Vì sao Lego chọn Việt Nam để xây dựng nhà máy trung hòa carbon đầu tiên?


Tập đoàn Lego đã chọn Việt Nam, chứ không phải Trung Quốc, để xây dựng nhà máy trung hòa carbon đầu tiên. Theo trang tiếng Anh của tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (Hong Kong) ngày 11/01, động thái này phản ánh cách thức các tập đoàn đa quốc gia có cùng chí hướng đang đa dạng hóa chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc. Thiệt hại đầu tư trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và đại dịch COVID-19 đã làm dấy lên mối lo ngại ở Trung Quốc, nhưng các nhà phân tích giải thích các lợi ích của Đông Nam Á bị hạn chế như thế nào.

Tập đoàn Lego vừa động thổ xây dựng nhà máy trung hòa carbon đầu tiên ở châu Á và sẽ khai trương vào năm 2023. Ông Carsten Rasmussen, Giám đốc điều hành của Tập đoàn Lego, cho biết: “Chính phủ Việt Nam có kế hoạch đầu tư mở rộng hạ tầng sản xuất năng lượng tái tạo và hợp tác với các công ty nước ngoài đang tìm kiếm đầu tư chất lượng cao. Đây là một yếu tố khiến Lego quyết định xây dựng tại Việt Nam”.

Dù nhiều công ty chọn Việt Nam để mở rộng hoạt động sản xuất, nhưng những người trong ngành cho rằng Việt Nam đơn lẻ không thể thay thế Trung Quốc trở thành công xưởng của thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang tăng cường cạnh tranh với Trung Quốc, vốn là điểm đến đầu tư sản xuất của thế giới trong những thập kỷ gần đây.

Sự cạnh tranh đó dự kiến sẽ ngày càng gay gắt khi cả chính phủ Trung Quốc và Việt Nam đều cố gắng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có chất lượng cao bằng nhiều ưu đãi khác nhau. Và không chỉ riêng hai nước này làm như vậy. Khi toàn bộ Đông Nam Á đang tìm cách giành lấy “một miếng bánh sản xuất” của Trung Quốc, các nhà phân tích cho rằng Trung Quốc khó có thể duy trì sự thống trị trong dài hạn.

Làn sóng đầu tư và chuyển dịch chuỗi cung ứng từ Trung Quốc sang Việt Nam trong những năm gần đây thực sự khiến Trung Quốc lo ngại về việc đánh mất hoạt động kinh doanh sản xuất vào tay Việt Nam. Ông David Dapice, nhà kinh tế cấp cao của các chương trình Việt Nam và Myanmar tại Trung tâm Đổi mới và Quản trị dân chủ của Đại học Harvard nhận định: “Chừng nào còn có FDI và có sẵn lao động thì “miếng bánh xuất khẩu” của Trung Quốc sẽ chạy sang Việt Nam, nhưng không nhiều. Với 7% dân số Trung Quốc, Việt Nam sẽ không thể thay thế hơn một phần nhỏ hàng xuất khẩu của Trung Quốc”.

Ông Zhang Monan, Phó Giám đốc Việt Nghiên cứu châu Mỹ và châu Âu tại Trung tâm trao đổi kinh tế quốc tế Trung Quốc ở Bắc Kinh, cho rằng các quốc gia cần một hệ thống công nghiệp hoàn chỉnh và thị trường nội địa khổng lồ để có thể trở thành công xưởng của thế giới. Những tiêu chí này khiến Việt Nam rơi vào thế bất lợi trong việc thay thế Trung Quốc.

Ông Bruno Jaspaert, Giám đốc điều hành của Khu công nghiệp Deep C, phân tích: “Việt Nam không thể trở thành công xưởng của thế giới. Đó là lý do tại sao Việt Nam nên khôn ngoan và lựa chọn cẩn thận loại hình đầu tư muốn thu hút và phải cực kỳ sáng tạo trong việc thu hút đầu tư vì Việt Nam sẽ sớm cạn kiệt nhân lực, năng lượng và đất đai, điều mà Trung Quốc sẽ không bao giờ cạn”.

Ông Lê Hồng Hiệp, thành viên cao cấp của chương trình nghiên cứu Việt Nam tại Viện nghiên cứu ISEAS-Yusof Ishak (Singapore), cho rằng dù Việt Nam sẽ không bao giờ thay thế Trung Quốc nhưng toàn bộ Đông Nam có thể làm được việc này trong dài hạn.

Nguồn: TKNB – 13/01/2023

COP27: Chi phí cần để Nam Phi ngừng sử dụng than – Phần cuối


Không phải tất cả mọi người trong cộng đồng địa phương đều tin rằng việc làm sẽ thành hiện thực. Thomas Mnguni, một nhà hoạt động cộng đồng ở Mpumalanga, than phiền: “Chúng tôi không có thông tin trong phạm vi cộng đồng. Chúng ta không thể có một quá trình chuyển đổi đơn thuần mà không có lao động trên tàu”.

Cũng như sự hoài nghi của cộng đồng, có một mối đe dọa khác: sự cản trở từ chính Eskom. Vào thời điểm Komati đóng cửa trong tuần này, cả năng lượng mặt trời và năng lượng gió đều không được lắp đặt. Rambharos cho biết, người giám sát việc định vị lại đã bị đình chỉ.

Đằng sau hậu trường có thể đang diễn ra một cái gì đó “mờ ám” hơn. Eskom là một trong những mục tiêu chính của cái gọi là “chiếm giữ nhà nước”, việc kiểm soát có hệ thống các tổ chức trong gần một thập kỷ cựu Tổng thống Jacob Zuma nắm quyền cho đến năm 2018. Kết quả là Eskom đã tăng số lượng hợp đồng cung cấp than cho các mỏ nhỏ, mở rộng phạm vi cho các giao dịch gian dối và hoạt động tội phạm.

Ông De Ruyter, Giám đốc điều hành được bổ nhiệm vào năm 2020 để giải quyết mớ hỗn độn, mô tả cách thức hoạt động của một trò lừa đảo. Than cho các nhà máy điện được chất lên xe tải được theo dõi bằng GPS. Nhưng trong suốt hành trình từ mỏ đến trạm điện, hệ thống theo dõi bị kẹt, và xe tải bị chuyển hướng hoặc bị cướp. Than tốt được bán ra ngoài, nơi mà kể từ sau chiến tranh Ukraine, nó có giá cao gấp ba lần. Các xe tải được chất lại bằng than bỏ đi, chủ yếu là đá, từ các mỏ không sử dụng và trọng lượng được tạo thành từ nước và phế liệu. Khi mảnh vụn này được đưa vào các trạm phát điện, nó sẽ dẫn đến phá hủy các hệ thống.

“Khi tôi được bổ nhiệm, một điều tra viên đến gặp tôi và nói: Xin chúc mừng, thật tuyệt khi trở thành người đứng đầu tổ chức tội phạm có tổ chức lớn nhất Nam Phi”. Ông De Ruyter nhớ lại: “Lúc đó tôi cảm thấy khá bị xúc phạm, nhưng khi nhìn lại, tôi nghĩ anh ấy có thể có lý”.

Tương lai của năng lượng tái tạo

Giả sử Eskom có thể xóa sạch hoạt động của mình, thì vẫn có những vấn đề khác cần giải quyết. Một là khuyến khích các công ty điện tư nhân tạo ra năng lượng tái tạo. Vào tháng 7, đối mặt với tình trạng cắt điện ngày càng trầm trọng, Tổng thống Ramaphosa đã tăng gấp đôi số tiền mua năng lượng tái tạo trong năm lên 5GW.

Ông cũng loại bỏ các giới hạn mà cho đến năm ngoái – hầu như không thể giải thích được, do tình trạng thiếu điện triền miên – đã hạn chế số lượng điện mà các nhà khai thác tư nhân có thể sản xuất. Các nhà phê bình đổ lỗi cho các hạn chế do chính phủ nghi ngờ khu vực tư nhân và ảnh hưởng từ việc “vận động” hành lang than mạnh mẽ. De Ruyter có một cách giải thích đơn giản hơn. Ông nói: “Rất khó để đánh cắp nắng và gió”.

Vấn đề tiếp theo là nguồn điện tái tạo nên được sản xuất ở đâu. Northern Cape, nơi mặt trời chiếu sáng nhất, cách xa Mpumalanga và đường truyền kém. Câu chuyện về điện gió cũng giống như vậy, sẽ tốn hàng tỷ USD để xây dựng các đường dây truyền tải điện mới để đưa điện đến các trung tâm đô thị lớn. Eskom đang khuyến khích các nhà khai thác năng lượng mặt trời và năng lượng gió thành lập ở Mpumalanga bằng cách bán đấu giá đất trống. Vòng đầu tiên đã được đăng ký vượt gấp ba lần và dẫn đến các hợp đồng cho 2GW điện.

Nam Phi hy vọng đến năm 2035 sẽ chuyển sang hỗn hợp năng lượng chủ yếu là năng lượng tái tạo nhưng có một phần sử dụng than, khí đốt và hạt nhân để đáp ứng nhu cầu cao điểm. Gav Hurford, Giám đốc kiểm soát quốc gia của Eskom, cho biết theo thời gian, hỗn hợp sẽ thay đổi nhiều hơn nữa. Được biết đến với biệt danh “Vua bóng tối”, vì vai trò của ông trong việc lên lịch cắt điện, ông Hurford cho biết, công nghệ lưu trữ – về cơ bản là pin tự nhiên khổng lồ – có thể giải quyết các vấn đề liên quan đến khả năng gián đoạn của năng lượng tái tạo.

Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp Ebrahim Patel nói rằng, để quá trình chuyển đổi hoàn tất, Nam Phi phải xây dựng một ngành công nghiệp xe điện – nếu không sẽ có nguy cơ bị đóng cửa khỏi các thị trường châu Âu. Ông cũng muốn xuất khẩu hydro xanh bằng cách biến ánh nắng mặt trời thành chất lỏng, một lĩnh vực mà Nam Phi có công nghệ độc quyền. Tuy nhiên, một số người đặt câu hỏi về sự khôn ngoan, hoặc thậm chí tính khả thi của việc xuất khẩu hydro từ Nam Phi đang thiếu năng lượng sang các thị trường xa xôi ở châu Âu.

Nhưng ông Patel không nản lòng. Ông nói, ban đầu, các quốc gia giàu có sẽ cần mua hydro xanh của Nam Phi ngay cả với giá không cạnh tranh như một phần của nỗ lực quốc tế để giúp kiểm soát quá trình chuyển đổi xanh của nước này.

Quan điểm của ông về việc hydro xanh sẽ được trợ cấp như thế nào, ít nhất là ban đầu, đi vào trọng tâm của mâu thuẫn giữa Pretoria và các bên cho vay của JETP. Một số người trong số này nói rằng, Nam Phi hoặc là cốt để giành quyền lực hoặc có những kỳ vọng không thực tế về những gì các nước giàu sẽ phải trả. Một người quen thuộc với vị trí của người cho vay cho biết: “Đổ lỗi cho chúng tôi có thể là nơi vui vẻ của họ, nhưng nó sẽ không giải quyết được vấn đề”.

Đối với Nam Phi, ngược lại, 8,5 tỷ USD được đề nghị là một khoản trả nhỏ cho một nghĩa vụ đạo đức lớn hơn nhiều. Phát biểu không chỉ đối với đất nước của mình, mà đối với các quốc gia đang phát triển nói chung, Bộ trưởng Patel nói: “Nếu chúng ta phải tự gánh vác chuyển đổi nền kinh tế, thì về cơ bản gánh nặng này sẽ không thể chi trả được”.

Nguồn: TLTKĐB – 21/11/2022

COP27: Chi phí cần để Nam Phi ngừng sử dụng than – Phần II


Ngoài ra, Nam Phi có thể sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ bổ sung. Châu Âu sẽ bắt đầu đánh thuế cái gọi là thuế carbon biên giới từ năm 2035, khi đó gần một nửa lượng khoáng sản và sản phẩm xuất khẩu của Nam Phi sẽ gặp rủi ro.

Với những nguy cơ này, năm ngoái, Nam Phi đã trình bày với Liên hợp quốc mục tiêu cải thiện về phát thải, cam kết cắt giảm tổng lượng khí nhà kính từ 550 triệu tấn xuống còn 420 triệu tấn đến 350 triệu tấn vào năm 2030. Phần trên của phạm vi đó tương thích với việc hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu đến 2oC, phần dưới cũng gần như phù hợp với 1,5oC. Bộ trưởng Môi trường Creecy nói: Để đạt được mức thấp nhất của phạm vi, chúng tôi cần sự giúp đỡ của cả thế giới”.

Phản hồi quốc tế là đề xuất JETP với trị giá 8,5 tỷ USD. Bà Mafalda Duarte, người đứng đầu Quỹ Đầu tư Khí hậu, một quỹ đa phương có trụ sở tại Mỹ, cho biết: “Chúng tôi tin rằng điều này sẽ đẩy nhanh quá trình ngừng hoạt động của than. Vào tháng 10, Quỹ CIF đã đồng ý khoản vay 500 triệu USD cho quá trình chuyển đổi năng lượng của Nam Phi, cũng như 500 triệu USD cho Indonesia”.

Tuy nhiên, kể từ khi thỏa thuận với Nam Phi được công bố, đôi khi, mỗi bên đều tuyên bố một cách riên ttư rằng bên kia đang hành động thiếu thiện chí.

Crispian Olver, giám đốc điều hành Ủy ban khí hậu thuộc Văn phòng Tổng thống Nam Phi nói: “Đây là 1 khoản rất nhỏ, khi đề cập đến thực tế rằng phần lớn 8,5 tỷ USD là tài chính ưu đãi và bảo lãnh cho vay, không phải viện trợ không hoàn lại”. Ông nói: “8,5 tỷ USD, ngay cả khi tất cả là khoản trợ cấp, sẽ không giải quyết được khoản nợ này”, ông cho rằng phía bắc toàn cầu, vốn xây dựng sự giàu có bằng nhiên liệu hóa thạch, phải trả giá cho quá trình chuyển đổi ở phía nam toàn cầu.

Nam Phi đã tỏ ra không hài lòng rằng tân Thủ tướng Anh Rishi Sunak, Chủ tịch nhóm JETP, ban đầu đã tuyên bố rằng ông sẽ không tham dự Hội nghị COP năm nay ở Sharm el-Sheikh, trước khi thay đổi quyết định vào trưa 2/11.

Các nhà cho vay phương Tây cho biết, ngay từ đầu đã nói rõ rằng tiền tài trợ sẽ bị hạn chế. Bà Duarte nói rằng, do thời gian ân hạn dài và lãi suất rất thấp, nên có đến một nửa các khoản vay CIF thực sự là một khoản tài trợ. Bà nói: “Điều này tiết kiệm chi phí hơn nhiều so với việc Nam Phi đi vay trên thị trường”.

Tuy nhiên, sự nghi ngờ vẫn còn, “Châu Âu đang vận hành hết công suất gas”, ông Tiro Tamenti, Tổng giám đốc của New Vaal Colliery, một mỏ lộ thiên khổng lồ, giống như hầu hết ngành công nghiệp than của Nam Phi, phần lớn là người da đen sở hữu, cho biết, “đang đưa ra những viên thuốc mà bạn không muốn nuốt phải không?”

Ở Nam Phi, các công nhân khai thác mỏ, lái xe tải, các công ty than và các tổ chức giống như mafia đã thâm nhập vào các bộ phận của ngành công nghiệp, phản đối sự chuyển đổi nhanh chóng sang năng lượng tái tạo.

Ông Gwede Mantashe, Bộ trưởng Năng lượng và là một cựu công nhân khai thác than, đã tự mô tả mình là một “người theo chủ nghĩa sử dụng than”, mặc dù ông thừa nhận nhu cầu chuyển đổi của Nam Phi.

Ngay cả những người ủng hộ việc áp dụng năng lượng tái tạo nhanh hơn, bao gồm cả Bộ trưởng Gordhan, khẳng định quá trình phải được xử lý cẩn thận. Ông nói: “Đây là một quá trình chuyển đổi “vừa phải”, nơi vừa có nghĩa là người lao động, vừa có nghĩa là cộng đồng, vừa có nghĩa là thợ mỏ”.

Các tổ chức cho vay quốc tế ủng hộ khái niệm “công bằng”. Tuy nhiên, một số người đặt câu hỏi về khả năng của Pretoria trong việc tiếp nhận các lợi ích được giao trong ngành than và đưa ra một kế hoạch nhạy cảm về mặt chính trị cho Quốc hội Nam Phi, vốn có mối liên hệ chặt chẽ với các công đoàn khai thác. Một quan chức phương Tây tham gia đàm phán tài chính cho biết: “Đối với Nam Phi, đó luôn là một vấn đề chính trị”.

Công việc rủi ro

Mpumalanga được coi là tỉnh than đá, nằm ở phía Đông Nam Phi với nhiều mỏ than và nhiều nhà máy nhiệt điện than, có khói mù mịt hơn phần còn lại của Nam Phi cộng lại. Tỉnh Mpumalanga nghèo hơn và có mức độ thất nghiệp cao hơn, thậm chí so với mức trung bình của cả nước là 34%, dựa vào than để tạo ra 100.000 việc làm trực tiếp, cộng với hàng nghìn việc làm khác trong các ngành công nghiệp phụ trợ.

Komati, một trong những nhà máy điện lâu đời nhất của tỉnh Mpumalanga đã được đưa vào hoạt động vào năm 1961, vào thời kỳ đỉnh cao cách đây một thập kỷ, nó đã tạo ra gần 1GW điện. Kể từ đó, 9 tổ máy của nhà máy đã dần ngừng hoạt động, và gần đây chỉ có một tổ máy còn hoạt động phát điện, nhưng ổn định. Vào ngày 01/11, đúng 12 giờ 41, tổ máy cuối cùng này cũng đã ngừng hoạt động.

Khi thời gian đếm ngược đến thời điểm ngừng hoạt động đã đến gần, Komati đang bận rộn với các chuyến thăm từ các nhân vật quan trọng và các chuyên gia tư vấn để cố gắng tìm hiểu xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. “Người duy nhất chưa đến thăm là Nữ hoàng”, Jurie Pieters, quyền tổng giám đốc của Komati, người đã giám sát việc đóng cửa vào ngày 01/11 với cảm xúc lẫn lộn.

Mandy Rambharos, người quản lý quá trình chuyển đổi năng lượng đơn thuần của Eskom, nói: “Chúng tôi lẽ ra có thể khóa cửa nhà máy và bước đi”. Nhưng thay vào đó, cô ấy nói, Komati đang được sử dụng để chứng minh cách các nhà máy điện cũ có thể được tái sử dụng và quá trình chuyển đổi công bằng được thực hiện. Đến năm 2035, Eskom có kế hoạch đóng cửa 9 nhà máy điện, hầu hết là ở Mpumalanga, chấm dứt nguồn điện 15GW và khiến 55.000 việc làm gặp rủi ro.

Trong số những du khách đến thăm Komati có Chủ tịch Ngân hàng Thế giới David Malpass, người sẽ đến trong tuần này, với một tấm séc trị giá 497 triệu USD để giúp tái sử dụng nhà máy. Eskom có kế hoạch lắp đặt 150 MW điện mặt trời, với một số tấm pin được đặt trực tiếp trên đống nền nhà máy cũ, cũng như 150 MW dự trữ pin và 70 MW điện gió. Eskom muốn trồng cây dưới một số tấm pin mặt trời theo một kỹ thuật được gọi là nông điện (công nghệ điện mặt trời trong nông nghiệp), mặc dù kế hoạch này đã bị đình trê bởi các quy tắc địa phương rườm rà. Cho đến nay, tất cả 193 nhân viên đã được Eskom bố trí các công việc thay thế.

Các kế hoạch cũng đang được thực hiện để mở một nhà máy tại địa điểm này để sản xuất lưới điên  siêu nhỏ, các đơn vị năng lượng mặt trời di động được xây dựng trên các container vận chuyển cũ. Ý tưởng là sử dụng 500 công nhân toàn thời gian để sản xuất 900 đơn vị mỗi năm. Nick Singh, người đứng đầu dự án cho biết: “Khi chúng tôi ngừng hoạt động các trạm phát điện này, chúng tôi sẽ tạo ra dòng máu mới”.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 21/11/2022

COP27: Chi phí cần để Nam Phi ngừng sử dụng than – Phần I


Tại Hội nghị COP 26 diễn ra tại Glasgow năm 2021, các nước Mỹ, Anh, Đức, Pháp và EU đã ký với Nam Phi thỏa thuận Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Công bằng (JETP) bền vững trị giá 8,5 tỷ USD để Nam Phi chuyển đổi sang nguồn năng lượng sạch. Nhưng theo ghi nhận của tờ Financial Times ngày 02/11/22, sau một năm trôi qua, tới thời hạn tổ chức COP 27 tại Ai Cập, các cuộc đàm phán về JETP đã trở nên căng thẳng.

Anh Dumisani Mahlangu ngồi trong cabin của một chiếc máy xúc, đào những gầu than từ một mỏ lộ thiên bên ngoài thành phố Johannesburg của Nam Phi. “Than đá đã tạo nên con người của tôi”, anh Mahlangu nói về công việc được trả lương cao của mình ở một đất nước mà cứ ba người thì có một người thiếu việc làm. “Tôi muốn trở thành một bác sĩ, nhưng Chúa đã đặt tôi vào hầm mỏ”.

Nam Phi là một trong những quốc gia phụ thuộc nhiều nhất vào than trên thế giới. Than chiếm khoảng 85% sản lượng điện, khiến đất nước 60 triệu dân trở thành quốc gia thải ra lượng carbon lớn thứ 13 thế giới, lớn hơn cả nước Anh.

Điều này khiến Nam Phi, với thu nhập bình quân đầu người khoảng 7000 USD, là một trong những quốc gia kém hiệu quả nhất trong việc biến nhiên liệu hóa thạch thành sản lượng kinh tế. Nhưng điều này cũng có nghĩa là sẽ có những chiến thắng nhanh chóng nếu nguồn tài chính có thể được tìm thấy để giúp Nam Phi – và các quốc gia khác như thế – chuyển đổi nhanh hơn sang năng lượng sạch.

Ông André De Ruyter, giám đốc điều hành của Eskom, Tập đoàn điện lực quốc gia Nam Phi, cho biết: “Giảm thiểu một tấn carbon ở Nam Phi bằng một phần mười chi phí giảm thiểu một tấn carbon ở châu Âu. Vì vậy, đề xuất giá trị cho người đóng thuế Đức hoặc các quốc gia giàu có khác là, do carbon là một hiện tượng toàn cầu, hãy cung cấp tiền cho chúng tôi, một quốc gia nơi bạn nhận được nhiều tấn khử carbon trên mỗi euro hơn bất kỳ nơi nào khác”.

Đề xuất đó đã được đưa ra một năm trước tại Hội nghị khí hậu của Liên hợp quốc COP 26 ở Glasgow khi một nhóm các nước giàu – Anh, Đức, Pháp và Mỹ – cũng như EU đã cùng nhau cam kết 8,5 tỷ USD thông JETP, để giúp Nam Phi chuyển từ than đá sang năng lượng xanh.

JETP được trình bày như một mô hình hợp tác Bắc-Nam và là khuôn mẫu cho quan hệ đối tác trong tương lai với các quốc gia phụ thuộc nhiều vào than như Indonesia, Việt Nam và Ấn Độ.

Một năm trôi qua, với COP 27 đã khai mạc tại Ai Cập vào ngày 6/11, mô hình của quan hệ đối tác Nam Phi đang hình thành. Nhưng các điều khoản của khoản tài trợ 8,5 tỷ USD đã được hủy bỏ. Trong khi đó, Nam Phi đưa ra kế hoạch chuyển đổi năng lượng trong 5 năm trị giá 95 tỷ USD, trong đó 8,5 tỷ USD sẽ đóng vai trò xúc tác bằng cách thu hút đầu tư của khu vực tư nhân.

Ông Daniel Mminele, cựu giám đốc ngân hàng Absa, người được Tổng thống Nam Phi Cyril Ramaphosa tuyển dụng để điều hành nhóm đặc trách tài chính khí hậu của Tổng thống, cho biết: “Đây là 5 năm đầu tiên trong hành trình nhiều thập kỷ. Ngoài việc thay thế dần than bằng năng lượng tái tạo, kế hoạch này cũng dự kiến sản xuất hydro và xe điện xanh”.

Tuy nhiên, các cuộc đàm phán giữa Nam Phi và các bên cho vay phương Tây đã trở nên căng thẳng. Quốc hội Nam Phi đang cảnh giác với việc làm tổn hại đến ngành công nghiệp than, một trong số ít ngành công nghiệp than ở đất nước do đa số người da đen làm chủ.

Ông Rudi Dicks, một cựu lãnh đạo công đoàn hiện đang cố vấn cho Tổng thống Ramaphosa, nói: “Chúng ta phải làm điều này một cách đúng đắn”.

Nam Phi cũng muốn tỷ lệ viện trợ không hoàn lại cao hơn, cảnh giác rằng các khoản vay sẽ chỉ làm tăng thêm nợ của nước này.

Pravin Gordhan, Bộ trưởng phụ trách các doanh nghiệp công của Nam Phi cho biết: “Một số quốc gia phải được ca ngợi vì sự sẵn sàng đặt tiền lên bàn cân, nhưng rất tiếc những quốc gia khác vẫn đang trong giai đoạn tuyên truyền”.

Pretoria cũng phàn nàn rằng, châu Âu đang làm chậm quá trình chuyển đổi năng lượng giống như họ đang thúc ép Nam Phi tăng tốc độ của riêng mình. “Châu Âu, vốn là nhân tố chính cảu ranh giới khó khăn nhất về khí thải, hiện đang gặp khó khăn”. Gordhan cho biết, châu Âu vẫn đang duy trì các nhà máy nhiệt điện than của mình và hoạt động và nhập khẩu than, kể cả từ Nam Phi.

Về cơ sở hạ tầng

Tuy nhiên, logic để Nam Phi chuyển sang năng lượng tái tạo là rất tốt. Các nhà máy nhiệt điện than đã mục nát, có tuổi đời trung bình là 42 năm, đang phải ngừng hoạt động. Hệ thống điện, với nhu cầu cao điểm là 38 gigawatt, đang hoạt động ở mức 58% công suất – không đủ để tiếp tục thắp sáng.

Việc cắt điện kéo dài tới 5 giờ một ngày, đang làm tê liệt ngành công nghiệp và khiến cuộc sống không thể chịu đựng nổi. Đèn giao thông ngừng hoạt động, làm ùn tắc các con đường. Lò mổ mất điện. Khi mất điện, bọn tội phạm ăn cắp cáp điện và phá hoại hệ thống nhiều hơn.

Giải pháp rõ ràng là bổ sung năng lượng tái tạo giá rẻ càng nhanh càng tốt. Với trung bình 2500 giờ nắng mỗi năm, Nam Phi nằm trong top 3 thế giới về tiềm năng năng lượng mặt trời. Người ta ước tính có đủ gió để tạo ra 6700 GW điện, gấp khoảng 175 lần nhu cầu hiện tại.

Nam Phi có nhiều kinh nghiệm đau thương từ sự tàn phá của thời tiết khắc nghiệt. Vào tháng 4, chỉ trong một ngày, khi lượng mưa 200 mm đổ xuống Durban, một thành phố ven biển, đã có hơn 250 người chết và các nhà máy ô tô ngập trong bùn và nước.

Nam Phi là một trong 17 quốc gia có diện tích rộng lớn, có nghĩa là biến đổi khí hậu ảnh hưởng khác nhau đến hệ sinh thái của nước này. Bộ trưởng Môi trường Nam Phi Barbara Creecy cho biết: “Phía Bắc KwaZulu Natal sẽ có lốc xoáy. Western Cape sẽ trở nên khô hạn hơn, điều này rất nghiêm trọng vì nó là lòng chảo của đất nước. Và phần còn lại của đất nước sẽ ẩm ướt và quá nóng, bạn sẽ không thể trồng ngô được nữa. Vậy bạn định đảm bảo lương thực cho người dân bằng cách nào?”

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 21/11/2022

Tìm cách giảm phụ thuộc vào than đá: Những thách thức với Việt Nam


Theo channelnewsasia.com, tuy thải ra ít hơn 1% lượng khí nhà kính toàn cầu, nhưng Việt Nam đang tìm cách giảm lượng khí thải để giảm thiểu tác động môi trường.

Hơn 70% lượng khí thải của Việt Nam đến từ ngành điện, nhưng việc loại bỏ điện than thật sự là thách thức đối với Việt Nam dù đã nỗ lực rất nhiều. Một minh chứng cho nỗ lực của Việt Nam là việc khởi động dự án điện Trung Nam và đi vào vận hành vào tháng 6/2019. Nhà máy điện mặt trời Trung Nam ở tỉnh Ninh Thuận có công suất 450 MW và là một trong nhiều dự án “mọc lên như nấm” trong những năm gần đây trong bối cảnh chính phủ Việt Nam đưa ra nhiều ưu đãi hào phóng để khuyến khích các sáng kiến xanh.

Việt Nam là một trong những nước có nhà máy điện mặt trời lớn nhất Đông Nam Á, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vì khoảng 40% công suất điện mặt trời bị bỏ phí do thiếu cơ chế định giá bán điện. Ông Nguyễn Tâm Tiến, Tổng Giám đốc tập đoàn Trung Nam Group cho rằng thách thức đối với doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực năng lượng tái tạo là thiếu các quy định cụ thể để khối tư nhân phát triển trong lĩnh vực này: “Không có biểu giá bán điện hoặc giá điện từ năng lượng tái tạo, cũng không thể tận dụng tối đa năng lượng tái tạo”.

Các rào cản về hạ tầng như khả năng hạn chế của lưới điện quốc gia cũng gây trở ngại trong việc chuyển đổi lưới điện. Ông Matthieu Franςois , đối tác tại McKinsey & Company, cho biết: “Lưới điện hơi lỗi thời nên khó có thể xử lý dòng điện phân tán công suất lớn như vậy. Vì vậy, tôi cho rằng cần chú ý hơn nữa đến việc giải quyết vấn đề này”.

Giao dịch tài chính có thể là giải pháp

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên từng thừa nhận rằng Việt Nam đang đối mặt với những thách thức lớn trong việc hiện thực hóa các cam kết tại COP26. Theo ông, Việt Nam vừa phải mở rộng lưới điện, vừa phải phát điện, đồng thời chuyển đổi sang các nguồn năng lượng sạch hơn cũng như giữ giá điện hợp lý.

Điện mặt trời và điện gió hiện chỉ chiếm 4% số điện sử dụng, nhưng Việt Nam đang tìm cách nâng tỷ lệ này. Việt Nam đang tìm kiếm nguồn tài trợ lên tới 14 tỷ USD mỗi năm cho đến năm 2030 để phát triển các nhà máy điện mới và mở rộng lưới điện. Tuy nhiên, tình trạng bế tắc hiện nay đặt ra câu hỏi liệu Việt Nam có đủ ý chí chính trị để thúc đẩy các thay đổi và mở cửa thị trường năng lượng, vốn được kiểm soát chặt chẽ hay không.

Ngoài ra, vẫn còn phải chờ xem liệu Việt Nam có thể ký kết một thỏa thuận tài chính tại các cuộc họp về khí hậu đang diễn ra ở Ai Cập hay không. Việc đạt được thỏa thuận sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cắt giảm khí thải.

Ông Franςois lưu ý rằng quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam có thể tác động đến các doanh nghiệp của Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chủ yếu nhờ xuất khẩu. Các quốc gia xuất khẩu như Việt Nam có thể chịu sức ép phải tuân thủ cam kết phát thải bằng 0, đặc biệt trong các ngành mà Việt Nam phải cạnh tranh: “Nếu không chuyển đổi thì Việt Nam có nguy cơ cạn kiệt nguồn tài chính hoặc một số thị trường toàn cầu sẽ đóng cửa đối với Việt Nam”.

Không chỉ doanh nghiệp, lượng phát thải thấp hơn cũng ảnh hưởng đến cuộc sống của cư dân ven biển, những người vốn lo sợ mất nhà cửa nếu mực nước biển tiếp tục dâng cao do biến đổi khí hậu.

Nguồn: TKNB – 21/11/2022

Việt Nam cần làm gì để ứng phó với thách thức tài chính khí hậu?


Theo đài Sputnik, tác động của biến đổi khí hậu đã và đang “đè nặng lên vai” các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Với cam kết tuyên bố mục tiêu đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050, Việt Nam cần làm gì để vượt qua thách thức tài chính khí hậu để đạt mục tiêu trên?

Các lĩnh vực sẽ nhận nguồn tài chính khí hậu nghìn tỷ USD

Tài chính khí hậu là khái niệm liên quan đến số tiền cần được chi cho toàn bộ các hoạt động sẽ góp phần làm chậm biến đổi khí hậu và giúp thế giới đạt được mục tiêu hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức tăng 1,5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Để đạt mục tiêu này, thế giới phải đưa mức phát thải ròng khí gây hiệu ứng nhà kính xuống bằng 0 vào năm 2050. Cụm từ “Net Zero” cũng được nhắc đến nhiều trong các hoạt động tài trợ cho hành động khí hậu.

Theo báo cáo tại Hội nghị (COP27) diễn ra tại Ai Cập mới đây, 2400 tỷ USD là tổng nhu cầu tài chính mà các nước đang phát triển cần để ứng phó với biến đổi khí hậu vào năm 2030. Tại COP27, Việt Nam đã tái khẳng định cam kết mạnh mẽ về mục tiêu “Net Zero” vào năm 2050 đã công bố tại COP26. Việt Nam coi vấn đề chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng là chủ trương nhất quán và là mô hình kinh tế mà Việt Nam lựa chọn.

TS. Hà Quang Anh, Giám đốc Trung tâm bảo vệ tầng ozone và phát triển kinh tế carbon thấp của Cục Biến đổi khí hậu (DCC) thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) cho biết: “Kinh tế carbon thấp là lĩnh vực không mới đối với thế giới. Gần đây, Việt Nam đã có những nhận thức đúng hơn về kinh tế carbon thấp, từ đó có sự quan tâm nhiều hơn. Các bộ, ban, ngành cũng nhận thức được việc phát triển carbon thấp là cách tiếp cận khôn ngoan và phù hợp để làm sao cùng một lúc đạt được mục tiêu phát triển bền vững là sự phát triển không thể đảo ngược”.

Theo TS. Hà Quang Anh, Việt Nam là nước đang phát triển, vì vậy, nhu cầu tăng GDP, tăng thu nhập và phát triển kinh tế là đòi hỏi chính đáng và là xu hướng chung. Việt Nam cũng may mắn có được nhiều bài học kinh nghiệm của các nước phát triển trước đó về phát triển nóng và phải khắc phục. Vì vậy, “Trong các báo cáo gần đây nhất, có 3/5 lĩnh vực mà phát thải nhiều nhất là năng lượng 73,2%, nông-lâm nghiệp 18% – 20% và công nghiệp 5,2%. Kinh tế carbon thấp cần tập trung vào 3 lĩnh vực phát thải lớn này. Đây cũng là cách tiếp cận phù hợp”.

Cụ thể, trong lĩnh vực năng lượng, kinh tế carbon thấp tập trung vào thay đổi công nghệ liên quan đến chuyển đổi năng lượng than sang năng lượng tái tạo. Còn trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam đang đề cập đến thuật ngữ kinh tế tuần hoàn. Đây cũng là giải pháp phù hợp với khái niệm và xu hướng về kinh tế carbon thấp.

Việt Nam cần làm gì để thu hút tài chính khí hậu?

Đối với các nước phát triển, nguồn lực tài chính khí hậu không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, đây thực sự là thách thức với các nước đang phát triển như Việt Nam. Theo ý kiến chuyên gia, việc huy động nguồn lực khí hậu dành cho các nước đang phát triển trên thực tế khá khó khăn.

TS. Hà Quang Anh cho rằng: “Đầu tư khí hậu không giống như đầu tư kinh tế, không thể hoạch định được giá trị rõ ràng trong một khoảng thời gian nhất định. Đầu tư vào khí hậu rất rủi ro, đặc biệt là lĩnh vực biến đổi khí hậu lại càng rủi ro hơn. Đây chính là mặt hạn chế về sự thu hút, hấp dẫn của các nhà đầu tư”.

Thời gian gần đây, hầu hết các nguồn lực đầu tư và sự quan tâm kinh tế tập trung vào giảm nhẹ phát thải khí nhà kính nhiều hơn thông qua việc đầu tư công nghệ, cắt giảm quy trình hoặc thay đổi nguồn đầu vào… Tuy nhiên, tại COP27, đoàn đàm phán Việt Nam cũng đề cập nhiều hơn đến tăng cường đầu tư cho thích ứng với biến đổi khí hậu. Theo TS. Hà Quang Anh, đây là xu hướng phù hợp hiện nay. Đây là những hướng mà chuyên gia cho rằng Việt Nam cần quan tâm trong thời điểm hiện nay, trong đó nhấn mạnh đến việc hoàn thiện cơ chế chính sách tốt.

Minh bạch: chìa khóa tránh lãng phí nguồn lực

Hội nghị COP27 đã thông qua Thỏa thuận khí hậu cuối cùng với điều khoản đáng chú ý, nhất là việc các nước nhất trí thành lập “Quỹ tổn thất và thiệt hại” để bù đắp cho các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng nặng nề của các hiện tượng thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu gây ra. Tuy còn nhiều hoài nghi về quỹ này, những giới quan sát cho rằng đây là thắng lợi lớn nhất của các nước đang phát triển trong nỗ lực ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu.

“Cam kết đi đôi với hành động” là thông điệp của Việt Nam tại COP27 trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Là thành viên tích cực của COP, Việt Nam đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện cam kết COP26, phê duyệt Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu, cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), phê duyệt kế hoạch giảm phát thải khí methane, đồng thời cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ để thực hiện các cam kết về khí hậu.

Trong NDC 2022, Việt Nam đã nâng cam kết lên cao hơn phù hợp với lộ trình đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050. Tuy nhiên, làm thế nào để nguồn lực tài chính cho các chương trình thích ứng với biến đổi khí hậu được sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí? Theo TS. Hà Quang Anh: “Thứ nhất, muốn tránh lãng phí nguồn lực này phải có quy trình lựa chọn và minh bạch hóa quy trình đó. Làm sao để khi lựa chọn được rồi sẽ đảm bảo được tính công bằng khi vận hành. Cần minh bạch trong quá trình và sử dụng nguồn tài chính đầu tư. Qua đó, giảm thiểu được tham nhũng, chỉ không đúng mục tiêu. Thứ ba, cần thực hiện cơ chế giám sát – báo cáo theo quy định rõ ràng, theo chuẩn và phù hợp”.

TS. Hà Quang Anh cho biết, muốn giám sát – báo cáo tốt thì ngoài cơ quan quản lý nhà nước cũng cần có tổ chức khác tham gia, như các tổ chức xã hội dân sự, tổ chức NGO, các quan sát viên, người dân.

Tại COP27, đoàn Việt Nam cũng nêu ra sáng kiến về sử dụng phần lớn nguồn lực huy động thông qua các cơ chế của Thỏa thuận Paris nhằm hỗ trợ chuyển giao công nghệ và thực hiện các dự án thí điểm tại các nước đang phát triển để làm tiền đề, khơi thông nguồn vốn toàn xã hội đầu tư vào lĩnh vực giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu. Sáng kiến này đã được sử dụng để lồng ghép vào các nội dung thỏa thuận của COP27.

Nguồn: TKNB – 05/12/2022

Công nghệ Plasma trong xử lý rác thải giúp Việt Nam độc lập về năng lượng


Việc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh sẽ tăng cường khả năng độc lập của Việt Nam về năng lượng, không chỉ giúp Việt Nam tránh được các cuộc khủng hoảng năng lượng trong tương lai mà sẽ thúc đẩy an ninh năng lượng và bảo vệ Việt Nam trước các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong một thế giới đầy bất ổn.

Rác thải là nguồn năng lượng khổng lồ

Trung bình, mỗi năm Việt Nam thải ra khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa. Việt Nam nằm trong số 20 quốc gia có lượng rác thải lớn nhất và cao hơn mức trung bình của thế giới do việc quản lý và xử lý rác thải nhựa chưa triệt để.

Ước tính, lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 60.000 tấn/ngày, trong đó khu vực đô thị chiếm 60%. Đến 2025, tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt dự báo tăng 10 – 16%/năm, chưa kể một lượng lớn rác thải công nghiệp từ các nhà máy, xí nghiệp và khu công nghiệp.

Nguồn thải lớn, nhưng khoảng 85% lượng rác thải hiện nay tại Việt Nam đang được xử lý chủ yếu bằng công nghệ chôn lấp, vừa lãng phí và đòi hỏi nhiều quỹ đất. Đáng nói, nhiều rác thải có lẫn rác thải nguy hại, như rác thải công nghiệp, rác thải y tế cũng đễ lẫn trong các bãi rác chôn lấp.

Với gần 100 triệu dân, mỗi năm, lượng rác thải tại Việt Nam tăng thêm 10% đồng nghĩa với hàng trăm nghìn tấn rác bị lãng phí. Nếu như số lượng rác này được tái chế và tái sử dụng, Việt Nam có thể tiết kiệm được một lượng tài nguyên không nhỏ.

Công nghệ ưu việt để xử lý rác thải

Tái chế rác thải để tiết kiệm tài nguyên và sản xuất năng lượng đang trở thành xu hướng trên thế giới. Nhiều năm gần đây, Việt Nam bắt đầu quan tâm tới giải quyết bài toán xử lý rác thải. Chính phủ Việt Nam phấn đấu đến năm 2025, đóng cửa 90 – 95% các bãi chôn lấp; các bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt không hợp vệ sinh sẽ được xử lý ô nhiễm và cải tạo môi trường.

GS. Nguyễn Quốc Sỹ, Trưởng khoa Năng lượng Plasma thuộc Đại học Năng lượng Quốc gia Nga (MEI), Chủ tịch Viện Công  nghệ Vinh IT, từ nhiều năm nay vẫn luôn say mê nghiên cứu và phát triển công nghệ Plasma trong xử lý rác thải với mục tiêu chấm dứt chôn lấp rác, biến rác thành điện, không thải khí độc ra môi trường và xử lý rác hoàn nguyên.

Là một trong những người đi tiên phong về lĩnh vực công nghệ Plasma trong xử lý rác thải, GS. Nguyễn Quốc Sỹ cùng nhiều nhà khoa học Liên bang Nga tập trung nghiên cứu công nghệ Plasma và coi đây là một trong những giải pháp mang tính bền vững cho môi trường. Quan trọng hơn là sự thể hiện trách nhiệm của nhà khoa học với xã hội.

Công nghệ Plasma trong xử lý rác thải ở đây là công nghệ duy nhất có khả năng xử lý triệt để chất thải nhựa, nylon, lưu huỳnh và các tạp chất nhiễm độc thủy ngân, cadimi, chì, xenon, cyan, rác thải điện tử… đảm bảo tất cả các chỉ tiêu môi trường nghiêm ngặt như G7 hay EURO6.

Ở Việt Nam không có công nghệ Plasma, trong khi công nghệ Plasma của thế giới hiện đại chưa hoàn thiện, bởi hệ thống đầu phát của công nghệ Plasma mà thế giới hiện nay đang dùng là đầu DIC, có tuổi thọ nhỏ và hệ số kém. Đầu phát công nghệ Plasma mà các nhà khoa học nghiên cứu đang dùng là đầu IC 3 pha, thời gian làm việc cao hơn, phù hợp với đặc tính của rác thải ở Việt Nam. Theo GS. Nguyễn Quốc Sỹ, có nhiều lý do khiến công nghệ xử lý rác thải hiện đại ở châu Âu không thể áp dụng tại Việt Nam. Nếu không chủ động được công nghệ thì sẽ rất thiệt thòi, khó nắm bắt và khó làm chủ được ngành công nghiệp tái chế rác. Để ứng dụng thành công công nghệ đốt rác phát điện cho rác thải có nhiệt lượng kém như Việt Nam là bài toán rất khó về mặt kỹ thuật, công nghệ.

Cuộc cách mạng năng lượng tái tạo từ rác thải Việt Nam

Chia sẻ về những ưu điểm của công nghệ Plasma so với các công nghệ Plasma hiện hành và một số công nghệ đốt rác phát điện khác, GS. Nguyễn Quốc Sỹ cho biết: “Một trong những ưu điểm của công nghệ Plasma trong xử lý rác thải là nhiệt độ cao tiêu hủy triệt để và không yêu cầu phải phân loại rác như Việt Nam. Với công nghệ khí hóa ở nhiệt độ cao (T> 1700 oC) giúp phân hủy triệt để các chất thải hữu cơ và vô cơ, không thải ra các chất độc hại như Dioxin và Furans, hàm lượng tro xỉ và tro bay thấp hơn 5% và gần như là khói trắng”.

Hiện Viện Công nghệ Vin IT đã được cấp bằng sáng chế cho hệ thống đầu phát này. Đây là hệ thống lõi, hệ thống quan trọng nhất cho cả dây chuyền lớn xử lý rác thải bằng công nghệ Plasma: “Nhiệm vụ của chúng tôi là biến rác thải với thành phần như rác thải của Việt Nam thành hỗn hợp khí tổng hợp Syngas với hàm lượng trên 37 – 38%, đủ để phát điện có lãi. Nếu phát điện và có lãi, đồng nghĩa với việc giải quyết được 2 bài toán: tiêu hủy triệt để chất thải rắn sinh hoạt và giải quyết bài toán kinh tế”.

Công nghệ tiên phong này của nhà khoa học chắc chắn sẽ đặt nền móng cho nền công nghiệp “xanh” tái chế rác thải tại Việt Nam, góp phần đạt mục tiêu tăng turởng xanh và giảm phát thải bằng 0 vào năm 2050 theo cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại COP26. Hơn nữa, việc Việt Nam độc lập về năng lượng, không chỉ giúp đất nước tránh được các cuộc khủng hoảng năng lượng trong tương lai, mà sẽ thúc đẩy an ninh năng lượng và bảo vệ Tổ quốc.

Nguồn: TKNB – 25/08/2022

Khai thác cát quá mức đe dọa môi trường sinh thái


Theo đài RFI, không phải vô cớ mà hồi tháng 4/2022, Liên hợp quốc đưa ra báo cáo kêu gọi thế giới xem xét lại cách khai thác và sử dụng cát, một trong những tài nguyên thiên nhiên được sử dụng nhiều nhất trên thế giới, để hướng tới sự phát triển bền vững. Nhiều chuyên gia còn đề xuất “nền kinh tế tuần hoàn về cát”.

Cát không phải là nguồn tài nguyên vô hạn, nhưng lại đang bị khai thác nhanh hơn khả năng tái tạo tự nhiên, bởi vì phải mất hàng triệu năm cát mới được tái tạo trong tự nhiên, nên có thể dẫn tới sự thiếu hụt trong tương lai gần, trong khi cát là một vật liệu xây dựng không thể thiếu trong nhiều lĩnh vực, từ ngành chế tác thủy tinh, sản xuất nhựa, xà phòng bột giặt, kem đánh răng, mỹ phẩn, đến chế tạo chip điện tử, pin mặt trời… và đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng, cầu đường. Theo TV5 Monde, chỉ riêng trong lĩnh vực xây dựng, 2/3 số công trình trên thế giới được xây từ bê tông, trong khi 2/3 bê tông là từ cát. Làm 1km đường cũng cần tới 30.000 tấn cát.

Nguồn tài nguyên thiên nhiên được sử dụng nhiều thứ 2 thế giới

Giải thích về việc tại sao cát không phải là nguồn tài nguyên vô cùng vô tận, có thể khai thác thoải mái như nhiều người nghĩ, Giáo sư địa chất biển và bờ biển Eric Chaumillon thuộc Đại học La Rochelle và Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), cho biết: “Cát được tiêu thụ với số lượng cực kỳ lớn, cát thực sự là một trong những loại tài nguyên được sử dụng nhiều nhất trên hành tinh Trái đất, đứng thứ 2 sau nước, đứng trước cả dầu mỏ và khí đốt. Về khối lượng, mỗi năm có 40 – 50 tỷ tấn cát được tiêu thụ. Đây thực sự là khối lượng vô cùng lớn, tương đương với một bức tường cao 27m và dày 27m bao quanh Trái đất…

Ngày nay, con người khai thác nhiều cát hơn cả lượng mà tất cả các con sông chuyển ra đại dương. Vì vậy, chúng ta đã thực sự đến thời điểm mà hoạt động của con người lớn hơn hiện tượng địa chất lớn nhất – sự xói mòn của tất cả các lục địa và sự vận chuyển trầm tích của tất cả các con sông trên thế giới”.

Từ đất liền hướng ra biển và tác động đến hệ sinh thái

Ngoài xây dựng và bồi lấp biển để đắp đảo nhân tạo, mở rộng diện tích đất liền là lĩnh vực thứ 2 sử dụng nhiều cát nhất. Singapore và Dubai là những thành phố đi đầu trong lĩnh vực lấn biển. Khi các vỉa cát ở đất liền, trong lòng đất đã gần cạn, cát sa mạc lại quá mịn, đều, tròn, không phù hợp với xây dựng, sản xuất công nghiệp, từ cuối thế kỷ 20, các nhà khai thác bắt đầu chuyển hướng xuống đáy biển, nhưng không quá xa bờ.

Trước nhu cầu sử dụng cát, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng trong những năm qua không ngừng tăng cao, Giáo sư Eric Chaumillon cho rằng: “Để hạn chế những tác động có hại này, ưu tiên đầu tiên là sử dụng điều độ. Giống như đối với năng lượng, chúng ta phải biết tiêu thụ điều độ, đúng mức. Việc tiêu thụ cát chủ yếu liên quan đến xây dựng, nên điều đầu tiên là phải hạn chế nghiêm ngặt, chỉ cho phép các dự án xây dựng thật cần thiết.

Bên cạnh việc sử dụng điều độ còn có sự thay thế vật liệu. Có không ít thử nghiệm, sáng chế đang được thực hiện. Khi chúng ta phá hủy các tòa nhà cũ cũng có thể tái chế vật liệu. Ngoài ra, cần khai thác tạo giá trị cho rác thải công nghiệp, phế liệu, thậm chí còn có khả năng sử dụng gỗ vụn, xơ dừa”.

Trong suốt một thời gian dài, cát không được coi là lĩnh vực thu hút sự chú ý, nhưng khi dân số thế giới ngày càng tăng, các dự án xây dựng ngày càng nhiều và hoành tráng, các vỉa cát ngày càng giảm, việc khai thác ngày càng phức tạp thì cát ngày càng có giá trị.

Chỉ trong 4 năm, từ năm 2013 – 2017, Trung Quốc sử dụng lượng cát bằng cả nước Mỹ sử dụng trong một thế kỷ. Nhu cầu về cát và lợi nhuận thu được cao đến mức mà ở nhiều quốc gia, các băng đảng “mafia cát” xuất hiện ngày càng nhiều, chẳng hạn như ở Trung Quốc, Ấn Độ, Campuchia, Senegal, Marocco, Tây Phi và nhiều nước đang phát triển khác. Theo TV5 Monde, khai thác cát biển quá đà cũng khiến Indonesia đang mất dần các bãi biển, thậm chí 25 hòn đảo cũng đã biến mất.

Nguồn: TKNB – 14/10/2022

Việt Nam cùng ASEAN giải quyết thách thức rác thải nhựa


Theo đài Sputnik, là thành viên tích cực của ASEAN, Việt Nam đã và đang tiên phong triển khai nhiều chương trình hành động mạnh mẽ nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm chất thải nhựa. Đông Nam Á nổi lên như một điểm nóng về ô nhiễm nhựa do tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, cơ sở hạ tầng xử lý chất thải không đáp ứng kịp.

Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), ước tính, trung bình mỗi năm, thế giới thải ra khoảng 400 triệu tấn chất thải nhựa và có từ 75 – 199 triệu tấn nhựa hiện đang ở các đại dương. Nếu không hành động để giải quyết thực trạng trên, số rác thải nhiễm vào đại dương có thể sẽ tăng gấp 3, thậm chí nhiều hơn nữa trong vòng 2 thập niên tới.

Một nghiên cứu năm 2021 do WEF công bố cho thấy, trong số 10 quốc gia có vấn đề về ô nhiễm chất thải nhựa, có đến 5 quốc gia tại khu vực ASEAN gồm Philippines, Malaysia, Indonesia, Việt Nam và Thái Lan. Đây là những quốc gia đang bùng nổ nhu cầu về sản phẩm tiêu dùng như thiếu cơ sở hạ tầng để xử lý rác thải, nhất là sự gia tăng của các loại túi nhựa. Những nước này trở thành những quốc gia “đi đầu” gây rò rỉ nhựa ra đại dương.

Cụ thể, tại Việt Nam, ước tính, mỗi năm có khoảng 3,1 triệu tấn chất thải nhựa được thải ra trên đất liền và 10% trong số đó đổ ra biển. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố hồi tháng 7/2022, phần lớn chất thải nhựa gây ô nhiễm đại dương tại Việt Nam là những đồ dùng một lần, có giá trị thấp như túi ni lông, hộp đựng thực phẩm hay ống hút.

Việt Nam hành động và giải pháp xuyên biên giới

Cuộc khủng hoảng ô nhiễm rác thải nhựa đang đặt ra những yêu cầu cấp bách về những giải pháp xử lý bền vững. Trong những năm gần đây, Việt Nam luôn tiên phong triển khai nhiều chương trình hành động mạnh mẽ nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm chất thải nhựa. Ngoài việc chuyển đổi hình thức sử dụng nhựa, nhiều sáng chế theo mô hình kinh tế tuần hoàn nhằm tìm cách thiết kế những sản phẩm không tạo ra chất thải hoặc có thể được tái sử dụng và tái chế đã được Việt Nam áp dụng.

Mới đây trong chương trình Thử thách tái chế rác thải nhựa Đông Nam Á do Mạng lưới Vườn ươm Doanh nghiệp, kết hợp cùng Diễn đàn Kinh tế Thế giới và Liên minh xử lý chất thải nhựa tổ chức, ngoài 3 nước trong khối ASEAN (Indonesia, Philippines, Thái Lan), Sáng kiến bền vững của Plastic People (Việt Nam) đã trở thành một trong 5 nhà đổi mới xuất sắc nhất được lựa chọn từ thử thách này. Nhằm tìm ra các phương thức mới và sáng tạo trong tái chế chất thải nhựa trong khu vực, bà Trần Tâm – quản lý hành chính, đại diện Plastic People cho biết: “Chương trình thử thách tái chế rác thải nhựa Đông Nam Á đã nhận được hơn 100 bài dự thi từ 48 ứng viên đến từ các nước khác nhau. Có nhiều ý tưởng sáng tạo, nhưng đều có điểm chung là giải quyết bài toán rác thải nhựa. Plastic People rất vui và vinh dự khi là đại diện duy nhất của Việt Nam nằm trong top 5. Điều này chứng tỏ giải pháp Plastic People được mọi người công nhận và đang hoạt động hiệu quả, là động lực để Plastic People phát triển sản phẩm và phát huy tầm ảnh hưởng nhiều hơn nữa trong việc nâng cao nhận thức tái chế rác thải nhựa”.

Sáng chế Plastic People đưa ra đã giải quyết được bài toán thu gom và xử lý rác thải nhựa bền vững. Qua đó, tạo dựng niềm tin cho mọi người nâng cao nhận thức, đồng thời tạo công ăn việc làm cho người thu gom nhựa và những đối tác cảm thấy nhựa là vật liệu tiềm năng. Tương tự như các nước ASEAN, bên cạnh những sáng kiến, giải pháp đổi mới tập trung sáng chế và thu gom nhựa, Việt Nam còn triển khai nhiều chương trình hành động mạnh mẽ nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm chất thải nhựa. Trong đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2022 với việc bổ sung quy định về giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa, hạn chế sử dụng các sản phẩm nhựa dùng một lần và túi ni lông.

Trong Kế hoạch Hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu cắt giảm 50% rác thải nhựa đại dương vào năm 2025 và 75% vào năm 2030. Một số biện pháp đã được đưa ra như lệnh cấm sẽ được áp dụng đối với việc sản xuất và nhập khẩu túi ni lông được sử dụng trong nước vào năm 2026 và hầu hết các sản phẩm nhựa dùng một lần vào năm 2031.

Tuy nhiên, để hoạt động chống rác thải nhựa hiệu quả hơn, chắc chắn ASEAN cần có một chiến lược chung xuyên quốc gia về rác thải nhựa với các mô hình kinh doanh sáng tạo hơn, cơ chế chính sách rõ ràng hơn để thực thi kinh tế tuần hoàn với khuôn khổ pháp lý mạnh mẽ hơn, từ đó, giảm thiểu rác thải nhựa một cách bền vững.

Nguồn: TKNB – 08/09/2022

Những nguy cơ về an ninh nguồn nước của Việt Nam


Theo đài RFA, kết luận của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nhìn nhận việc bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước còn nhiều hạn chế.

Theo Bộ Chính trị, nguyên nhân là do nhận thức của một số cán bộ và người dân về bảo đảm an ninh nguồn nước không đầy đủ, dẫn đến việc quản lý, khai thác, sử dụng nước chưa cao; ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng.

Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, chuyên gia về Biến đổi khí hậu và tài nguyên nước Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu, Đại học Cần Thơ, cho biết: “Hàng năm, Cục Phòng chống thiên tai và Cục Quản lý đê điều đều yêu cầu kiểm tra các đập thủy điện, hư hỏng ở đâu phải sửa chữa ngay để kịp thời ứng phó, phòng ngừa bão lũ… Tuy nhiên, cũng tùy địa phương áp dụng thế nào, nguồn kinh phí ra sao và tùy công trình hư hỏng nhiều hay ít. Phần lớn các công trình đó chịu mưa bão khá tốt, chỉ có một số trường hợp bị sạt lở, nhưng chưa phải là nghiêm trọng. Chỉ có khu vực miền núi thì thủy điện bị tàn phá nhiều, gây nguy hiểm cho người dân”.

Kết luận của Bộ Chính trị cũng cho rằng pháp luật Việt Nam liên quan đến bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước còn thiếu, chưa đồng bộ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều công trình thủy lợi xuống cấp, mất an toàn đập…

Hợp tác quốc tế về nguồn nước đã được mở rộng với các quốc gia có chung nguồn nước với Việt Nam trong khai thác, sử dụng nguồn nước xuyên biên giới. Tuy nhiên, việc bảo đảm an ninh nguồn nước từ nước ngoài có hiệu quả chưa cao…

Thạc sĩ Hồ Long Phi, Giám đốc Trung tâm Quản lý nước và biến đổi khí hậu Đại học Quốc gia TPHCM, cho rằng:

Hiện nay, việc phụ thuộc nguồn nước từ nước ngoài chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng cũng có nhưng tỷ lệ không nhiều. Như vậy, lượng nước chủ yếu dùng để sản xuất lúa, nếu trong tương lai, nguồn nước không đảm bảo thì bắt buộc phải bỏ cây lúa, thay thế bằng cây khác. Tuy nhiên, sự lệ thuộc nước ngoài lớn nhất ở đây là lệ thuộc chế độ thủy văn, khi mực nước biến động lên xuống thì chúng ta không chủ động được…”.

Trong một phát biểu về vấn đề an ninh nguồn nước, cựu Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho biết nguồn nước của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào lượng nước sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ, chiếm đến 63%. Đây là một thách thức lớn đối với an ninh nguồn nước quốc gia. Theo ông Nguyễn Xuân Cường, Việt Nam có tổng cộng hơn 200 con sông. Tuy nhiên, có đến trên 50% con sông từ nước ngoài chảy vào, với khoảng 520 tỷ m3, tương ứng 63% tổng lượng nước mặt sản sinh ở bên ngoài lãnh thổ.

Dù đảm bảo an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập của Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm, nhưng Bộ Chính trị vẫn đề ra mục tiêu đến năm 2025 sẽ có 95% hộ gia đình ở thành thị và 60% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch; giải quyết cơ bản tình trạng thiếu nước sinh hoạt, nước cho sản xuất… Đến năm 2030, sẽ có 100% hộ gia đình ở thành thị và 80% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn.

Tiến sĩ Lê Anh Tuấn cho rằng mục tiêu của Bộ Chính trị cũng không phải là quá khó, vì hiện nay, hầu hết cấp xã đều đã có hệ thống cấp nước. Tuy nhiên, cũng có thời điểm trong năm, nguồn nước bị khan hiếm, nhiễm mặn hoặc ô nhiễm… dẫn đến việc cấp nước không liên tục. Ông cho biết:

Khu vực ĐBSCL đã khuyến cáo những hộ dân ở vùng sâu phải lập kế hoạch trữ nước để khi khan hiếm nước trong thời gian ngắn do hạn hán thì có nước sử dụng. Việc cấp nước sinh hoạt không khó khăn, chỉ có cấp nước cho sản xuất là vấn đề phải nghiên cứu giải quyết”.

Đồng quan điểm, Thạc sĩ Hồ Long Phi cũng cho rằng mục tiêu về tỷ lệ hộ dân có nước sạch sử dụng không cần phải phấn đấu nhiều. Tuy nhiên, ông cho rằng: “Nhiều địa phương làm nhà máy nước sạch, nhưng người dân không đấu nối vào hệ thống, vì họ khoan giếng rẻ hơn, nên nhiều nhà máy nước không hoạt động hết công suất. Tình trạng này khá phổ biến. Thứ hai là đô thị hóa của Việt Nam còn thấp, mới chỉ đạt 30 – 40%, đầu tư nước sạch tập trung rất tốn kém nên đường ống chạy ngang một con đường thì phải có nhiều nhà mới hòa vốn. Nếu hiểu rộng ra thì nước sạch ở đây không phải là nước sạch tập trung, mà nước sạch bằng những giải pháp kết hợp để giải quyết cho nông thôn, miễn là đạt tiêu chuẩn vệ sinh”.

Theo Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, chỉ thị của Trung ương dù có tốt, nhưng việc thực hiện của địa phương không phải lúc nào cũng tốt. Có rất nhiều tham vọng của Trung ương nằm trong các Nghị quyết, Nghị định… nhưng việc thực hiện của địa phương lại không đạt, do trình độ cán bộ hay do không đủ kinh phí.

Ngoài việc có đến 63% lượng nước tại Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước tại các quốc gia thượng nguồn… thì theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc gia tăng dân số và quá trình đô thị hóa ở Việt Nam cũng là các yếu tố đã và đang tác động đến chất lượng nước của các sông, hồ. Hiện các hồ và kênh, mương ở những khu vực đô thị đang trở thành nơi chứa và dẫn nước thải.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2020, lượng nước bình quân đầu người ở Việt Nam hiện thấp hơn của Hội tài nguyên nước quốc tế, chỉ đạt hơn 3800 m3 so với 4000 m3/người/năm.

Nguồn: TKNB – 08/07/2022