Theo đài RFA, phát triển đô thị để ứng phó với biến đổi khí hậu cho Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030 là đề án cuối cùng của ông Nguyễn Xuân Phúc trước khi rời cương vị Thủ tướng chính phủ. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ban hành Quyết định số 438/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 – 2030”.
Theo GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 – 2030 là kịp thời, phù hợp với yêu cầu hiện nay.
Ông Đặng Hùng Võ cho rằng có 4 lý do dẫn đến việc Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phê duyệt đề án với mục tiêu Việt Nam trở thành nước công nghiệp với tỷ lệ đô thị hóa từ 42% hiện nay lên 65% vào năm 2030: “Thứ nhất là thể hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị toàn cầu về biến đổi khí hậu ở Paris, thường gọi là COP-21.
Thứ hai, năm 2020, trong tình trạng cả nước phải dồn vào việc kiểm soát COVID-19 thì gần 15 cơn bão đã tràn vào tàn phá các tỉnh miền Trung. Tình trạng các khu dân cư ven biển bị tàn phá do ngập lụt lâu ngày, núi lở, đất sụt gây chết chóc và mất tích rất nhiều người. Chính phủ Việt Nam ý thức được rằng không thể phát triển các đô thị như hiện nay trong khi nhiệm vụ đô thị hóa như một trọng tâm 10 năm tới.
Thứ ba, trong thời gian miền Trung bị bão lũ, Ngân hàng thế giới (WB) đã hoàn thành báo cáo “Tăng cường khả năng chống chịu khu vực ven biển: Phát triển khu vực ven biển Việt Nam – Cơ hội và rủi ro thiên tai”. Báo cáo chỉ ra rằng: “dù có tiến bộ đáng kể nhưng các biện pháp quản lý rủi ro thiên tai hiện tại của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu”. Đếm lại con số 11,8 triệu cư dân ven biển đang gặp rủi ro cao do lũ lớn, 35% khu dân cư ven biển thuộc vùng hay bị sạt lở. Mỗi năm, kinh tế thiệt hại 852 triệu USD, tương đương 0,5% giá trị GDP, thiệt hại 316 nghìn việc làm do lũ sông và lũ ven biển.
Thứ tư, 2021 là năm đầu của kỳ quy hoạch cho thời kỳ 2021 – 2030 với tầm nhìn 2050. Đó là năm chuẩn bị quy hoạch cả nước, các vùng địa lý kinh tế, các tỉnh. Nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu cần được đặt như một trọng tâm, đặc biệt phải đặt điểm nhấn vào quy hoạch phát triển đô thị trong quá trình đẩy mạnh đô thị hóa”.
Đối với chuyên gia về biến đổi khí hậu, PGS.TS Lê Tuấn Anh – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ), quyết định của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giúp tìm giải pháp để các đô thị phục hồi tốt hơn sau khi thiên tai, đồng thời có sự chuẩn bị nhằm giảm nhẹ tác hại khi thiên tai xảy ra: “Bởi vì, hiện nay các đô thị của Việt Nam đều ít nhiều chịu tác động của biến đổi khí hậu. Khi thiên tai xảy ra thì tất cả các hoạt động đều ngưng trệ hoặc chậm lại, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế cũng như xã hội của các đô thị”.
Theo GS.TS Đặng Hùng Võ, thành quả cần đạt được trong quyết định của Thủ tướng Chính phủ bao gồm 6 điểm quan trọng:
Một là hình thành cơ sở dữ liệu cảnh báo rủi ro đô thị, Atlas đô thị và khí hậu tại các địa phương.
Hai là ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan đến quy hoạch và phát triển đô thị, thực hiện lồng ghép các hướng dẫn và nội dung quản lý rủi ro trong phát triển đô thị.
Ba là các định hướng, quy hoạch, chương trình phát triển đô thị đã được điều chỉnh, bổ sung nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu và có giải pháp kiểm soát phát triển đô thị.
Bốn là chỉ tiêu xác định các khu vực ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp cải tạo tại các đô thị ứng phó với biến đổi khi hậu làm cơ sở đầu tư xây dựng hiệu quả.
Năm là bổ sung hệ thống các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật về xây dựng và phát triển đô thị tăng trưởng xanh, thông minh, hệ sinh thái bền vững; ban hành các tài liệu đào tạo nâng cao năng lực quản lý rủi ro, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Sáu là hợp tác quốc tế nghiên cứu, thực hiện thí điểm một số chương trình, dự án ứng dụng công nghệ, vật liệu mới nhằm phát triển đô thị đảm bảo sức chống chịu với biến đổi khí hậu.
Chuyên gia biến đổi khí hậu Lê Anh Tuấn giải thích bổ sung: “Ví dụ, mỗi thành phố phải có kế hoạch dự báo, cảnh báo khi thiên tai sắp xảy ra. Và khi thiên tai đã xảy ra thì phải có biện pháp giảm nhẹ hoặc biện pháp cứu trợ nạn nhân thiên tai. Sau đó là những chương trình tái thiết, đồng thời chương trình chuẩn bị cho những thiên tai khác trong tương lai.
Đây là cách mà tất cả những thành phố lớn trên thế giới phải làm theo. Có nghĩa là chúng ta phải chuẩn bị trước, trong và sau khi có thiên tai”.
Tuy nhiên, vẫn theo lời nhà nghiên cứu Lê Anh Tuấn, trong điều kiện của Việt Nam thì có thể có một số điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của một quốc gia chưa phát triển cao như các nước Âu – Mỹ: “Việt Nam có phương châm “cứu người tại chỗ”, có nghĩa là cộng đồng có thể chỉ huy được phương tiện tại chỗ, hậu cần tại chỗ, ví dụ các nhóm thanh niên, các nhóm tình nguyện viên để giúp người khó khăn. Địa phương cũng phải có những kho chứa lương thực, thực phẩm, nhiên liệu, thuốc men, lều, trại cả những kế hoạch tập huấn cứu hộ cứu nạn trong những tình huống khác nhau. Đó là cách Việt Nam làm bên cạnh những tiêu chuẩn mà quốc tế đã làm”.
Kế hoạch phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 – 2030, do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phê duyệt trước khi rời nhiệm sở, được chia làm 3 thời kỳ:
+ Giai đoạn từ 2021 – 2025: các tỉnh được quan tâm cải tạo gồm 5 thành phố trực thuộc trung ương, 7 tỉnh vùng ven biển, 7 tỉnh vùng núi.
+ Giai đoạn hai từ 2025 – 2030: kế hoạch được mở rộng ra các tỉnh khác và bị tác động của biến đổi khí hậu.
+ Giai đoạn ba sau 2030 xem xét tất cả các đô thị trên phạm vi toàn quốc.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường Đặng Hùng Võ nhận định tính hợp lý rất cao trong quyết định của Thủ tướng, quan trọng Việt Nam có làm được hay không: “Tôi chỉ nói rằng nó hợp lý và nội dung như vậy là đủ. Thế nhưng bằng cách nào và điều gì quan trọng nhất thì tôi cho rằng là vấn đề ngân sách. Việt Nam có tiền để làm hay không? Với số lượng lớn các tỉnh, trước kia phát triển có phần lộn xộn, thì có đủ tiền cải tạo hay không? Đây là câu hỏi chỉ những người trong hệ thống lãnh đạo hiện nay mới có thể trả lời đc”.
Khó khăn cần đến là trí tuệ, ông Đặng Hùng Võ nhấn mạnh: “Khi đã cần hệ thống pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn, kể cả cơ sở dữ liệu, thì cảnh báo như thế nào từ những cơ sở dữ liệu đó cũng cần sáng kiến gọi là chắt lọc về mặt trí tuệ, về mặt chất xám”. Thực tế lâu nay cho thấy có nhiều kế hoạch đề ra được đánh giá là hoành tráng, nhưng khi áp dụng thì không thể vượt qua những trở ngại do chính đội ngũ thực thi gây ra.
Nguồn: TKNB – 09/04/2021.