Chính sách đổi mới khoa học – công nghệ của Hàn Quốc – Phần cuối


Hiện tại, thế giới đang bước vào thời kỳ bất ổn. Trong lúc cuộc cạnh tranh giành quyền bá chủ giữa Mỹ và Trung Quốc đang diễn ra căng thẳng, công nghệ được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định vị thế kinh tế-chính trị toàn cầu của một nước – vốn được xem là nền tảng cốt lõi cho sức mạnh quốc gia. Vì thế, nhiều quốc gia đang mở rộng quy mô đầu tư vào việc phát triển khoa học-công nghệ. Đặc biệt, khi tốc độ đổi mới công nghệ hỗ trợ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tăng nhanh và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số cũng như nền kinh tế dữ liệu tiến triển mạnh, việc đầu tư lớn vào các công nghệ mới đã mở ra một mô hình kinh tế mới. Quốc hội Mỹ đang chuẩn bị các dự luật về cạnh tranh trong hoạt động sáng tạo và Luật cạnh tranh của Mỹ nhằm nâng cao khả năng đổi mới công nghệ và duy trì khoảng cách công nghệ với Trung Quốc thông qua các khoản đầu tư quy mô lớn vào khoa học cơ bản, sản xuất chất bán dẫn, truyền thông và các lĩnh vực khoa học-kỹ thuật khác. Thông qua Quy hoạch 5 năm lần thứ 14 (2021 – 2025), Trung Quốc đã nhấn mạnh và ủng hộ sự phát triển và độc lập về công nghệ, do đổi mới công nghệ cao là nội dung cốt lõi của chiến lược quốc gia.

Tại Hàn Quốc, các biện pháp hỗ trợ như dự luật đặc biệt nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp chiến lược trọng điểm quốc gia đang được thảo luận, nhưng xét về cường độ và quy mô đầu tư, cũng như mức độ quan tâm của nước này còn kém xa so với Mỹ và Trung Quốc. Điều này được cho là do đổi mới công nghệ vẫn chỉ được coi là một vấn đề thuộc lĩnh vực khoa học-công nghệ và chưa được mở rộng đến cấp độ an ninh đối ngoại hoặc chiến lược quốc gia, đồng thời do đổi mới công nghệ và an ninh ngoại giao chưa có sự phối hợp ăn ý với nhau.

Trường hợp của chất bán dẫn cho thấy công nghệ đã trở thành tài sản ngoại giao quan trọng nhất trong cấu trúc nền kinh tế-chính trị toàn cầu của Hàn Quốc và công nghệ tiên tiến sẽ tiếp tục là cơ sở để đánh giá sức mạnh quốc gia của nước này. Về mặt này, đổi mới công nghệ chắc chắn là một phần quan trọng trong chiến lược an ninh và đối ngoại của Hàn Quốc. Từ quan điểm công nghệ, điểm cốt lõi trong chiến lược ứng phó của Hàn Quốc đối với cuộc cạnh tranh giành bá quyền công nghệ Mỹ-Trung không nên chỉ nằm ở việc chọn bên, mà cần hướng đến việc xác định những công nghệ mà Hàn Quốc có thể tiếp tục giới thiệu ra thị trường toàn cầu và những công nghệ mà Hàn Quốc có thể dựa vào đó để xây dựng tương lai của mình. Ví dụ, Hàn Quốc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thống trị lĩnh vực chất bán dẫn, song câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Giai đoạn hậu chất bán dẫn sẽ thế nào? Và làm thế nào để tìm kiếm công nghệ mới và thiết lập chiến lược đối với những thách thức từ công nghệ mới?

Chính phủ đương nhiệm ở Hàn Quốc đã cam kết đưa khoa học-công nghệ phát triển thành lĩnh vực dẫn đầu trong tương lai. Theo đó, các công nghệ mới cần được lựa chọn cẩn thận; việc hỗ trợ quá trình nghiên cứu có thể kéo dài tới 10 năm và tiến hành song sng với việc tách nghiên cứu khoa học khỏi chính trị, không để chính trị can thiệp vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Hàn Quốc cần chuẩn bị một chiến lược quốc gia kết hợp đổi mới khoa học-công nghệ với các lĩnh vực ngoại giao và an ninh trong bối cảnh các công nghệ mới, bao gồm cả trí tuệ nhân tạo, đang phát triển và cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung giành quyền bá chủ gây bất ổn cho các hoạt động sáng tạo.

Ngoại giao khoa học – công nghệ và hợp tác điều phối

Theo truyền thống, khoa học-công nghệ, ngạoi giao và an ninh luôn song hành với nhau cho dù mỗi lịnh vực đều phát triển một cách độc lập. Ví dụ, sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc ở các nước châu Âu và việc hình thành các thuộc địa ở châu Phi vào thế kỷ 19 đã trở nên khả thi nhờ việc phát minh động cơ hơi nước có khả năng đi sâu vào vào vùng đất thuộc địa và việc bào chế thành công thuốc trị sốt rét Quinin. Bước vào thế kỷ 21, mối quan hệ giữa khoa học-công nghệ và ngoại giao ngày càng được mở rộng. Ngoại giao khoa học-công nghệ đang được triển khai tích cực dưới nhiều hình thức như hợp tác nghiên cứu và phát triển quốc tế, hoạt động phối hợp giữa các tổ chức khoa học-công nghệ quốc tế và ngoại giao cộng đồng khoa học-công nghệ. Hiện nay, cùng với những tiến triển trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cuộc xung đột giành quyền bá chủ công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn tiếp diễn, và ngoại giao khao học-công nghệ đang tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao.

Tuy nhiên, khi khoa học-công nghệ, chẳng hạn như công nghệ khí hậu, công nghệ năng lượng thân thiện với môi trường, vaccine và phương pháp điều trị, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết những thách thức chung của nhân loại trong phòng chống sự lây lan của dịch bệnh và mối đe dọa từ biến đổi khí hậu, hợp tác trong lĩnh vực khoa học-công nghệ và ngoại giao giữa các nước lại gia tăng mạnh mẽ.

Vấn đề nổi cộm trong phát triển trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học tiên tiến là sự thừa nhận và phản ứng với những thách thức liên quan đến nền văn minh do những công nghệ này gây ra đã bị lu mờ, và các bên chỉ tập trung vào việc dùng công nghệ để vượt qua đối thủ. Vì vậy, đây sẽ là lĩnh vực ngày càng có nhiều rủi ro trong việc thiết lập các mặt bằng phát triển. Trong trường hợp này, nhiều khả năng chiến thắng cuối cùng trong cuộc đua công nghệ Mỹ – Trung sẽ thuộc về công nghệ đã đẩy lùi con người, chứ không phải Mỹ hay Trung Quốc.

Hợp tác quốc tế trong quá trình xác định và giải quyết các vấn đề phát sinh từ công nghệ tiên tiến như robot sát thủ phụ trách an ninh quốc gia, robot trí tuệ nhân tạo trong sản xuất, các tổ hợp máy móc mô phỏng chức năng của con người và không gian ảo là điều cần thiết. Trong quá trình tìm cách giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu, cần chú ý đến quá trình thiết lập và hình thành các chuẩn mực quốc tế về khoa học-công nghệ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Thay vì chọn bên, Hàn Quốc cần quan tâm đến việc đóng góp vào các chiến lược, phương án và đối sách giải quyết các vấn đề quốc tế quan trọng và phối hợp ngoại giao với các quốc gia tầm trung có những mối quan tâm tương tự.

Chính phủ mới dự kiến sẽ đưa ra nhiều chính sách khác nhau và tìm cách tái cơ cấu tổ chức để giải quyết các vấn đề an ninh kinh tế và ngoại giao khoa học-công nghệ mà các bộ ngành không thể tự mình xử lý. Tất cả những thách thức hiện nay phải được tiếp và giải quyết từ góc độ tổng thể, bao gồm các vấn đề kinh tế, công nghệ, đối ngoại, an ninh và y tế. Sự thành công của chính sách khao học-công nghệ của chính phủ mới phụ thuộc vào việc chính sách đó có được thực hiện một cách quyết liệt và toàn diện thông qua sự hợp tác và phối hợp giữa các bộ ngành hay không. Sự hợp tác hoặc phối hợp này là điều cần thiết đối với các vnấ đề liên quan đến nhiều bộ ngành. Do đó, cần phải tìm ra một cơ chế quản trị có thể tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình này.

Nguồn: TLTKĐB – 29/07/2022

Advertisement

Chính sách đổi mới khoa học – công nghệ của Hàn Quốc – Phần đầu


Chính sách đổi mới khoa học – công nghệ của tân Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol hướng đến mục tiêu đưa Hàn Quốc từ một quốc gia “rượt đuổi” về khoa học – công nghệ thành một trong năm quốc gia dẫn đầu thế giới về công nghệ cao và một trong bảy cường quốc không gian vào năm 2035. Đánh giá về chủ trương này, giáo sư khoa học chính trị và quan hệ quốc tế Yeungja Bac thuộc Đại học Konkuk đã có bài viết với nội dung như sau:

Tranh giành quyền bá chủ công nghệ Mỹ – Trung và những thay đổi trong môi trường đổi mới toàn cầu

Chính phủ mới ở Hàn Quốc đang phải đối mặt với nhiều thách thức cần vượt qua trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang tăng tốc, cuộc cạnh tranh giành quyền bá chủ công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra quyết liệt và tình hình dịch bệnh COVID-19 vẫn tiếp diễn. Khi khoa học – công nghệ được coi là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế cũng như tài sản ngoại giao quan trọng đối với an ninh quốc gia, chính sách khoa học – công nghệ được quan tâm hơn bao giờ hết. Các chính phủ tiền nhiệm ở Hàn Quốc đã thực hiện nhiều chính sách khác nhau để tăng cường khả năng đổi mới khoa học – công nghệ của nước này. Chính vì thế, chính phủ mới cần tìm kiếm và thiết lập các chính sách khoa học – công nghệ phù hợp trong bối cảnh môi trường cho đổi mới khoa học – công nghệ đang thay đổi nhanh chóng.

Trong vài thập kỷ qua, tăng trưởng kinh tế và khả năng đổi mới công nghệ của Hàn Quốc đã được củng cố trong trật tự thương mại tự do và hệ thống đổi mới toàn cầu mở do Mỹ dẫn đầu. Trong bối cảnh dòng vốn, hàng hóa và nhân lực có thể dịch chuyển một cách tự do, hàng hóa được xuất khẩu, nhân lực được đào tạo và các kỹ năng khác được thu nạp. Dưới thời Chính quyền Donald Trump, xung đột Mỹ – Trung về các công nghệ tiên tiến như chất bán dẫn, 5G và trí tuệ nhân tạo ngày càng tăng. Việc Mỹ áp dụng các biện pháp hạn chế cạnh tranh đã ảnh hưởng đến dòng hàng hóa, vốn và nhân lực mà trước đó có thể tự do di chuyển qua biên giới quốc gia theo logic thị trường.

Khi cách tiếp cận địa chính trị đối với thương mại, đầu tư, sản xuất và đổi mới giữ vai trò chi phối và khoa học – công nghệ nổi lên như một nhân tố chính trong địa chính trị. Chính phủ Hàn Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải cân nhắc yếu tố này trong chính sách đổi mới khoa học – công nghệ của mình. Các chính sách đổi mới khoa học – công nghệ hiện hành, được thực hiện dựa trên logic thị trường tự do và cởi mở, cần phải được rà soát và tích hợp trong khuôn khổ các quan điểm về kinh tế, đối ngoại, quốc phòng và an ninh mới.

Phối hợp an ninh kinh tế và chuỗi cung ứng đổi mới khoa học – công nghệ

Các vấn đề kinh tế và an ninh trở nên nổi cộm trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ – Trung ngày càng gay gắt và dịch bệnh tiếp tục lây lan. Trước đây, an ninh kinh tế được hiểu là nhu cầu hỗ trợ sinh kế cho tầng lớp thu nhập thấp nhằm ổn định trật tự xã hội và duy trì tăng trưởng kinh tế – nền tảng chính của an ninh quốc gia. Hiện tại, khi cuộc cạnh tranh công nghệ Mỹ – Trung và cuộc chiến Ukraine vẫn đang tiếp diễn, an ninh kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào sự ổn định của chuỗi cung ứng và việc kiểm soát xuất khẩu. Khi Mỹ tích cực áp dụng các chính sách kinh tế và an ninh nhằm kiềm chế Trung Quốc và Nga, các quốc gia còn lại không có lựa chọn nào khác ngoài việc thực hiện những hành động tương ứng.

Nhìn chung, các vấn đề kinh tế và an ninh ngày càng phức tạp. Trong khi đó, các lĩnh vực khác nhau như chuỗi cung ứng, công nghệ, thương mại, đầu tư, quốc phòng mạng, đối ngoại và y tế có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trên quan điểm an ninh quốc gia. Với Mỹ, các vấn đề kinh tế và an ninh lớn bao gồm các hạn chế đối với hoạt động mua bán và sáp nhập các công ty công nghệ cao trong nước, hoạt động xuất khẩu công nghệ cao và hoạt động trao đổi chuyên gia nghiên cứu, cũng như sự cần thiết của việc đảm bảo ổn định chuỗi cung ứng cho các ngành chiến lược như thiết bị bán dẫn, việc tăng đầu tư vào công nghệ cao trong nước và việc củng cố các liên minh công nghệ và giá trị. Đặc biệt, Bộ Quốc phòng Mỹ còn đưa nhiều lĩnh vực công nghệ khác nhau – không chỉ các công nghệ liên quan trực tiếp đến ngành công nghiệp vũ khí và quốc phòng, mà cả các công nghệ cơ bản và mới nổi có tác động đến an ninh quốc gia – vào các quy định về an ninh quốc gia.

Trên quan điểm an ninh kinh tế, Hàn Quốc cũng cần xác định mối quan hệ giữa chuỗi cung ứng-sản xuất với việc đổi mới các sản phẩm công nghệ chủ chốt, tìm kiếm và điều chỉnh những bộ phận có thể được bổ sung và thay thế bằng công nghệ trong nước. Hàn Quốc đã nhiều lần trải qua sự gián đoạn của chuỗi cung ứng, không chỉ trong trường hợp do bên thứ ba gây ra như việc Nhật Bản hạn chế xuất khẩu vật liệu bán dẫn và Trung Quốc hạn chế xuất khẩu hóa chất ure. Kinh nghiệm từ các đợt bùng phát dịch COVID-19 cho thấy các vấn đề y tế trong trường hợp khẩn cấp có thể là mối đe dọa lớn đối với sự ổn định của chuỗi cung ứng. Trong bối cảnh mọi thứ trong nước không thể mua sắm, hợp tác quốc tế là nhu cầu tất yếu trong quá trình sản xuất và đổi mới nhằm đảm bảo an ninh kinh tế. Tuy nhiên, sự hợp tác xuyên biên giới cần được điều phối một cách có chiến lược. Mặc dù việc lựa chọn các giao dịch hiệu uqả nhất dựa trên logic thị trường là điều quan trọng, nhưng vẫn cần phải xem xét các rủi ro ngắn hạn và dài hạn trong giao dịch một cách toàn diện – nghĩa là cần phải xem xét cả từ khía cạnh đối ngoại và an ninh – và cần phải điều chỉnh chuỗi cung ứng cũng như hiệu chỉnh các chính sách thương mại-đầu tư một cách thích hợp. Cần xây dựng một chính sách đổi mới khoa học – công nghệ phù hợp trên cơ sở xem xét một cách tổng hợp các chi phí kinh tế và các quan điểm ngoại giao – an ninh trong toàn bộ quá trình sản xuất, đổi mới và mua bán các sản phẩm công nghệ.

Tăng cường quy mô đầu tư đổi mới khoa học – công nghệ trong thời kỳ bất ổn

Cho đến nay, nghiên cứu đổi mới khoa học – công nghệ chủ yếu tập trung theo các thể chế và chủ trương chính sách trong nước. Tuy nhiên gần đây, nhiều người cho rằng môi trường kinh tế – chính trị toàn cầu mới là mối đe dọa an ninh và coi đó là nhân tố chính thúc đẩy đổi mới công nghệ. Quan điểm này xuất phát từ việc quá trình và kết quả đổi mới công nghệ không trung lập về mặt chính trị và bị chi phối bởi các nguồn ngân sách hay chính sách đổi mới công nghệ. Khi nhận thức về các mối đe dọa an ninh được chia sẻ rộng khắp, nhu cầu đổi mới công nghệ nhằm giải quyết những thách thức đó được nhấn mạnh, các thỏa thuận được thực hiện tương đối dễ dàng và đầu tư nhanh chóng được thực hiện. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng bản thân các mối đe dọa từ bên ngoài không trực tiếp quyết định việc đổi mới công nghệ. Và nếu có sự tranh cãi hoặc phản ứng trong nước đối với việc đổi mới công nghệ do nhận thức về các mối đe dọa từ bên ngoài chưa đầy đủ, thì khó có thể tập trung nguồn lực cho nhu cầu này. Ví dụ, khi Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo Sputnik đầu tiên vào không gian, Mỹ đã lo ngại tới mức quyết định đầu tư một số tiền khổng lồ để thành lập NASA và đặt nền móng cho sự đổi mới trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ. Ở thời điểm bình thường, sẽ có nhiều cuộc tranh cãi về việc thành lập một viện nghiên cứu quy mô lớn như NASA. Tuy nhiên khi đó, nhận thức chung về mối đe dọa từ Liên Xô đã tạo điều kiện thuận lợi để Chính phủ Mỹ đổi mới công nghệ vũ trũ một cách mạnh mẽ.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 29/07/2022

Chuyến thăm Đài Loan của Pelosi thúc đẩy Nhật Bản nhanh chóng sửa đổi Hiến pháp? – Phần cuối


Không chỉ có hoạt động của một số nghị sĩ và chính trị gia Nhật Bản ngày càng mạnh dạn hơn trong các vấn đề liên quan đến Đài Loan, Bộ Ngoại giao Nhật Bản cũng đã xác nhận sẽ thiết lập chức vụ mới “Quan chức hoạch định vấn đề Đài Loan” thuộc Cục châu Á và châu Đại Dương của bộ này trong năm 2022. Nhiệm vụ chủ yếu của quan chức đó là phụ trách vấn đề Đông Hải trong đó có quần đảo Điếu Ngư và Đài Loan. Ngoài ra, một số chính trị gia kêu gọi không chỉ tăng cường hợp tác giữa Nhật Bản với Mỹ trong vấn đề Đài Loan, mà còn phát huy ảnh hưởng của Nhật Bản ở Đông Nam Á để đoàn kết các nước Đông Nam Á gia nhập hàng ngũ ủng hộ Đài Loan.

Trên thực tế, sau khi Trung Quốc thông qua Luật chống ly khai, nhà cầm quyền Đài Loan không dám vội vàng tuyên bố độc lập, Nhật Bản đã có nhận định rõ ràng về vấn đề này. Tuy nhiên, khi quan hệ Trung-Mỹ xuống thấp những năm gần đây và quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan tiếp tục xấu đi, Mỹ có ý đồ đụng chạm đến giới hạn đỏ của Trung Quốc liên quan đến Đài Loan, thì Nhật Bản đã cảm thấy có thể thực hiện mưu đồ kiếm lợi. Do đó, trong bối cảnh đọ sức nhưng không phá vỡ thế cân bằng giữa Trung Quốc với Mỹ liên quan đến vấn đề Đài Loan, Nhật Bản kỳ vọng sẽ tận dụng cơ hội này để sử dụng “quân bài Đài Loan”, thậm chí ở mức độ nhất định còn tận dụng sự kiềm chế và kiên nhẫn của Trung Quốc mong muốn giải quyết hòa bình vấn đề Đài Loan để tìm kiếm lợi ích lớn hơn với tâm lý của “con bạc”. Chuyến thăm Đài Loan của Pelosi trở thành cơ hội tốt và tiêu chuẩn đánh giá để Nhật Bản quan sát kỹ phản ứng của Trung Quốc.

Lợi dụng “Đài Loan gặp rắc rối” để thúc đẩy mạnh mẽ việc sửa đổi hiến pháp và luật pháp

Sự leo thang căng thẳng ở eo biển Đài Loan do chuyến thăm Đài Loan của Pelosi có thể trở thành “căn cứ” đủ vững chắc để lực lượng cánh hữu của Nhật Bản thúc đẩy sửa đổi Hiến pháp.

Thứ nhất là lợi dụng tình hình căng thẳng ở eo biển Đài Loan để tuyên truyền về khủng hoảng an ninh, tạo bầu không khí cho việc sửa đổi Hiến pháp và đạo luật.

Ngày 4/8, Nhật Bản cho rằng tên lửa trong cuộc tập trận của Trung Quốc ở eo biển Đài Loan rơi vào vùng đặc quyền kinh tế do nước này vạch ra, đã đưa ra kháng nghị đối với Trung Quốc. Trong chương trình truyền hình, nghị sĩ LDP Hoshino Tsuyoshi công khai tuyên bố sự kiện này một lẫn nữa khẳng định Nhật Bản cũng là “người trong cuộc” trong vấn đề Đài Loan, người dân Nhật Bản phải nhận thấy “tính chân thực” về “rắc rối của Đài Loan cũng là rắc rối của Nhật Bản”. Nhật Bản cũng đề cập đến tranh chấp Trung Quốc-Nhật Bản ở Đông Hải, đưa ra đường trung tuyến ở Đông Hải mà Trung Quốc không thừa nhận để gây khó dễ cho Trung Quốc. Một là họ muốn lợi dụng tình hình căng thẳng ở eo biển Đài Loan để đục nước béo có, coi việc thiết lậpđường trung tuyến giả định đã trở thành sự thật; hai là nhân chuyến thăm Nhật Bản của Pelosi để bày tỏ lập trường tương đồng giữa Nhật Bản và Mỹ liên quan đến vấn đề Đài Loan; ba là thông qua việc tuyên truyền mối đe dọa quân sự đến từ Trung Quốc để chứng minh “sự thật” Đài Loan gặp rắc rối cũng là rắc rối của Nhật Bản, từ đó tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng đối với chính sách liên quan đến Đài Loan.

Lâu nay, lực lượng cánh hữu Nhật Bản muốn logic nội tại của việc can thiệp vào vấn đề Đài Loan là coi quần đảo Điếu Ngư thuộc tiền đồn của lãnh thổ Okinawa Nhật Bản để phân định vùng biển Nhật Bản, thậm chí sử dụng vấn đề quần đảo Điếu Ngư làm phương thức để “chủ động châm lửa đốt mình”, hợp lý hóa hành động can thiệp vào vấn đề Đài Loan. Họ mong muốn lấy lý do bảo vệ an ninh quốc gia Nhật Bản để trói buộc lực lượng phản đối sửa đổi Hiến pháp, giảm bớt sự cản trở của dư luận trong nước, thực hiện ý đồ sửa đổi Hiến pháp của họ.

Thứ hai là thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện chiến lược, đạo luật liên quan đến đảm bảo an ninh.

Nhật Bản đã xác định rõ sẽ sửa đổi chiến lược an ninh quốc gia vào nửa cuối năm 2022, với trọng điểm là tập trung vào nâng cao khả năng tấn công các căn cứ của kẻ địch, hoàn thiện chiến lược an ninh kinh tế nhằm tăng cường sức mạnh phòng vệ của Nhật Bản. Hiện nay, trong các chương trình nghị sự như chiến tranh tình báo và tuyên truyền chiến lược, sản xuất quốc phòng, cơ sở công nghệ, chuyển giao thiết bị quốc phòng, quản lý vũ khí và kiểm soát vũ khí, bảo vệ nhân dân, môi trường chiến lược của Nhật Bản trong tương lai…, Nhật Bản đều lấy trung tâm là Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng, tiến hành nhiều vòng trưng cầu ý kiến của doanh nghiệp ngành chế tạo và chuyên gia trong lĩnh vực có liên quan.

Ngoài chiến lược an ninh nêu trên, năm 2022, Nhật Bản sẽ chính thức thực hiện Đạo luật khảo sát đất đai trọng yếu, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để Nhật Bản trưng dụng đất dân sự cho mục đích quân sự. Dự luật này phá vỡ quy định của Luật thu hồi đất hiện hành vốn không liên quan đến việc sử dụng đất cho mục đích quân sự và quốc phòng. Chính phủ Nhật Bản sẽ quản lý và trừng phạt các chủ sở hữu đất tư nhân vì mục đích quân sự. Theo quy định của dự luật này, Thủ tướng Nhật Bản có thể chỉ định “các khu vực cần quan tâm” và “khu vực quan tâm đặc biệt” ở các khu vực như trong vòng 1 km xung quanh các cơ sở quan trọng và trên các đảo xa, yêu cầu người sử dụng đất cung cấp báo cáo và tài liệu sử dụng đất đai. Hiện nay, Nhật Bản đã thành lập cơ quan quản lý dài hạn gồm hơn 30 người trong Văn phòng Nội các phụ trách thúc đẩy việc thực hiện dự luật này. Các chuyên gia Nhật Bản cho rằng nội dung dự luật này có nhiều phần mơ hồ, có thể xâm phạm đến các quyền được Hiến pháp bảo vệ như quyền sở hữu tài sản, cuộc sống riêng tư, tự do tư tưởng tốt đẹp…

Trước xu thế Nhật Bản can thiệp vào vấn đề Đài Loan với những lý do khác nhau trong những năm gần đây, Trung Quốc cần theo dõi sát sao, nghiên cứu và nhận định sớm, đáp trả chính xác hành vi khiêu khích của các lực lượng thân Đài Loan, kiềm chế hiệu quả sự lan rộng của dư luận chống Trung Quốc ở Nhật Bản, kiên quyết đấu tranh chống lại sự liên kết của các lực lượng quốc tế thân Đài Loan và chống Trung Quốc, ra sức thực hiện “Tiếng nói có sức mạnh, hành động có hiệu quả”.

Nguồn: TLTKĐB – 20/09/2022

Chuyến thăm Đài Loan của Pelosi thúc đẩy Nhật Bản nhanh chóng sửa đổi Hiến pháp? – Phần đầu


Theo thepaper.cn ngày 02/08/2022, Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi đã đến thăm Đài Loan, ngang nhiên thách thức giới hạn đỏ của Trung Quốc liên quan đến Đài Loan. Ngày 3/8, ngoại trưởng của Nhóm các nền công nghiệp phát triển (G7), trong đó có Nhật Bản, đã đưa ra tuyên bố chung về Đài Loan, nói rằng hoạt động của Trung Quốc có thể làm gia tăng căng thẳng ở eo biển Đài Loan và yêu cầu Trung Quốc không được đơn phương thay đổi hiện trạng bằng vũ lực. Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị bác bỏ tuyên bố này, cho rằng “đảo ngược trắng đen, lẫn lộn phải trái” và hỏi: “Họ làm gì có quyền đó? Ai cho họ tư cách đó?”. Ngày 5/8, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida đã gặp Nancy Pelosi, hai bên công khai đề cập đến vấn đề Đài Loan, Fumio Kishida cũng tuyên bố sai sự thật rằng việc tên lửa của Trung Quốc rơi vào vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình và ổn định của khu vực và cộng đồng quốc tế, Nhật Bản và Mỹ sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ để bảo vệ hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan. Trong khi Pelosi đang bận rộn gây rối ở châu Á, Nhật Bản cũng liên tục có những “tiểu xảo” liên quan đến vấn đề Đài Loan càng ngày càng đi xa trên con đường sai lầm.

Căn cứ của Mỹ ở Okinawa của Nhật Bản trở thành tiền tuyến bảo vệ cho Pelosi thăm Đài Loan

Nhật Bản là nước đồng minh có căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ ở nước ngoài, ý nghĩa chiến lược quân sự của Nhật Bản đối với Mỹ trong vấn đề liên quan đến Đài Loan là hiển nhiên. Vào buổi tối Pelosi đến Đài Loan, tổng cộng 22 máy bay tiếp dầu trên không KC135 đã đến căn cứ Kadena của Mỹ ở Okinawa Nhật Bản từ một căn cứ bên ngoài, hiếm khi nhiều máy bay tiếp dầu trên không lại tập trung tại căn cứ Kadena. Ngoài ra, khoảng 6 giờ tối cùng ngày, sau khi máy bay trinh sát điện tử EP3 của quân đội Mỹ được xác nhận cất cánh, thì 8 giờ tối lại xác nhận 5 máy bay tiếp dầu và 8 máy bay chiến đấu F-15 triển khai tại căn cứ Kadena cũng liên tục cất cánh.

Kanehara Nobukatsu, cựu Phó giám đốc Cơ quan an ninh trong nội các của Thủ tướng Shinzo Abe, thẳng thắn cho biết do không có Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ở Đông Bắc Á, nếu không có sự hỗ trợ của Nhật Bản, Mỹ sẽ không thể thực hiện được mục tiêu chiến lược là can thiệp vào tình hình eo biển Đài Loan, nhưng khoảng một giờ trước khi Pelosi đến Nhật Bản vào ngày 4/8, nước này bất ngờ tuyên bố trong cuộc tập trận bao vây đảo của Trung Quốc có 5 tên lửa đã rơi vào vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản. Do đó, Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã phản đối gay gắt Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao, đồng thời yêu cầu Trung Quốc dừng ngay lập tức cuộc tập trận ở eo biển Đài Loan. Từ đó có thể thấy Nhật Bản nhận thức rõ những sóng gió và hậu quả của việc Pelosi đi thăm Đài Loan, nhưng Tokyo vẫn có ý đồ lợi dụng tình hình căng thẳng ở eo biển Đài Loan để liên kết với Mỹ kiềm chế Trung Quốc và phối hợp với Mỹ bảo vệ Đài Loan. Cùng với việc theo đuổi quyền kiểm soát lớn hơn ở khu vực Đông Á, Nhật Bản cũng đang tranh thủ quyền chủ động nhiều hơn trong quan hệ đồng minh “không cân xứng” với Mỹ.

Việc Pelosi đi thăm Đài Loan có thể khiến thế lực cánh hữu Nhật Bản đẩy nhanh sửa đổi hiến pháp

Nhiều người Nhật Bản cho rằng việc Pelosi đi thăm Đài Loan sẽ làm trầm trọng thêm tình hình căng thẳng eo biển Đài Loan, khiến Nhật Bản phải tăng tốc chuẩn bị cho các vấn đề liên quan đến Đài Loan. Chính phủ Nhật Bản kết nối an ninh quốc gia của chính họ với vấn đề Đài Loan. Do đó, sóng gió do chuyến thăm của Pelosi đến Đài Loan chắc chắn sẽ tác động đến Nhật Bản. Sự kiện này sẽ trở thành nhân tố kích thích Nhật Bản tăng tốc can dự vào vấn đề Đài Loan, lấy đó làm lý do để tìm cách thoát khỏi sự ràng buộc của HIến pháp hòa bình và tăng cường bố trí lực lượng quân sự ở Đông Hải (biển Hoa Đông).

Lực lượng cánh hữu Nhật Bản có ý đồ hối thúc nâng cấp quan hệ với Đài Loan

Từ lâu, lực lượng thân Đài Loan của Nhật Bản mong muốn nâng cấp quan hệ Nhật Bản – Đài Loan. Một là hoạt động của cánh hữu thường xuyên diễn ra. Những năm gần đây, nhiều tổ chức đại phương ở Nhật Bản đã yêu cầu Chính phủ Nhật Bản ban hành “Luật cơ bản về quan hệ Nhật Bản – Đài Loan” để tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác song phương trong các lĩnh vực kinh tế, cứu nạn, an ninh, bảo vệ môi trường… Họ còn yêu cầu Chính phủ Nhật Bản tăng cường giao lưu và hợp tác trong các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục, du lịch, y tế, phòng chống thiên tai, hỗ trợ chính quyền Đài Loan gửi đơn tham gia HIệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), nhanh chóng xây dựng Luật cơ bản về quan hệ Nhật Bản – Đài Loan liên quan đến ngoại giao và an ninh.

Hai là, hoạt động của đảng cầm quyền Nhật Bản liên quan đến Đài Loan liên tục xuất hiện. Tháng 5/2022, Keisuke Suzuki, Hạ nghị sĩ của đảng Dân chủ tự do Nhật Bản (LDP), dẫn đầu một nhóm thành viên của Cục Thanh niên của LDP đến Đài Loan để hội đàm với lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn. Trước chuyến thăm của Nancy Pelosi, ngày 28/7, Shigeru Ishiba, cựu Tổng thư ký LDP và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản bất chấp sự phản đối của Trung Quốc, đã dẫn đầu một số nghị sĩ Nhật Bản đến thăm Đài Loan và hội đàm với Thái Anh Văn. Trong cuộc hội đàm, Shigeru Ishiba cho biết: “Nhật Bản sẽ gánh vác trách nhiệm cần thiết ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương”. Ông cũng thảo luận với lãnh đạo chính quyền Đài Loan liên quan đến việc ứng phó khi Đài Loan gặp rắc rối.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 20/09/2022

Tiến hóa của trật tự quốc tế ở Đông Á trong bối cảnh “khủng hoảng Ukraine” – Phần cuối


Báo Guardian viết về việc này: “Dường như Trung Quốc phải lo sốt vó trước việc Nga chiếm mất một mẩu của nước láng giềng. Trung Quốc cương quyết bảo vệ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước khác, còn bản thân mình đang có hai “Crimea tiềm tàng” là Tây Tạng và Tân Cương”. Tuy nhiên, khi tác giả thăm dò ý kiến người dân Trung Quốc, thì họ trả lời đại loại như thế này: “Vâng chúng tôi cũng hơi lo lắng, nhưng Ukraine còn xa lắm, còn nói thẳng ra thì những hậu quả tích cực của cuộc khủng hoảng này đối với Trung Quốc còn lớn hơn là tiêu cực”, – bình luận viên của báo Guardian viết. Ukraine khiến Hoa Kỳ xao nhãng khỏi “bước ngoặt” dự định tiến về khu vực châu Á – Thái Bình Dương, còn nước Nga thì trở nên phụ thuộc hơn vào quan hệ hữu hảo với Bắc Kinh”.

Bắc Kinh giữ lập trường kiềm chế – trung lập và thậm chí sẵn sàng đứng ra làm trung gian trong vụ tranh chấp xung quanh Ukraine, trong khi đó vẫn không quên những lợi ích dài hạn của mình. Theo giả thuyết của tờ báo của Mỹ The American Interest, “Bắc Kinh có thể muốn sát nhập vào lãnh thổ của mình những đảo biển Nam và Đông Trung Hoa (sau khi tuyên bố đảo “luôn luôn là một bộ phận” của Trung Quốc, giống như Putin đã nói về Ukraine). Chính phủ Trung Quốc sẽ chăm chú theo dõi cuộc khủng hoảng đang phát triển, dùng chúng làm dẫn chứng về việc phương Tây sẽ hành xử như thế nào, nếu như Bắc Kinh cũng dự định một bước đi giống như thế.

Khủng hoảng Ukraine đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho ngoại giao Trung Quốc – và đó không chỉ đơn thuần là sẵn sàng “ngồi trên núi quan sát hai con hổ đấu nhau” (tọa sơn quan hổ đấu). Bắc Kinh tranh thủ được cảm tình của tất cả các bên xung đột xung quanh Ukraine, và họ theo đuổi chiến lược “cùng nhau giành phần thắng”, sẽ lợi dụng cơ hội này để phát triển quan hệ với tất cả các bên – theo điều kiện của Trung Quốc.

Đối với quan hệ Nga – Trung Quốc, đây sẽ là tác nhân kích thích bổ sung rất mạnh cho việc “xoay trục về phương Đông” đã được ban lãnh đạo Nga tuyên bố, nhưng việc hiện thực hóa nó trên thực tế thì vẫn buộc phải chờ đợi. Có thể thấy được việc tăng cường nỗ lực cho phát triển đối thoại Nga – Trung Quốc trên tất cả các lĩnh vực: quan hệ kinh tế – thương mại, hợp tác vùng biên giới và giữa các vùng, tiếp xúc trong lĩnh vực văn hóa – nhân văn.

Một số nhà phân tích Nga và Trung Quốc thậm chí bắt đầu nói đến khả năng thiết lập liên minh quân sự – chính trị Nga – Trung Quốc theo kiểu của những năm 1950. Nhưng khó mà tin được điều này – cả hai bên đều không sẵn sàng hạn chế lợi ích quốc gia của mình một cách có lợi cho đối tác hay chủ quyền để thông qua những quyết định then chốt (đây chính là điều mà một liên minh quân sự – chính trị cổ điển ngụ ý đến). Nhưng Nga và Trung Quốc có thể thật sự tiến tới sự xích lại gần nhau và phối hợp nỗ lực một cách chặt chẽ hơn trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao, hợp tác kỹ thuật quân sự…

Và đằng sau những điều nói trên, không phải là ý muốn “kết bạn chống lại phương Tây”, mà là ý định cùng nhau nỗ lực bảo đảm lợi ích quốc gia và địa chính trị của mỗi nước trong những điều kiện sẵn có, ý định xây dựng trò chơi mới với tổng số dương, bằng cách gây ảnh hưởng lên luật của trò chơi này. Trung Quốc tham gia ngày càng tích cực vào các cơ chế quản trị toàn cầu, nhận thức được (giống như Nga) tính không hoàn thiện và dễ tổn thương của nhiều cơ chế trong đó liên quan đến các nước phương Tây. Không chấp nhận cô lập Nga trên trường quốc tế sẽ thúc giục cả Trung Quốc lẫn Nga phải tích cực hơn nữa để đòi phải cải tổ hệ thống quản trị toàn cầu, trật tự thế giới đang tồn tại và luật quốc tế hiện đại.

Như nhận định trong bài bình luận của hãng thông tấn “Tân Hoa xã” ngày 12/12/2014, “mặc dù quan hệ Trung Quốc – Nga đem lại lợi ích không chỉ cho chính các nước này, mà cho cả khu vực và thế giới nói chung, tuy nhiên, một số kẻ nhìn thấy trong quan hệ hợp tác ở mức độ nào đấy như là một liên minh chống phương Tây… Họ nhìn thấy trong tình hữu nghị Trung Quốc – Nga một sự đáp trả cái gọi là “xoay trục về châu Á” của Hoa Kỳ và sự trừng phạt chống Nga. Cách nhìn thế giới kiểu như vậy không thể gọi bằng từ nào khác là lỗi thời và sai lầm… Trong thực tế, Trung Quốc và Liên bang Nga chỉ là những đối tác hợp lý, ngoài tất cả những điều khác, hai nước duy trì quan điểm tương đồng về những công việc quốc tế, đồng thời có tính bổ sung cho nhau xét về mặt những tài nguyên có thể tác động tích cực lên quá trình phát triển của cả hai bên.

Động thái quan hệ của nước Nga với các nước Đông Á gần đây chứng minh một cách hiển nhiên rằng, trong khu vực này người ta nhận thức ngày càng rành mạch hai nguyên nhân cơ bản của khủng hoảng hệ thống cấu trúc thế giới hiện đại (và cuộc khủng hoảng Ukraine trở thành yếu tố kích hoạt chúng), mà bình luận viên báo Guardian Timothy Garton Ash đã nêu đặc điểm một cách rất màu mè theo kiểu nhà báo, nhưng ở đây lại vô cùng chính xác: “Và lát nữa đây người ta bày ra hai cái “lò xo” khổng lồ. Cái “lò xo” thứ nhất là mối hạn của nước Nga vì đế chế của nó bị thu hẹp sau 25 năm trở lại đây. Cái thứ hai là m6ói hận của các nước BRICS và G20 vì suốt nhiều thế kỷ dưới ách thống trị thực dân của phương Tây. Vào thế kỷ XXI “Ukraine” được thêm vào”.

Về phần mình, Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Lavrov, trên diễn đàn khóa họp thứ 69 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đưa ra cách diễn đạt tương tự, nhưng được sửa lại theo kiểu ngoại giao: “Ngyà nay đang hiển hiện ngày một rõ ràng mâu thuẫn giữa nhu cầu phải hành động tập thể nhằm đưa ra cách đáp trả cho nhữgn thách thức chung cho tất cả mọi người, với ý đồ của một loạt quốc gia muốn giành địa vị thống trị, muốn khôi phục lại tư duy khổi cổ hủ dựa trên kỷ luật kiểu trại lính và logic tệ hại “quân ta – quân nó”.

Những hiểu biết lý luận về khủng hoảng hệ thống cấu trúc thế giới hiện nay vẫn còn đang nằm ở phía trước. Thế nhưng những sự kiện xung quanh Ukraine cho thấy trật tự thế giới hiện đại và những thể thức luật pháp quốc tế của nó có tính đến sự tồn tại của các “quốc gia dân tộc”, không đáp ứng được thực tế hiển nhiên. Người ta cũng bắt đầu thấy rõ rằng cả Nga lẫn Ukraine đều chưa hoàn tất quá trình hình thành dân tộc và xây dựng những quốc gia dân tộc của mình. Sự tan rã của Liên Xô năm 1991 chỉ là sự khởi đầu cho quá trình này, và nó có thể mất một thời gian dài.

Khái niệm “trật tự thế giới mới thứ hai” đang được xác nhận, từ này do nhà chính trị học người Mỹ gốc Nga Nikolai Zlobin nêu ra cách đây mấy năm:

“Sự tan rã của Liên Xô vẫn chưa kết thúc… Các đế chế thường rệu rã rất lâu với đầy sự đau đớn. Đặc biệt là nếu chúng được hợp thành từ những lãnh thổ kế cận nhau và cư dân pha trộn theo rất nhiều tiêu chí… Những đường biên giới trong lòng Liên Xô mang tính chất chính trị thực dụng. Ngày nay, chúng thường bị xem là thiếu logic, mâu thuẫn với thực tế. Chúng không thể trở thành cơ sở lâu dài cho địa lý chính trị Á – Âu mới. Những biên giới tồn tại trong không gian hậu Xô viết nhất định sẽ thay đổi”.

Thấu hiểu điều này (điều đang trở thành hiển nhiên ở phương Đông) có thể sẽ giúp phương Tây phản ứng một cách thỏa đáng hơn trước những gì diễn ra ở Ukraine và Crimea. Theo quan điểm chính thức, việc này thực sự đã vượt ra “ngoài khuôn khổ” được thiết lập trước đây cho những “quốc gia dân tộc” tiêu chuẩn, – những khuôn khổ không thèm quan tâm đến quyền hạn và lợi ích của những người mà do những nguyên nhân lịch sử khách quan không hòa hợp với chúng. Thấu hiểu nhiều hơn, sẵn sàng tỏ ra kiên nhẫn, không gióng một loạt hồi chuông lên và đe dọa cô lập – đó chính là điều có thể giúp bình thường hóa tình hình và khôi phục quan hệ giữa Nga và phương Tây.

Tôn trọng sự lựa chọn của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ, duy trì bầu không khí tin cậy, phối hợp hành động và hợp tác bình đẳng đã trở thành cơ sở cho việc hình thành mặt bằng mới trong quan hệ giữa Nga và các đối tác của họ đối với trật tự thế giới đang ra đời. Đây không phải là quan hệ đồng minh, chúng không nhằm chống lại một nước lớn thứ ba nào cả. Nhân tố đối tác chiến lược toàn diện và phối hợp hành động đóng vai trò hợp lực của cái hộp cộng hưởng, tạo điều kiện khách quan cho tăng trưởng ảnh hưởng và sức mạnh tổng hợp, cho an ninh và ổn định của từng đối tác với tư cách là những chủ thể của chính trị quốc tế.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: M.L. Titarenko, V.E. Petrovski – Nga, Trung Quốc và trật tự thế giới mới: Lý luận và thực tiễn, NXB CTQG 2017

Tiến hóa của trật tự quốc tế ở Đông Á trong bối cảnh “khủng hoảng Ukraine” – Phần II


Như lời Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Lavrov tuyên bố, trong hoạt động của SCO và BRICS không tồn tại cái gọi là “vấn đề Crimea”. “Không ai trong số những đối tác của chúng tôi ra tuyên bố không công nhận kết quả cuộc trưng cầu dân ý hiện đã trở thành cơ sở cho việc đưa Crimea trở lại trong thành phần Liên bang Nga… Các nhà lãnh đạo BRICS và SCO giữ vững lập trường chung với chung tôi là cần phải thực hiện đầy đủ và thiện chí Thỏa thuận Minsk, những nước này không hề có quan hệ gì với “chương trình nghị sự Crimea”. Vấn đề về Crimea đã khép lại (tôi nghĩ rằng tất cả đều hiểu điều này, thậm chí cả những kẻ không thể ngừng nói về điều này). Nó đã được khép lại bởi nhân dân Crimea và nghị quyết đã được Liên bang Nga thông qua, đáp lại ý chí thể hiện rõ ràng của nhân dân Crimea.

Các đối tác của Nga trong BRICS và SCO cùng chia sẻ lập trường nguyên tắc của nước này là không chấp nhận chính sách trừng phạt. Như V. Putin nhận định tại các cuộc họp báo về kết quả của Hội nghị cấp cao BRICS và SCO ở Ufa, “thứ công cụ như trừng phạt, nói chung cần phải được loại bỏ khỏi vốn từ vựng kinh tế và giao tiếp quốc tế. Nó không được phép sử dụng trong kinh tế thế giới, bởi vì nó khiến cho kinh tế đảo lộn từ chân lên đầu. Tất cả chúng ta cần được sống trong những điều kiện bình thường, tự nhiên, và chỉ trong môi trường như vậy mới có thể bảo đảm phát triển bền vững, ổn định và an toàn.

Singapore (nhìn chung là thân phương Tây) không chấp nhận trừng phạt chống Nga và vẫn có ý định tiếp tục quan hệ đối tác chiến lược với Liên bang Nga – Phó Thủ tướng Chính phủ Nga Igor Shuvalov thông báo. Ông nói: “Họ nói rằng họ không chấp nhận việc trừng phạt như vậy được thực hiện từ phía các nước phương Tây, bởi vì trừng phạt phải dựa trên những quy phạm của luật pháp quốc tế. Còn Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc không hề thông qua quyết định trừng phạt nào cả”.

Những nước còn lại trong ASEAN cũng không ủng hộ chính sách trừng phạt chống Nga. Hơn thế nữa, họ lên tiếng đòi đẩy mạnh hợp tác kinh tế với Nga. Chẳng hạn, trong quá trình các cuộc họp hiệp thương các bộ trưởng kinh tế Nga – ASEAN tháng 8/2014, người đứng đầu Bộ Phát triển kinh tế Liên bang Nga Aleksei Ulyukaev đề nghị các nước ASEAN tăng cường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp chế biến sang Liên bang Nga, hướng sự chú ý vào khả năng để ngỏ cho các nước ASEAN về cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho Nga, sau khi Nga thực hiện cấm vận nhập khẩu vào Nga những nhóm sản phẩm dinh dưỡng chủ chốt từ những nước trước đây đề xuất và ủng hộ trừng phạt chống Nga kể từ ngày 07/08/2014.

Trong quá trình hiệp thương, đại biểu tất cả các nước ASEAN tỏ ý sẵn sàng tăng cường cung cấp nông sản cho Liên bang Nga. Theo đánh giá sơ bộ, số lượng hàng cung ứng xuất khẩu nông sản từ các nước này có thể tăng tới 30 – 40% trong thời gian ngắn, còn trong triển vọng dài hơi hơn có thể tăng lên nhiều lần. Tính tổng thể, lưu thông hàng hóa giữa Nga và các nước ASEAN đạt tới 17,5 tỷ USD. Theo tổng kết năm 2014, có thể tăng 6% so với năm 2013, – người đứng đầu  Bộ Phát triển Kinh tế Liên bang Nga nhận định.

Ấn Độ cũng đã từng lên tiếng tuyên bố không chấp nhận chính sách trừng phạt của phương Tây nói chung và trừng phạt chống Nga nói riêng. Pinak R. Chakravarty, nhà chính trị học, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Ấn Độ đã viết trong bài báo, “Trường phạt chống Nga chỉ uổng công” trên trang báo Tribune: “Phương Tây chỉ chiếm vị trí “từ tầm cao của những nguyên tắc đạo đức” khi nào mà việc này đáp ứng những lợi ích cá nhân của họ. Ở đây mọi điều được mô tả sao cho dường như “sự can thiệp” là nhằm đảm bảo quyền con người, dân chủ, thị trường tự do và trật tự thế giới tự do hóa. Ở đây cơn phẫn nộ vì cuộc thôn tính của Nga đã biến nó thành đỉnh cao của đạo đức giả… Việc Nga chiếm cứ không phải là không tránh khỏi, nhưng phương Tây đã đi quá giới hạn, đã kích động một cuộc lật đổ vị tổng thống có xu hướng thân Nga sau mấy tháng hỗn loạn. Triển vọng Ukraine gia nhập NATO là hành động khiêu khích hết sức lớn mà Nga khó có thể chịu đựng nổi. Điều đó giải thích cho phản ứng của Nga nhằm bảo vệ những lợi ích của mình ở Crimea”.

Nhiều ý kiến tại Trung Quốc cũng thiên về chia sẻ những đánh giá tương tự. Một bình luận viên đặc biệt của tờ Nhân dân Nhật báo, cộng tác viên của Viện Nghiên cứu quốc tế Trung Quốc, nhận xét:

“Sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga thực hiện chính sách thân phương Tây, hệ thống dân chủ được phương Tây chấp nhận như một thứ “giấy phép”. Kết quả là Hoa Kỳ và châu Âu thông qua việc mở rộng NATO và EC sang phía đông đã liên tục chèn ép không gian chiến lược của Nga. Nga phát hiện ra rằng các nước SNG tỏ ra xa lánh, để rồi rốt cuộc Nga biến thành “con gấu trong chuồng” đơn độc, đó chính là mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ và châu Âu. Thức tỉnh sau khi kết thúc nhiệm kỳ cầm quyền của Yeltsin, Putin tiếp tục sự nghiệp phục hồi quy chế nước lớn của Nga… Nếu như nói đến vấn đề Iran và Syria, Nga có những lợi ích chiến lược ở vùng ngoại vi, còn trong vấn đề Ukraine và Gruzia thì lại nói đến việc Nga bảo vệ không gian chiến lược của riêng mình, điều liên quan đến những lợi ích chiến lược căn bản của Nga.

Nhìn chung, ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa người ta gắn bó với Nga bởi quan hệ đối tác xây dựng toàn diện và hiệp đồng chiến lược, có thái độ thấu hiểu và cảm thông lớn đối với những hành động của Nga trong khủng hoảng Ukraine. Các tuyên bố của chính giới Trung Quốc, chiều sâu phản ứng trong các cuộc tranh luận giữa các chuyên gia và trên các mặt báo của phương tiện truyền thông Trung Quốc đã cho thấy điều này.

Khi phương Tây chuẩn bị trả đũa “trừng phạt” Nga, thì ngay từ tháng 4/2014 Trung Quốc đã lập tức lên tiếng phản đối việc này, kêu gọi các bên đi đến một giải pháp hòa bình cho tình hình xung đột. Khi đàm phán với Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin trong khuôn khổ khởi công xây dựng đường ống khí đốt “Sức mạnh Siberia”, Phó Thủ tướng Trung Quốc Trương Cao Lệ đã tuyên bố không úp mở: “Phía Trung Quốc dứt khoát phản đối sự trừng phạt của Hoa Kỳ và phương Tây đối với Nga, phản đối những cuộc cách mạng màu, phản đối mọi mưu đồ kiềm chế sự phát triển của Nga”.

Hơn thế nữa, tại Trung Quốc người ta còn nói cần phải giúp đỡ Nga trong tình huống khó khăn này cả bằng kinh nghiệm thoát khỏi trừng phạt mà phương Tây đã áp đặt sau sự kiện Quảng trường Thiên An Môn tháng 6/1989 (khi ấy âm mưu cô lập Trung Quốc hoàn toàn bị phá sản), cũng như bằng quan hệ hợp tác tích cực, cho phép cân bằng lại những hành động trừng phạt đã được thực hiện (như chuyện này từng xảy ra sau khi thực hiện trừng phạt chống Iran).

Tờ Thời báo Hoàn cầuđăng bài báo “Dư luận xã hội Trung Quốc cần phải đứng về phía nước Nga và Putin”, trong đó có nói: “Trong chính sách đối ngoại đối với Moskva, Trung Quốc giữ lập trường “trung lập nhưng hơi ngả về phía Nga”. Quan điểm này không gây áp lực bực bội trong đa số các nước và cho phép Trung Quốc vào thời điểm thích hợp đứng ra với tư cách người trung gian để giúp các bên tìm ra giải pháp làm tất cả hài lòng. Như vậy, chúng ta sẽ bị không lôi cuốn vào cuộc đối đầu với các nước phương Tây và đồng thời vẫn có thể giúp đỡ Moskva”.

Trên trang báo Thời báo Hoàn Cầu còn nói thêm: “Tuy nhiên, dư luận xã hội Trung Quốc hiện nay có thể trực tiếp và bằng cách công khai nhất, cần phải nghiêm khắc lên án các nước phương Tây vì đã tham gia cuộc đảo chính bất hợp pháp ở Ukraine. Đó là họ đã đưa đất nước Ukraine vào cái ngõ cụt mà cho đến này nước này vẫn ở trong đó. Cần phải cho thế giới biết rằng, trên bình diện đạo đức, nước Nga hoàn toàn không đơn độc. Phản ứng của Nga thể hiện ý kiến của nhiều nước trên thế giới vốn không bằng lòng bởi cách thống trị của phương Tây. Chúng tôi muốn thấy được khả năng đạt được thỏa hiệp giữa phương Tây và Nga, nhưng nếu các nước phương Tây thật sự áp đặt lệnh trừng phạt lên Moskva, thì xã hội Trung Quốc chắc chắn sẽ dành cho Nga sự ủng hộ còn lớn hơn, đặc biệt là trên bình diện hợp tác kinh tế”.

Không nên hiểu lầm về việc chính giới Bắc Kinh bỏ phiếu trắng để tránh công khai ủng hộ Nga trong vấn đề Ukraine – ở đó người ta cho rằng hành động này có thể bị đánh giá như là khuyến khích mộ cách gián tiếp xu thế phân liệt ở Tây Tạng và khu tự trị Tân Cương – Hồi Hột (cũng vì nguyên nhân này mà Trung Quốc từng bỏ phiếu trắng tránh công nhận cho Abkhazia và Nam Osetia độc lập). Ngoài ra, Trung Quốc cũng không hề muốn liều mạng công khai đối đầu với phương Tây vì Nga và Ukraine.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: M.L. Titarenko, V.E. Petrovski – Nga, Trung Quốc và trật tự thế giới mới: Lý luận và thực tiễn, NXB CTQG 2017

Tiến hóa của trật tự quốc tế ở Đông Á trong bối cảnh “khủng hoảng Ukraine” – Phần I


Hiện nay, hệ thống quan hệ quốc tế và trật tự thế giới hiện hành đang trải qua “cơn thử thách Ukraine”. Quan hệ giữa Nga với các nước Đông Á hoàn toàn không loại trừ, mà đúng hơn, càng khẳng định rõ hơn tính ảo tưởng rõ ràng của hiện tượng này.

Khởi đầu vấn đề là chính quyền Hoa Kỳ thi hành đường lối loại trừ Nga, không chỉ xúi giục các nước thuộc Ủy ban châu Âu (EC) và phần châu Âu còn lại, mà cả các nước Đông Á và châu Á – Thái Bình Dương tiến hành trừng phạt và cấm vận Nga. Tháng 7/2014, giữa cơn kích động tuyên truyền của các phương tiện truyền thông phương Tây vào thời kỳ sôi nổi nhất nhân vụ chiếc máy bay “Boeing” của Malaysia bị bắn rơi ở Đông Ukraine, Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Peter Harrell làm chuyến công du đến các nước khu vực với ý định thuyết phục họ rằng cần phải tiến hành trừng phạt Nga. Harrell gặp gỡ các quan chức chính phủ và người đứng đầu từng khu vực của từng nước mà ông ta viếng thăm.

“Tất nhiên chúng tôi hy vọng rằng các nước châu Á, một khu vực được ca ngợi vì có số lượng lớn những trung tâm thương mại và tài chính hàng đầu, sẽ tham gia cùng chúng tôi trong hành động gây sức ép chính trị [lên nước Nga], – vị đại diện Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố. Thế nhưng kết quả của những nỗ lực này hóa ra rất không khả quan: “Hoa Kỳ đòi châu Á phải áp dụng những biện pháp chống Nga. Nhưng bất kỳ cố gắng nào của Washington nhất định sẽ nhanh chóng thất bại”, – tờ tạp chí của Nhật Bản Diplomat khẳng định về việc này.

Đương nhiên, những đồng minh thân cận của Washington ở Đông Á khó mà không ngả theo sức ép của “đối tác cũ” này. Ví dụ, tháng 9/2014, Chính phủ Nhật Bản thực hiện trừng phạt bổ sung chống Nga. Sự hạn chế trước tiên tác động đến khu vực tài chính: Nhật Bản thực hiện trừng phạt chống Sberbank, Vneshtorgbank, Vnesheconombank, Gazprombank và Rosselkhozbank. Đây là gói trừng phạt thứ tư chống Nga mà Nhật Bản áp dụng từ mùa xuân năm đó.

Song sự trừng phạt của Nhật Bản là nhẹ nhất so với những biện pháp mà các nước khác trong G7 áp dụng. Ngay từ đầu khi tình hình Ukraine xấu đi, Nhật Bản đã tìm cách cân bằng giữa sự cần thiết phải ủng hộ quyết định và trừng phạt chống Nga ở mức độ này hay mức độ khác của các nước G7 với việc không muốn làm phương hại đến quan hệ với Liên bang Nga.

Nhật Bản phụ thuộc vào Hoa Kỳ trong vấn đề an ninh, cho nên nước này buộc phải thực hiện “gói” trừng phạt đối với Nga. Thống đốc Thủ đô của Nhật Bản Yoichi Mazuzoe công khai thú nhận điều này trong chuyến thăm đến Tomsk. Đồng thời, ông đặc biệt nhấn mạnh: “Còn về Ukraine và quốc tịch của Crimea, thì lịch sử của bán đảo này rất xa lạ đối với nhân dân Nhật Bản, chúng tôi chưa hiểu rõ vì sao Nga lại đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Tôi muốn phía Nga hãy giải thích rõ hơn cho cộng đồng thế giới biết về lập trường của mình”.

Tuy nhiên, cho đến nay thời gian có thể diễn ra chuyến viếng thăm được tuyên bố trước của Putin đến Tokyo vẫn còn là câu hỏi (chuyện này liên quan tới những sự kiện ở Ukraine). Theo tờ The Japan Times “Shinzo Abe hiện nay đang ở giữa hai ngọn lửa. Một bên là nhóm G7, bên kia là việc tăng cường quan hệ cá nhân đáng tin cậy với Putin để hướng tới mục đích giải quyết cuộc tranh chấp lãnh thổ tồn tại từ lâu”.

Nếu như Nhật Bản phải miễn cưỡng và chịu sức ép để thực hiện trừng phạt, thì Hàn Quốc – một đồng minh thân cận nữa của Hoa Kỳ ở Đông Á lại công khai tuyên bố họ không nóng lòng lên tiếng chống Moskva. Đại sứ Hàn Quốc tại Liên bang Nga tuyên bố rằng Hàn Quốc không có ý định theo gương Hoa Kỳ và châu Âu. Sau này đại diện Bộ Ngoại giao Hàn Quốc đã khẳng định thông tin về việc sẽ không có hành động trừng phạt nào cả.

Chuyện này không có gì đáng ngạc nhiên: hai nước đều đặt cho mình mục tiêu bước lên cấp độ xây dựng đối tác chiến lược, và trong thời gian chuyến viếng thăm của Vladimir Putin đến Seoul tháng 11/2013, một bước quan trọng tiến lên phía trước đã được thực hiện. Việc áp dụng chế độ miễn thị thực cho những chuyến đi ngắn hạn sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh kinh doanh – du lịch, đặc biệt đối với phía Hàn Quốc – bởi Nga và Hàn Quốc đã đưa những khả năng hợp tác quy mô lớn xích lại gần nhau, nhằm cùng nhau khai thác và phát triển miền Đông Siberia và Viễn Đông (đối với Nga đây là nhiệm vụ chiến lược được ưu tiên). Đây không chỉ là việc xuất khẩu nguồn năng lượng của Nga vào Hàn Quốc, mà còn là việc xây dựng những xí nghiệp liên doanh để sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao như: cụm đóng tàu, chế tạo ô tô, kỹ thuật giao thông. Đồng thời, hai nước cùng nhau phát triển cơ sở hạ tầng khu vực, và thực hiện những dự án liên doanh trong lĩnh vực khoa học và công nghệ cao, nông nghiệp, vũ trụ phục vụ hòa bình, và nhiều lĩnh vực khác nữa.

Cả hai nước đánh giá cao nguyện vọng và dự định của nhau trong lĩnh vực an ninh và hợp tác khu vực: công sức và thời gian của Nga bỏ ra nhằm thành lập những cơ chế an ninh và hợp tác đa phương ở Đông Bắc Á đã “hòa nhịp” rất ăn khớp với “sáng kiến Á – Âu” của Tổng thống Hàn Quốc. Cả hai bên đều thấu hiểu lẫn nhau ở mức độ rất cao về vấn đề phức tạp và nhạy cảm liên quan tới vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên và đối thoại giữa hai miền Triều Tiên. Họ nhất trí lên tiếng ủng hộ chế độ không phổ biến hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, nối lại các cuộc đàm phán sáu bên về vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên.

Thái độ Nga sẵn sàng đóng góp cho quá trình hòa giải tích cực trên bán đảo Triều Tiên được nuôi dưỡng thêm bởi những việc làm và đề nghị cụ thể. Trước tiên, đó là những gì liên quan đến các dự án cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng trong đó cần có Nga và hai nhà nước Triều Tiên tham gia: khôi phục tuyến đường sắt xuyên Triều và nối nó với tuyến Siberia, đường ống khí đốt xuyên Triều.

Nhìn chung giữa Nga và Hàn Quốc đều có sự hiểu biết chung trong hầu hết những vấn đề quốc tế – từ việc cần thiết phải có giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột Syria cho đến củng cố vai trò của Liên hợp quốc trong công việc quốc tế. Quan hệ đối tác chiến lược của Nga với Hàn Quốc có những nét sáng sủa, và phía Hàn Quốc không có ý định làm lu mờ triển vọng này bằng những đòn trừng phạt chống lại Nga.

Australia coi mình là một phần của phương Tây, đã ủng hộ chính sách của Mỹ và EC, thực hiện trừng phạt chống lại Nga. Ngày 01/09/2014, Chính phủ Australia đã tuyên bố tính chất quyết liệt của hành động này: ngừng xuất khẩu trang thiết bị dầu khí vào Nga; các ngân hàng quốc gia của Nga mất khả năng thâm nhập thị trường vốn của Australia, còn các công ty Australia thì tiến hành buôn bán với Crimea và đầu tư vào kinh tế bán đảo này.

Thủ tướng Australia Tony Abbott thậm chí còn sử dụng Hội nghị cấp cao NATO tại Wales để tranh thủ sự ủng hộ trước của các nước G20 nhằm phong tỏa việc Vladimir Putin tham gia Hội nghị cấp cao “Nhóm G20” diễn ra vào tháng 11/2014 tại Brisbane của Australia. Thế nhưng lãnh đạo các nước G20 không đi đến nhất trí về việc cấm Tổng thống Nga tham gia Hội nghị cấp cao. Bộ trưởng Ngoại giao Australia Julie Bishop tuyên bố Australia tiếp nhận G20 và không có quyền rút lại lời mời đã được gửi đi. “Cần lắm trong nội bộ G20 có một sự đồng thuận [về việc Putin tham gia Hội nghị cấp cao], còn bây giờ thì sự đồng thuận như vậy không còn nữa”, người đứng đầu Bộ Ngoại giao Australia giải thích.

Việc phương Tây và Nga trừng phạt lẫn nhau do khủng hoảng Ukraine đã cho phép Nga tăng cường quan hệ đối tác với các nước BRICS, cũng như nâng cao khối đoàn kết nhất trí giữa các nước BRICS trên trường quốc tế. Đáng lưu ý là đáp lại lời kêu gọi của Australia loại Nga ra khỏi Nhóm G20 sau khi sáp nhập Crimea, các bộ trưởng ngoại giao các nước BRICS ra tuyên bố chung, trong đó họ nhấn mạnh rằng “sự leo thang của những lời hoa mỹ rỗng tuếch, trừng phạt và trừng phạt trả đũa, cũng như sử dụng vũ lực không thể dẫn tới giải pháp hòa bình và ổn định cho cuộc khủng hoảng trong khuôn khổ luật pháp quốc tế”. Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ và Nam Phi bỏ phiếu trắng cho nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong đó lên án cuộc trưng cầu dân ý ở Crimea”.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: M.L. Titarenko, V.E. Petrovski – Nga, Trung Quốc và trật tự thế giới mới: Lý luận và thực tiễn, NXB CTQG 2017

Những hy vọng về vai trò lãnh đạo của Nhật Bản trong trật tự quốc tế dựa trên luật lệ


Các chuyên gia an ninh châu Á đã hoan nghênh chiến thắng của liên minh cầm quyền của Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida trong cuộc bầu cử Thượng viện ngày 10/7, đồng thời nhận định rằng sự ổn định chính trị và vai trò lãnh đạo của Nhật Bản là rất quan trọng để xây dựng một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ – một trật tự đang bị các nước như Trung Quốc và Nga thách thức.

Trích dẫn sự gây hấn của Nga ở Ukraine, sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và sự phát triển hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên, các chuyên gia bày tỏ sự ủng hộ, hoặc ít nhất là không phản đối lời kêu gọi của Kishida về việc tăng khả năng quốc phòng của Nhật Bản và sửa đổi Hiến pháp. Gordon Flake, giám đốc điều hành của Trung tâm Perth USAsia thuộc Đại học West Australia, cho biết: “Trong môi trường hiện nay – cuộc chiến ở Ukraine và mối lo ngại ngày càng tăng về nguy cơ xung đột giữa Trung Quốc và Đài Loan – ngày càng có nhiều tiếng nói ủng hộ Nhật Bản đóng vai trò an ninh lớn hơn ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Ngoài việc nhấn mạnh rằng “Ukraine hôm nay có thể là Đông Á vào ngày mai” – một ám chỉ rõ ràng về tham vọng lãnh thổ của Bắc Kinh đối với Đài Loan và quần đảo Senkaku do Nhật Bản kiểm soát ở Biển Hoa Đông (Trung Quốc gọi là Điếu Ngư), Kishida còn tuyên bố sẽ “củng cố cơ bản” khả năng phòng thủ của Nhật Bản trogn 5 năm tiếp theo với sự “tăng đáng kể” trong ngân sách quốc phòng. Ông Flake viết trong một email: “Trong những năm gần đây, sự ổn định chính trị của Nhật Bản và vai trò dẫn đầu của Tokyo trong các vấn đề an ninh khu vực đã được Australia đánh giá rất cao. Australia sẽ hoan nghênh vai trò mạnh mẽ hơn của Nhật Bản ở Biển Đông, ở Nam Thái Bình Dương và ở Ấn Độ Dương” – các điểm nóng tiềm tàng ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương do ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở khu vực đó.

Kavi Chongkittavorn, chuyên gia về các vấn đề khu vực ở Bangkok (Thái Lan) và là một thành viên cấp cao tại Viện An ninh và Nghiên cứu quốc tế tại Đại học Chulalongkorn, cho biết ASEAN cũng coi ngoại giao của Kishida phù hợp với phương châm của khối là nhấn mạnh các nguyên tắc dựa trên luật lệ và hỗ trợ nhân đạo, phản đối bất kỳ nỗ lực nào nhằm đơn phương thay đổi hiện trạng bằng vũ lực. Ông nêu rõ: “ASEAN chia sẻ lập trường của Nhật Bản về các vấn đề khu vực và quốc tế quan trọng, những vấn đề có thể hủy hoại hòa bình và trật tự dựa trên luật lệ. Chúng tôi cũng đánh giá cao điều mà tôi gọi là “cách tiếp cận trung lập về ngoại giao” của ông Kishida với ASEAN”. Ông đề cập đến lập trường của Tokyo coi trọng các lợi ích của khu vực mà không buộc nhóm 10 quốc gia phải chọn phe giữa Mỹ và Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh chiến lược của 2 siêu cường này ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Một cuộc khảo sát của Viện ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore cho thấy Nhật Bản vẫn là cường quốc được người dân Đông Nam Á tin cậy nhất với 54,2% số người được hỏi bày tỏ sự tin tưởng vào đất nước này, trong khi đó 52,8% tin tưởng Mỹ và chỉ có 26,8% tin tưởng Trung Quốc. Trong số những người bày tỏ sự ngờ vực đối với Trung Quốc – dù Trung Quốc được coi là cường quốc kinh tế có ảnh hưởng nhất trong khu vực – 49.6% lo ngại Bắc Kinh có thể sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự để đe dọa lợi ích và chủ quyền của đất nước họ, theo cuộc thăm dò của State of Southeast Asia.

Đề cập đến những lời kêu gọi trong Đảng Dân chủ Tự do (LDP) của Thủ tướng Kishida nhằm tăng gấp đôi chi tiêu quốc phòng của Nhật Bản lên 2% hoặc hơn 2% tổng sản phẩm quốc nội, mức ngang bằng với các nước thành viên Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, Flake cho biết Australia đã đáp ứng mức độ này và khuyến nghị Nhật Bản làm theo vì Mỹ không còn có thể một mình gánh vác toàn bộ gánh nặng an ninh quốc tế.

Với chiến thắng trong cuộc bầu cử vừa qua, liên minh LDP-Công Minh (Komeito) và các lực lượng ủng hộ cải cách HIến pháp khác tiếp tục kiểm soát hơn 2/3 số ghế ở cả 2 viện của Quốc hội – một điều kiện bắt buộc để tiến hành sửa đổi Hiến pháp. Một đề xuất sau đó phải được đa số thông qua trong một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc. Nhiều người lo ngại rằng động thái này có thể kích động Trung Quốc và Hàn Quốc – 2 nước đều phải hứng chịu chủ nghĩa quân phiệt thời chiến của Nhật Bản. Flake nói: “Có thể dự đoán được sự phản đối của Trung Quốc và Hàn Quốc, nhưng quan điểm của công chúng ở Australia và phần lớn khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương về vai trò quốc tế của Nhật Bản đã thay đổi đáng kể theo hướng tích cực”.

Một học giả Hàn Quốc nói rằng ông dự đoán sẽ có sự chỉ trích ở Seoul về việc Kishida thúc đẩy cải cách Hiến pháp và quốc phòng mạnh mẽ hơn, nhưng dư luận có thể thay đổi tùy thuộc vào cách quan hệ song phương phát triển dưới thời Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol, người nhậm chức hồi tháng 5 vừa qua với cam kết cải thiện quan hệ với Nhật Bản và Mỹ. Park Jung Jin, giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại học Tsuda ở Tokyo, nói: “Hiện có 2 luồng ý kiến: Có những người cho rằng chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận vai trò an ninh lớn hơn của Nhật Bản trong bối cảnh cuộc khủng hoảng Ukraine và các thách thức khác như Triều Tiên và Trung Quốc. Trong khi đó, nhiều người lại nghi ngờ sâu sắc Nhật Bản vì các vấn đề lịch sử… Nếu mối quan hệ song phương hiện tại không thay đổi, những nghi ngờ ở Hàn Quốc về việc Tokyo theo đuổi năng lực quốc phòng mạnh mẽ hơn và hợp tác an ninh chặt chẽ hơn với Seoul và Washington có thể sẽ tăng lên, điều này không tốt vào thời điểm Bình Nhưỡng dường như đang chuẩn bị cho những gì được coi là vụ thử hạt nhân thứ 7”.

Theo ông Park, việc xoay chuyển mối quan hệ sẽ phụ thuộc vào việc Kishida có thể thể hiện lập trường mềm dẻo về vấn đề bồi thường cho người lao động Triều Tiên hay không khi Hàn Quốc đã thành lập cơ quan tham vấn giữa chính phủ và tư nhân nhằm nỗ lực giải quyết vấn đề này.

Nguồn: TKNB – 14/07/2022

Chính sách của Nhật Bản đối với Trung Quốc đang đi đến ngã ba đường quan trọng – Phần cuối


Đường lối an ninh và nỗi lo lắng trong quan hệ với Trung Quốc

Kể từ khi xung đột Nga-Ukraine nổ ra, Nhật Bản đã thổi phồng và có ý định làm cho tai họa của phương Tây xảy ra ở phương Đông. Phe bảo thủ của Nhật Bản muốn tận dụng cuộc khủng hoảng này để thúc đẩy chương trình nghị sự chiến lược của họ. Do thời điểm diễn ra xung đột Nga-Ukraine cũng trùng với thời điểm Nhật Bản xây dựng lại các văn kiện an ninh quan trọng, nên những thay đổi quan trọng về an ninh của Nhật Bản đang được xây dựng và thực hiện với tốc độ nhanh hơn. Trong chuyến thăm của Biden tới Nhật Bản, Tokyo và Washington đã tham vấn về “khả năng răn đe mở rộng”, hội nhập quân sự và phát triển sức mạnh quân sự của Nhật Bản, điều này cho thấy Mỹ đang dung túng cho Nhật Bản nới lỏng quân sự.

Trong đó, điều đặc biệt đáng quan tâm và lo lắng là sự thay đổi về chiến lược quốc gia của Nhật Bản được thể hiện ở sự thay đổi về đường lối phát triển quân sự và tác động của nó đối với Trung Quốc. Sau nhiều năm dẫn dắt và thao túng dư luận, sự ủng hộ trong nước và năng lượng xã hội mà các nhóm chính trị bảo thủ của Nhật Bản hiện nay tập trung và động viên cho sự chuyển đổi mô hình và phát triển quân sự đã mạnh mẽ hơn bao giờ hết, những động thái đi ngược lại con đường phát triển hòa bình của Nhật Bản sau chiến tranh đang bùng phát mạnh mẽ. Trong 10 năm tới, nhìn từ các khía cạnh như phương châm quốc phòng, chiến lược quân sự, trang bị vũ khí, ngân sách quốc phòng…, nhiều khả năng Nhật Bản sẽ thực hiện sự trỗi dậy ở mức độ nào đó về quân sự theo cách mà các nước láng giềng vô cùng quan ngại.

Hiện tại, sự phát triển quân sự của Nhật Bản như xây dựng lực lượng quân sự công nghệ cao, lực lượng tác chiến kiểu mới, điều chỉnh quá trình triển khai quân đội… về cơ bản đều là nhằm vào Trung Quốc. Tất nhiên, Nhật Bản sẽ sử dụng một số tài sản quân sự của mình để đối phó với “mối đe dọa phương Bắc”, nhưng nhìn chung, đó là sự coi trọng chiến thuật mang tính giai đoạn đối với Nga và sự coi trọng chiến lược mang tính lâu dài đối với Trung Quốc. Từ việc Nhật Bản đề xuất chuyển dần trọng tâm phòng thủ về phía Nam trong Đại cương phòng vệ năm 2004, đến việc xác định Trung Quốc là “mối đe dọa lớn” trong Đại cương phòng vệ mới do đảng Dân chủ Tự do cầm quyền đưa ra năm 2022, cho thấy thời kỳ quan hệ Trung-Nhật tương đối hữu nhgị kéo dài 30 năm kể từ sau Chiến tranh Lạnh có thể sắp kết thúc.

Trong suốt quá trình này, các thế lực chính trị cánh hữu bảo thủ của Nhật Bản với cựu Thủ tướng Shinzo Abe làm đại diện từ lâu đã tin rằng Trung Quốc và Nhật Bản có những mâu thuẫn cơ cấu khó có thể hòa giải tương tự như mâu thuẫn giữa Anh và Đức trước và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cộng thêm cách suy nghĩ và tinh thần dân tộc của Nhật Bản, nước này thường do dự, chần chừ khi đối mặt với những thay đổi lớn và tình huống hỗn loạn, nhưng một khi nhận định được phương hướng và mục tiêu, họ sẽ tiến về phía trước, các cơ chế bên trong rất khó điều chỉnh hoặc sửa đổi. Về vấn đề này, 20 năm đầu thế kỷ 21 rất có thể được các thế hệ sau này giải thích là “20 năm khủng hoảng” khi mà quan hệ Trung – Nhật rơi vào bi kịch.

Fumio Kishida và phái Kochikai phải chịu trách nhiệm với lịch sử

Cho đến nay, chính sách ngoại giao của Chính quyền Thủ tướng Nhật Bản Kishida là sự kế thừa tổng thể và phát huy một phần của người tiền nhiệm. Kishida dường như đã từ bỏ phong cách ra quyết định né tránh rủi ro và xem xét cân bằng một cách thận trọng các mối quan hệ với nước ngoài, để chuyển sang theo đuổi xu hướng chung trên chính trường Nhật Bản – thể hiện thái độ cứng rắn với Trung Quốc. Cho dù điều này phản ánh tiến triển thực sự của Nhật Bản trong tầm nhìn chính sách đối ngoại, liệu nó có phù hợp phần nào hay phục vụ cho “sự đúng đắn về chính trị” hay không, thì các giới đều có quan điểm khác nhau về vấn đề này. Tuy nhiên, dù thế nào thì kết quả vẫn là Nhật Bản liên tục có các động thái kiềm chế Trung Quốc, và đó cũng là nguyên nhân chính khiến quan hệ Trung – Nhật khó có dấu hiệu cải thiện.

Ở trong nước Nhật Bản, có hai yếu tố chính trị đã kích thích và thổi phồng cục diện và nguy cơ này. Trước tiên là sự yếu kém của các chính đảng Nhật Bản. Bị ràng buộc bởi “tính đúng đắn chính trị” khi phải chống Trung Quốc, Kishida và phái Kochikai (phái ôn hòa trong đảng Dân chủ Tự do) sẽ phải không ngừng lôi kéo và lựa ý hùa theo các thế lực cánh hữu bảo thủ trong nước. Xét về lịch sử, các chính đảng của Nhật Bản đã hơn một lần thiếu trách nhiệm chính trị vào những thời điểm lịch sử quan trọng và không thể vượt qua thử thách lịch sử. Thứ hai, sự thiếu liêm chính và né tránh trách nhiệm của một số nhân vật chính trị chủ chốt. Về vấn đề này, không ai có biểu hiện tốt hơn Abe: phong cách của ông khi đang cầm quyền và không cầm quyền rất khác nhau. Khi giữ chức thủ tướng, ông là người thực dụng và cân bằng, nhưng sau khi rời nhiệm, ông lại thể hiện thái độ cứng rắn với Trung Quốc, thông qua việc kích động tình hình căng thẳng nhằm đạt được mục đích chính trị nào đó.

Hành vi của Nhật Bản đã làm tiêu hao rất nhiều niềm tin và sự kiên nhẫn của Trung Quốc về việc liệu Nhật Bản có thể tuân thủ các cam kết chính trị và duy trì tính liên tục của chính sách hay không. Trước thái độ thù địch công khai và sự can thiệp trắng trợn của Nhật Bản vào công việc nội bộ của Trung Quốc, giới học thuật và công chúng Trung Quốc đã có nhiều tiếng nói kiên quyết phản đối và kêu gọi đáp trả. Nếu Nhật Bản tiếp tục làm như vậy thì liệu quan hệ Trung Quốc-Nhật Bản và tình hình chung của khu vực Đông Á có còn tốt đẹp hay không?

Xét từ góc độ chủ nghĩa hiện thực, chiến lược đối ngoại của Nhật Bản, đúng như các học giả chiến lược hàng đầu như Kosaka Masayao, Iokibe Makoto… từng nói, nên đi theo đường lối “liên minh với Mỹ + phối hợp với Trung Quốc”. Tuy nhiên, rõ ràng là ngày nay Nhật Bản đang tỏ ra lười biếng và kiêu ngạo trong việc thúc đẩy sự phối hợp với Trung Quốc. 2022 đánh dấu kỷ niệm 50 năm hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao, Kishida sẽ phải đối mặt với một loạt quyết sách lớn, những quyết sách này sẽ đặt cơ sở cho quan hệ Nhật-Trung trong tương lai. Trung Quốc thà tin rằng so với chính quyền tiền nhiệm, đội ngũ ngoại giao của Kishida nên có màu sắc và đặc điểm của phái Kochikai truyền thống; nếu vẫn giữ được chính quyền sau cuộc bầu cử Thượng viện vào tháng 7, Kishida nên thể hiện quan điểm đại cục và nhận thức cân bằng trong chiến lược đối ngoại và chính sách ngoại giao đối với Trung Quốc, ủng hộ hợp tác kinh tế và dân sinh, lấy kỷ niệm 50 năm khôi phục quan hệ ngoại giao giữa hai nước làm cơ hội để thể hiện lòng can đảm và trách nhiệm chính trị, đồng thời có những hành động thiết thực để phát triển mối quan hệ mang tính xây dựng và ổn định với Trung Quốc.

2022 là năm quan trọng để xem liệu Kishida có xem xét lại và ra quyết định có hệ thống hơn về chiến lược của Nhật Bản đối với Trung Quốc, cũng như có gánh vác nổi trách nhiệm lịch sử đối với tương lai và vận mệnh của Nhật Bản và khu vực hay không.

Nguồn: TLTKĐB – 26/06/2022

Chính sách của Nhật Bản đối với Trung Quốc đang đi đến ngã ba đường quan trọng – Phần đầu


Tờ Thời báo Hoàn Cầu (TQ) ngày 9/6, đăng bài viết của nhà nghiên cứu Ngô Hoài Trung – Phó Viện trưởng Viện Nhật Bản thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, với nội dung như sau:

Kể từ sau xung đột Nga – Ukraine, Nhật Bản đã liên tục có những động thái và giọng điệu nhận được nhiều sự chú ý của cộng đồng quốc tế, trong đó phần lớn đều là nhằm vào Trung Quốc. Đặc biệt, kể từ sau chuyến thăm Nhật Bản của Tổng thống Mỹ Joe Biden và Hội nghị thượng đỉnh Đối thoại an ninh bốn bên (Bộ tứ) được tổ chức tại Tokyo hồi tháng 5, chiến lược kiềm chế Trung Quốc của Nhật Bản đã được đưa ra theo từng giai đoạn trên ba lĩnh vực chính là ngoại giao, kinh tế-thương mại và quân sự. Xu thế này chắc chắn sẽ làm gia tăng sự đối đầu giữa hai nước, không gian để cải thiện quan hệ bị thu hẹp và có thể khiến đà cải thiện kể từ năm 2017 bị gián đoạn sâu sắc. Chính sách và xu hướng chiến lược quốc gia của Nhật Bản đối với Trung Quốc đang đi đến ngã ba đường quan trọng.

Sự vội vàng và mất cân bằng của Nhật Bản trong chiến lược đối ngoại

Gần đây, Nhật Bản vội vàng thúc đẩy chính sách an ninh kinh tế đối với Trung Quốc, bao gồm một loạt động thái như thông qua Luật an ninh kinh tế, tạo điều kiện cho cạnh tranh địa kinh tế ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, và đỉnh điểm là nước này tích cực tham gia Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (IPEF). Đây là một sự thay đổi lớn trong quan hệ Trung – Nhật kể từ những năm 1980. Điều này có nghĩa là Nhật Bản thà chấp nhận thiệt hại cũng phải làm chậm sự phát triển của Trung Quốc, chuyển từ “chiến lược tiếp xúc” coi trọng lợi ích tuyệt đối và bao dung sự phát triển của Trung Quốc sang đường lối “kiềm chế và cân bằng” có tính đến lợi ích tương đối và những thay đổi trong cán cân sức mạnh giữa hai bên. Về lâu dài, nếu sự thay đổi trong quan hệ kinh tế Trung – Nhật không được xử lý thỏa đáng thì có thể gây hại cho quan hệ hai nước, không loại trừ khả năng xảy ra đối đầu quân sự. Tuy nhiên, do tồn tại nhiều yếu tố mâu thuẫn khác nhau, nên trong ngắn hạn và trung hạn nhiều khả năng IPEF chỉ là một công trình dở dang hoặc sản phẩm tiêu thụ chậm.

Hơn nữa, việc Nhật Bản sẽ thực hiện an ninh kinh tế đối với Trung Quốc như thế nào vẫn được quyết định bởi chiến lược đối ngoại của nước này, đặc biệt là lập trường và biện pháp của nước này trong việc xử lý quan hệ ba bên Trung – Mỹ – Nhật. Do tình hình địa lý ở Đông Bắc Á đang có những thay đổi sâu sắc và cuộc đọ sức nước lớn đang ngày càng gay gắt, nên việc liệu có thể có nhận thức một cách có lý trí và đưa ra quyết sách đúng đắn vào thời điểm lịch sử quan trọng hay không liên quan đến vận mệnh quốc gia của tất cả các bên. Tất cả các quốc gia đều đagn cân nhắc một cách thận trọng và toàn diện lợi ích quốc gia của nước mình, vừa tìm cách nắm bắt thế chủ động chiến lược, vừa ra sức tránh những hành động mù quáng và mạo hiểm. Về mặt này, sự thay đổi về tư thế chiến lược của Nhật Bản quả thực đáng lo ngại, trong đó có hai thay đổi rất rõ rệt.

Một là, Nhật Bản đã chuyển từ tư thế “Mỹ làm chủ, Nhật đi theo” trước đây sang tìm kiếm, dẫn dắt và xúi giục Mỹ cùng đối phó với Trung Quốc. Từ Eo biển Đài Loan đến Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, Nhật Bản liên tục đổ thêm dầu vào lửa và gây rắc rối để giữ Mỹ ở lại, trong đó có rất nhiều sự đầu cơ và kích động thông qua việc sử dụng Mỹ để đạt được mục tiêu của riêng mình. Hai là, việc Nhật Bản củng cố hơn nữa vị thế chính trị của mình với tư cách là một thành viên của phương Tây, định hướng chiến lược tổng thể đã tiến gần hơn với Mỹ và các đối tác đồng minh chủ chốt, khiến quan hệ ba bên Trung – Mỹ – Nhật ngày càng mất cân bằng. Vì vậy, cuộc đọ sức ngoại giao giữa Trung Quốc và Nhật Bản xoay quanh các khu vực chủ chốt và các quốc gia liên quan liên tục tăng cùng với sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng gay gắt.

Điều này chủ yếu là do phải đối diện với sự trỗi dậy của Trung Quốc, Nhật Bản cho rằng Mỹ và liên minh Nhật – Mỹ là sự đảm bảo mạnh mẽ cho an ninh của nước này. Từ bài học do cuộc tấn công của Trump nhằm vào Trung Quốc tạo ra, Nhật Bản đã tích cực tác động và chủ động thúc đẩy Mỹ điều chỉnh chính sách, nhằm biến liên minh Nhật – Mỹ trở thành cơ sở hạ tầng cốt lõi vững chắc để kiềm chế Trung Quốc. Nhật Bản rất quan tâm và cực kỳ nhạy cảm với triển vọng cục diện và trật tự quốc tế trong thời kỳ “song hậu” (hậu COVID-19, hậu xung đột Nga-Ukraine), cho rằng sự thu hẹp chiến lược của Mỹ và sự không hiệu quả của liên minh sẽ là cục diện chiến lược mang tính tai họa. Ngoài ủng hộ hệ thống và trật tự bá quyền của Mỹ, những gì mà giới tinh hoa chính trị Nhật Bản đã thể hiện chỉ là một câu chuyện nghèo nàn về trí tưởng tượng chiến lược.

Để tránh cục diện này, Nhật Bản cần giữ chân Mỹ ở Đông Á và tiếp tục can thiệp vào các vấn đề của khu vực, khiến Mỹ không thể trốn tránh và duy trì “sự răn đe mở rộng”. Đây không chỉ là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược của Nhật Bản, mà còn có ý nghĩa chiến lược lớn nhất để nước này đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Điều đáng quan tâm là Nhật Bản có ý định lợi dụng Đài Loan làm quân cờ chiến lược để kích động Mỹ và liên minh Nhật – Mỹ can thiệp vào Eo biển Đài Loan, nhằm đảm bảo sự quản lý và răn đe của Mỹ đối với toàn bộ chuỗi đảo xa bờ.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 26/06/2022