62%); 2 nhà cung cấp quan trọng (Mỹ và Israel với lần lượt 15% và 11%), 2 nhà cung cấp phụ (Pháp và Vương quốc Anh với lần lượt 4,5% và 3,2%), và nhóm các nhà cung cấp nhỏ (dưới 1,2%). Chỉ riêng 4 nhóm nhà cung cấp vũ khí lớn nhất đã góp phần tới 95,7% vào hoạt động nhập khẩu của Ấn Độ.

Sở dĩ Ấn Độ tập trung vào Nga, Mỹ, Israel và Anh, đó là vì họ đều cung cấp các vũ khí hữu ích cho quân đội Ấn Độ, nhưng trên hết vì họ có các mối quan hệ lâu đời và cùng chung những lợi ích với Ấn Độ.

Nga

Nga là đối tác lịch sử của Quốc phòng Ấn Độ. Kể từ năm 1962 và thất bại trước Trung Quốc, Ấn Độ có niềm tin vững chắc vào Nga, bởi nước này đã luôn sát cánh cùng Ấn Độ khi xảy ra khủng hoảng trong kỷ nguyên Xô viết. Do đó, kho vũ khí của Ấn Độ gồm những vũ khí được nhập trực tiếp từ Liên Xô, sau đó từ Nga. Một trong những vũ khí gần đây nhất mà Ấn Độ mua của Nga có thể kể đến hệ thống phòng thủ tên lửa S-400. Hệ thống này được Ấn Độ đặt hàng nhân Hội nghị thượng đỉnh song phương Ấn Độ-Nga thường niên lần thứ 19 được tổ chức tại New Delhi vào ngày 5/10/2018. Hệ thống này, được đưa vào sử dụng ở Nga trong năm 2007, có thể tấn công các mục tiêu cách xa 400 km và đạt tới độ cao 30 km. Do đó, nó thể tiêu diệt một máy bay, một tên lửa và thậm chí cả các cơ sở trên mặt đất. Như Vladimir Putin phát biểu tại Vladivostok nhân hội nghị thượng đỉnh song phương năm 2019, nước Nga là “một người bạn toàn diện và một đối tác tin cậy” của Ấn Độ, và quả thực với 14,5 tỷ USD đơn đặt hàng trong năm 2019, Ấn Độ không thể bị coi nhẹ. Đổi lại, năm 2019 Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Rajnath Singh đã kêu gọi các nhà sản xuất Nga chuyển một phần hoạt động sản xuất sang Ấn Độ những vũ khí mà nước này mua của Nga. Tháng 11/2019, một vài doanh nghiệp nhà nước và tư nhân Ấn Độ đã tháp tùng Bộ trưởng Bộ quốc phòng nước này đến Nga tham dự hội nghị về hợp tác quân sự và kỹ thuật giữa hai nước. Ấn Độ đã không thoát khỏi sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp của Nga và chính Nga đã dành những khoản đầu tư lớn cho ngành công nghiệp Ấn Độ. Ấn Độ cũng gợi ý với đối tác Nga rằng các doanh nghiệp Ấn Độ có thể sản xuất linh kiện, hay thậm chí toàn bộ hệ thống vũ khí của Nga cho một nước thứ ba. Tại Hội nghị thượng đỉnh Ấn Độ-Nga lần thứ 21 tại New Delhi vào ngày 6/12/2021, hiệp ước hợp tác quân sự song phương đã được ký kết cho đến năm 2031.

Mỹ

Kể từ khi bức tường Berlin bị dỡ bỏ (năm 1989) và khối Liên Xô sụp đổ, Mỹ đã giành được một số lợi thế so sánh nhất định, khiến cho các sản phẩm của Mỹ được bán ngày càng nhiều cho Ấn Độ. Trước hết, sự gián đoạn nguồn cung các phụ kiện tháo rời của Liên Xô đã ảnh hưởng đến quân đội Ấn Độ trong suốt những năm 1990. Sau đó, ở cấp độ địa chính trị, kể từ năm 2001 và sau vụ khủng bố ngày 11/9, Ấn Độ đã trở thành một đồng minh khách quan của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, do vậy, việc bán vũ khí cho Ấn Độ trở nên dễ dàng.

Trong các nhiệm kỳ tổng thống của Obama và Trump, vai trò của Ấn Độ không ngừng được cải thiện trong liên minh chiến lược Mỹ – Ấn và do vậy cả trong quan hệ thương mại và lĩnh vực xuất khẩu vũ khí hay các hệ thống tinh vi phục vụ quốc phòng Ấn Độ. Mục tiêu chiến lược của Mỹ trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trùng khớp với mục tiêu của Ấn Độ trong không gian Ấn Độ Dương. Tháng 12/2019, trong cuộc đối thoại 2+2 cấp bộ trưởng Mỹ – Ấn, danh sách lợi ích chung của hai nước đã được Ngoại trưởng Michael R. Pompeo và Bộ trưởng Quốc phòng Mark T. Esper cùng những người đồng cấp Ấn Độ, Bộ trưởng Quốc phòng Rajnath Singh và Bộ trưởng Ngoại giao S. Jaishankar, đồng khẳng định. Hai nước mong muốn hòa bình và thịnh vượng cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và hợp tác trong lĩnh vực này cùng với Nhật Bản và Australia. Hai nước cũng có mục tiêu ở cấp khu vực đối với Ấn Độ Dương, cụ thể là biến nơi đây thành khu vực lưu thông tự do trên biển, và bảo vệ các vùng đánh bắt cá, chống ô nhiễm và thực hiện thăm dò khoa học biển ở khu vực này. Về mặt chính trị, cả hia nước đều đấu tranh cho hòa bình và tự do, do đó Mỹ ủng hộ Ấn Độ ứng cử vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Cả hai nước cũng đang chiến đấu chống lại chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo dưới mọi hình thức.

Các công nghệ liên quan đến hàng không vũ trụ và vũ khí hạt nhân cũng được quan tâm. Điều này cho phép các hoạt động đầu tư của Mỹ để xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ấn Độ trở nên dễ dàng hơn. Trên thực tế, Ấn Độ đang trở thành đồng minh lớn và khách hàng không thể thiếu của Mỹ. Những công nghệ hiện đại nhất đã được Mỹ bán cho Ấn Độ, do vậy, có thể khẳng định rằng các công ty Ấn Độ sẽ hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia Mỹ.

(còn tiếp)

Nguồn: www.diploweb.com

TLTKĐB – 07/11/2022

Tiềm năng lớn cho tương lai của mối quan hệ Việt Nam – Ấn Độ


Tạp chí Eurasia Review, trụ sở tại châu Âu, vừa đăng bài phân tích của nhà nghiên cứu chính trị kỳ cựu Ấn Độ Rajaram Panda, cho rằng năm 2022 có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ Việt Nam – Ấn Độ khi đánh dấu 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

Bài viết cho biết, trong chặng đường dài 5 thập kỷ qua, quan hệ hai nước Việt Nam – Ấn Độ phát triển trên tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, an ninh, quốc phòng, khoa học và công nghệ, đến kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch và đối ngoại nhân dân. Các chuyến thăm thường xuyên của lãnh đạo cấp cao nhất giữa hai bên đã tạo động lực cho việc chia sẻ lợi ích và mối quan tâm chung. Cuộc hội đàm giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi ngày 15/04/2022 để trao đổi quan điểm về các vấn đề song phương, khu vực và toàn cầu là nội dung mới nhất. Trong giai đoạn hậu COVID-19, cần phải hợp tác sâu rộng hơn trong việc xây dựng chuỗi cung ứng để đáp ứng nhu cầu trong nước và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Thủ tướng Ấn Độ Modi đã nhận lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Việt Nam và ngày, giờ cụ thể sẽ được ấn định để thuận tiện cho cả hai bên.

Trong chuyến thăm đến Việt Nam của Thủ tướng Ấn Độ Modi hồi năm 2016, quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Ấn Độ đã được thiết lập. Bên cạnh sự hợp tác sâu rộng, cả Thủ tướng Ấn Độ Modi và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đều ca ngợi nhau về hành trình ngoại giao hơn nửa thế kỷ của hai nước. Nhắc lại những điểm hội tụ của các lợi ích chiến lược, Thủ tướng Ấn Độ Modi nhấn mạnh Việt Nam là một trụ cột quan trọng trong Chính sách “Hành động hướng Đông” và Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Ấn Độ, và do đó, Ấn Độ đang tìm cách nâng cao phạm vi của mối quan hệ song phương. Cả hai đều quyết tâm đạt được tiến bộ nhanh chóng hơn nữa đối với các sáng kiến hiện có và khám phá những con đường mới có lợi cho cả hai bên.

Ấn Độ quyết định không tham gia Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) do mối quan tâm của New Delhi không được giải quyết. Thủ tướng Modi đề nghị Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc tiếp cận thị trường của dược phẩm Ấn Độ. Mặc dù Việt Nam và Ấn Độ không cùng hệ tư tưởng chính trị, nhưng lợi ích về kinh tế và chiến lược có nhiều hội tụ. Sự hội tụ chiến lược được hỗ trợ bởi các liên kết lịch sử và văn minh. Các di tích Chăm là minh chứng cho thấy truyền thống văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng như thế nào trong thời kỳ cổ đại và Ấn Độ có đóng góp to lớn cho việc trùng tu các di tích ở Việt Nam.

Cả Việt Nam và Ấn Độ đều có chung lợi ích ở Biển Đông. Các hoạt động quân sự hóa và xây dựng đảo nhân tạo nhanh chóng của Trung Quốc là vấn đề được nhiều bên liên quan trong khu vực quan tâm khi hàng hóa có giá trị hàng nghìn tỷ USD được vận chuyển ngang qua tuyến hàng hải quan trọng này. Điều đáng lo ngại là nếu một quyền lực duy nhất nắm quyền kiểm soát, một cách phi lý và bất hợp pháp, khu vực biển quan trọng này thì họ có thể áp đặt các quy tắc thương mại riêng. Cách tiếp cận liên tục và quyết đoán của Trung Quốc đối với các vấn đề khu vực đòi hỏi sự hợp tác và phối hợp nhiều hơn của các cường quốc khu vực khác để trạng thái cân bằng hiện có không bị xáo trộn và nghiêng về phía Trung Quốc.

Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với hơn 90% diện tích khu vực Biển Đông, một khu vực cung cấp nguồn khí hydro khổng lồ, buộc một số quốc gia thành viên ASEAN lên tiếng phản đối. Thủ tướng Modi và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã trao đổi quan điểm về các vấn đề khu vực và toàn cầu mà hai bên cùng quan tâm. Chuyến thăm Trung Quốc mới đây của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là muốn tìm hiểu rõ quan điểm của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, đồng thời hy vọng Trung Quốc không vượt qua ranh giới đỏ và không làm trầm trọng thêm căng thẳng trong khu vực một cách không cần thiết.

Định hướng hành động

Nhân kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam – Ấn Độ, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ Jaishankar và Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn đã ra mắt logo chung bên lề Hội nghị đặc biệt Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN – Ấn Độ tại New Delhi từ ngày 16 – 17/06/2022. Biểu tượng về tình hữu nghị lâu đời giữa Việt Nam và Ấn Độ, do hai bên cùng lựa chọn thông qua một cuộc thi dành cho công dân hai nước, được thể hiện qua hình ảnh chim công và chim hạc. Hai nước cũng chia sẻ về mối quan hệ song phương gần gũi và thân tình truyền thống. Ấn Độ từng là Chủ tịch Ủy ban Giám sát và kiểm soát quốc tế (ICSC), thành lập theo Hiệp định Genève năm 1954, nhằm tạo thuận lợi cho tiến trình hòa bình ở Việt Nam.

Ấn Độ nhận thức rõ Việt Nam là một quốc gia quan trọng trong khối ASEAN, nhưng có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở khu vực Biển Đông. Vai trò của Ấn Độ ở Biển Đông càng trở nên quan trọng vì Ấn Độ có các dự án thăm dò dầu khí trong vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông và do đó, lợi ích chung của Việt Nam và Ấn Độ là thúc đẩy hợp tác an ninh hàng hải để bảo vệ lợi ích chung. Đối với Ấn Độ, Việt Nam là một đối tác quan trọng trong Chính sách “Hành động hướng Đông” và “Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Trong một thời gian, cả hai nước đã mở rộng các cam kết quốc phòng song phương, bao gồm các cuộc tiếp xúc trên phạm vi rộng giữa hai nước, thông qua các cuộc đối thoại chính sách quốc phòng, trao đổi quân sự, các chuyến thăm cấp cao, các chương trình đào tạo, nâng cao năng lực hợp tác trong gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và các cuộc tập trận song phương. Quan hệ Việt Nam-Ấn Độ được nâng lên thành “Đối tác chiến lược” trong chuyến thăm Ấn Độ của nguyên Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng hồi tháng 7/2007 và được nâng lên thành “Đối tác chiến lược toàn diện” trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Modi hồi năm 2016.

Trong lĩnh vực kinh tế, cả Việt Nam và Ấn Độ đều tăng trưởng ổn định. Giá trị thương mại song phương Việt Nam-Ấn Độ đã tăng từ mức 200 triệu USD trong năm 2000 lên 14,14 tỷ USD trong năm 2021 – 2022. Xuất khẩu của Ấn Độ sang Việt Nam đạt 6,7 tỷ USD và nhập khẩu của Ấn Độ từ Việt Nam đạt 7,44 tỷ USD. Trong giai đoạn 2021 – 2022, Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 23 của Ấn Độ và lớn thứ 4 trong số các nước ASEAN, sau Singapore, Indonesia và Malaysia. Cách đây hơn 4 thập kỷ, cố Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng từng nhận xét rằng, mối quan hệ Việt Nam – Ấn Độ là “trong như bầu trời không một gợn mây” và bằng chứng là quan hệ giữa hai nước luôn được duy trì và gắn bó.

Việc Việt Nam liên tục nhắc lại vai trò của Việt Nam trong Chính sách “Hành động hướng Đông” và “Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” đã chứng tỏ rằng quan hệ song phương Việt Nam – Ấn Độ vẫn đang được củng cố trong tất cả các lĩnh vực và không có giới hạn, từ kinh tế, thương mại, quốc phòng và du lịch.

Việt Nam là đối tác chiến lược quan trọng của Ấn Độ và Ấn Độ cũng là 1 trong 3 đối tác hàng đầu của Việt Nam, với tư cách là đối tác chiến lược toàn diện cùng với Nga và Trung Quốc. Việt Nam đánh giá tích cực “Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” của Ấn Độ, đồng thời khẳng định tính trung tâm và thống nhất của ASEAN là một yếu tố quan trọng của tầm nhìn. Ấn Độ cũng cho rằng Việt Nam đóng vai trò chủ đạo trong khu vực đối với tầm nhìn, đặc biệt là liên quan vấn đề Biển Đông.

Bên cạnh sự hiểu biết chính trị, hợp tác kinh tế và thương mại cũng không kém phần quan trọng trong quan hệ song phương Việt Nam – Ấn Độ. Ấn Độ là thị trường quan trọng nhất của Việt Nam, chiếm 80% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam với các quốc gia Nam Á và Ấn Độ còn muốn tăng giá trị thương mại song phương từ mức 13,2 tỷ USD trước đó lên 15 tỷ USD. Điều này có thể làm được vì Việt Nam đã chuyên môn hóa nhiều lĩnh vực kinh tế, từ đó mở ra môi trường rộng lớn cho việc mở rộng quan hệ kinh tế trong tương lai. Việt Nam có những bước tiến dài trong lĩnh vực nông nghiệp và chế biến thực phẩm. Ngành công nghiệp điện tử cũng đang hoạt động hiệu quả, với khoảng 70% số điện thoại di động ở Ấn Độ được sản xuất tại Việt Nam.

Các tiềm năng hợp tác

Hợp tác về giáo dục giữa Việt Nam-Ấn Độ được cho là có rất nhiều dư địa, nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Hai nước cần tăng cường trao đổi sinh viên và lượng bài giảng của các học giả ở các trường đại học của nhau, tăng số lượng hội nghị và thảo luận về các vấn đề quan trọng, đưa ra các khuyến nghị hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách. Kết nối giữa các trường đại học và thể chế hóa các chương trình trao đổi sinh viên có thể là bước đầu tiên. Tổ chức các bài giảng và hội thảo/hội nghị, bên cạnh việc thúc đẩy hợp tác nghiên cứu là những lĩnh vực cũng cần được ưu tiên.

Việt Nam có tiềm năng kinh tế và ngành dịch vụ/khách sạn đang bùng nổ, thu hút khoảng 30 triệu du khách nước ngoài mỗi năm, cao hơn lượng khách đến Ấn Độ. Hồi tháng 7/2022, Bộ Công thương Việt Nam tổ chức một chương trình xúc tiến thương mại tại New Delhi và hơn 150 doanh nghiệp Ấn Độ hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau đã tham dự. Chương trình nhằm tạo cơ hội cho lãnh đạo các doanh nghiệp hai nước gặp gỡ, hợp tác trong các lĩnh vực như chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, mỹ phẩm, thủ công mỹ nghệ, nội thất gia đình và nông sản. Biên bản ghi nhớ được ký kết giữa các nhà nhập khẩu Ấn Độ thuộc Phòng Thương mại-công nghiệp và Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có thể là chất xúc tác.

Tuyến vận tải biển nối miền Trung Việt Nam và Ấn Độ được khánh thành ngày 27/7. Sáng kiến mới này có thể là công cụ giúp hai nước hiện thực hóa mục tiêu 15 tỷ USD giá trị thương mại song phương, đánh dấu một cột mốc mới trong kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam-Ấn Độ. Hiện nút thắt giữa Việt Nam và Ấn Độ là kết nối giao thông, đặc biệt là việc thiếu tuyến vận tải biển trực tiếp giũa hai nước, cản trở việc phát huy tiềm năng giữa hai bên. Việc khai trương tuyến vận tải biển mới nối miền Trung Việt Nam và Kolkata, do Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (VIMC) khai thác, mở ra cơ hội hợp tác kinh doanh lớn hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam và Ấn Độ. Giá cước vận tải biển tăng trong những năm qua ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động vận tải của thế giới. Để giải quyết những khó khăn này, VIMC đang tham gia nghiên cứu thị trường và mở rộng các tuyến đường biển mới kết nối Việt Nam và các khu vực khác trên thế giới, bao gồm cả Ấn Độ.

Có một số lĩnh vực mà cả hai bên có thể làm việc cùng nhau để đưa hai quốc gia xích lại gần nhau hơn, như ở Việt Nam có một số địa điểm đẹp, thích hợp để quay phim. Bên cạnh việc nghiên cứu hợp tác sản xuất các dự án phim, cần thành lập một trung tâm hỗ trợ một cửa để thực hiện điều này. Phim là một phương tiện truyền tải thông điệp mạnh mẽ, góp phần phát triển tình hữu nghị giữa các dân tộc và còn gửi gắm những thông điệp xã hội khác, bên cạnh tính giải trí.

Nguồn: TKNB – 07/11/2022

Cuộc chiến Ukraine làm gia tăng sức ép đối với chính sách “Hành động hướng Đông” của Ấn Độ – Phần cuối


Suy nghĩ lại về “Hành động hướng Đông”

Điều này sẽ đưa chính sách can dự hướng Đông của Ấn Độ đi đến đâu? Chính sách hướng Đông (được tổi tên thành Chính sách “Hành động hướng Đông” vào năm 2014) đã đánh dấu sự kết thúc của thập kỷ thứ ba trong năm nay. Chính sách này xuất hiện sau Chiến tranh Lạnh, trong bối cảnh New Delhi đang nỗ lực khôi phục tầm quan trọng của Đông Nam Á (và sau đó là Đông Á và rộng hơn là Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương) trong chương trình nghị sự chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Điều này đòi hỏi các tương tác thường xuyên và được thể chế hóa nhiều hơn với khu vực, bao gồm các nỗ lực tăng trường hội nhập kinh tế và hợp tác chiến lược (đặc biệt là trong lĩnh vực hàng hải), cũng như giao lưu nhân dân và giao lưu văn hóa.

Tuy nhiên, chính sách này vẫn là sản phẩm mang tính thời đại, phản ánh công cuộc tìm kiếm các mối liên kết mới trong hệ thống quốc tế sau khi loại bỏ những hạn chế về cấu trúc do sự chia rẽ trong Chiến tranh Lạnh gây ra. Tuy nhiên, khi hệ thống quốc tế đối mặt với sự chia rẽ mới, sẽ có những câu hỏi về tính bền vững của chính sách này.

Như Ngoại trưởng Ấn Độ S. Jaishankar đã lưu ý trong bài phát biểu vào năm 2020: “Mối quan hệ hiện tại giữa Ấn Độ và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thiết lập dựa trên mối quan tâm sâu sắc chung đến toàn cầu hóa. Ít nhất ở châu Á, ASEAN là những người tiên phong trong quá trình toàn cầu hóa và giúp đưa Ấn Độ vào cuộc. Nhưng khi toàn cầu hóa đối diện với những căng thẳng như hiện nay, chúng ta cần phải vượt ra ngoài các định nghĩa kinh tế và thậm chí cả các định nghĩa về xã hội của nó”.

Ấn Độ từ lâu đã duy trì sự ưu tiên đối với một cấu trúc khu vực cởi mở và bao trùm, điều giải thích vì sao họ ủng hộ quá trình hội nhập khu vực do ASEAN dẫn đầu. Tuy nhiên, New Delhi cũng đang tăng cường tham gia các nhóm khu vực đa phương hẹp, chẳng hạn như Bộ tứ và quan hệ ba bên Ấn-Nhật-Mỹ. Những nhóm này ra đời khi các sáng kiến đã chín muồi, có sự tham gia của lãnh đạo cấp cao hơn, đồng thời chú trọng đến không chỉ một vấn đề. Chẳng hạn, ban đầu, Bộ tứ tập trung vào lĩnh vực hàng hải để hỗ trợ nhân đạo sau trận sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2004. Sau đó, nhóm này đã phát triển một chương trình nghị sự rộng hơn, tập trung vào các vấn đề như đại dịch COVID-19, khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng và biến đổi khí hậu.

Đồng thời, mặc dù New Delhi duy trì cam kết chính thức đối với nguyên tắc “vai trò trung tâm của ASEAN” trong cấu trúc khu vực, nhưng tình trạng chia rẽ của hệ thống quốc tế này có nguy cơ làm suy yếu vai trò đó. ASEAN đã và đang phải đối mặt với sự chỉ trích vì những hành động (hoặc việc không hành động gì) đối với những diễn biến quan trọng của khu vực, trong đó có đại dịch, thái độ quyết đoán của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa cũng như tình hình chính trị và nhân đạo đang xấu đi ở Myanmar. ASEAN cũng đang phải đối mặt với sự giám sát kỹ lưỡng hơn vì sự thờ ơ của họ trước những diễn biến ở Ukraine. Hơn nữa, thực tế rằng Mỹ, Nga và Trung Quốc đều là thành viên trong một số sáng kiến do ASEAN lãnh đạo, bao gồm Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị bộ trưởng quốc phòng ASEAN+, sẽ khiến những vũ đài này ngày càng trở nên không tương thích do ác cảm giữa ba nước này.

Mặt khác, mặc dù Ấn Độ tham gia ngày càng càng nhiều nhóm khu vực đa phương, chẳng hạn như Bộ tứ, nhưng New Delhi vẫn duy trì những ranh giới mà họ không thể hoặc không muốn vượt qua. Một ví dụ việc Ấn Độ vắng mặt trong các cuộc tuần tra tự do hàng hải do Mỹ dẫn đầu ở biển Nam Trung Hoa. Tuy phản đối yêu sách “đường 9 đoạn” của Trung Quốc, nhưng New Delhi cũng phản đối cách giải thích của Washington về quyền “qua lại không gây hại” trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS). Ấn Độ yêu cầu tầu chiến nước ngoài phải thông báo trước khi đi vào Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của nước này. Cụ thể, tháng 4/2021, New Delhi lên tiếng phản đối sự hiện diện của tàu USS John Paul Jones bên trong EEZ của Ấn Độ.

Trong bối cảnh này, vẫn sẽ có những giới hạn đối với việc Ấn Độ sẵn sàng tham gia nhiều hơn các sáng kiến khu vực do Mỹ dẫn đầu trong bối cảnh New Delhi ủng hộ chính sách không liên kết và quyền tự chủ chiến lược, cũng như những bất đồng trong cách diễn giải các nguyên tắc chính như quyền tự do hàng hải. Sự phụ thuộc quá mức của Ấn Độ vào khí tài quân sự của Nga cũng sẽ cản trở, nếu không nói là làm chệch hướng, hoạt động xuất khẩu vũ khí, dù mới xuất hiện nhưng đang gia tăng, của Ấn Độ sang Đông Nam Á (ví dụ, tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos là sản phẩm hợp tác giữa Ấn Độ và Nga). Điều này có nghĩa là trong bối cảnh quan hệ Trung – Ấn xấu đi nhiều, Ấn Độ khó có thể tham gia các dàn xếp an ninh được thể chế hóa hơn do Mỹ dẫn đầu như Ngũ nhãn hoặc AUKUS.

Điều này khiến New Delhi rơi vào tình thế không mong muốn là có khả năng trở thành người đứng ngoài cuộc trong cấu trúc khu vực bởi sự thờ ơ của họ đối với các sáng kiến khu vực mang tính cởi mở và bao trùm do ASEAN dẫn dắt và các nhóm khu vực nhỏ hơn do Mỹ và Trung Quốc lãnh đạo, chẳng hạn như Bộ tứ và Tổ chức hợp tác Thượng Hải. Điều này đã thể hiện rõ trong phản ứng đối với việc Nga xâm lược Ukraine, nơi Ấn Độ là “kẻ kỳ quặc” trong Bộ tứ – khi ba nước thành viên còn lại đều ủng hộ các hành động trừng phạt chống lại Nga. Sự khác biệt này có thể sẽ trầm trọng hơn khi Mỹ kêu gọi các đồng minh và đối tác trong khu vực hành động nhiều hơn nữa khi đối mặt với thái độ ngày càng quyết đoán của Trung Quốc và Nga. Điều này bao gồm việc tăng cường hỗ trợ cho các quốc gia nhỏ hơn đang phải đối mặt với sức ép từ Bắc Kinh, chẳng hạn như các nước có tranh chấp lãnh thổ ở biển Nam Trung Hoa, song song với việc hỗ trợ Ukraine và các quốc gia Đông Âu nhỏ hơn trước sự hung hăng của Nga.

Kết luận

Mặc dù căng thẳng Nga-Mỹ dường như ít liên quan hơn đến sự can dự của Ấn Độ ở phía Đông, nơi diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa Mỹ và Trung Quốc ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhưng rõ ràng nó gây ra hiệu ứng lan tỏa. Ấn Độ từ lâu đã phải đối mặt với những cáo buộc về việc giữ thế trung lập trong cấu trúc khu vực. Đây là một phần chất xúc tác dẫn đến việc đổi tên Chính sách “Hướng Đông” thành Chính sách “Hành động hướng Đông” vào năm 2014, phản ánh mục tiêu hướng tới chính sách “thực dụng hơn, do hành động thúc đẩy và chú trọng vào kết quả”. Tình trạng phân cực mới trong hệ thống quốc tế có nguy cơ gia tăng thêm những sức ép này, đồng thời dẫn đến việc Ấn Độ có khả năng bị gạt ra ngoài lề trong cấu trúc khu vực. Điều này diễn ra trong bối cảnh New Delhi ủng hộ chính sách liên kết với nhiều bên và tự chủ chiến lược trong lâu dài cũng như nỗ lực duy trì mối quan hệ bền vững với cả Moskva và Washington (mặc dù không phải chỉ mình Ấn Độ có lập trường như vậy). Đây sẽ là những cân nhắc chính mà New Delhi cần xem xét khi nước này đưa Chính sách “Hành động hướng Đông” bước vào giai đoạn tiếp theo.

Nguồn: The Diplomat

TLTKĐB – 30/07/2022

Cuộc chiến Ukraine làm gia tăng sức ép đối với chính sách “Hành động hướng Đông” của Ấn Độ – Phần đầu


Mặc dù chính sách “Hành động hướng Đông” của Ấn Độ dường như không hề liên quan đến cuộc xâm lược của Nga ở Ukraine, nhưng cuộc chiến này vẫn có những tác động đến sự can dự về phía Đông của New Delhi. Điều này xảy ra trong bối cảnh chính sách đối ngoại không liên kết và tự chủ chiến lược mà Ấn Độ đã duy trì trong thời gian dài phải đối mặt với sức ép. Có những dấu hiệu cho thấy New Delhi đang từ bỏ cách tiếp cận này sau cuộc đụng độ với quân đội Trung Quốc ở Thung lũng Galwan vào tháng 6/2020. Điều đáng chú ý là việc gần đây Ấn Độ ký kết hợp đồng xuất khẩu tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos với Philippines phát đi tín hiệu cho thấy Ấn Độ có tư thế quyết đoán hơn trong khu vực khi hỗ trợ Philippines tăng cường khả năng phòng thủ bờ biển trước mối đe dọa liên tục của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).

Tuy nhiên, dù chính sách không liên kết đang dần trở nên không phù hợp đối với Ấn Độ trong bối cảnh cuộc đối đầu Mỹ-Trung (khi New Delhi nghiêng về phía Washington và rời xa Bắc Kinh), nhưng đây vẫn là một thành phần then chốt quyết định vị trí của Ấn Độ trong mối quan hệ Nga-Mỹ. Việc Nga ngày càng bị gạt sang bên lề sẽ gây sức ép lên New Delhi, buộc nước này phải đưa ra những lựa chọn khó khăn. Chính sách “Hành động hướng Đông” của Ấn Độ sẽ là một thử nghiệm quan trọng cho điều này.

Điều chỉnh lại chính sách không liên kết

Về lý thuyết, những căng thẳng mới giữa Nga và phương Tây lẽ ra sẽ phù hợp với thế giới quan của Ấn Độ, vì khái niệm không liên kết đã được phát triển trong Chiến tranh Lạnh như một phương tiện để New Delhi duy trì sự linh hoạt chiến lược vượt qua sự chia rẽ về ý thức hệ. Trên thực tế, chính sách không liên kết thường dẫn đến việc New Delhi nghiêng về một bên, như trường hợp cuộc chiến năm 1962 với Trung Quốc, khi Ấn Độ quay sang tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ, và trước cuộc chiến 1971 với Pakistan, khi Ấn Độ và Liên Xô ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

Tuy nhiên, việc New Delhi nối lại quan hệ với Washington trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh khiến Ấn Độ ngày càng không thể duy trì quan hệ thân thiết với cả Nga và Mỹ khi quan hệ giữa hai nước ngày càng xấu đi. Tình hình càng thêm phức tạp do mối liên kết ngày càng tăng giữa Trung Quốc và Nga. Kể từ khi Trung Quốc và Ấn Độ (cùng với UAE) bỏ phiếu trắng trong cuộc bỏ phiếu của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc lên án hành động của Nga ở Ukraine, thì đây cũng chỉ là một sự liên kết tạm thời giữa Bắc Kinh và New Delhi.

Dù New Delhi có cùng chung quan điểm với Bắc Kinh và Moskva về việc ủng hộ một trật tự thế giới đa cực, nhưng nếu buộc phải lựa chọn, Ấn Độ lại thích trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo hơn là trật tự thế giới do Trung Quốc lãnh đạo. New Delhi thích SWIFT (Hiệp hội viễn thông liên ngân hàng và tài chính quốc tế) hơn CIPS (Hệ thống thanh toán liên ngân hàng xuyên biên giới) do Trung Quốc phát triển; thích hệ thống định vị toàn cầu GPS của Mỹ hơn hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu của Trung Quốc; và ủng hộ các cuộc tuần tra tự do hàng hải của Mỹ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương hơn là việc để biển Nam Trung Hoa trở thành “cái hồ của Trung Quốc”. (Tất nhiên Ấn Độ cũng đang nỗ lực tự phát triển các giải pháp thay thế của riêng mình cho các hệ thống của Mỹ và Trung Quốc).

Cho đến nay, Ấn Độ đã xoay sở để dung hòa sự chia rẽ này. Chẳng hạn, New Delhi là thành viên của các sáng kiến khu vực với Mỹ (trong đó có Bộ tứ), với Nga/Trung Quốc (trong Tổ chức hợp tác Thượng Hải). Tuy nhiên, trong bối cảnh quan hệ của Ấn Độ với Mỹ ngày càng sâu sắc, quan hệ hệ với Trung Quốc trở nên khó khăn, và Nga ngày càng bị cộng đồng quốc tế gạt sang bên lề, Ấn Độ sẽ bị coi là kẻ kỳ quặc trong mối quan hệ ba bên Nga-Trung-Ấn.

Hơn nữa, dù Ấn Độ đang phát triển các cơ chế để duy trì sự can dự với Nga, nhưng nước này ngày càng dễ bị tổn thương trước sức ép của phương Tây. Ngay cả Trung Quốc, mặc dù có nguồn lực kinh tế lớn hơn nhiều, nhưng cũng không thể phát triển một giải pháp thay thế đáng tin cậy cho hệ thống thanh toán SWIFT. Ngay cả trước hành động quân sự của Nga của Ukraine, lập trường không liên kết của Ấn Độ đã phải chịu sức ép khi Mỹ đe dọa sự trừng phạt việc Nga bán hệ thống phòng không S-400 cho Ấn Độ. Đồng thời, New Delhi sẽ miễn cưỡng tách rời hoàn toàn khỏi Moskva do nước này phụ thuộc quá nhiều vào khí tài quân sự của Nga, mối quan hệ sâu sắc với Moskva và nỗ lực ngăn cản Nga phát triển mối quan hệ ngày càng sâu sắc với các đối thủ chiến lược chính của Ấn Độ là Trung Quốc và Pakistan.

(còn tiếp)

Nguồn: The Diplomat

TLTKĐB – 30/07/2022

Ảnh hưởng khu vực và hạn chế trong chính sách của Mỹ đối với Biển Đông – Phần cuối


Những thay đổi tiêu cực trong chính sách Biển Đông của một số nước ASEAN

Philippines là đồng minh trung thành với chính sách Nam Hải của Mỹ trong thời kỳ Obama. Sau khi Biden lên nắm quyền, các lực lượng trong Philippines, vốn dựa vào sự hỗ trợ của Mỹ để tranh giành quyền lợi ở Nam Hải, đã hoạt động tích cực hơn nữa. Tháng 2/2021, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana nói rằng trong bối cảnh Trung Quốc khẳng định chủ quyền đối với một khu vực rộng lớn ở Nam Hải, thì Mỹ chính là lực lượng đối trọng hiệu quả với Trung Quốc; Thượng nghị sĩ Philippines Richard J. Gordon nói bóng gió Trung Quốc là “lực lượng không thân thiện” khi tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển và tài nguyên của Philippines, lên tiếng rằng ngư dân Philippines đang bị đe dọa, ức hiếp và Philippines cần sự giúp đỡ của Mỹ. Sự trỗi dậy của các lực lượng thân Mỹ trong chính trường Philippines đã gây ra các hiệu ứng chính trị-xã hội, truyền thông Philippines không ngừng chỉ trích chính sách Nam Hải của Duterte. Trong sự cố ở đá Ba Đầu, 9 tổ chức phi chính phủ đứng đầu là Hiệp hội các phòng Thương mại và Công nghiệp Philippines đã ra tuyên bố chung yêu cầu Trung Quốc dừng hành vi “khiêu khích”. Các quan chức cấp cao, bao gồm cả phó tổng thống và một số thượng nghị sĩ Philippines đã lên tiếng phản đối chính sách Nam Hải của Trung Quốc. Cùng với sự thay đổi thái độ của Philippines đối với vấn đề Nam Hải, chính sách Nam Hải của Philippines dựa trên nền tảng là chính sách ngoại giao thân thiện đối với Trung Quốc của Duterte đã suy yếu đáng kể.

Sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách Nam Hải của Việt Nam nhìn chung đã chuyển sang hướng ổn định và thực dụng, nhưng vẫn tiếp tục chiến lược dựa vào Mỹ để kiềm chế Trung Quốc. Song song với việc duy trì ổn định quan hệ ngoại giao Trung-Việt, Việt Nam cũng tích cực hùa theo chính sách Nam Hải của Chính quyền Biden. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã hai lần công khai tuyên bố “hoạt động tự do hàng hải” của tàu chiến Mỹ và châu Âu ở Nam Hải đã góp phần duy trì hòa bình và ổn định ở vùng biển này. Tháng 6/2021, tại Hội nghị lần thứ 31 cảu các quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, Trưởng Phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc Đặng Đình Quý đã kêu gọi tất cả các bên không lựa chọn các hành động đơn phương có thể làm phức tạp thêm tình hình. Kể từ đó, tại một loạt cuộc họp ASEAN, Hội nghị cấp cao Đông Á và Hội nghị Bộ trưởng phong trào không liên kết, Việt Nam thường xuyên bày tỏ quan điểm về vấn đề Nam Hải, có thái độ ngày càng cứng rắn đối với một số vấn đề nhạy cảm. Tháng 8/2021, tại phiên thảo luận mở cấp cao tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc với chủ đề “Tăng cường an ninh hàng hải”, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính đã có bài phát biểu về vấn đề Nam Hải, nhắc lại quan điểm của Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, chĩa mũi dùi vào Trung Quốc. Xét các yếu tố như số lượng quan chức cấp cao Việt Nam thân Trung Quốc ngày càng giảm do tuổi tác cao, sức ép từ mô hình phát triển kinh tế tiêu thụ nhiều năng lượng của Việt Nam đối với nhu cầu tài nguyên dầu khí ở Nam Hải, lợi thế đầu tư của Mỹ vào Việt Nam, thặng dư thương mại và thâm hụt thương mại Trung-Việt, Mỹ-Việt…, thì trong trường hợp rủi ro có thể kiểm soát, Việt Nam vẫn có khả năng ngả về phía Mỹ.

Indonesia là một trong những nước chủ động tiếp nhận ảnh hưởng từ chính sách của Mỹ trong vấn đề Nam Hải. Trong chuyến thăm đến Indonesia, Blinken đã xác nhận hợp tác an ninh song phương, vai trò lãnh đạo của Indonesia trong ASEAN và địa vị trụ cột của Indonesia trong trật tự Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đồng thời ủng hộ việc Indonesia đối đầu với Trung Quốc, điều này đã khiến chính sách an ninh của Nam Hải của Indonesia xuất hiện những thay đổi nhỏ. Tháng 8/2021, Mỹ và Indonesia đã tổ chức cuộc tập trận chung mang tên “Garuda Shield” với quy mô chưa từng có tại khu vực Nam Sumatra, Đông Kalimantan và Bắc Sulawesi. Đồng thời, đáp lại công hàm ngoại giao của Trung Quốc yêu cầu Indonesia ngừng khoan thăm dò ngoài khơi, thành viên Ủy ban an ninh quốc gia thuộc Quốc hội Indonesia Muhammad Farha nói: “Câu trả lời của chúng tôi rất kiên định, chúng tôi sẽ không ngừng khoan vì đó là chủ quyền của chúng tôi”.

Những hạn chế mà Mỹ phải đối mặt khi thao túng tình hình ở Biển Đông

Chính sách Nam Hải (Biển Đông) của Chính quyền Biden dựa trên nền tảng “tự do hàng hải” ở Nam Hải, với liên minh chính sách bao gồm Nhật Bản, Australia, Ấn Độ, Anh, Pháp và Đức, với điểm đột phá địa chiến lược là các nước xung quanh Nam Hải, dựa vào lợi thế về dư luận quốc tế để gây sức ép đối với Trung Quốc. Nhìn bề ngoài, chính sách Nam Hải của Chính quyền Biden đã tập hợp lực lượng từ nhiều quốc gia và trên nhiều lĩnh vực như an ninh quân sự, quan hệ quốc tế và quyền phát ngôn quốc tế. Trên thực tế, chính sách với ý đồ chi phối an ninh khu vực Nam Hải này không chỉ thiếu tính pháp lý chính sách tối thiểu và không thể đưa cấu trúc an ninh Nam Hải trở lại trạng thái Chiến tranh Lạnh, mà còn vấp phải sự phản đối của các nước Đông Nam Á khi chạm vào “lằn ranh đỏ” của an ninh khu vực.

Thiếu sót về pháp lý của các nước ngoài khu vực khi can thiệp vào Biển Đông

Chính sách của Chính quyền Biden lấy lý do “tự do hàng hải” để định hình lại cục diện an ninh ở Nam Hải, chủ yếu là nhằm xây dựng một liên inh địa an ninh chống lại Trung Quốc để duy trì vị trí bá chủ thế giới của Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ với tư cách là một quốc gia châu Mỹ, mà lại yêu sách quyền lợi tại châu Á – phía bên kia bán cầu, là thiếu tính chính danh. Do đó, bất kể dưới thời Obama hay Biden, cái gọi là “hoạt động tự do hàng hải” ở Nam Hải chỉ có thể tìm thấy tính chính danh với lý do “bảo vệ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế” và “thúc đẩy trật tự thế giới tốt đẹp hơn”. Tuy nhiên, mặc dù tần suất và cường độ “hoạt động tự do hàng hải” của Chính quyền Biden ở Nam Hải lớn hơn nhiều so với trước đây, nhưng lý do vẫn là những cái cớ ngụy tạo như “Trung Quốc đe dọa an ninh và tự do hàng hải ở Biển Nam Trung Hoa”. Cái lý do mà Mỹ có thể “tùy tiện bôi nhọ, đàn áp, ép buộc và uy hiếp các nước khác mà không phải trả bất kỳ cái giá nào” này thực sự quá khiên cưỡng, đến mức các học giả phương Tây cũng khó đồng tình. Các phân tích khách quan từ các nước phương Tây cho rằng có sự khác biệt giữa quy tắc hàng hải ở một số nước xung quanh Nam Hải và nguyên tắc tự do hàng hải do Mỹ khởi xướng. Hoạt động tự do hàng hải theo định nghĩa của luật quốc tế cũng không cho phép Mỹ tiến hành các hoạt động quân sự hàng hải gần như không giới hạn; hoạt động tự do hàng hải của Mỹ phải dựa trên luật pháp quốc tế, nếu không, hoạt động đó sẽ trở nên vô nghĩa. Vì vậy, cái gọi là “hoạt động tự do hàng hải” do Mỹ tiến hành hiện nay chỉ là thể hiện với Trung Quốc quan điểm của Mỹ trong vấn đề Nam Hải và chứng tỏ cam kết của Mỹ với các đồng minh trong khu vực, chứ không dám phát động một cuộc tấn công quân sự thực sự nhằm vào Trung Quốc, cũng không có lợi cho việc xây dựng một trật tự khu vực tốt đẹp hơn.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu các vấn đề quốc tế (TQ)

TLTKĐB – 24, 25, 26/06/2022

Ảnh hưởng khu vực và hạn chế trong chính sách của Mỹ đối với Biển Đông – Phần II


Thao túng dư luận để bôi nhọ chính sách Biển Đông của Trung Quốc

Thổi phồng dư luận là một biện pháp quan trọng để Mỹ thao túng vấn đề Nam Hải. Mỹ đang nỗ lực sử dụng biện pháp này để hạ thấp hình ảnh quốc tế của Trung Quốc, chia rẽ mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực với Trung Quốc, đồng thời nâng cao tính pháp lý của việc Mỹ can dự vào tình hình ở Nam Hải. Sau khi lên nắm quyền, Biden đã nhanh chóng coi phán quyết về Biển Đông của Tòa trọng tài là tiêu điểm để đưa vấn đề Biển Đông trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trong dư luận quốc tế. Biden và các quan chức cấp cao như Ngoại trưởng Tony Blinken, Cố vấn An ninh Quốc gia Jake Sullivan và Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin đã nhiều lần nhắc lại lập trường ủng hộ phán quyết về Biển Đông của Tòa trọng tài và hướng trọng tâm xung đột an ninh trên Nam Hải sang Trung Quốc. Tháng 01/2022, Cục Đại dương, môi trường quốc tế và các vấn đề khoa học thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ đã ban hành “Báo cáo số 150 về các ranh giới biển” liên quan đến tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Nam Hải. Các tuyên bố của các quan chức cấp cao Mỹ và các báo cáo liên quan của Bộ Ngoại giao Mỹ đã cung cấp tư liệu cho giới truyền thông Mỹ tiếp tục thổi phồng vấn đề Nam Hải. Trong 9 tháng nắm quyền đầu tiên của Biden, có ít nhất 254 phương tiện truyền thông ở Mỹ đã tham gia vào việc thổi phồng dư luận về vấn đề Nam Hải, với 3527 tin bài có liên quan.

Lợi thế về quyền phát ngôn quốc tế đã tạo điều kiện cho Chính quyền Biden xây dựng bầu không khí dư luận có lợi cho Mỹ. Theo thống kê của giới báo chí, kể từ khi Biden lên nắm quyền, 5 chủ đề lớn về vấn đề Nam Hải được quốc tế đưa tin vẫn là các chủ đề liên quan trực tiếp đến yêu sách của Trung Quốc ở Nam Hải như “đường 9 đoạn”, “tự do hàng hải”, “quân sự hóa”, “luật pháp quốc tế” và “hoạt động xây dựng các đảo và đá”. Trong 9 tháng đầu tiên Biden cầm quyền, các phương tiện truyền thông quốc tế đã trích dẫn và đăng lại tới 7060 bài báo liên quan đến Nam Hải của các phương tiện truyền thông chính thống của phương Tây như Reuters, The Associated Press, Deutsche Presse Presse, AFP, The New York Times, The Washington Post, CNN, BBC, Australian Broadcasting Corporation (ABC) và các kênh truyền thông mạng xã hội như Twitter và Facebook, nhiều gấp 5, 6 lần so với 1251 bài báo được truyền thông Trung Quốc trích dẫn và đăng lại. Việc quan điểm của Mỹ chiếm vị trí chủ đạo trong các bản tin quốc tế về vấn đề Nam Hải và các lập trường liên quan khác bị gạt bỏ, đã tạo điều kiện thuận lợi cho chính sách Nam Hải của Chính quyền Biden.

Chính sách Biển Đông của Mỹ khuấy đảo tình hình khu vực

Chính sách Nam Hải (Biển Đông) của Chính quyền Biden đã tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Nam Hải cũng như mối quan tâm của các nước xung quanh về an ninh khu vực, gây căng thẳng cho tình hình an ninh khu vực. Trong bối cảnh các nước như Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, Pháp và Đức có sự hồi âm tích cực, còn các nước như Philippines, Việt Nam và Indonesia có sự chuyển biến tiêu cực và thái độ đối với vấn đề Nam Hải, các chính sách liên quan của Chính quyền Biden đã mang lại những bất ổn mới cho tình hình Nam Hải vốn đã ổn định.

Tác động của quân đội Mỹ đối với an ninh khu vực Biển Đông

Các hành động khiêu khích, các cuộc tập trận quân sự dày đặc và “hoạt động tự do hàng hải” cảu quân đội Mỹ ở Nam Hải trực tiếp nhắm vào Trung Quốc đã gây sức ép rất lớn lên tình hình an ninh ở Nam Hải. Việc Mỹ lôi kéo các nước trong và ngoài khu vực liên tục tiến hành các cuộc tuần tra và tập trận ở các vùng biển xung quanh Trung Quốc sẽ khiến môi trường an ninh khu vực xấu đi, làm trầm trọng thêm tình hình chạy đua vũ trang và làm gia tăng những khó khăn về an ninh trong khu vực. Bên cạnh đó, các nước ngoài khu vực như Mỹ đã giúp các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở Nam Hải nâng cao năng lực của các lực lượng thực thi pháp luật và phòng vệ như lực lượng Cản sát biển, giúp họ nâng cao năng lực tuần tra và giám sát trong lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế thông qua đào tạo, huấn luyện, tập trận giao lưu và các hoạt động chung, khiến các bên tuyên bố chủ quyền tự tin hơn trong vấn đề xâm phạm quyền lợi biển.

Điều đáng chú ý là Chính quyền Biden ngày càng coi trọng việc “lợi dụng Đài Loan để kiểm soát Trung Quốc”, không ngừng đẩy mạnh hợp tác chính trị và quốc phòng với Chính quyền Đài Loan, đồng thời coi việc kiểm soát Nam Hải là biện pháp quan trọng để “bảo vệ” Đài Loan. Nhật Bản từ trước đến nay luôn có ý đồ lợi dụng tình hình căng thẳng ở Nam Hải để giảm bớt sức ép ở biển Hoa Đông, đã nhiều lần cử tàu chiến và máy bay đến Nam Hải để tuần tra hoặc tham gia các cuộc tập trận quân sự địa phương. Dưới sự thúc đẩy chung của Mỹ và Nhật Bản, tình hình ở Nam Hải, biển Hoa Đông và eo biển Đài Loan có thể cùng lúc nóng lên, làm gia tăng các nhân tố bất ổn cho an ninh của toàn bộ Đông Á.

Sức ép của việc nhiều nước ngoài khu vực gia nhập liên minh chính sách của Mỹ đối với an ninh khu vực Biển Đông

Lôi kéo các nước ngoài khu vực can thiệp vào vấn đề Nam Hải là biện pháp quen thuộc của Mỹ. Cùng với việc các cơ chế Bộ tứ bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ được củng cố, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ là những nước đầu tiên đi theo chính sách Nam Hải của Mỹ. Mỹ và Nhật Bản có lợi ích chiến lược chung trong việc đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, cả hai nước đều ủng hộ “tự do hàng hải” và “phán quyết của Tòa Trọng tài về Biển Đông”, đồng thời phản đối các yêu sách và Luật hải cảnh của Trung Quốc ở Nam Hải. Sau khi Biden lên nắm quyền, phạm vi tập trận quân sự Mỹ – Nhật đã mở rộng đến quần đảo Điếu Ngư. Đáp lại, trong chuyến thăm Mỹ, Yoshihide Suga bày tỏ ủng hộ “Hoạt động tự do hàng hải” của Mỹ ở Nam Hải và phản đối “những yêu sách và hành động đi ngược lại trật tự quốc tế ở Nam Hải” Australia là nước tiên phong đi theo chính sách Nam Hải của Mỹ. Dưới sự tác động của các quan chức chính phủ “thân Mỹ chống Trung Quốc”, Hải quân Australia đã đi qua Nam Hải 4 lần trong khoảng thời gian từ tháng 1 – 5/2021. Paul Dibb, cựu Thứ trưởng Quốc phòng Australia, nói rằng Australia cần phải chuẩn bị cho các trường hợp khẩn cấp về quân sự có thể xảy ra ở Nam Hải; Thủ tướng Australia Scott Morrison và Thủ tướng New Zealand Jacinda Ardern đã ra một tuyên bố chung bày tỏ hết sức quan ngại về việc “các đảo và đá đang tranh chấp ở Nam Hải tiếp tục bị quân sự hóa và các mối đe dọa an ninh khu vực liên quan”. Tháng 8/2021, Bộ Quốc phòng Ấn Độ đã thông báo cử một đội đặc nhiệm gồm 4 tàu chiến đến Nam Hải trong hai tháng để tập trận quân sự với Mỹ, Nhật Bản và Australia.

Anh, Pháp, Đức là những nước tiếp theo đi theo chính sách Nam Hải của Mỹ. Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ đã tạo ra cái cớ để các nước châu Âu can thiệp vào an ninh khu vực Nam Hải. Sau khi Biden lên nắm quyền, Anh đã đưa ra báo cáo với tiêu đề “NƯớc Anh toàn cầu trong thời đại cạnh tranh: Đánh giá toàn diện về an ninh, quốc phòng, phát triển và chính sách đối ngoại”, trong đó 27 lần đề cập đến cạnh tranh với Trung Quốc, từng bước thể hiện rõ chính sách can thiệp vào an ninh Nam Hải, đồng thời thông báo rằng Nhóm tác chiến tàu sân bay HMS Queen Elizabeth đã được điều động đến Nam Hải vào tháng 7/2021 để phô trương sức mạnh. Pháp đã công bố “Báo cáo chiến lược quốc phòng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”, trong đó nhấn mạnh sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ “hợp tác toàn diện” với Việt Nam, đồng thời đã cử tàu chiến đến vùng biển Nam Sa (Trường Sa) và Tây Sa (Hoàng Sa) ít nhất 12 lần trong nửa đầu năm 2021. Đức luôn tỏ ra tương đối thận trọng trong vấn đề Biển Đông, nhưng dưới sức ép của Mỹ cuối cùng cũng cử các tàu chiến mang tính tượng trưng đến tuần tra ở Nam Hải.

Dưới sự tác động của các nước như Mỹ, Anh và Pháp, Liên minh châu Âu (EU) và Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) cũng bắt đầu can thiệp vào các vấn đề an ninh của Nam Hải. Sau khi tuyên bố chung về tình hình ở Nam Hải lần đầu tiên được ban hành vào năm 2019, tháng 4/2021, EU đã một lần nữa cùng lên tiếng chỉ trích sự hiện diện của các tàu Trung Quốc ở đá Ba Đầu gây nguy hại cho hòa bình và ổn định ở Nam Hải, đồng thời cực lực phản đối “hành động đơn phương vi phạm quy tắc trật tự quốc tế”. Đồng thời, “Báo cáo chiến lược hợp tác Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của EU” do Hội đồng Đối ngoại EU ban hành cũng khẳng định tầm quan trọng trong việc triển khai lực lượng hải quân của các nước châu Âu ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, tăng cường hợp tác quốc phòng và cùng giải quyết các thách thức an ninh quốc tế như an ninh hàng hải. Tháng 5/2021, tuyên bố chung của Hội nghị Ngoại trưởng nhóm G7 bày tỏ quan ngại sâu sắc về vấn đề Biển Đông và eo biển Đài Loan, nhấn mạnh tầm quan trọng của “phán quyết của Tòa Trọng tài về Biển Đông”, và đưa vấn đề Nam Hải vào phạm vi cần quan tâm của chính sách. Chịu sự tác động của Mỹ, các nước như Nhật Bản, Australia, Canada, Anh và Pháp khi cử tàu chiến và máy bay đến tuần tra trên Nam Hải còn cố tình đi qua eo biển Đài Loan.

(còn tiếp)

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu các vấn đề quốc tế (TQ)

TLTKĐB – 24, 25, 26/06/2022

Ấn Độ lại tìm thấy thời cơ để kiềm chế Trung Quốc – Phần cuối


Trên thực tế, lý do khiến Ấn Độ tích cực tham gia Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ là để hiện thực hóa chiến lược hàng hải Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đây cũng chính là chiến lược trỗi dậy của Ấn Độ. Trong quá trình này, Ấn Độ cần phải có sự phối hợp và hỗ trợ của Mỹ và Nhật Bản để kiềm chế Trung Quốc, thực hiện sự dịch chuyển chuỗi giá trị và chuỗi sản xuất trên toàn cầu từ Trung Quốc sang Ấn Độ.

Khi dịch COVID-19 bùng phát ở Vũ Hán của Trung Quốc, Ấn Độ cho rằng thời cơ đã đến, vì vậy nước này đã tận dụng cuộc xung đột ở Thung lũng Galwan để loại bỏ ảnh hưởng của Trung Quốc về kinh tế. Tuy nhiên, Ấn Độ đã thúc đẩy chiến lược này được hơn hai năm nay và không đạt được kết quả gì, ít nhất là đến nay vẫn chưa đạt được kết quả rõ rệt nào. Tình hình dịch bệnh ở Trung Quốc hiện nay khiến Ấn Độ nhận thấy lại có cơ hội mới để tiếp nhận sự dịch chuyển ngành nghề, vì Ấn Độ tuyên bố rằng họ đã thoát khỏi dịch COVID-19, trong khi Trung Quốc đang bị ảnh hưởng rất lớn từ dịch bệnh. Ấn Độ cho rằng trong 10 năm tới là thời kỳ phát triển kinh tế của Ấn Độ, nên họ tích cực tuyên truyền ở trong và ngoài nước.

Một cơ hội khác là do xung đột Nga-Ukraine. Do các nước phương Tây cho rằng Trung Quốc biết trước kế hoạch của Putin tấn công Ukraine và Trung Quốc với Nga là một bên, nên họ cũng đang tích cực định hướng dư luận thế giới để làm cho người dân các nước tin tưởng và nhận định này.

Điều này khiến Ấn Độ nhận thấy thời cơ đã đến. Tất nhiên, khi xung đột Ukraine-Nga nổ ra, Ấn Độ cũng rất lo lắng. Họ lo lắng cuộc xung đột này sẽ làm giảm sự tập trung của Mỹ đối với Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, chuyển sự đầu tư của Mỹ ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương sang châu Âu, sau đó chỉ còn Ấn Độ và Trung Quốc đối đầu lẫn nhau. GIới chiến lược Ấn Độ cho rằng điều này chắc chắn là một cơn ác mộng đối với Ấn Độ.

Để ngăn chặn tình huống này xảy ra, Ấn Độ đang tích cực tham gia hợp tác song phương và tiểu đa phương với một số nước như Nhật Bản, Australia để giữ chân Mỹ. Một số chiến lược gia ở Ấn Độ cũng tích cực thuyết phục Mỹ không nên vì xung đột Nga-Ukraine mà giảm sự chú ý đối với Trung Quốc, nhắc nhở người Mỹ rằng Trung Quốc với là kẻ thù lớn nhất của họ. Do đó, Ấn Độ hiện đang tăng cường hợp tác kinh tế thương mại nhiều hơn với Nhật Bản và Australia, tăng cường kết nối kinh tế và khả năng phục hồi chuỗi cung ứng với các bên. Đồng thời, giữ chân Mỹ, không để Mỹ chuyển sự chú ý sang châu Âu.

Ngoài ra, Ấn Độ cũng đang tích cực phối hợp với các nước châu Âu. Một mặt, các nước châu Âu muốn Ấn Độ thay đổi lập trường trong vấn đề xung đột Nga-Ukraine, không nên tiếp tục mua nhiều dầu mỏ của Nga. Mặt khác, họ cũng muốn hợp tác với Ấn Độ để phát huy vai trò ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, do đó nhiều nhà lãnh đạo của các nước châu Âu đã tới thăm Ấn Độ. Sau đó, Modi cũng tích cực đến thăm châu Âu. Trong một thời gian ngắn, hai bên đã có sự tương tác rất tích cực.

Một mặt, Modi muốn giải thích trực tiếp với các nước châu Âu lý do khiến Ấn Độ có lập trường tương đối trung lập trong vấn đề Nga-Ukraine là vì nước này phụ thuộc nghiêm trọng vào vũ khí của Nga và sự tồn tại của mối đe dọa đến từ Trung Quốc. Mặt khác, Modi cũng muốn nhân cơ hội này thuyết phục một số nước như Đức chuyển đầu tư và công nghệ từ Trung Quốc sang Ấn Độ, giúp Ấn Độ trở thành trung tâm sản xuất mới của thế giới, thay thế Trung Quốc.

Chúng ta có thể thấy trong các chuyến thăm của Modi đến Đức, Pháp và một số nước Bắc Âu gần đây, nhiều thỏa thuận đều xoay quanh công nghệ tiên tiến của các nước này, như năng lượng hydro, năng lượng mặt trời, năng lượng tái tạo… Ngoài ra, còn có một số công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực vũ khí quốc phòng, đây là động thái nhằm làm giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu vũ khí của Nga.

Ấn Độ là nước láng giềng có tranh chấp lịch sử và biên giới lãnh thổ với Trung Quốc, có vị trí địa lý quan trọng để kiểm soát các tuyến đường hàng hải ở Ấn Độ Dương, là nền kinh tế kiểu mới và là quốc gia đang phát triển chỉ đứng sau Trung Quốc. Vị trí địa lý đặc biệt này và vị trí của Ấn Độ trong toàn bộ hệ thống quốc tế hiện hành đã khiến nước này trở thành đối tượng lôi kéo của các bên.

Hiện Ấn Độ vẫn duy trì thái độ hung hăng ở khu vực biên giới Trung – Ấn, vẫn hy vọng có thể dựa vào căng thẳng ở biên giới Trung – Ấn để kích động dư luận thế giới. Một mặt, nhằm giảm áp lực đối với Ấn Độ trong cuộc xung đột Nga – Ukraine, đồng thời khiến phương Tây tin rằng Ấn Độ có thể đóng vai trò lớn hơn trong việc kiềm chế và ngăn chặn Trung Quốc; mặt khác, Ấn Độ còn muốn lợi dụng hội nghị thượng đỉnh BRICS sắp được tổ chức tại Trung Quốc đê gây sức ép với Trung Quốc nhằm đạt được lợi ích thiết thực.

Nguồn: TLTKĐB – 28/06/2022

Ấn Độ lại tìm thấy thời cơ để kiềm chế Trung Quốc – Phần II


(-) Ngoài cuộc chiến thông tin, từ khi Thủ tướng Narendra Modi lên nắm quyền, với chính sách ngoại giao ưu tiên láng giềng, Ấn Độ thường xuyên “chìa cành ô liu” kinh tế sang các nước láng giềng. Gần đây, được sự hậu thuẫn của Mỹ, tư thế lôi kéo các nước tầm trung và nhỏ ở Nam Á, cũng như tăng cường cạnh tranh với Trung Quốc của Ấn Độ cũng trở nên rõ ràng hơn. Trong chuyến thăm tới Nepal gần đây, Modi cũng đã nhấn mạnh việc tăng cường trao đổi kết nối giữa hai nước. Động thái này khiến các nước bên ngoài cảm thấy Ấn Độ đang muốn chống lại ý tưởng “ngũ thông” (chính sách thông thoáng, đường sá liên thông, thương mại thông suốt, tiền tệ lưu thông và lòng dân thông hiểu – ND) trong Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc. Ông nhìn nhận như thế nào về vấn đề này?

(+) Xét từ lập trường của Trung Quốc, Trung Quốc hoan nghênh tất cả các nước thúc đẩy kết nối trong khu vực. Đặc biệt là trong kết nối về cơ sở hạ tầng, điều này rất quan trọng đối với các nước đang phát triển ở Nam Á, vì một trong những lý do khiến nền kinh tế của những nước này lạc hậu là do thiếu cơ sở hạ tầng và thiếu sự kết nối.

Một quốc gia hoàn toàn nằm trong lục địa như Nepal rất cần có sự đầu tư vào các cơ sở hạ tầng như đường bộ, đường sắt và lưới điện. Phần lớn nguyên liệu dùng cho sản xuất và sinh hoạt của Nepal đều phải nhập khẩu và Ấn Độ là một trong những nguồn nhập khẩu chính của nước này. Sự phụ thuộc kinh tế của Nepal vào Ấn Độ đã lên tới hơn 65%, khoảng 98% hàng hóa xuất nhập khẩu của Nepal với các nước thứ ba đều phải đi qua Ấn Độ. Đến một số mặt hàng thiết yếu như nhiên liệu, Nepal cũng gần như phụ thuộc hoàn toàn vào sự cung ứng của Ấn Độ. Tuy nhiên, Ấn Độ luôn coi sự phụ thuộc về kinh tế này là biện pháp để kiểm soát Nepal. Đây mới là điểm cốt lõi của vấn đề.

Trước đây, Ấn Độ ít kết nối với Nepal. Do đó, nếu Ấn Độ có thể thực hiện một số biện pháp để thúc đẩy việc xây dựng các tuyến đường bộ và đường sắt kết nối giữa Ấn Độ và Nepal, giúp Nepal thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu trở nên thuận tiện hơn, thì Trung Quốc rất hoan nghênh. Vì Trung Quốc cũng đang triển khai kết nối với Nepal, cũng muốn các cơ sở hạ tầng kết nối giữa Ấn Độ và Nepal sẽ được cải thiện, để sau này có thể thúc đẩy việc xây dựng hành lang kinh tế Trung Quốc – Nepal – Ấn Độ.

Tuy nhiên, tôi cho rằng ý đồ thực sự của Ấn Độ triển khai một số dự án ở Nepal là muốn giành được sự tin tưởng của người dân nước này, chứ không phải là mang lại lợi ích cho họ. Điều mà cái gọi là “kết nối” của Ấn Độ có thể nhấn mạnh hơn đến sự kết nối với con người, lôi kéo những người Nepal có tư tưởng thân Ấn Độ thông qua các dự án, trực tiếp mang đến lợi ích cho những người này, khiến họ càng thêm ủng hộ Ấn Độ.

Phần lớn các dự án kết nối do Ấn Độ thúc đẩy trong những năm gần đây, bao gồm cả việc cùng với Nhật Bản thúc đẩy Hành lang tăng trưởng Á – Phi, đều chú trọng vào việc nuôi dưỡng những người có tư tưởng thân Ấn Độ.

(-): Ngoài việc mong muốn các nước láng giềng chọn bên giữa Trung Quốc và Ấn Độ, Ấn D(ộ cũng tích cực triển khai đối thoại với Nhật Bản và châu Âu. Năm 2020, khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Ấn Độ từng muốn thay thế vị thế của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng và chuỗi sản xuất thế giới. Hiện tại, Ấn Độ không những đang có những động thái tương tự, mà còn hình thành mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn với Nhật Bản. Tất nhiên, dưới tác động của các yếu tố như xung đột Nga – Ukraine, Ấn Độ quả thực đã giành được một số lợi ích về chính trị và kinh tế. Ví dụ như theo thống kê của các phương tiện truyền thông nước ngoài, trong 4 tháng qua, Ấn Độ không những đã trở thành khách hàng mua dầu mỏ lớn nhất của Nga, mà còn tăng cường xuất khẩu dầu mỏ sang châu Âu. Ở trong nước, Ấn Độ cũng đang tuyên truyền về việc hiện nay đang là thời kỳ phát triển kinh tế của nước này. Ông nhìn nhận như thế nào về nhận định này? Liệu tình hình trước mắt có phải là xu hướng có lợi cho Ấn Độ hay không?

(+) Nhật Bản và Ấn Độ luôn rất coi trọng sự hợp tác giữa các ngành nghề. Nhật Bản cũng đã đầu tư rất lớn vào Ấn Độ, lý do khiến Nhật Bản đã giúp Ấn Độ xây dựng hành lang vàng từ Delhi đến Mumbai, xây dựng cơ sở hạ tầng và vành đai công nghiệp trong nhiều năm trước là muốn xây dựng Ấn Độ trở thành thị trường khác giống như Trung Quốc, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ để kiềm chế Trung Quốc. Sau khi dịch bệnh COVID-19 bùng phát, tận dụng cơ chế Đối thoại an ninh bốn bên (Bộ tứ), hai nước này cũng đang thảo luận về việc xây dựng một chuỗi cung ứng có thể thay thế Trung Quốc và có khả năng chống chịu hơn.

Chính phủ Nhật Bản đã đề xuất phương án “Trung Quốc + 1” cho các doanh nghiệp trong nước, yêu cầu các doanh nghiệp phải chọn một nước ngoài Trung Quốc để xây dựng chuỗi cung ứng. Bằng cách này, khi Trung Quốc xảy ra các vụ việc đột xuất thì chuỗi cung ứng và chuỗi sản xuất của Nhật Bản sẽ không bị gián đoạn.

Khi Mỹ phát động cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ cho rằng thời cơ đã đến, đưa ra nhiều chính sách ưu đãi, vận động các công ty xuyên quốc gia của Mỹ, phương Tây ở Trung Quốc dịch chuyển chuỗi sản xuất từ Trung Quốc sang Ấn Độ. HIện Ấn Độ cho rằng Mỹ và Nhật Bản đã nhận thức được việc không nên phụ thuộc quá nhiều vào chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng của Trung Quốc, do đó họ rất cố gắng để thay đổi hiện trạng này.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 28/06/2022

Ấn Độ lại tìm thấy thời cơ để kiềm chế Trung Quốc – Phần I


Gần đây, việc Ấn Độ tích cực rêu rao thuyết về “bẫy nợ của Trung Quốc”, lôi kéo các nước tầm trung và nhỏ ở Nam Á, thắt chặt hợp tác kinh tế với Nhật Bản, Australia, châu Âu… ngoài tìm kiếm cơ hội phát triển của mình, cũng đang dần lộ rõ ý đồ kiềm chế Trung Quốc.

Làm thế nào để đánh giá chiến lược của Ấn Độ đối với Trung Quốc hiện nay? Xoay quanh vấn đề này, trang mạng Người quan sát (-) số ra mới đây đã đăng bài phỏng vấn Lưu Tông Nghĩa (+), Thư ký Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc và Đông Á thuộc Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế Thượng Hải, Trung Quốc. Dưới đây là nội dung bài phỏng vấn:

(-): Ngày 11/5, Đại sứ Trung Quốc tại Bangladesh Lý Cực Minh gặp gỡ Ngoại trưởng Bangladesh Abul Kalam Abdul Momen, hai bên một lần nữa cùng xác nhận không tồn tại cái gọi là “bẫy nợ của Trung Quốc” ở Bangladesh. Gần đây, ở một số nước như Sri Lanka, Nepal, Pakistan… xuất hiện những bất ổn về chính trị và kinh tế, trong khi Ấn Độ luôn rêu rao thuyết về “bẫy nợ của Trung Quốc”. Liệu sự tuyên truyền không có gì mới mẻ này còn được đón nhận ở Nam Á hay không?

(+): Sự tuyên truyền này vẫn rất được đón nhận ở Ấn Độ. Nó là một phần trong cuộc chiến thông tin của Ấn Độ và phương Tây nhằm vào Trung Quốc. Trong vấn đề này, Ấn Độ thậm chí đóng vai trò định hướng rất xấu, bởi thuật ngữ “chủ nghĩa đế quốc chủ nợ” do học giả người Ấn Độ Brahma Chellaney đưa ra. Sau khi bài viết này của ông xuất hiện, nó đã được lan truyền rộng rãi ở phương Tây, khơi mào cho trào lưu dùng “bẫy nợ” để bôi nhọ Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc.

Sự tuyên truyền này cũng được đón nhận ở một số nước ở Nam Á như Sri Lanka, Nepal và Pakistan. Vì một số phần tử trí thức ở những nước này chịu ảnh hưởng của phương Tây trong thời gian dài, nên họ thườn gkhông tranh luận nhiều về thông tin tuyên truyền do phương Tây đưa ra, hoặc một số người ở trong nước nhận tiền của phương Tây chuyên tìm cách phá hoại mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước khác.

Tình hình này đặc biệt nổi bật ở Nepal. Phần lớn các hãng truyền thông lớn của Nepal đều đã bị phương Tây thâu tóm. Có thông tin cho rằng quỹ đầu tư George Soros đã chi rất nhiều tiền để hoạt động ở Nepal. Do đó, trong vấn đề liệu Nepal có nên phê chuẩn thỏa thuận Kế hoạch thách thức thiên niên kỷ (MCC) gần đây, giới truyền thông của nước này hoặc là không đưa ra bình luận hoặc là nghiêng về phía Mỹ.

Trên thực tế, kiểu dư luận này cũng tồn tại ở Bangladesh, nhưng hoàn toàn không giống với các nước khác như Nepal, Bangladesh hiện không tồn tại cuộc khủng hoảng nợ. Hiện nợ nước ngoài của Bangladesh chiếm khoảng 13 – 14% GDP, tron khi đó nợ nước ngoài của Sri Lanka trong năm 2021 chiếm khoảng 119% GDP. Trong số các nước chủ nợ của Sri Lanka, khoản cho vay của Trung Quốc còn ít hơn của Nhật Bản, chỉ chiếm khoảng 9%.

Hơn nữa, trong những năm gần đây, Bangladesh là nước có nền kinh tế phát triển nhất ở Nam Á, GDP bình quân đầu người trong năm 2021 đạt hơn 2000 USD, cao hơn cả Ấn Độ. Sở dĩ có được thành tựu này là do Bangladesh đã tìm ra được ngành thế mạnh của mình, đó chính là ngành sản xuất hàng may mặc.

Bên cạnh đó, tình hình chính trị của Bangladesh tương đối ổn định, hai chính đảng lớn của nước này có lập trường nhất quán trong vấn đề thúc đẩy mở cửa kinh tế. Bất kể đảng nào lên cầm quyền đều tập trung mọi nguồn lực để thúc đẩy chính sách mở cửa và có tính kế thừa về chính sách mạnh mẽ. Điều này cũng khác với các nước khác ở Nam Á, ví dụ như Pakistan sau khi thay đổi chính quyền đã có sự thay đổi tương đối lớn về chính sách. Ngoài ra, vấn đề tôn giáo cực đoan ở Bangladesh cũng không nghiêm trọng, họ luôn kiên trì tuân theo xu hướng thế tục hóa, đây cũng là lợi thế phát triển của nước này.

Trước sự tác động của các yếu tố như tình hình dịch COVID-19, Mỹ tăng lãi suất và xung đột Nga – Ukraine, lợi thế của Bangladesh càng được thể hiện rõ hơn, cho nên nước này không phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ nghiêm trọng như các nước Nam Á khác.

(-): Trong bài phát biểu trên truyền hình quốc gia vào ngày 16/5, Thủ tướng Sri Lanka Ranil Wickremesinghe cho biết: “Hôm nay, Bộ Tài chính muốn tìm được 1 triệu USD cũng là một thách thức”. Tại sao Sri Lanka lại đối mặt với một cuộc khủng hoảng nợ và cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng như vậy?

(+) Đối với các nước Nam Á, nợ được chia làm hai loại chính: một là nợ sản xuất; hai là nợ tiêu dùng. Hai loại nợ này hoàn toàn không giống nhau. Như nợ của Bangladesh về cơ bản là nợ sản xuất và nó có thể tạo thành vòng tuần hoàn tốt, điều này có nghĩa là các khoản nợ của Bangladesh có thể được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề địa phương và thu được ngoại hối thông qua hoạt động sản xuất, làm như vậy mới có đủ tiền để trả nợ, sau đó tiền dư thừa sẽ được tích lũy.

Tình hình hiện tại ở Sri Lanka tương đối nghiêm trọng. Kể từ khi Chính quyền Mahinda Rajapaksa lên cầm quyền đến nay, các khoản nợ của Sri Lanka chủ yếu được sử dụng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn. Điều này chắc chắn đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, cho nên trong giai đoạn đó, nền kinh tế của Sri Lanka phát triển tương đối tốt. Tuy nhiên, trong gần 2 năm qua, tình hình tài chính của Sri Lanka xuất hiện nhiều vấn đề nghiêm trọng. Mặc dù là quốc gia đang phát triển, nhưng Sri Lanka cũng là nhà nước phúc lợi (nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy phúc lợi kinh tế và xã hội của công dân – ND). Trong vấn đề giáo dục và y tế, do người dân Sri Lanka không cần phải trả tiền, khiến ngân sách hàng năm của nước này thu không đủ chi, nên trong hoàn cảnh hiện tại điều này đã tạo ra gánh nặng rất lớn cho ngân sách của Sri Lanka.

Dưới tác động của dịch COVID-19, việc Mỹ tăng lãi suất và xung đột Nga – Ukraine, ngành du lịch, một ngành trụ cột khác của Sri Lanka, cũng bị tác động nghiêm trọng. Cộng thêm các yếu tố như lượng kiều hối của người lao động ở nước ngoài giảm mạnh, đồng tiền mất giá và giá dầu quốc tế tăng mạnh, cũng như ở trong nước thực hiện các chính sách sai lầm như cắt giảm thuế hoặc yêu cầu toàn bộ nông dân sử dụng phân bón hữu cơ đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất chè và gạo, làm cho sản xuất nông nghiệp sụt giảm. Tất cả những yếu tố này đã khiến Sri Lanka bùng nổ cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 28/06/2022