Ấn Độ lại tìm thấy thời cơ để kiềm chế Trung Quốc – Phần II


(-) Ngoài cuộc chiến thông tin, từ khi Thủ tướng Narendra Modi lên nắm quyền, với chính sách ngoại giao ưu tiên láng giềng, Ấn Độ thường xuyên “chìa cành ô liu” kinh tế sang các nước láng giềng. Gần đây, được sự hậu thuẫn của Mỹ, tư thế lôi kéo các nước tầm trung và nhỏ ở Nam Á, cũng như tăng cường cạnh tranh với Trung Quốc của Ấn Độ cũng trở nên rõ ràng hơn. Trong chuyến thăm tới Nepal gần đây, Modi cũng đã nhấn mạnh việc tăng cường trao đổi kết nối giữa hai nước. Động thái này khiến các nước bên ngoài cảm thấy Ấn Độ đang muốn chống lại ý tưởng “ngũ thông” (chính sách thông thoáng, đường sá liên thông, thương mại thông suốt, tiền tệ lưu thông và lòng dân thông hiểu – ND) trong Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc. Ông nhìn nhận như thế nào về vấn đề này?

(+) Xét từ lập trường của Trung Quốc, Trung Quốc hoan nghênh tất cả các nước thúc đẩy kết nối trong khu vực. Đặc biệt là trong kết nối về cơ sở hạ tầng, điều này rất quan trọng đối với các nước đang phát triển ở Nam Á, vì một trong những lý do khiến nền kinh tế của những nước này lạc hậu là do thiếu cơ sở hạ tầng và thiếu sự kết nối.

Một quốc gia hoàn toàn nằm trong lục địa như Nepal rất cần có sự đầu tư vào các cơ sở hạ tầng như đường bộ, đường sắt và lưới điện. Phần lớn nguyên liệu dùng cho sản xuất và sinh hoạt của Nepal đều phải nhập khẩu và Ấn Độ là một trong những nguồn nhập khẩu chính của nước này. Sự phụ thuộc kinh tế của Nepal vào Ấn Độ đã lên tới hơn 65%, khoảng 98% hàng hóa xuất nhập khẩu của Nepal với các nước thứ ba đều phải đi qua Ấn Độ. Đến một số mặt hàng thiết yếu như nhiên liệu, Nepal cũng gần như phụ thuộc hoàn toàn vào sự cung ứng của Ấn Độ. Tuy nhiên, Ấn Độ luôn coi sự phụ thuộc về kinh tế này là biện pháp để kiểm soát Nepal. Đây mới là điểm cốt lõi của vấn đề.

Trước đây, Ấn Độ ít kết nối với Nepal. Do đó, nếu Ấn Độ có thể thực hiện một số biện pháp để thúc đẩy việc xây dựng các tuyến đường bộ và đường sắt kết nối giữa Ấn Độ và Nepal, giúp Nepal thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu trở nên thuận tiện hơn, thì Trung Quốc rất hoan nghênh. Vì Trung Quốc cũng đang triển khai kết nối với Nepal, cũng muốn các cơ sở hạ tầng kết nối giữa Ấn Độ và Nepal sẽ được cải thiện, để sau này có thể thúc đẩy việc xây dựng hành lang kinh tế Trung Quốc – Nepal – Ấn Độ.

Tuy nhiên, tôi cho rằng ý đồ thực sự của Ấn Độ triển khai một số dự án ở Nepal là muốn giành được sự tin tưởng của người dân nước này, chứ không phải là mang lại lợi ích cho họ. Điều mà cái gọi là “kết nối” của Ấn Độ có thể nhấn mạnh hơn đến sự kết nối với con người, lôi kéo những người Nepal có tư tưởng thân Ấn Độ thông qua các dự án, trực tiếp mang đến lợi ích cho những người này, khiến họ càng thêm ủng hộ Ấn Độ.

Phần lớn các dự án kết nối do Ấn Độ thúc đẩy trong những năm gần đây, bao gồm cả việc cùng với Nhật Bản thúc đẩy Hành lang tăng trưởng Á – Phi, đều chú trọng vào việc nuôi dưỡng những người có tư tưởng thân Ấn Độ.

(-): Ngoài việc mong muốn các nước láng giềng chọn bên giữa Trung Quốc và Ấn Độ, Ấn D(ộ cũng tích cực triển khai đối thoại với Nhật Bản và châu Âu. Năm 2020, khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Ấn Độ từng muốn thay thế vị thế của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng và chuỗi sản xuất thế giới. Hiện tại, Ấn Độ không những đang có những động thái tương tự, mà còn hình thành mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn với Nhật Bản. Tất nhiên, dưới tác động của các yếu tố như xung đột Nga – Ukraine, Ấn Độ quả thực đã giành được một số lợi ích về chính trị và kinh tế. Ví dụ như theo thống kê của các phương tiện truyền thông nước ngoài, trong 4 tháng qua, Ấn Độ không những đã trở thành khách hàng mua dầu mỏ lớn nhất của Nga, mà còn tăng cường xuất khẩu dầu mỏ sang châu Âu. Ở trong nước, Ấn Độ cũng đang tuyên truyền về việc hiện nay đang là thời kỳ phát triển kinh tế của nước này. Ông nhìn nhận như thế nào về nhận định này? Liệu tình hình trước mắt có phải là xu hướng có lợi cho Ấn Độ hay không?

(+) Nhật Bản và Ấn Độ luôn rất coi trọng sự hợp tác giữa các ngành nghề. Nhật Bản cũng đã đầu tư rất lớn vào Ấn Độ, lý do khiến Nhật Bản đã giúp Ấn Độ xây dựng hành lang vàng từ Delhi đến Mumbai, xây dựng cơ sở hạ tầng và vành đai công nghiệp trong nhiều năm trước là muốn xây dựng Ấn Độ trở thành thị trường khác giống như Trung Quốc, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ để kiềm chế Trung Quốc. Sau khi dịch bệnh COVID-19 bùng phát, tận dụng cơ chế Đối thoại an ninh bốn bên (Bộ tứ), hai nước này cũng đang thảo luận về việc xây dựng một chuỗi cung ứng có thể thay thế Trung Quốc và có khả năng chống chịu hơn.

Chính phủ Nhật Bản đã đề xuất phương án “Trung Quốc + 1” cho các doanh nghiệp trong nước, yêu cầu các doanh nghiệp phải chọn một nước ngoài Trung Quốc để xây dựng chuỗi cung ứng. Bằng cách này, khi Trung Quốc xảy ra các vụ việc đột xuất thì chuỗi cung ứng và chuỗi sản xuất của Nhật Bản sẽ không bị gián đoạn.

Khi Mỹ phát động cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ cho rằng thời cơ đã đến, đưa ra nhiều chính sách ưu đãi, vận động các công ty xuyên quốc gia của Mỹ, phương Tây ở Trung Quốc dịch chuyển chuỗi sản xuất từ Trung Quốc sang Ấn Độ. HIện Ấn Độ cho rằng Mỹ và Nhật Bản đã nhận thức được việc không nên phụ thuộc quá nhiều vào chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng của Trung Quốc, do đó họ rất cố gắng để thay đổi hiện trạng này.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 28/06/2022

Advertisement

Ấn Độ lại tìm thấy thời cơ để kiềm chế Trung Quốc – Phần I


Gần đây, việc Ấn Độ tích cực rêu rao thuyết về “bẫy nợ của Trung Quốc”, lôi kéo các nước tầm trung và nhỏ ở Nam Á, thắt chặt hợp tác kinh tế với Nhật Bản, Australia, châu Âu… ngoài tìm kiếm cơ hội phát triển của mình, cũng đang dần lộ rõ ý đồ kiềm chế Trung Quốc.

Làm thế nào để đánh giá chiến lược của Ấn Độ đối với Trung Quốc hiện nay? Xoay quanh vấn đề này, trang mạng Người quan sát (-) số ra mới đây đã đăng bài phỏng vấn Lưu Tông Nghĩa (+), Thư ký Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc và Đông Á thuộc Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế Thượng Hải, Trung Quốc. Dưới đây là nội dung bài phỏng vấn:

(-): Ngày 11/5, Đại sứ Trung Quốc tại Bangladesh Lý Cực Minh gặp gỡ Ngoại trưởng Bangladesh Abul Kalam Abdul Momen, hai bên một lần nữa cùng xác nhận không tồn tại cái gọi là “bẫy nợ của Trung Quốc” ở Bangladesh. Gần đây, ở một số nước như Sri Lanka, Nepal, Pakistan… xuất hiện những bất ổn về chính trị và kinh tế, trong khi Ấn Độ luôn rêu rao thuyết về “bẫy nợ của Trung Quốc”. Liệu sự tuyên truyền không có gì mới mẻ này còn được đón nhận ở Nam Á hay không?

(+): Sự tuyên truyền này vẫn rất được đón nhận ở Ấn Độ. Nó là một phần trong cuộc chiến thông tin của Ấn Độ và phương Tây nhằm vào Trung Quốc. Trong vấn đề này, Ấn Độ thậm chí đóng vai trò định hướng rất xấu, bởi thuật ngữ “chủ nghĩa đế quốc chủ nợ” do học giả người Ấn Độ Brahma Chellaney đưa ra. Sau khi bài viết này của ông xuất hiện, nó đã được lan truyền rộng rãi ở phương Tây, khơi mào cho trào lưu dùng “bẫy nợ” để bôi nhọ Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc.

Sự tuyên truyền này cũng được đón nhận ở một số nước ở Nam Á như Sri Lanka, Nepal và Pakistan. Vì một số phần tử trí thức ở những nước này chịu ảnh hưởng của phương Tây trong thời gian dài, nên họ thườn gkhông tranh luận nhiều về thông tin tuyên truyền do phương Tây đưa ra, hoặc một số người ở trong nước nhận tiền của phương Tây chuyên tìm cách phá hoại mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước khác.

Tình hình này đặc biệt nổi bật ở Nepal. Phần lớn các hãng truyền thông lớn của Nepal đều đã bị phương Tây thâu tóm. Có thông tin cho rằng quỹ đầu tư George Soros đã chi rất nhiều tiền để hoạt động ở Nepal. Do đó, trong vấn đề liệu Nepal có nên phê chuẩn thỏa thuận Kế hoạch thách thức thiên niên kỷ (MCC) gần đây, giới truyền thông của nước này hoặc là không đưa ra bình luận hoặc là nghiêng về phía Mỹ.

Trên thực tế, kiểu dư luận này cũng tồn tại ở Bangladesh, nhưng hoàn toàn không giống với các nước khác như Nepal, Bangladesh hiện không tồn tại cuộc khủng hoảng nợ. Hiện nợ nước ngoài của Bangladesh chiếm khoảng 13 – 14% GDP, tron khi đó nợ nước ngoài của Sri Lanka trong năm 2021 chiếm khoảng 119% GDP. Trong số các nước chủ nợ của Sri Lanka, khoản cho vay của Trung Quốc còn ít hơn của Nhật Bản, chỉ chiếm khoảng 9%.

Hơn nữa, trong những năm gần đây, Bangladesh là nước có nền kinh tế phát triển nhất ở Nam Á, GDP bình quân đầu người trong năm 2021 đạt hơn 2000 USD, cao hơn cả Ấn Độ. Sở dĩ có được thành tựu này là do Bangladesh đã tìm ra được ngành thế mạnh của mình, đó chính là ngành sản xuất hàng may mặc.

Bên cạnh đó, tình hình chính trị của Bangladesh tương đối ổn định, hai chính đảng lớn của nước này có lập trường nhất quán trong vấn đề thúc đẩy mở cửa kinh tế. Bất kể đảng nào lên cầm quyền đều tập trung mọi nguồn lực để thúc đẩy chính sách mở cửa và có tính kế thừa về chính sách mạnh mẽ. Điều này cũng khác với các nước khác ở Nam Á, ví dụ như Pakistan sau khi thay đổi chính quyền đã có sự thay đổi tương đối lớn về chính sách. Ngoài ra, vấn đề tôn giáo cực đoan ở Bangladesh cũng không nghiêm trọng, họ luôn kiên trì tuân theo xu hướng thế tục hóa, đây cũng là lợi thế phát triển của nước này.

Trước sự tác động của các yếu tố như tình hình dịch COVID-19, Mỹ tăng lãi suất và xung đột Nga – Ukraine, lợi thế của Bangladesh càng được thể hiện rõ hơn, cho nên nước này không phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ nghiêm trọng như các nước Nam Á khác.

(-): Trong bài phát biểu trên truyền hình quốc gia vào ngày 16/5, Thủ tướng Sri Lanka Ranil Wickremesinghe cho biết: “Hôm nay, Bộ Tài chính muốn tìm được 1 triệu USD cũng là một thách thức”. Tại sao Sri Lanka lại đối mặt với một cuộc khủng hoảng nợ và cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng như vậy?

(+) Đối với các nước Nam Á, nợ được chia làm hai loại chính: một là nợ sản xuất; hai là nợ tiêu dùng. Hai loại nợ này hoàn toàn không giống nhau. Như nợ của Bangladesh về cơ bản là nợ sản xuất và nó có thể tạo thành vòng tuần hoàn tốt, điều này có nghĩa là các khoản nợ của Bangladesh có thể được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề địa phương và thu được ngoại hối thông qua hoạt động sản xuất, làm như vậy mới có đủ tiền để trả nợ, sau đó tiền dư thừa sẽ được tích lũy.

Tình hình hiện tại ở Sri Lanka tương đối nghiêm trọng. Kể từ khi Chính quyền Mahinda Rajapaksa lên cầm quyền đến nay, các khoản nợ của Sri Lanka chủ yếu được sử dụng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn. Điều này chắc chắn đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, cho nên trong giai đoạn đó, nền kinh tế của Sri Lanka phát triển tương đối tốt. Tuy nhiên, trong gần 2 năm qua, tình hình tài chính của Sri Lanka xuất hiện nhiều vấn đề nghiêm trọng. Mặc dù là quốc gia đang phát triển, nhưng Sri Lanka cũng là nhà nước phúc lợi (nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy phúc lợi kinh tế và xã hội của công dân – ND). Trong vấn đề giáo dục và y tế, do người dân Sri Lanka không cần phải trả tiền, khiến ngân sách hàng năm của nước này thu không đủ chi, nên trong hoàn cảnh hiện tại điều này đã tạo ra gánh nặng rất lớn cho ngân sách của Sri Lanka.

Dưới tác động của dịch COVID-19, việc Mỹ tăng lãi suất và xung đột Nga – Ukraine, ngành du lịch, một ngành trụ cột khác của Sri Lanka, cũng bị tác động nghiêm trọng. Cộng thêm các yếu tố như lượng kiều hối của người lao động ở nước ngoài giảm mạnh, đồng tiền mất giá và giá dầu quốc tế tăng mạnh, cũng như ở trong nước thực hiện các chính sách sai lầm như cắt giảm thuế hoặc yêu cầu toàn bộ nông dân sử dụng phân bón hữu cơ đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất chè và gạo, làm cho sản xuất nông nghiệp sụt giảm. Tất cả những yếu tố này đã khiến Sri Lanka bùng nổ cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 28/06/2022

Ấn Độ muốn kéo ASEAN lại gần nhóm “Bộ tứ”


Theo tờ Nikkei Asia, Ấn Độ đang đón các ngoại trưởng từ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong bối cảnh New Delhi tìm cách thể hiện như một đối tác ổn định của ASEAN – một khối đang bị giằng xé giữa Mỹ và Trung Quốc.

Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ S. Jaishankar và người đồng cấp Vivian Balakrishnan của Singapore là những người đồng chủ trì hội nghị đặc biệt kỷ niệm 30 năm qua hệ đối tác Ấn Độ – ASEAN và một thập kỷ quan hệ đối tác chiến lược giữa hai bên. Đây là hội nghị đầu tiên được tổ chức tại New Delhi.

Phát biểu khai mạc Hội nghị đặc biệt Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-Ấn Độ, Bộ trưởng Jaishankar nhấn mạnh: “Vai trò của ASEAN đang quan trọng hơn bao giờ hết trong lúc thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức địa-chính trị và bất ổn”.

Các chuyên gia cho rằng việc Ấn Độ chìa tay với Đông Nam Á là rất quan trọng khi nước này là một thành viên của nhóm “Bộ tứ” (QUAD), một liên minh an ninh lỏng lẻo có sự tham gia của cả Mỹ, Nhật Bản và Australia. Nhóm “Bộ tứ” đã đưa ra quan điểm nhấn mạnh vai trò trung tâm của ASEAN trong việc xây dựng “khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở” – một uyển ngữ thường được dùng để đề cập tới các nỗ lực nhằm kiềm chế ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Trung Quốc.

Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị đặc biệt Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-Ấn Độ, Bộ trưởng Jaishankar tái khẳng định quan điểm trên khi cho rằng: “Ấn Độ hoàn toàn ủng hộ một ASEAN mạnh mẽ, thống nhất và thịnh vượng, với vai trò trung tâm ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương được thừa nhận”.

Chuyên gia Harsh V. Pant, Phó Chủ tịch tổ chức Observer Research Foundation có trụ sở tại New Delhi, nhận định: “Với tất cả những gì đang diễn ra ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nơi nhóm “Bộ tứ” đang đóng vai trò nổi bật, phần lớn chính sách của Ấn Độ đối với khu vực này là tập trung vào ASEAN”. Ông Pant cho rằng điều quan trọng đối với Ấn Độ là tạo kết nối thực chất với ASEAN và chứng tỏ rằng nước này có thể là “một đối tác tin cậy” của khối, cả về mặt hợp tác kinh tế lẫn an ninh.

Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-Ấn Độ diễn ra sau khi hai quan chức trong đảng cầm quyền của Thủ tướng Modi đã có các phát biểu chống lại đạo Hồi, làm dấy lên làn sóng chỉ trích, chủ yếu từ các quốc gia Đông Nam Á có đông người theo đạo Hồi như Indonesia và Malaysia. Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn đối với khu vực này là tình trạng căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington.

Trong bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore vào tuần trước, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin khẳng định các động thái của Trung Quốc đang “đe dọa phá hoại an ninh, ổn định và thịnh vượng ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. “Các quốc gia Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đáng ra không nên đối mặt với sự đe dọa chính trị, cưỡng ép kinh tế hoặc các hành động quấy rối bởi các lực lượng dân quân trên biển”.

Ngay này hôm sau, tại diễn đàn này, người đồng cấp Wei Fenghe của Trung Quốc đã có phản ứng mạnh mẽ khi nói rằng sẽ là “một sai lầm lịch sử và chiến lược nếu cứ khăng khăng coi Trung Quốc là mối đe dọa, là đối thủ, hoặc thậm chí là kẻ thù”. Ông Wei đề nghị Mỹ “ngừng bôi nhọ và kiềm chế Trung Quốc, ngừng can thiệp vào các công việc nội bộ của Trung Quốc và ngừng làm tổn hại đến các lợi ích của Trung Quốc”.

Trong bối cảnh cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc đang trở nên gay gắt, chuyên gian Pant cho rằng “đây là thời điểm đặc biệt dễ bị tổn thương đối với các nước thành viên ASEAN do các nước này có xu hướng cân bằng mối quan hệ với Mỹ và Trung Quốc”.

Theo ông Pankaj Jha, Giáo sư Đại học Toàn cầu O.P. Jindal (Ấn Độ), ASEAN “không thể công khai chống lại Trung Quốc, nhưng ở đâu đó, họ cần được bảo vệ hoặc đảm bảo an ninh”. Vì vậy, họ đang nhìn vào các quốc gia như Nhật Bản, Ấn Độ và Hàn Quốc – những quốc iga không tập trung vào Trung Quốc hay Mỹ”. “Các nước này đang đóng vai trò bước đệm để ASEAN thực sự hướng tới các mục tiêu an ninh hàng hải và khu vực lớn hơn của mình”.

Giáo sư Jha cũng lưu ý rằng sự can dự của Ấn Độ đối với ASEAN, bao gồm cả hội nghị đặc biệt này, là “rất quan trọng cho các dấu ấn chiến lược và hàng hải của nhóm “Bộ tứ” ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Tại hội nghị thượng đỉnh ở Nhật Bản hồi tháng 5, nhóm “Bộ tứ” đã khởi động sáng kiến “Nhận thức về Lĩnh vực Hàng hải ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”, theo đó nhóm này sẽ hợp tác với các đối tác trong khu vực để ứng phó với các thảm họa nhân đạo và thiên tai, cũng như chống đánh bắt cá bất hợp pháp.

Trong khi đó, Mỹ cũng đã công bố Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPEF) nhằm thúc đẩy khả năng phục hồi, bền vững, bao trùm, tăng trưởng kinh tế, công bằng và khả năng cạnh tranh của khu vực này. Ấn Độ và một số nước thành viên ASEAN, bao gồm Indonesia, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Brunei, là những quốc gia đầu tiên tham gia IPEF.

Giáo sư Jha nói: “Nếu bạn nhìn vào các sáng kiến như Nhận thức về Lĩnh vực hàng hải Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương hoặc IPEF, họ (các nước ASEAN) cần loại kết nối đó, loại hỗ trợ đó, điều thực sự cần thiết cho các nước ASEAN”. Ông nói thêm rằng Hội nghị Đặc biệt Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ-ASEAN sẽ tìm cách để tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như vậy trong tương lai gần.

Nguồn: TKNB – 20/06/2022

Mục đích Ấn Độ ký thỏa thuận quốc phòng với Việt Nam


Nhân chuyến thăm Việt Nam từ ngày 7 – 10/6 của Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ, hai bên đã ký Tuyên bố Tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng song phương đến năm 2030. Thỏa thuận này ra đời trong bối cảnh Ấn Độ tăng cường hiện diện hàng hải ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cũng như tăng cường liên kết quốc phòng với Đông Nam Á.

Ngoài ra, hai nước còn ký kết bản Thỏa thuận Ghi nhớ (MoU) về hỗ trợ hậu cần quân sự, thỏa thuận đầu tiên kiểu này của Việt Nam, cho phép quân đội hai nước sử dụng các căn cứ của nhau để sửa chữa và tiếp tế. Cũng trong khuôn khổ chuyến thăm, phía Ấn Độ đã bàn giao cho Việt Nam 12 tàu tuần tra cao tốc. Những động thái này cho phép hai nước mở rộng đáng kể quan hệ quốc phòng và an ninh – tất cả đều nhắm vào Trung Quốc.

Năm 2016, Ấn Độ đã mở rộng cho Việt Nam một hạn mức tín dụng 500 triệu USD để cung cấp hoặc cùng sản xuất vũ khí quốc phòng với New Delhi. Việt Nam được cho là đang tìm cách mua tên lửa siêu thanh tầm trung Brahmos do Ấn Độ sản xuất.

Ấn Độ và Việt Nam có mối quan hệ quốc phòng ngày càng sâu sắc, được thúc đẩy bởi những lo ngại chung về sự quyết liệt ngày càng tăng của Trung Quốc. Ấn Độ có căng thẳng biên giới với Trung Quốc. Việt Nam có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông và từng phản đối Bắc Kinh tập trận tại khu vực tranh chấp.

Tiến sĩ Rajeswari Pillai Rajagopalan thuộc Quỹ nghiên cứu quan sát (ORF) có trụ sở tại New Delhi, cũng chỉ ra rằng trong khi thỏa thuận hậu cần là hiệp định đầu tiên kiểu này của Việt Nam thì Ấn Độ lại từng ký với nhiều nước. Bà nói: “Tôi nghĩ điều quan trọng là phải xem Ấn Độ ký kiểu thỏa thuậ này với những nước nào. Ấn Độ chủ yếu ký với các cường quốc Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương – những nước vẫn cảnh giác với Trung Quốc, như Australia, Singapore, Nhật Bản và Mỹ. Và nay, việc Ấn Độ ký kết thỏa thuận này với Việt Nam cho thấy mối đe dọa Trung Quốc là lớn trong suy nghĩ của chúng tôi”. Bên cạnh đó bà Rajeswari còn nhận định: “Những thỏa thuận này sẽ mang lại cho Ấn Độ một chỗ đứng vững chắc hơn ở Việt Nam. Ấn Độ sẽ tìm cách tiếp tục cải thiện quan hệ với Việt Nam”.

Ấn Độ với tư cách là cường quốc châu Á, cũng mong muốn hiện diện lớn hơn ở Đông Nam Á và ở Biển Đông.

Theo Tiến sĩ Rajagopalan, trong khi Ấn Độ khó có khả năng tiến hành một cuộc tuần tra chung với Mỹ thì New Delhi lại “từng bước” đang thực hiện những thay đổi trong cách tiếp cận với Đông Nam Á bằng cách can dự lớn hơn về quốc phòng.

Cựu Tư lệnh Bộ chỉ huy phương Bắc thuộc Lục quân Ấn Độ, ông D.S. Hooda cho rằng, hợp tác quốc phòng thân thiết hơn có thể giúp hai nước ứng phó với mọi tình huống cần tới sự phối hợp quân sự chung. Trung tướng về hưu Hooda nhấn mạnh: “Thỏa thuận giúp các nước có thể hỗ trợ nhau thúc đẩy năng lực quốc phòng về huấn luyện và chia sẻ hậu cần. Một số cảng của Việt Nam có thể hỗ trợ cho hải quân Ấn Độ và ngược lại. Nếu phát sinh tình huống thì có cách để hải quân hai nước hoạt động hỗ trợ nhau”. Bên cạnh đó, ông chỉ ra rằng việc tăng cường quan hệ với Việt Nam cũng cho thấy các tham vọng hàng hải của Ấn Độ.

Theo ông Hooda, “bất chấp Trung Quốc đã có nhiều ảnh hưởng ở Đông Nam Á, Ấn Độ vẫn muốn thấy ảnh hưởng của mình tại khu vực này ngày càng gia tăng”.

Các nguồn tin quốc phòng cho biết, ngoài Philippines, Việt Nam nằm trong số các nước đang xem xét mua tên lửa siêu thanh Brahmos của Ấn Độ và chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Rajnath Singh có thể tạo đà cho các kế hoạch của Hà Nội.

Theo Bộ Quốc phòng Ấn Độ, nước này và Việt Nam đã thiết lập Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện từ năm 2016, trong đó hợp tác quốc phòng là trụ cột chính. Chính phủ Ấn Độ đánh giá Việt Nam là đối tác quan trọng trong chính sách Hành động Hướng Đông cũng như tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của New Delhi.

Lý do cuộc gặp cấp bộ trưởng quốc phòng Việt Nam – Ấn Độ có ý nghĩa quan trọng?

Theo các quan chức quốc phòng, chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Rajnath Singh và việc ký kết các thỏa thuận quốc phòng quan trọng phản ánh mối quan hệ hợp tác quốc phòng ngày càng tăng giữa New Delhi và Hà Nội. Một quan chức nói: “Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực hàng hải, khi Trung Quốc tiếp tục phô trương sức mạnh ở Biển Đông trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ giữa Bắc Kinh với Việt Nam tại khu vực này ngày càng gia tăng”.

Các nguồn tin quốc phòng dự đoán rằng Ấn Độ cũng có thể tặng Việt Nam tàu hộ tống lớp Khukri có khả năng là tàu INS Kirpan – phương tiện đang phục vụ trong Hải quân Ấn Độ. Điều này minh chứng cho sự tin cậy và gắn bó giữa hai nước.

Các nguồn tin Chính phủ Ấn Độ cho rằng Việt Nam không dễ dàng tin tưởng hầu hết các cường quốc và hoài nghi về việc ký các thỏa thuận quốc phòng với họ, mặc dù lĩnh vực này vẫn là trọng tâm của Hà Nội trong thập kỷ qua.

Một quan chức quốc phòng Ấn Độ nêu rõ: “Tuy nhiên, tuyên bố tầm nhìn giữa hai nước kéo dài 10 năm và thỏa thuận hậu cần – hiệp định lớn đầu tiên như vậy được Việt Nam chọn ký kết với Ấn Độ, đã phản ánh quan hệ hợp tác ngày càng sâu sắc giữa hai nước”.

Yếu tố Trung Quốc và an ninh hàng hải giữa Ấn Độ – Việt Nam

Hãng News18 dẫn lời ông Rajiv Bhatia, một chuyên gia tại tổ chức Gateway House, nói rằng chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Rajnath Singh rất đáng chú ý. Theo ông, “trong khi quan hệ hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam trước kia tập trung vào các lĩnh vực kinh tế và chính trị, thì quan hệ hợp tác quốc phòng sâu sắc hơn giữa hai nước đã trở thành trọng tâm trong vài năm trở lại đây”. Ông nhận định: “Sẽ có một cuộc đối thoại toàn diện nhằm thúc đẩy quan hệ Ấn Độ – Việt Nam. Trong bối cảnh cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung đang diễn ra tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, Việt Nam đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với cả Ấn Độ và Mỹ. Điều đó cũng chỉ ra mong muốn chung nhằm buộc Trung Quốc phải tuân theo các nguyên tắc và quy định của luật pháp quốc tế”.

Chủ tịch Viện nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Đại học Tổng hợp Jawaharlal Nehru (JNU), ông Baladas Ghoshal nói rằng Việt Nam là đồng minh thân thiết của Ấn Độ và do vậy chuyến thăm lần này củ Bộ trưởng Rajnath Singh có ý nghĩa quan trọng vì xây dựng quan hệ hợp tác là một quá trình liên tục. Chuyên gia Đông Nam Á Ghoshal cho rằng “trong số các yếu tố lịch sử, yếu tố Việt Nam có truyền thống chống lại bất cứ sức ép nào của Trung Quốc đã đẩy hai nước xích lại gần nhau hơn và hợp tác quốc phòng là một yếu tố quan trọng trong đó, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng hải vốn là trọng tâm xét theo nhận thức về các mối đe dọa đang nổi lên”.

Bộ Quốc phòng Ấn Độ đánh giá rằng, Ấn Độ và Việt Nam tiếp tục có mối quan hệ tin cậy nhất trong thời đại hiện nay với sự hội tụ rộng rãi hơn về các lợi ích và mối quan tâm chung. Bộ này nhấn mạnh: “Các cam kết quốc phòng song phương đã mở rộng theo thời gian bao gồm các cuộc tiếp xúc song phương trên phạm vi rộng, trong đó có Đối thoại chính sách quốc phòng, trao đổi quân sự, các chuyến thăm cấp cao, xây dựng năng lực và các chương trình đào tạo, hợp tác trong khuôn khổ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, các chuyến thăm tàu và tập trận chung.

Bộ Quốc phòng Ấn Độ cho biết, chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Rajnath Singh nhằm mục đích củng cố hơn nữa quan hệ quốc phòng song phương cũng như quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Việt Nam, một quốc gia quan trọng của ASEAN, có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc trong khu vực chiến lược Biển Đông. Ấn Độ, Mỹ và một số cường quốc khác trên thế giới đã thảo luận về sự cần thiết phải đảm bảo một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do, rộng mở và phát triển mạnh trong bối cảnh Trung Quốc hoạt động quân sự mạnh mẽ trong khu vực mặc dù Đài Loan, Philippines, Brunei, Malaysia và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền. Bắc Kinh đã xây dựng các đảo nhân tạo và các cơ sở quân sự ở Biển Đông. Ấn Độ có các dự án thăm dò dầu khí trong vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông. Ấn Độ và Việt Nam đang đẩy mạnh hợp tác an ninh hàng hải trong vài năm gần đây để bảo vệ lợi ích chung. Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Ấn Độ – Việt Nam và 75 năm Độc lập của Ấn Độ sẽ củng cố hơn nữa quan hệ song phương.

Nguồn: TKNB – 13/06/2022

Tại sao Ấn Độ “chơi thân” với Nga nhưng vẫn làm “bạn” với Mỹ? – Phần cuối


Chính sách ngoại giao khôn khéo

Chuyên gia tại Viện nghiên cứu Takshashila Manoj Kewalramani cho rằng những điểm tương đồng này chỉ là bề nổi. Thực ra, phản ứng của Trung Quốc và Ấn Độ có nhiều khác biệt.

Nếu như Trung Quốc lên tiếng chỉ trích các biện pháp trừng phạt, đổ lỗi cho Mỹ và NATO gây ra cuộc khủng hoảng. Truyền thông của Bắc Kinh đưa thông tin sai lệch, ủng hộ các luận điểm của Moskva thì Ấn Độ tránh đề cập đến vai trò của NATO và muốn giảm thiểu tạo sự khác biệt lập trường với Mỹ. Thủ tướng Modi đã nói chuyện với tổng thống Ukraine Zelensky trong khi lãnh đạo Trung Quốc thì không.

Ấn Độ cũng tỏ ra gay gắt hơn với những cáo buộc tội ác chiến tranh của Nga. Đại sứ Ấn Độ tại Liên hợp quốc cho rằng thảm sát ở Bucha “đáng lo ngại” và kêu gọi mở điều tra. Đại sứ Trung Quốc thì lại kêu gọi các bên tránh đổ lỗi vô căn cứ.

Quan hệ Mỹ – Ấn phức tạp

Theo CNN, Mỹ nhận thấy rằng quan hệ giữa Nga và Ấn Độ đi theo một chiều hướng khác phương Tây. Ngoại trưởng Mỹ Blinken lưu ý rằng quan hệ này “đã phát triển trong nhiều thập kỷ vào thời điểm mà Mỹ không thể là đối tác của Ấn Độ”. Blinken  ám chỉ thời kỳ Chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô, dù Ấn Độ không chính thức tham gia.

Vào những năm 1970, Ấn Độ bắt đầu ngả về Liên Xô khi Mỹ bắt đầu hỗ trợ quân sự và tài chính cho láng giềng Pakistan. Đây cũng chính là thời điểm Liên Xô bắt đầu cung cấp vũ khí cho Ấn Độ. Cho đến nay, quốc gia Nam Á này vẫn phụ thuộc rất nhiều vào Nga về thiết bị quân sự (50% vũ khí nhập khẩu từ Nga). Mặc dù Mỹ đã tăng cường hợp tác với Ấn Độ về an ninh và quân sự trong khuôn khổ nhóm “Bộ tứ” Quad (Nhật Bản – Mỹ – Australia – Ấn Độ), nhưng lại thua Nga khi Ấn Độ dùng vũ khí của Nga trong xung đột với Trung Quốc ở Himalaya.

Năm 2018, Ấn Độ đã ký một thỏa thuận vũ khí trị giá 5 tỷ USD với Nga, mua một hệ thống tên lửa phòng không, bất chấp thỏa thuận này có thể hiến New Delhi lãnh trừng phạt của Washington (theo một đạo luật trừng phạt đối thủ mà Mỹ đã áp dụng đối với Iran, Nga và Triều Tiên).

Do phụ thuộc vào vũ khí của Nga, Ấn Độ không dám lên tiếng tố cáo hành động xâm lược của Tổng thống Nga Vladimir Putin, mà thủ tướng Modi nhận là người bạn thân “đáng mến” (trong chuyến thăm của Putin tại Ấn Độ vào tháng 12/2021). Ngày 23/4, Bộ trưởng Bộ Tài chính Ấn Độ không ngần ngại nói rằng, Ấn Độ muốn xây dựng tình hữu nghị với các nước phương Tây, nhưng cần một đối tác mạnh như Nga để bảo vệ đường biên giới và 1,3 tỷ dân của mình.

Theo tạp chí Foreign Policy, trong bối cảnh căng thẳng vẫn cao với Trung Quốc, Ấn Độ nhận thấy tầm quan trọng của Nga, không chỉ việc sẵn sàng cung cấp vũ khí mà mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc có thể giúp New Delhi kiềm chế Bắc Kinh hoặc Moskva có thể đứng ra làm trung gian hòa giải.

Thế trung lập của Ấn Độ

Tất cả những hành xử của Ấn Độ khiến quốc gia này nhận được ủng hộ từ tất cả các phe. Moskva vẫn muốn chơi với New Delhi và vẫn muốn bán dầu giá thấp cho Ấn Độ. Ngày 01/4/2022, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov đã gặp người đồng cấp ở New Delhi và hoan nghênh Ấn Độ không nhìn cuộc chiến Ukraine “một cách phiến diện”.

Mối quan hệ của chúng ta vẫn bền vững dù trải qua nhiều thời kỳ khó khăn trong quá khứ. Tôi không nghi ngờ về việc hai bên tôn trọng lẫn nhau và tìm kiếm sự cân bằng lợi ích, sẽ chiếm ưu thế trong quan hệ của hai nước trong tương lai.

Đối với phương Tây, quan hệ giữa hai bên ngày càng khăng khít từ khi Modi đắc cử năm 2014. Giao thương giữa Ấn Độ và Mỹ hằng năm đạt 110 tỷ USD, trong khi đó với Nga chỉ đạt 8 tỷ USD. Trong những năm gần đây, Ấn Độ cũng trở thành khách hàng lớn mua các thiết bị quân sự của Mỹ.

Ấn Độ cũng không muốn bị coi là đối tác nhỏ bé của phương Tây và tin rằng phương Tây cần mình hơn. Chính quyền New Delhi luôn nhắc nhở phương Tây rằng nước này dù sao thì cũng có Nga là đồng minh. Ấn Độ cho rằng dù nghiêng về phía nào cũng có được bảo đảm của phương Tây theo một mức độ nào đó. Ví dụ như, dưới thời chính quyền George W. Bush, Washington sẵn sàng chi mạnh tay cho một thỏa thuận hạt nhân để đáp ứng lợi ích của New Delhi, trong khi Ấn Độ đáp lại không đáng kể.

Qua cuộc chiến Ukraine, Ấn Độ nhận ra rằng phương Tây có thể thực hiện các cam kết đưa ra để giúp Kiev. Do vậy, sự ủng hộ của phương Tây rất quan trọng nếu xung đột Trung – Ấn xảy ra. Foreign Policy kết luận rằng canh bạc trung lập, bắt cá hai tay của Ấn Độ chỉ có thể mang lại lợi ích cho nước này trong ngắn hạn. Nếu tiếp tục nghiêng về phía Nga, đồng thời giữ quan hệ với phương Tây, Ấn Độ sẽ không nhận được sự hỗ trợ cần thiết từ cả hai trong tình thế khó khăn.

Nguồn: TKNB – 29/04/2022

Tại sao Ấn Độ “chơi thân” với Nga nhưng vẫn làm “bạn” với Mỹ? – Phần đầu


Theo đài RFI, bất chấp việc các nước phương Tây ve vãn kêu gọi nhập phe, trừng phạt Nga, Ấn Độ lại tăng gấp đôi lượng dầu thô mua từ Nga kể từ khi Nga xâm lược Ukraine, do giá thành rẻ. Là đồng minh với Liên Xô từ thời Chiến tranh Lạnh, Ấn Độ chơi quân bài “trung lập”, muốn duy trì quan hệ tốt với cả Nga và phương Tây, để đối phó với mối nguy Trung Quốc.

Ấn Độ là nước tiêu thụ dầu lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Mỹ và Trung Quốc, 80% trong số đó là nhập khẩu. Hãng Reuters cho biết, các nhà máy lọc dầu của Ấn Độ đã đặt hàng ít nhất 40 triệu thùng dầu của Nga kể từ ngày 24/2, khai nào chiến tranh Ukraine, trong khi đó, tổng lượng dầu mà Ấn Độ thu mua từ Nga vào năm 2021 chỉ đạt 16 triệu thùng. Truyền thông nước này cho biết Nga đã giảm giá mua dầu cho Ấn Độ, thấp hơn 20% so với giá chuẩn toàn cầu. Chính quyền New Delhi không chỉ bỏ ngoài tai các lệnh trừng phạt từ phương Tây đánh vào nền kinh tế của Nga, mà còn từ chối lên án hành động xâm lược của Moskva.

Phương Tây đổ xô “thăm” Ấn Độ

Lập trường trung lập của quốc gia đông dân thứ hai châu Á làm vừa lòng điện Kremlin nhưng ngay lập tức htu hút sự chú ý của phương Tây. CNN nhận định Nhà Trắng gây áp lực, chỉ trích New Delhi “run sợ” và có thể tính đến việc trừng phạt Ấn Độ vì gần đây đã mua vũ khí từ Nga. Thế nhưng, ngay lập tức, Mỹ lại đổi giọng.

Trong cuộc gọi trực tuyến giữa Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Tổng thống Mỹ Joe Biden ngày 11/4, Biden tán dương quan hệ hợp tác song phương và ca ngợi những giá trị chung của hai nước. Ngay sau đó, các nước châu Âu dồn dập đến thăm Ấn Độ. Đầu tiên là chuyến thăm của Thủ tướng Anh Boris Johnson nhằm tăng cường hợp tác thương mại với Ấn Độ ngày 22/4, tiếp đến là chuyến thăm của Chủ tịch Hội đồng châu Âu Ursula von der Leyen ngày 25/4, rồi đến Ngoại trưởng Ba Lan ngày 26/4.

Và chiến tranh Ukraine là phần không thể thiếu trong bài phát biểu của các vị lãnh đạo, vừa ve vãn lôi kéo, vừa gây áp lực cho New Delhi. Nguyên thủ Mỹ kêu gọi Ấn Độ chọn phe:

“Tôi rất hoan nghênh việc Ấn Độ viện trợ nhân đạo cho Ukraine – quốc gia đang phải hứng chịu những đợt tấn công kinh hoàng, bao gồm cả vụ đánh bom tại nhà ga vào tuần trước, đã khiến hàng chục phụ nữ và trẻ em và thường dân vô tội thiệt mạng, khi đang cố chạy lánh nạn. Mỹ và Ấn Độ tiếp tục hợp tác chặt chẽ và tham vấn về cách kiểm soát những tác động gây bất ổn từ cuộc chiến giữa Nga và Ukraine. Điều này bảo đảm mối quan hệ tiếp tục phát triển sâu rộng hơn giữa hai bên, mang lại lợi ích cho người dân của hai nước và toàn cầu. Tất cả chúng ta đều cố gắng kiểm soát (khủng hoảng) và vai trò của Ấn Độ rất quan trọng đối với thế giới”.

Về phần mình, Ấn Độ cho biết tình hình ở Ukraine “đáng lo ngại” và kêu gọi cả hai bên đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn chọn giữ im lặng, bỏ phiếu trắng tại Đại hội đồng Liên hợp quốc để loại Nga ra khỏi Hội đồng Nhân quyền, từ chối suy giảm quan hệ song phương với Nga.

CNN nhận định “Ấn Độ đã dạy cho phương Tây một bài học về ngoại giao”. Vị trí của nước này ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế khi Mỹ coi Ấn Độ là một “đối tác” cần săn sóc để chống lại Trung Quốc – mối đe dọa tiềm tàng với hòa bình thế giới, thậm chí còn l1o7n hơn cả Nga.

Cùng chung một kẻ thù Bắc Kinh

Cả Washington và New Delhi đều “khó chịu” trước sức mạnh quân sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc (về hải quân, vũ khí chiến đấu công nghệ cao, vũ khí hạt nhân) hay mạng lưới ảnh hưởng đối với kinh tế toàn cầu mà Bắc Kinh đang xây dựng.

Điều này thể hiện rõ trong cuộc họp Mỹ – Ấn ngày 11/4, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin cảnh báo Trung Quốc đang tìm cách “thiết lập lại khu vực và hệ thống quốc tế” và cho biết Mỹ và Ấn Độ cùng nhau mở rộng phạm vi hoạt động quân sự chung.

Ấn Độ cũng có mối lo riêng với Trung Quốc khi cả hai có chung 3488 km đường biên giới. Cuộc xung đột quân sự dọc theo biên giới chung trên dãy Himalaya đã cướp đi sinh mạng của không ít người trong vài năm qua, đặc biệt là vào năm 2020, gần 100 binh sĩ Ấn Độ bỏ mạng tại thung lũng Galwan – có diện tích rộng bằng nước Thụy Sỹ, nơi mà Trung Quốc chiếm đóng từ 1962.

Phương Tây chỉ trích Trung Quốc nhưng im lặng với Ấn Độ

Mối lo Trung Quốc giải thích tại sao phương Tây mạnh mẽ chỉ trích sự im lặng của Bắc Kinh đối với hành động xâm lược của Nga nhưng lại không to tiếng với New Delhi. Trong khi đó, Ấn Độ và Trung Quốc dường như có chung quan điểm về cuộc chiến ở Ukraine.

Cả hai đều tự nhận là trung lập và chọn thế “tọa sơn quan hổ đấu”. Cả hai đều kêu gọi hòa bình và từ chối lên án cuộc xâm lược. Hơn nữa, cả hai có mối quan hệ chiến lược với Nga và không muốn gặp rủi ro tạo hiềm khích với Nga.

(còn tiếp)

Nguồn: TKNB – 29/04/2022

Ấn Độ đang thể hiện điều gì trong vấn đề Biển Đông?


Theo asiatimes.com, hiện tại không có quốc gia nào trong khu vực có thể ngăn cản bước tiến của Trung Quốc ở Biển Đông. Khi Mỹ bận rộn ở châu Âu, các bên tranh chấp ở Biển Đông sẽ phải vạch ra chiến lược của riêng mình để duy trì hòa bình và an ninh ở khu vực. Là một trong những nền kinh tế lớn nhất và nền dân chủ hàng đầu ở khu vực châu Á và cũng sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi sự bành trướng của Trung Quốc trong khu vực, Ấn Độ không thể đơn thuần chỉ “khoanh tay ngồi nhìn” trước những hoạt động xâm lấn chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc ở Biển Đông. Đã đến lúc Ấn Độ cần đi đầu trong việc xây dựng một cơ chế an ninh tập thể mới trong khu vực.

Ấn Độ đã áp dụng chính sách “Vùng lân cận mở rộng” và chính sách “Hành động phía Đông” để củng cố phạm vi ảnh hưởng của mình trong khu vực. Trái ngược với chính sách của Trung Quốc sử dụng đe dọa vũ lực để giải quyết tranh chấp với các nước trong khu vực, Ấn Độ đang thúc đẩy một trật tự dựa trên luật lệ, bao gồm việc duy trì Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) – một khuôn khổ luật biển quốc tế mà Trung Quốc không thừa nhận.

Hiện nay, Hải quân Ấn Độ ngày càng tăng cường hiện diện trong khu vực và thường xuyên thực hiện các chuyến thăm hữu nghị khi cập cảng các nước như Việt Nam, Philippines, Nhạt Bản, Hàn Quốc và Malaysia. Gần đây, để thể hiện sự tự tin ngày càng tăng của mình, Hải quân Ấn Độ bắt đầu triển khai tàu thuyền về phía Đông đến Tây Thái Bình Dương. Hồi năm 2021, Hải quân Ấn Độ đã điều 4 tàu, gồm một tàu khu trục tên lửa dẫn đường và một tàu khu trục tên lửa, tới Đông Nam Á, Biển Đông và Tây Thái Bình Dương. Hải quân Ấn Độ cũng tiến hành các cuộc tập trận (PASSEX) với các lực lượng hải quân của các nước khác trong khu vực để khẳng định chủ quyền của họ đối với những vùng lãnh hải này. Các nước trong khu vực như Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Singapore là đối tác chủ chốt của Ấn Độ trong các cuộc tập trận này. Trong nỗ lực mở rộng đối tác, Ấn Độ cũng đã mời Hàn Quốc tham gia các cuộc tập trận hải quân đa phương trong năm 2022. Một lợi thế của New Delhi trong công tác tiến hành giám sát và theo dõi tình hình ở Biển Đông là nước này sở hữu những cảng nước sâu ở Vịnh Campbell thuộc quần đảo Nicobar.

Khi xung đột xảy ra ở châu Âu, Ấn Độ hiện phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Trước những hành động ngày càng bạo trợn của Trung Quốc, mức độ hiện diện hải quân hiện tại của Ấn Độ có thể không đủ mạnh để bảo vệ tuyến giao thương hàng hải của New Delhi trên Biển Đông. Ngoài ra, Ấn Độ cũng phải lo lắng xoay xở cách thức bảo vệ và thúc đẩy an ninh ở Đông Ấn Độ Dương trước sự hiện diện quy mô lớn của Hải quân Trung Quốc ở các vùng biển lân cận.

Vì vậy, Ấn Độ phải thể hiện chủ nghĩa tích cực to lớn hơn nữa, cả về mặt ngoại giao và quân sự, mà không gây phương hại đến khả năng ứng phó của các nước trong khu vực và không kích động Trung Quốc đáp trả ở Nam Á. Việc tìm cách xây dựng các cơ chế giải quyết xung đột đa phương nhằm xử lý các tranh chấp biên giới, đồng thời tránh để xảy ra xung đột ở Biển Đông và đảm bảo rằng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hoàn toàn phù hợp với các công ước liên quan của Liên hợp quốc là những thách thức to lớn đối với Ấn Độ. New Delhi cũng đang cố gắng đảm bảo các cuộc đàm phán khu vực về COC không gây phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia không tham gia vào các cuộc đàm phán này.

Xét đến thực tế là không một quốc gia nào trong khu vực có đủ năng lực quân sự để chống lại Trung Quốc, Ấn Độ cần phải xây dựng và thông qua một cơ chế an ninh tập thể với các nước trong khu vực, đồng thời xác lập một cơ chế răn đe mạnh mẽ đối với Trung Quốc nhằm ngăn chặn bước tiến của Bắc Kinh đến Ấn Độ Dương. Đã qua rồi cái thời của chủ nghĩa hòa bình và các chính sách hòa hoãn đối với Trung Quốc. Việc New Delhi tăng cường hợp tác hải quân với các nước khu vực là đáng khích lệ, song chưa đủ để ngăn chặn Bắc Kinh khi xét đến việc Trung Quốc nỗ lực uy hiếp các nước trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy, đã đến lúc Ấn Độ cần tập trung hơn nữa vào việc liên kết chính sách quốc phòng và an ninh với các nước trong khu vực ngoài các chính sách về tập trận hải quân.

Những quyết định của New Delhi trong việc cung cấp công nghệ và hệ thống vũ khí hiện đại nhất dựa trên những tính toán kinh tế đơn thuần. Ấn Độ cần thay đổi tư duy này, theo đó, cần bắt đầu tính toán đến những lợi ích an ninh và chiến lược của mình.

Nguồn: TKNB – 14/03/2022

Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương: Cách tiếp cận của Ấn Độ và lợi ích của Nga – Phần cuối


Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và Bộ tứ

Có thể nhận thấy rằng điểm hội tụ quan trọng trong các phương pháp tiếp cận của cả 4 quốc gia được nêu ở trên đều là vấn đề an ninh. Ấn Độ lo ngại về tranh chấp biên giới với Trung Quốc, quốc gia tuyên bố chủ quyền với một trong số các bang của họ – Arunachal Pradesh, được Bắc Kinh gọi là Nam Tây Tạng và coi là lãnh thổ Trung Quốc bị thực dân Anh chiếm giữ trái phép – cũng như với một số vùng lãnh thổ biên giới. Trong khi đó, New Delhi cho rằng Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép một phần lãnh thổ của Ấn Độ ở Aksai Chin. Nhật Bản cũng có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc về quần đảo Điếu Ngư (Senkaku). Australia lo ngại trước sự bành trướng về kinh tế, và tương lai là chính trị và quân sự của Trung Quốc ở Nam Thái Bình Dương. Về phần mình, Mỹ đang cố gắng duy trì vị thế bá chủ của mình, mà theo Washington là đang bị Trung Quốc tranh giành.

Các lợi ích chung trong lĩnh vực an ninh đã thúc đẩy 4 quốc gia này hình thành một diễn đàn đối thoại không chính thức, được gọi là Bộ tứ. Phiên bản đầu tiên của nhóm Bộ tứ ra đời vào năm 2007 và đã không còn tồn tại một năm sau đó do các nhà chức trách mới của Australia không muốn phá hoại quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, những lo ngại kéo dài về sự bành trướng của Trung QUốc, sự trở lại nắm quyền của ông Shinzo Abe ở Nhật Bản – một trong những người đưa ra sáng kiến nhóm Bọ tứ, và sự chuyển đổi chính sách của Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump theo hướng cứng rắn hơn đối với Trung Quốc đã giúp hồi sinh sáng kiến này vào năm 2017.

Không thể đánh đồng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương với nhóm Bộ tứ, Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là điều kiện cần thiết cho hoạt động của Bộ tứ, vạch ra khuôn khổ địa lý cho hoạt động của nhóm này tồn tại. Nhưng Bộ tứ lại không phải là điều kiện cho sự tồn tại của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Là một cấu trúc, Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể được giải thích theo các cách khác nhau và có thể bao hàm nhiều tổ chức không chính thức tương tự. Ở một mức độ nhất định, “trục” Pakistan – Trung Quốc là một cấu trúc Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tương tự như Bộ tứ. Sự không đồng nhất của các khái niệm về “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” và “Bộ tứ” là rõ ràng, do tồn tại tầm nhìn và cách hiểu riêng về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của các quốc gia không là thành viên và không có ý định tham gia Bộ tứ, ví dụ như Pháp, Đức và châu Âu nói chung hay các nước ASEAN. Số lượng các quốc gia này sẽ còn tăng lên nhiều trong tương lai gần ở cả châu Á, châu Âu và các quốc gia Nam Mỹ hay châu Phi.

Rõ ràng, có thể nhận thấy Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và Bộ tứ đều có lợi cho Mỹ, cho phép Mỹ áp đặt tầm nhìn về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đối với các quốc gia quan tâm đến các dự án hội nhập khu vực lớn và lôi kéo họ tham gia các sáng kiến chống lại Trung Quốc.

Từ châu Á  – Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương

Có một số khu vực ảnh hưởng tới lợi ích và an ninh quốc gia của Nga. Bất cứ vấn đề nào trong các khu vực này đều ảnh hưởng tới Moskva, vì bằng cách này hay cách khác chúng đe dọa an ninh kinh tế hoặc quân sự của Nga. Không gian Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) và Bắc Cực là các khu vực như vậy. Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương hướng tới các đại dương và các chính thể ven biển nên không liên quan đến SNG, nhưng lại liên quan trực tiếp đến Bắc Cực.

Bắc Cực được liên kết địa lý với Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương thông qua eo biển Bering. Điều này có nghĩa là việc đảm bảo an ninh cho Bắc Cực nên được bắt đầu từ phía Bắc Thái Bình Dương, khu vực vốn do Hạm đội Thái Bình Dương của Nga chịu trách nhiệm.

Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Bắc Cực chỉ có thể thực hiện được khi thu hút được các khảon đầu tư và công nghệ từ các công ty châu Á. Nếu Tuyến đường biển phía Bắc (NSR) được định hướng trở thành tuyến đường trung chuyển hàng hóa chính, hàng hóa châu Á sẽ được vận chuyển đến châu Âu qua tuyến đường này. Nếu Bắc Cực vẫn chủ yếu là nguồn cung cấp dầu khí thì các nền kinh tế châu Á đang phát triển nhanh chóng chắc chắn sẽ trở thành nơi tiêu thụ chính lượng dầu khí này trong bối cảnh phương Tây ngày càng quan tâm tới năng lượng xanh. Như vậy, công nghệ, đầu tư và thương mại với các nước châu Á đang trở thành yếu tố then chốt trong sự phát triển của Bắc Cực và Nga phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn: đảm bảo thu hút công nghệ và đầu tư mà không làm ảnh hưởng đến lợi ích chủ quyền của mình.

Không giống như ở Bắc Cực, Nga không có lợi ích chính trị và kinh tế ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Do vậy, các phản ứng của Nga có thể dự đoán được và điều này cho phép các quốc gia khác lợi dụng điểm yếu này của Nga vì các mục đích khác nhau. Việc không có lợi ích ở đây khiến Nga có thể hoạt động ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tích cực nhất có thể, tăng cường sự hiện diện của mình trong một khu vực quan trọng về mặt chiến thuật và chiến lược đối với nước này, và nếu cần thiết, họ có thể rời bỏ khu vực này như cách họ đến. Điều này có liên quan tới việc triển khai sức mạnh biển ở Ấn Độ Dương và Nam Thái Bình Dương cũng như việc mở rộng các cơ quan đại diện ngoại giao.

Nga có kinh nghiệm tích cực trong việc sử dụng các khái niệm được phát triển ở nước ngoài vì lợi ích riêng – cụ thể là khái niệm khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Lịch sử của khái niệm châu Á – Thái Bình Dương tương đối giống với khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Thuật ngữ “châu Á – Thái Bình Dương” được Ngoại trưởng Nhật Bản Miki Takeo sử dụng rộng rãi từ năm 1967. Ông Miki khi đó mong muốn khẳng định ý tưởng rằng Nhật Bản là quốc gia thuộc về châu Á, bao gồm Đông Nam Á và Đông Á, và Thái Bình Dương, từ đó muốn chứng minh rằng Tokyo đóng vai trò quan trọng (chủ yếu là kinh tế, bởi các chính trị gia Nhật Bản luôn né tránh vấn đề an ninh) ở cả 2 khu vực.

Ý tưởng này ban đầu được các chuyên gia và chính trị gia Mỹ, Australia và châu Á đón nhận khá nhiệt tình. Họ bắt đầu quan tâm đến ý tưởng này vào những năm 1970, khi Mỹ và Australia bắt đầu phát triển các hình thức hiện diện mới trong khu vực sau thất bại trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Ban đầu những hình thức này khá mâu thuẫn với chủ nghĩa khu vực của các nước Đông Nam Á: cụ thể, vào năm 1974, Thủ tướng Australia khi đó là Gough Whitlam đã đưa ra đề xuất thành lập Diễn đàn châu Á – Thái Bình Dương như một đối trọng của ASEAN vừa được thành lập. Đến những năm 1980, các quốc gia ASEAN đã sử dụng thuật ngữ “châu Á – Thái Bình Dương”, thay đổi hoàn toàn không chỉ nội dung mà cả tên gọi (đổi từ cách gọi quen thuộc với những người nói tiếng Anh là “Asian Pacific” sang “Asia – Pacific”), đồng thời thu hẹp phạm vi của khái niệm này: Trong khi Mỹ tích cực quảng bá khu vực châu Á – Thái Bình Dương như một khái niệm bao trùm toàn bộ khu vực Thái Bình Dương về mặt địa lý, bao gồm cả Canada, Mỹ và Chile, thì các chính trị gia châu Á chủ yếu cho rằng khu vực này gồm các vùng lãnh thổ và vùng biển Đông Nam Á, Đông Á và Tây Thái Bình Dương. Ví dụ, nhà kinh tế Nhật Bản Toshio Watanabe đã tuyên bố về sự khởi đầu của “Thời đại Tây Thái Bình Dương”.

Cần lưu ý rằng các chuyên gia và chính trị gia Liên Xô đã không ngần ngại sử dụng thuật ngữ “châu Á – Thái Bình Dương” trong suốt thời kỳ tồn tại của Liên Xô, bất chấp thực tế rằng khái niệm này được phát triển bởi một đồng minh của Mỹ và sau đó được Washington sử dụng để biện minh cho sự hiện diện của mình ở châu Á. Điều này không khiến chính sách của Liên Xô ở Thái Bình Dương thất bại, và bất cứ ai sử dụng thuật ngữ này, bao gồm cả ban lãnh đạo Liên Xô, đều không được coi là sự thừa nhận các yêu sách của Mỹ.

Quá trình định hình lại khái niệm châu Á – Thái Bình Dương là ví dụ về cách thức sử dụng các khái niệm do các nước đối thủ thúc đẩy để phục vụ cho mục đích của riêng mình. Điều tương tự có lẽ đã diễn ra đối với khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Sự xuất hiện của khái niệm này ở Nga sẽ giúp cải thiện quan hệ của Nga với Ấn Độ và ASEAN và cách diễn giải về nó sẽ giúp duy trì quan hệ tốt với Trung Quốc. Hơn nữa, Nga và Trung Quốc hoàn toàn có thể hình thành cách tiếp cận chung đối với Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương: Sự xuất hiện mang tính xây dựng, chứ không phải đối đầu, của một khái niệm như vậy sẽ tạo ra một sự lựa chọn thay thế cho chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ vốn nhằm chia rẽ khu vực này.

Khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Nga

Khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Nga có thể dựa trên các quy tắc sau:

1/ Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, cùng với Bắc Đại Tây Dương và Bắc Băng Dương là bộ phận cấu thành của một tổ hợp Đại Á – Âu thống nhất, đại diện cho vùng biển bờ phía Nam và phía Đông của lục địa Á – Âu. Trong lịch sử tuyến đường biển đi qua eo biển Malacca và Ấn Độ Dương đã bổ sung cho Con đường Tơ lụa Á – Âu. Đồng thời, đặc trưng của lục địa Á – Âu không chỉ là một tuyến đường, mà là một cấu trúc mạng lưới các tuyến đường thương mại không chỉ trải rộng qua nhiều vĩ tuyến mà còn trải qua nhiều kinh tuyến. Như vậy, Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là một phần của hệ thống kinh tế-văn hóa toàn cầu của Cựu thế giới, nơi sinh ra tất cả các nền văn minh tại thời điểm hiện tại. Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và Đại Á – Âu không phải là những khái niệm đối lập nhau mà là những khái niệm bổ trợ cho nhau.

2/ Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương với tư cách là không gian hợp tác văn hóa, thương mại và tôn giáo trong suốt quá trình lịch sử, là một hiện tượng bao trùm, cho phép con người, hàng hóa và tư tưởng di chuyển tự do trong toàn bộ không gian từ Đông Á sang châu Âu. Tính kết nối của khu vực này không thể bị phá vỡ. Tất cả những nỗ lực loại bỏ các bên tham gia hoặc hạn chế sự kết nối này thông qua các biện pháp phong tỏa hay trừng phạt đều không thể biện minh và mâu thuẫn với bản chất của khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.

3/ Việc tạo ra các khối quân sự ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và biến nó thành chiến trường thời Chiến tranh Lạnh là không thể chấp nhận được. Đồng thời, sẽ là hợp lý nếu thiết lập một mạng lưới linh hoạt, bao gồm các tổ chức an ninh không chính thức, để chống lại các thách thức và mối đe dọa trong khu vực và hợp tác với nhau để tạo ra một hệ thống an ninh chung dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc. Tất cả các xung đột trong khu vực cần được giải quyết giữa các bên tham gia trên cơ sở song phương. Sự can thiệp của một thế lực bên ngoài cố gắng châm ngòi cho một cuộc xung đột cần bị lên án vô điều kiện. Khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể là không gian cạnh tranh lành mạnh, nhưng không phải là không gian đối đầu, là không gian hợp tác chứ không phải là không gian đấu tranh.

4/ Ý tưởng về “trật tự dựa trên quy tắc” cần được bổ sung. Nếu “các quy tắc” bao gồm các chuẩn mực lâu đời của luật pháp quốc tế thì Nga hoàn toàn hoan nghênh một trật tự như vậy. Nếu trật tự này được thiết lập để củng cố một cách giả tạo cán cân quyền lực theo hướng có lợi cho các quốc gia riêng lẻ, thì đối với Nga, điều đó hoàn toàn không thể chấp nhận được. Trật tự dựa trên quy tắc là trật tự được thiết lập trên cơ sở các chuẩn mực  nhận thức chung của luật pháp quốc tế và không thể được hiểu theo cách khác.

5/ Trung tâm của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là khu vực Đông Nam Á và các quốc gia của khu vực hiện đang là thành viên của ASEAN, chính vì thế mà Nga ủng hộ ý tưởng về vai trò trung tâm của ASEAN ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, kêu gọi chuyển đổi tất cả các khái niệm của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương theo quan điểm này.

6/ Nga là một phần không thể tách rời của cả khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương lẫn khu vực Bắc Băng Dương – Thái Bình Dương. Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương bổ sung cho Bắc Băng Dương – Thái Bình Dương. Tùy thuộc vào sự biến đổi của khí hậu hay các thực tế địa lý và xã hội, hai tuyến đường biển đi qua khu vực này, ở mức độ nào đó sẽ đóng vai trò tuyến đường huyết mạch thương mại biển Á – Âu quan trọng.

Các nguyên tắc nêu ở trên hoàn toàn phù hợp với quan điểm được Nga nhiều lần nhắc tới về tính thượng tôn của luật pháp quốc tế, phù hợp với vai trò trung tâm của ASEAN và thể hiện mong muốn ngăn chặn sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc leo thang và nguy cơ về một cuộc chiến tranh toàn diện trong tương lai. Việc thông qua và công khai khẳng định các nguyên tắc này cho thấy Nga đã sẵn sàng đề xuất một khái niệm thay thế cho khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ, dựa trên ý tưởng về sự phát triển toàn cầu và cuộc chiến chung chống lại các thách thức và mối đe dọa hàng hải phi truyền thống. Khái niệm này đồng thời cũng phù hợp với tầm nhìn về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mà các chính trị gia, chuyên gia Ấn Độ và ASEAN đang thúc đẩy.

Nguồn: TLTKĐB – 14/12/2021

Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương: Cách tiếp cận của Ấn Độ và lợi ích của Nga – Phần đầu


Tạp chí “Đời sống quốc tế” (Nga) số tổng kết tháng 11/2021, có bài viết cho rằng cấu trúc địa chính trị là một hiện tượng tương đối mới trong thực tiễn chính trị thế giới. Cho đến nay, việc hình thành nên các cấu trúc này thường mang tính tự phát. Một trong những cấu trúc địa chính trị phức tạp, mâu thuẫn và gây tranh cãi nhất là khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Khu vực này xuất hiện trong lý luận chính trị thế giới từ năm 2007 với việc xuất bản bài viết của Gurpreet Khurana về tuyến đường biển Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Gần đây, thuật ngữ “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” đã trở nên ngày càng thông dụng khi được nhiều chính trị gia và các nhà khoa học chính trị sử dụng trong các bài phát biểu của mình để cho thấy rằng họ đang bắt kịp xu hướng hiện đại và đồng thời việc này cũng làm cho ý tưởng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương ngày càng lan rộng.

Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là một khái niệm ngày càng trở nên phổ biến và cần thiết hơn. Chính giới Bắc Kinh và Moskva luôn cảnh giác với khái niệm này, nhưng giới chuyên gia cũng như chính trị gia Trung Quốc và Nga thì lại thường xuyên sử dụng thuật ngữ “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” trong các công trình của mình. Trong cộng đồng khoa học đã diễn ra nhiều cuộc thảo luận tích cực về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, trong đó có thể thường xuyên bắt gặp khẳng định cho rằng đây là sáng kiến của Mỹ nhằm cô lập Nga và Trung Quốc, một sản phẩm nhân tạo – và do đó không khả thi – nhằm chống lại khái niệm Đại Á – Âu của Nga.

Về nguyên tắc, phản ứng như vậy là khá dễ hiểu và có phần hợp lý: Trung Quốc là đối tác chiến lược của Nga và việc thể hiện sự chấp thuận một cách chính thức hay thậm chí là sự quan tâm đến một khái niệm đang được Mỹ sử dụng như một phần của chiến lược kiềm chế Trung Quốc một cách toàn diện là không có lợi cho việc thúc đẩy quan hệ Nga – Trung. Mặt khác, Ấn Độ – quốc gia khởi xướng và rất ủng hộ cho sáng kiến Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương – cũng là đối tác chiến lược của Nga, vì vậy việc Moskva phản đối hay có một số tuyên bố tiêu cực về ý tưởng này sẽ góp phần làm xấu đi mối quan hệ giữa Moskva và New Delhi.

Bài viết này nhằm xó tan những cách hiểu chưa đúng trong lý luận chính trị ở Nga và phân tích kinh nghiệm của Ấn Độ trong việc hình thành nên cấu trúc địa chính trị mới.

Nguồn gốc Ấn Độ của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương

Trái ngược với những tuyên bố thường thấy, khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương không phải là một sáng kiến của Mỹ. Thuật ngữ này đã có từ hơn 1,5 thế kỷ trước. Vì vậy, vào giữa thế kỷ XIX, nhà bác học người Anh J. Logan đã đề xuất gọi quần đảo Malaysia là quần đảo Ấn Độ – Thái Bình Dương. Nhà khoa học, chuyên gia địa chính trị nổi tiếng người Đức Karl Haushofer đã đưa ra ý nghĩa địa chính trị cho thuật ngữ này. Nhưng sau thất bại của Đức và Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thuật ngữ “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” chỉ còn tồn tại trong lý luận chính sách đối ngoại của Australia. Đồng thời, Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đã xuất hiện trong hệ thống thuật ngữ của các nhà hải dương học và nhà sinh vật biển, những người đã phát hiện ra rằng nhiều loài cá và động vật biển sống ở cả Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương nhưng không có ở Đại Tây Dương.

Thuật ngữ Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương còn được khái niệm hóa bởi hai thủy thủ Ấn Độ: Đại tá Grupreet Khurana và Phó Đô đốc Premvir Das, những người gần như đồng thời sử dụng thuật ngữ này. Vào thời điểm đó, khái niệm này đã được giới chuyên gia Ấn Độ thảo luận kín trong nhiều tháng, chính vì vậy mà ý tưởng của các ông Das và Khurana nêu ra không có gì bất ngờ đối với Ấn Độ: Vì Ấn Độ và Nhật Bản đều quan tâm đến việc xích lại gần nhau, trong khi tuyến đường vận chuyển hàng hóa chính giữa Nhật Bản với châu Âu và tuyến đường vận chuyển dầu khí cho Nhật Bản từ các quốc gia vùng Vịnh Persian đều đi qua Ấn Độ Dương, nên Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương có thể được xem là không gian thống nhất trong các cuộc thảo luận về vấn đề an ninh.

Thuật ngữ “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” cũng được biết đến nhiều hơn thông qua phát biểu của cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tại Quốc hội Ấn Độ trong chuyến thăm nước này, trong đó đề cập đến “sự kết hợp của hai đại dương”. Theo cách hiểu ban đầu của người Ấn Độ, cách nói này chỉ liên quan đến việc đảm bảo an ninh cho tuyến đường thương mại của Nhật Bản (mặc dù sau đó Gurpreet Khurana thừa nhận rằng khi nói về tàm quan trọng của Ấn Độ đối với việc bảo vệ tuyến đường cung cấp của Nhật Bản, ông đã ngầm ngụ ý về tầm quan trọng của Ấn Độ đối với các tuyến đường cung cấp của Trung Quốc, quốc gia theo cách này hay cách khác cũng phải tính toán tới ý kiến của New Delhi trong các vấn đề quốc tế), nhưng trong bài phát biểu của mình, ông Abe đã khéo léo lồng ghép khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương với ý tưởng về “tứ giác an ninh” và “liên minh dân chủ”.

Vào thời điểm đó, nền kinh tế Ấn Độ đang cho thấy tốc độ tăng trưởng kỷ lục (hơn 9%/năm). Chính yếu tố này đã thôi thúc New Delhi mở rộng ảnh hưởng chính trị ở cả khu vực Ấn Độ Dương cũng như Thái Bình Dương, nơi mà giới tinh hoa chính trị ở New Delhi cho rằng nhận thức về Ấn Độ không tương xứng với vai trò thực sự của quốc gia này trong khu vực. Khái niệm mới này rất phù hợp để thể hiện tham vọng và mong muốn của Ấn Độ trở thành một trong những quốc gia đóng vai trò quan trọng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trong những năm sau đó, ý tưởng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tiếp tục được củng cố trong lý luận chính trị của Ấn Độ.

Có một nghịch lý là vào thời điểm đó, cộng đồng chuyên gia chính trị Mỹ không quan tâm đến ý tưởng về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Washington ưu tiên sử dụng cấu trúc đã được kiểm chứng – đó là châu Á – Thái Bình Dương. Ông Barack Obama, người đắc cử Tổng thống Mỹ năm 2009, đã cố gắng giải quyết mâu thuẫn Mỹ – Trung bằng cách thiết lập cái gọi là “Big Two”, trong đó, Bắc Kinh và Washington tạo ra một chế độ toàn cầu phân chia phạm vi và các khu vực ảnh hưởng. Trong một thế giới mà tất cả những vấn đề quan trọng đều sẽ được giải quyết giữa giới tinh hoa Mỹ và Trung Quốc, không có chỗ cho lợi ích của các nước lớn và các nước trung bình khác, bao gồm Ấn Độ, Nga, Nhật Bản và Australia. Do vậy, vào thời điểm đó, khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được coi là mâu thuẫn với lợi ích của Washington.

Tuy nhiên, thất bại trong nỗ lực tạo nên “Big Two” đã gây thất vọng sâu sắc cho giới tinh hoa Mỹ và nước này muốn chuyển hướng sang kiềm chế Trung Quốc thay vì cố gắng đàm phán với nước này. Vào năm 2012, cộng đồng chuyên gia Mỹ cuối cùng đã chú ý tới khái niệm do Ấn Độ và Nhật Bản đưa ra và quyết định sử dụng khái niệm này cho mục đích riêng của họ, coi đây là không gian địa chính trị để thực thi chiến lược kiềm chế Trung Quốc.

Vào thời điểm đó, Nhật Bản và Ấn Độ đã đi trước rất nhiều trong việc phát triển các khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương như một cơ sở để mở rộng ảnh hưởng về phía Đông và hiện thực hóa tuyên bố tham gia vào châu Á – Thái Bình Dương với tư cách một trong những bên quan trọng. Để làm được điều này, họ đã sử dụng các công cụ “sức mạnh mềm”, đặc biệt là sức hấp dẫn của lịch sử và văn học, các câu chuyện nhấn mạnh rằng Đông Nam Á trong hàng nghìn năm là một phần của không gian Ấn Độ cả về văn hóa và tôn giáo. Chiến lược này đã được củng cố bởi nhiều chuyến thăm của Thủ tướng Narendra Modi đến khu vực này.

Do đó, trong số các quốc gia đã đưa khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương vào lý luận chính trị của mình, có hai quan điểm khác nhau cơ bản: Nếu Mỹ coi Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là một khuôn khổ địa lý cho hình thức an ninh riêng của mình, phục vụ cho chiến lược kiềm chế Trung Quốc, Ấn Độ coi đây là một khuôn khổ nền văn minh, cho phép họ khẳng định vai trò quan trọng của mình ở Tây Thái Bình Dương.

Theo đó, quan điểm của các quốc gia này đối với vai trò của các bên tham gia khác cũng khác nhau. Nếu trong khuôn khổ chiến lược của Mỹ, Ấn Độ dường như là một đối tác “dưới cơ” đầy triển vọng và là một tường thành chống Trung Quốc, thì vấn đề xung đột với Trung Quốc trong không gian Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nhìn chung không mang tính sống còn đối với Ấn Độ. Hoàn toàn có thể hình dung ra tình huống mà theo đó cả Trung Quốc và Ấn Độ cùng thừa nhận các lợi ích đặc biệt của nhau trong lĩnh vực an ninh ở Ấn Độ Dương và biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Khi đó, cuộc đối đầu giữa hai quốc gia này nếu không chấm dứt thì sẽ bị đóng băng trong một khoảng thời gian không xác định. Nếu đối với Mỹ, Trung Quốc là kẻ thù tranh đoạt quyền bá chủ, thì đối với Ấn Độ, Trung Quốc là nước láng giềng cần phải phân chia phạm vi ảnh hưởng, đồng thời đảm bảo lợi ích của chính mình càng nhiều càng tốt.

Nếu tưởng tượng hai quan điểm này là hai điểm trên một đường thẳng, có thể thấy quan điểm của Nhật Bản và Australia nằm ở khoảng giữa. Nhật Bản liên hệ chặt chẽ với cả Trung Quốc và Mỹ về mặt kinh tế, đang cố gắng duy trì vai trò là một trong những nhà lãnh đạo khu vực, một nguồn cung cấp công nghệ và đầu tư. Đồng thời, Nhật Bản cũng nhận thấy điểm yếu của mình trước sức mạnh quân sự vượt trội của Trung Quốc, nên họ quan tâm đến việc tăng cường hợp tác với Mỹ trong lĩnh vực an ninh. Về phần mình, Australia thể hiện vai trò bá chủ khu vực ở Nam Thái Bình Dương. Mặc dù Trung Quốc không trực tiếp đe dọa Australia nhưng giới tinh hoa nước này muốn chứng tỏ lòng trung thành với Mỹ nhưng đồng thời cũng không muốn biến nước này thành chư hầu của Mỹ. Tất cả các yếu tố này, thường mâu thuẫn với nhau, tạo nên quan điểm của Tokyo và Canberra về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Những quan điểm này độc đáo và phức tạp hơn so với Ấn Độ và Mỹ, bởi các quốc gia này vừa muốn duy trì quan hệ thương mại với Trung Quốc, vừa muốn có sự đảm bảo an ninh từ Mỹ.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 14/12/2021

Vì sao Ấn Độ là ưu tiên của Nga?


Tờ The Economic Times đăng bài viết của phóng viên chuyên mảng ngoại giao Ấn Độ Dipanjan Roy Chaudhury về chuyến thăm của Tổng thống Nga Vladimir Putin, qua đó cho thấy lý do tại sao Ấn Độ là ưu tiên của Moskva.

Chuyến thăm Ấn Độ của Tổng thống Putin hôm 6/12, trong khuôn khổ chuyến công du ngắn ngày nhưng quan trọng để tham dự Hội nghị thượng đỉnh thường niên Nga – Ấn, không chỉ khẳng định tính đa cực trong lĩnh vực địa chính trị mà còn thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc tự chủ chiến lược địa chính trị. Đây là cuộc gặp song phương đầu tiên của ông kể từ khi đại dịch bùng phát. Đầu năm 2021, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã có mặt tại Geneva để tham dự hội nghị thượng đỉnh với người đồng cấp Mỹ Joe Biden, nhưng cuộc gặp song phương này lại diễn ra ở một nước thứ ba. Về cơ bản, Tổng thống Nga tuyên bố Nga ưu tiên Ấn Độ hơn nhiều đối tác khác. Dưới đây là những yếu tố chi phối chủ trương này của Nga.

Trung Quốc và bối cảnh địa chính trị

Chuyến thăm của Tổng thống Putin diễn ra vào thời điểm quan hệ Ấn – Trung rơi xuống mức thấp sau hành động hiếu chiến của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) tại thung lũng Galwan và khu vực gần Đường kiểm soát thực tế (LAC) trong năm 2020. Thay vì có những hành động giảm leo thang căng thẳng, Trung Quốc vẫn đang cố gắng nâng cao lợi thế thông qua các cuộc xâm lược. Mặc dù Nga, dưới sự hối thúc của phương Tây, đã xây dựng cầu nối với Trung Quốc và cùng nước này tiến hành một số hoạt động liên quan đến các vấn đề địa chính trị, nhưng một liên minh quân sự Nga – Trung có thể không thành công trong bối cảnh Nga thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ và Việt Nam – hai quốc gia đều có tranh chấp biên giới với Trung Quốc. Yếu tố này tiếp tục chi phối quan điểm của Nga và được thể hiện rõ ràng ở việc nước này quyết định tiếp tục cung cấp vũ khí cho Ấn Độ cũng như thực hiện các nghĩa vụ khi cuộc khủng hoảng Galwan đang ở giai đoạn đỉnh điểm. Việc cung cấp hệ thống phòng không S-400 đầu tiên là minh chứng cho mối quan hệ đối tác quốc phòng kéo dài hàng thập kỷ giữa Nga và Ấn Độ. New Delhi và Moskva kiên định trong việc ủng hộ chủ quyền lãnh thổ của nhau. Các nhà bình luận thường bỏ qua thực tế rằng Nga không muốn đóng vai trò là đối tác cấp dưới trong quan hệ với Trung Quốc. Sự khác biệt về di sản và sức mạnh quân sự, quy mô lãnh thổ của Nga và các khu vực bảo tồn thiên nhiên khổng lồ với trữ lượng lớn tài nguyên chưa được khám phá, bao gồm cả ở Bắc Cực, thường định hướng cho những dự báo về sức mạnh của Moskva. Nga đang hiện diện ở Tây Á, bên cạnh các khu vực của châu Phi, và có kế hoạch riêng đối với ASEAN. Nga tiếp tục là thế lực chính trị chiếm ưu thế ở Trung Á và Á – Âu. Nga chiếm thị phần lớn hơn cả trong lĩnh vực quốc phòng của Ấn Độ và việc hợp tác sản xuất AK-203 là dự án “Make in India” lớn nhất cho đến nay gợi nhớ đến tên lửa BrahMoS. Hiệp ước quốc phòng 10 năm và Hiệp ước hậu cần là bằng chứng về quan hệ đối tác quốc phòng Nga – Ấn đáng tin cậy và đã được thử thách qua thời gian với điểm mốc là sự chuyển giao công nghệ.

Vấn đề Afghanistan

Quan hệ đối tác của Ấn Độ với Liên Xô và sau đó với Nga là nhân tố tạo nên sự ổn định địa chính trị trong 7 thập kỷ qua. Và khi thế giới một lần nữa phải đối mặt với nhiều thách thức từ việc Mỹ rút khỏi Afghanistan, mối đe dọa từ các nhóm cực đoan và khủng bố, cũng như căng thẳng gia tăng giữa Bắc Kinh với Washington, quan hệ đối tác chiến lược Nga – Ấn có thể giúp duy trì sự ổn định. Tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Nga cũng ủng hộ quyết định của Ấn Độ về việc không gia hạn miễn thị thực 90 ngày cho các thủ lĩnh Taliban, bác bỏ đề xuất của Trung Quốc về việc cấp giấy miễn thị thực 180 ngày cho những nhân vật này. Cơ chế tham vấn cấp cao thường trực Ấn – Nga về Afghanistan là cơ chế duy nhất mà Nga tạo ra sau khi Taliban tiếp quản Kabul, trên cơ sở nhận thức chung về các mối đe dọa. Hai bên đang phối hợp chặt chẽ với nhau để chống lại các mối đe dọa phổ biến liên quan đến Afghanistan, và điều này được thể hiện rõ qua hai chuyến thăm của Cố vấn an ninh quốc gia Nga tới Ấn Độ hồi tháng 9. Quan điểm cho rằng Nga mềm mỏng với Taliban và Pakistan là sai lầm vì kết luận như vậy thường bỏ qua tính thực tế và khái niệm về các dàn xếp chiến thuật trong lĩnh vực địa chính trị. Người ta thường bỏ qua thực tế rằng Liên Xô trước đây đã can dự nhiều vào vấn đề Afghanistan. Hiện tại, Nga tiếp tục có ảnh hưởng lớn đối với tương lai của Kabul và đã đứng chung hàng với Ấn Độ khi không chính thức công nhận Taliban.

Đối tác Viễn Đông và ASEAN

Nga hết sức quan tâm đến việc Ấn Độ gia tăng ảnh hưởng ở vùng Viễn Đông giàu tài nguyên của Nga, nơi đã chứng kiến sự xâm nhập của nước láng giềng Trung Quốc. Vùng Viễn Đông Nga mang đến cơ hội to lớn cho Ấn Độ trên các lĩnh vực – từ cơ sở hạ tầng đến khai thác các mặt hàng quan trọng, khách sạn, nông nghiệp và đóng tàu. Quan hệ đối tác ở khu vực Bắc Cực đáp ứng nhu cầu của Ấn Độ, bao gồm cả nhu cầu về năng lượng. Vùng Viễn Đông và Bắc Cực thuộc Nga sẽ là những trụ cột quan trọng trong quan hệ đối tác của Ấn Độ với Nga ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Quan hệ đối tác Ấn – Nga trong lĩnh vực kinh tế không tương xứng với quan hệ hợp tác song phương trong các lĩnh vực quốc phòng, hạt nhân, vũ trụ và năng lượng. Khu vực tư nhân Nga chưa đủ lớn, cũng như chưa khám phá hết thị trường và các lĩnh vực của Nga. Việc các doanh nghiệp Ấn Độ tham khảo ý kiến từ các chuyên gia kinh doanh châu Âu ở Đức, Italy và Pháp có liên doanh thành công ở Nga là động thái thận trọng. Cần sớm theo dõi hoạt động của Hành lang giao thông vận tải quốc tế Bắc – Nam (INSTC) và sự hồi sinh của tuyến vận tải Vladivostok-Chennai. Quan hệ giữa nhân dân hai nước đang nở rộ và cần được khuyến khích phát triển. Mọi con mắt đều đổ dồn vào Hội nghị thượng đỉnh thường niên Nga – Ấn ngày 6/12, với mục đích nâng tầm quan hệ đối tác giữa hai nước. Sự ủng hộ của Ấn Độ gần đây đã giúp Nga trở thành đối tác đối thoại của Hiệp hội Vành đai Ấn Độ Dương. Ấn Độ đang hối thúc Nga đảm nhận một vai trò lớn hơn ở khu vực Ấn Độ Dương trong bối cảnh Trung Quốc tăng cường sự hiện diện và xúc tiến cuộc họp cấp bộ trưởng 2+2 (về ngoại giao và quốc phòng) để thăm dò mối quan hệ đối tác trong khu vực. Tháng 8/2021, trong khi Trung Quốc cử đại diện cấp thấp, thì Tổng thống Nga là nguyên thủ quốc gia duy nhất có mặt tại cuộc họp an ninh hàng hải của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc do Ấn Độ chủ trì. Nga gần đây đã thông qua lộ trình 5 năm tập trung vào hợp tác thương mại và đầu tư, nền kinh tế kỹ thuật số và sự phát triển bền vững với ASEAN. Vaccine Sputnik V do Nga phát triển đang tạo thêm động lực thúc đẩy các quốc gia ASEAN mở rộng quan hệ với nước này. Gần đây, một đội tàu chiến và tàu ngầm đã tiến vào Ấn Độ Dương trên đường triển khai thường trực như một phần của Hạm đội Thái Bình Dương của Nga. ASEAN gần đây đã cùng Nga tham gia cuộc tập trận hải quân.

Quan hệ năng lượng

Nga có trữ lượng khí đốt tự nhiên lớn nhất thế giới và phần trữ lượng này nằm ở vùng Viễn Đông của Nga. Tại Diễn đàn kinh tế phương Đông (EEF) tháng 9/2021, Thủ tướng Ấn Độ Modi đã tỏ ra lạc quan khi cho rằng Ấn Độ và Nga có thể cùng nhau mang lại sự ổn định cho thị trường năng lượng toàn cầu. Ông cho rằng Vladivostok là một trung tâm của Á – Âu và Thái Bình Dương, đồng thời nhấn mạnh vị trí địa chiến lược xét về khả năng kết nối của khu vực này. Các công ty dầu khí của Ấn Độ đang muốn tiếp tục mở rộng đầu tư vào các mỏ dầu khí của Nga, bao gồm cả ở vùng Viễn Đông và Bắc Cực. Đầu tư tích lũy của Ấn Độ vào các dự án dầu khí ở Nga đã vượt quá 15 tỷ USD. Đây là điểm lớn nhất của đầu tư Ấn Độ trong lĩnh vực dầu khí. Năm 2017, tập đoàn dầu khí khổng lồ Rosneft của Nga và đối tác đã mau Essar Oil với giá 12,9 tỷ USD và đổi tên công ty này thành Nayara Energy. Tại Vladivostok, hai nước đã khởi động dự án hợp tác đóng tàu thương mại và tìm hiểu các cơ hội mới trong ngành nông nghiệp, gốm sứ, kim cương và khoáng sản chiến lược, đất hiếm. Năm 2020, Tập đoàn dầu khí Ấn Độ (IOC) đã ký thỏa thuận mua 2 triệu tấn dầu thô/năm từ Rosneft. Đây là thương vụ mua bán dầu hàng năm đầu tiên giữa hai nước. Ấn Độ cũng đang nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) từ Nga và đang tìm kiếm cơ hội để các công ty của họ có thể tham gia các dự án phát triển cơ sở hạ tầng ở vùng Siberia và Bắc Cực. Ấn Độ cũng đang muốn đầu tư vào dự án Vostok Oil của Rosneft. Đây là một trong những dự án sản xuất dầu tiềm năng nhất trên thế giới, bao gồm 52 khu vực được cấp phép với trữ lượng hơn 6 tỷ tấn dầu. Chính phủ Ấn Độ quan tâm đến việc phối hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc phát triển cơ sở hạ tầng và đầu tư vào cùng Viễn Đông của Nga. Một dự án ba bên gồm Ấn Độ, Nhật Bản và Nga đang được triển khai. Tầm nhìn của Nga – từ Lisbon đến Jakarta – giúp Ấn Độ mở rộng phạm vi tiếp cận Đông Nam Á và Đông Á, đồng thời đóng góp vào chính sách Viễn Đông theo Đạo luật Ấn Độ liên quan đến vai trò và đầu tư của New Delhi vào vùng Viễn Đông giàu tài nguyên của Nga.

Hợp tác Bắc Cực

Theo ước tính của Nga, trữ lượng dầu khí của Nga ở Bắc Cực có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng của nước này trong nhiều thập kỷ và thậm chí là nhiều thế kỷ. Đồng thời, Bắc Cực đang mở ra cơ hội mới cho việc khai thác dầu khí và các nguồn tài nguyên tiềm năng khác chưa được khám phá bên dưới lớp băng. Nga vẫn giữ vị trí thống trị ở Bắc Cực và coi khu vực này là sân sau chiến lược của mình. Trong thời gian gần đây, Bắc Cực đã mở ra cơ hội mới cho sự hợp tác giữa Ấn Độ và Nga. Khu vực Barents ở Bắc Cực có một số mỏ khoáng sản nổi tiếng và một số bến cảng nước sâu thuận lợi cho việc vận chuyển. Khu vực này giàu quặng sắt. Các dự án phát triển dầu khí của Nga ở Bắc Cực đang được ưu tiên hàng đầu. Tuyến đường biển phía Bắc (NSR) qua Bắc Cực là tuyến đường ngắn nhất giữa các cảng Đông Á và Tây Âu. Ước tính khoảng cách từ Thượng Hải đến Rotterdam qua NSR sẽ ngắn hơn 30% so với tuyến đường qua kênh đào Suez, giảm thời gian vận chuyển từ 10 – 12 ngày. Tương tự, khoảng cách từ Yokohama đến Rotterdam sẽ ngắn hơn 40%.

Nguồn: TLTKĐB – 13/12/2021