Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XVIII


2/ Cùng cố hệ thống phòng thủ của Mỹ và các đồng minh

Là một thành phần quan trọng trong việc chống đỡ lại sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc, Mỹ phải chuẩn bị cho việc Trung Quốc sử dụng các chiến lược ép buộc kinh tế để tìm cách thúc đẩy các lợi ích quốc gia. Mỹ có một lợi ích rõ ràng không chỉ trong việc củng cố các chủ thể kinh tế của riêng mình, mà còn trong việc hỗ trợ cho các đồng minh và đối tác nước ngoài để Trung Quốc không tìm được các cách gián tiếp nhằm vào Mỹ và lợi ích của Mỹ.

Thiết lập một quỹ dự trữ cho những chủ thể chịu sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc. Mỹ, dẫn đầu là Bộ Tài chính và Bộ Thương mại, nên thiết lập một quỹ dự trữ cho các công ty và các thành phố chịu sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc. Quỹ này nên đặt tiền đề dựa trên khái niệm bảo vệ các thể chế tôn trọng luật kinh tế quốc tế và các nguyên tắc thị trường cạnh tranh. Quỹ nên hỗ trợ các thực thể bị Trung Quốc đối xử bất công theo một cách chống cạnh tranh mà có thể có ý nghĩa an ninh quốc gia quan trọng đối với Mỹ và một liên minh các đồng minh quan trọng. Tư cách thành viên nhìn chung nên được định hướng theo các nước thành viên G7 và các nước khác. Mỹ nên tận dụng quỹ này và yêu cầu các chính phủ đồng minh đóng góp. Mỹ cũng nên tìm kiếm sự đóng góp từ các công ty thuộc khu vực tư nhân, những công ty mà bản thân họ có thể là ứng cử viên để nhận được hỗ trợ từ một quỹ như vậy, nếu bị Trung Quốc nhắm trực tiếp vào bằng một hành động ép buộc kinh tế. Các nhà lãnh đạo của quỹ này nên xem xem các lựa chọn sửa đổi cấu trúc của nó theo hướng là một phương tiện đảm bảo cho sự tham gia của các thực thể này. Khi đứng đầu một quỹ như vậy, Mỹ có thể tăng cường nỗ lực thuyết phục các quốc gia khác hợp tác chặt chẽ và tích cực hơn với Mỹ áp đặt phí tổn lên Trung Quốc vì những thách thức của họ đối với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Hơn nữa, bằng cách báo hiệu cho Trung Quốc biết rằng Mỹ và các đồng minh đang thực hiện các bước chặn trước để bảo vệ lợi ích tập thể của họ, Washington có thể ngăn chặn Bắc Kinh khỏi ít nhất một số trường hợp gây áp lực ép buộc kinh tế đối với các thực thể sẽ sử dụng quỹ địa phương.

Xem xét và cập nhật các Quy định phản đối tẩy chay. Mỹ, với sự dẫn dắt của một phái đoàn trong Quốc hội và một nhóm nghiên cứu tại Bộ Thương mại, nên xem xét các Quy định phản đối tẩy chay để đánh giá cách thức Mỹ có thể cập nhật chúng hay ban hành các biện pháp phù hợp khác để hỗ trợ các công ty Mỹ là mục tiêu của cạnh tranh kinh tế Trung Quốc nhắm tới. Các nhà lãnh đạo Mỹ nên hợp tác chặt chẽ với các đối tác nước ngoài để xem xét làm thế nào các quyền hạn pháp lý tương đương có thể được thông qua trong các quyền hạn phán xét khác nhau, đặc biệt là các nền kinh tế lớn toàn cầu khác.

Những khuyến nghị về thu hút khu vực tư nhân

Chính phủ Mỹ nên tiếp cận khu vực tư nhân theo một cách chính thức và minh bạch hơn. Một số thách thức mà Trung Quốc đặt ra cho Mỹ trong thời đại cạnh tranh nước lớn không thể được giải quyết chỉ bởi mình Chính phủ Mỹ, và việc đối phó với những thách thức nhất định của Trung Quốc sẽ đòi hỏi phải hợp tác với các công ty khu vực tư nhân của Mỹ. Chính phủ Mỹ càn gia tăng tăng hợp tác với khu vực tư nhân để cải thiện việc chia sẻ thông tin về sự ép buộc kinh tế và chiến thuật của Trung Quốc để giảm thiểu phí tổn phát sinh không mong muốn của các biện pháp của Mỹ. Ngoài ra, một cách tiếp cận hợp tác với khu vực tư nhân có thể xây dựng dựa trên các cách tiếp cận theo quy định để đưa ra các chiến lược hiệu quả hơn. Ví dụ, Chính phủ Mỹ không có các công cụ điều tiết hiệu quả để có thể ngăn chặn hợp pháp các công ty của Mỹ làm theo các loại ép buộc kinh tế nhất định của Trung Quốc, như việc Trung Quốc yêu cầu các công ty Mỹ kiểm duyệt các thông tin trên truyền thông xã hội và kiềm chế nói về các vấn đề chính trị như Tây Tạng. Tuy nhiên, Chính phủ Mỹ có thể khuyến khích khu vực tư nhân thiết lập các cơ chế và cam kết tự nguyện để chống lại áp lực như vậy của Trung Quốc.

Tăng cường dòng chảy thông tin và hợp tác với khu vực tư nhân

Can dự tốt hơn với khu vực nhân sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh của Mỹ với Trung Quốc ở cả lĩnh vực kinh tế và an ninh quốc gia. Các quan chức Mỹ và khu vực tư nhân nên thực hiện một số bước đi để cải thiện hợp tác trong hỗ trợ chính sách của Mỹ.

Cải thiện chia sẻ thông tin. Bộ Thương mại, Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính nên thiết lập một cơ chế chia sẻ thông tin để thu thập thông tin về các trường hợp sử dụng biện pháp ép buộc kinh tế của Trung Quốc nhằm vào các công ty Mỹ và công bố một báo cáo định kỳ về việc Trung Quốc sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế. Cảnh báo này được gửi trực tiếp tới Chính phủ Mỹ trên cơ sở bí mật, hoặc gửi trực tiếp hoặc nặc danh tới những người dùng khác trong hệ thống cảnh báo và Chính phủ Mỹ. Các nhà phân tích chính phủ, từ các cộng đồng tài chính và tính báo, có thể chắt lọc các bài học từ những cảnh báo cho các báo cáo định kỳ, đồng thời triệu tập tới các phiên nghe báo cáo định kỳ hoặc hội nghị để các đại diện khu vực tư nhân có thể trực tiếp chia sẻ thông tin và tham gia chủ đề này.

Thúc đẩy một bộ quy tắc ứng xử khu vực tư nhân với Trung Quốc. Các hiệp hội thương mại khu vực tư nhân hàng đầu, bao gồm Phòng Thương mại Mỹ và các hiệp hội thương mại chuyên về các hoạt động chế tạo và công nghệ cao, cùng với Bộ Ngoại giao Mỹ và Hội đồng an ninh quốc gia, nên thúc đẩy phát triển một bộ quy tắc ứng xử khu vực tư nhân với Trung Quốc. Bộ quy tắc ứng xử tự nguyện nên bao gồm các cam kết của các công ty Mỹ để kiềm chế tham gia các hoạt động nhất định ở Trung Quốc hay với các thực thể Trung Quốc mà sẽ chống lại các giá trị và lợi ích của Mỹ, như hỗ trợ kiểm duyệt và giám sát của Trung Quốc. Bộ quy tắc này cũng nên bao gồm các cam kết của các công ty Mỹ chống lại áp lực ép buộc kinh tế của Trung Quốc theo tiêu chí cụ thể được xác định bởi các nhà soạn thảo và các bên ký kết ban đầu. Chính phủ Mỹ nên xem xét một gói ưu đãi có thể có hiệu lực đối với các công ty tự nguyện ký vào bộ quy tắc ứng xử. Các quan chức Mỹ cũng nên phối hợp với các đối tác nước ngoài để thúc đẩy các quá trình tương tự ở các nước khác, và chào đón các quan sát viên từ các nước đồng minh và đối tác đến Mỹ học hỏi.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020

Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XVII


Xây dựng một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ đối với các biện pháp hạn chế nhập khẩu. Để đảm bảo các chuỗi cung ứng chủ chốt, Quốc hội Mỹ nên xây dựng luật mà sẽ cho phép cơ quan hành pháp của Mỹ thiết lập một chế độ kiểm soát nhập khẩu vì các mục đích an ninh quốc gia và để bảo vệ các chuỗi cung ứng của Mỹ. Điều này sẽ khiến Mỹ tránh xa khỏi thông lệ gần đây hơn của Chính phủ Mỹ trong việc hạn chế hàng nhập khẩu của Trung Quốc vì lý do an ninh quốc gia theo cách đặc biệt dưới các quyền hạn pháp lý khác nhau. Quốc hội đã cấm nhập khẩu các thiết bị viễn thông nhất định của Trung Quốc một cách hiệu quả, hạn chế sử dụng các nguồn tài trợ liên bang cho việc mua sắm các phương tiện giao thông công cộng nhất định do các công ty Trung Quốc sản xuất, và Chính quyền Trump đã chuyển sang giới hạn nhiều hơn nữa việc nhập khẩu các sản phẩm IT nhất định của Trung Quốc. Tuy nhiên, với một quy chế mới, Mỹ nên nắm lấy một cấu trúc điều chỉnh chính thức, xuyên suốt để giới hạn hàng nhập khẩu từ Trung Quốc trên cơ sở an ninh quốc gia rõ ràng. Chính quyền Mỹ nên sử dụng một cách vừa phải các biện pháp hạn chế theo một quy chế mới, và một cấu trúc điều chỉnh mạch lạc có nhiều khả năng dẫn đến việc sử dụng hợp lý hơn là việc mở rộng hơn nữa cách tiếp cận đặc biệt hiện nay. Một cấu trúc như vậy có thể sẽ gia tăng đáng kể những cân nhắc liên quan tới nghĩa vụ của WTO, mà Văn phòng đại diện thương mại Mỹ sẽ cần giải quyết trong việc thực hiện những biện pháp hạn chế như vậy.

Nghiên cứu về việc phát triển một cấu trúc pháp lý rộng hơn và linh hoạt hơn để áp đặt thuế quan lên các sản phẩm được sản xuất bởi các công ty cụ thể, thay vì đơn giản từ một quốc gia cụ thể. Quốc hội Mỹ nên thành lập một nhóm nghiên cứu, mà sẽ lắng nghe các chuyên gia độc lập và trong chính quyền, và yêu cầu một nghiên cứu từ Cơ quan giám sát trách nhiệm chính phủ (GAO), về các cách thức phát triển một cấu trúc pháp lý mà sẽ mở rộng khả năng của Mỹ để phân biệt các loại thuế quan được áp đặt lên các sản phẩm nhập khẩu từ các công ty cụ thể, mà hiện nói chung chỉ có sẵn trong một số trường hợp hạn chế nhất định. Theo luật pháp của Mỹ hiện nay, Mỹ thường áp dụng các loại thuế quan đối với các sản phẩm nhập khẩu cụ thể từ Trung Quốc, thay vì áp dụng thuế quan đối với các sản phẩm được sản xuất bởi các công ty Trung Quốc cụ thể, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, ví dụ như “bán phá giá”. Tuy nhiên, khi Mỹ tiếp tục sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế để giải quyết các vấn đề thương mại cụ thể và các phạm vi kinh tế khác của Trung Quốc, Mỹ sẽ hưởng lợi từ một cấu trúc thuế quan mà có đủ khả năng phân biệt rộng hơn và dễ dàng hơn giữa hàng hóa nhập khẩu từ các loại công ty Trung Quốc khác nhau, chẳng hạn giữa công ty nhà nước và công ty tư nhân. Quá trình nghiên cứu và đánh giá do Quốc hội Mỹ dẫn dắt có thể cung cấp định hướng trên con đường đi tới chính sách thuế quan của Mỹ.

Các khuyến nghị tăng cường các khuôn khổ đa phương hợp tác với các đồng minh

Mỹ nên khẳng định mối quan hệ liên minh và đối tác trong cuộc cạnh tranh kinh tế Mỹ-Trung: Sự hỗ trợ của các chính phủ đồng minh, đặc biệt khi họ đại diện cho các nền kinh tế toàn cầu lớn và các bên giám sát tiền tệ mạnh hay các trung tâm chuỗi cung ứng quan trọng, có ý nghĩa trọng yếu nhằm làm cho các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc trở nên hiệu quả. Khi các nước thứ ba không phối hợp hay hỗ trợ Mỹ, các nền kinh tế của họ có thể trở thành đấu trường để Trung Quốc lách luật hay tránh áp lực kinh tế của Mỹ. Mặt khác, Trung Quốc có thể tăng cường vị thế kinh tế của mình bằng việc kéo các đồng minh của Mỹ lại gần Trung Quốc hơn trên các khía cạnh kinh tế, một bước đi mà nước này có thể làm suy yếu các mối quan hệ liên minh của Mỹ. Ngoài ra, các biện pháp của Mỹ nhằm vào Trung Quốc có thể tác động bất lợi đáng kể đến kinh tế của các nước đồng minh mà phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc, và Mỹ phải xem xét những tác động này trong việc triển khai các biện pháp ép buộc kinh tế của mình.

Hơn nữa, với kinh nghiệm của Mỹ về các biện pháp trừng phạt trong nhiều năm qua đã cho thấy rằng áp lực kinh tế đơn phương của Mỹ có thể gây tác động đáng kể khi thực hiện với các nước tương đối nhỏ. Quy mô thị trường của Mỹ so với quy mô của một nước như Iran, Venezuela, hay Cuba có nghĩa là hầu hết các công ty ở các nước đồng minh, như các công ty có trụ sở ở châu Âu, sẽ tuân thủ các biện pháp trừng phạt của Mỹ vì phí tổn tiềm tàng của việc bất tuân – không được tiếp cận thị trường Mỹ trong một thời gian dài – nhìn chung vượt xa phí tổn của việc bị cấm kinh doanh ở một nước bị trừng phạt. Tính toán rủi ro doanh nghiệp này là đúng cho dù chính phủ của một công ty lựa chọn đứng về phía Mỹ trong việc áp đặt các biện pháp trừng phạt hợp pháp hay các biện pháp ép buộc kinh tế khác đối với nước mục tiêu. Tuy nhiên, hoàn toàn không để đảm bảo rằng các doanh nghiệp sẽ tuân thủ biện pháp của Mỹ khi nói đến các biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc. Các công ty ở các nước đồng minh đối mặt với một lựa chọn khó khăn hơn nhiều nếu và khi buộc phải lựa chọn giữa thị trường Mỹ và Trung Quốc, làm giảm tác động của các biện pháp đơn phương của Mỹ. Với lo ngại về sự cạnh tranh của Trung Quốc, các vi phạm thương mại và rủi ro an ninh quốc gia lan rộng ở châu Âu, và giữa các nước đồng minh của Mỹ ở châu Á, Mỹ có cơ hội xây dựng một liên minh đa phương để thực hiện các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc và nên nỗ lực xây dựng sự hỗ trợ đa phương đối với các biện pháp như vậy bất kỳ nơi nào có thể.

1/ Xây dựng một cấu trúc đa phương

Không có cơ quan thường trực nào của các chính phủ có cùng chí hướng tận tâm tạo ra một cách tiếp cận chung đối với việc triển khai các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc. Mỹ nên đầu tư vào việc thiết lập một cấu trúc hợp tác đa phương để tăng cường tác động của các biện pháp của Mỹ, và đồng thời học hỏi và ủng hộ các hành động và ý tưởng của các quốc gia khác mà cũng lo ngại về ép buộc kinh tế sẽ thúc đẩy thành công các lợi ích của Mỹ.

Thành lập một nhóm “cùng chí hướng” về các biện pháp hạn chế đầu tư và kiểm soát thương mại nhằm vào Trung Quốc. Văn phòng đại diện thương mại Mỹ, Bộ Thương mại và Bộ Tài chính nên cùng thành lập một nhóm cùng chí hướng gồm các nước công nghiệp quan trọng để phát triển một cách tiếp cận tập thể đối với việc áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và nhập khẩu với Trung Quốc và các biện pháp hạn chế đối với đầu tư của Trung Quốc. Các nước có cùng chí hướng quan trọng nên bao gồm Anh, Đức, Pháp, Hàn Quốc, Israel, Nhật Bản, Canada và Australia; EU cũng nên tham gia với tư cách một quan sát viên.

Thành lập một nhóm quốc tế Tech-N. Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, và Bộ Thương mại nên dẫn đầu Chính phủ Mỹ trong việc thành lập một nhóm quốc tế mới gồm các nền dân chủ tiên tiến và dẫn đầu về công nghệ để phối hợp chính sách công nghệ (Tech-N). Tổ chức này sẽ giúp thiết lập các chuẩn mực và tiêu chuẩn quốc tế, thúc đẩy an ninh chuỗi cung ứng, chống lại việc sử dụng công nghệ bất hợp pháp, và tối đa hóa và phối hợp chi tiêu R&D.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020

Triển vọng tỷ giá đồng Nhân dân tệ so với đồng USD trong năm 2023 – Phần cuối


Cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, các công cụ vĩ mô và thận trọng

Báo cáo năm 2021 của IMF đã điều chỉnh cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng NDT thành cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh, đặc điểm của cơ chế này là trong xu hướng nhận biết theo thống kê, mức độ biến động của tỷ giá hối đoái cần được duy trì trong phạm vi 2% và kéo dài ít nhất trong 6 tháng; nếu tỷ giá hối đoái tăng hoặc giảm liên tục, và tỷ lệ biến động hàng năm của nó không dưới 1%, thì mới có thể được định nghĩa là cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh.

Báo cáo thực hiện chính sách tiền tệ trong quý 3/2022 của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc cho rằng về lịch sử, cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý đã trải qua thử thách của nhiều cú sốc bên ngoài, tỷ giá của đồng NDT có thể được điều chỉnh linh hoạt, và có thể khôi phục sự cân bằng trong khoảng thời gian tương đối ngắn và phát huy có hiệu quả vai trò làm giảm tác động của các cú sốc bên ngoài. Mặc dù tỷ giá hối đoái của đồng NDT không còn bị ngân hàng nhà nước can thiệp, nhưng vẫn phải duy trì tỷ giá ở mức hợp lý và cân bằng. Do đồng USD chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong rổ tiền tệ, nên tỷ giá của đồng NDT so với đồng USD cũng phải ổn định. Một là, can dự vào tỷ giá hối đoái thông qua công cụ vĩ mô và thận trọng thông dụng trong cộng đồng quốc tế, trong đó có một số công cụ được đưa ra kịp thời trong giai đoạn tỷ giá của đồng NDT so với đồng USD có biến động tương đối lớn. Báo cáo của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc cũng cho rằng cơc hế hình thành giá bình quân của tỷ giá đồng NDT so với đồng USD đang không ngừng được hoàn thiện, mức độ mang tính quy tắc, minh bạch và thị trường hóa được nâng cao. Hai là, sự can thiệp thông qua thị trường ngoại hối. Do tỷ giá hối đoái của đồng NDT là cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh, và Mỹ lại thả nổi hoàn toàn, nên Trung Quốc có thể can thiệp một chiều ở mức độ nhất định nhằm phòng ngừa những tác động tiêu cực từ chính sách tiền tệ cấp tiến của Mỹ, tất nhiên điều này cũng có thể gây bất mãn cho các đối tác thương mại.

Triển vọng xu hướng tỷ giá hối đoái của đồng NDT so với đồng USD trong năm 2023

Về triển vọng xu hướng tỷ giá hối đoái của đồng NDT so với đồng USD trong năm 2023, có thể xem xét hai xu hướng: Một là, dựa trên các yếu tố cơ bản; hai là, dựa trên các đặc điểm của cơ chế tỷ giá hối đoái.

Sự khác biệt cơ bản giữa Trung Quốc và Mỹ: Đồng USD được định giá quá cao và đồng NDT gần ở mức cân bằng

Mục tiêu của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là duy trì tỷ giá đồng NDT ở mức hợp lý và cân bằng, một mặt, phải thể hiện được sự ổn định của tỷ giá trong rổ tiền tệ, mặt khác thể hiện được mức tỷ giá của các loại tiền tệ trong thị trường gần bằng với mức tỷ giá hối đoái thực đa phương (REER). Tháng 9/2022, IMF dự đoán đồng USD được định giá quá cao và tỷ giá hối đoái của đồng NDT được định giá coa một chút, đây là yếu tố cơ bản của đồng NDT so với đồng USD.

Về triển vọng xu hướng của đồng NDT so với đồng USD trong năm 2023, tác giả bài viết cho rằng vẫn phải dựa vào đặc điểm cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh và cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Năm 2023, nền kinh tế thế giới sẽ có nhiều tính khó đoán định do lạm phát cao và rủi ro địa chính trị. Năm 2023, Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy cải cách tỷ giá hối đoái theo định hướng thị trường, tình hình dịch COVID-19, do bất động sản, nhu cầu bên ngoài, tiêu dùng tư nhân và nhu cầu tín dụng có nhiều tính khó đoán định, nên cũng khó có thể dự đoán tỷ giá đồng NDT. Đồng thời, để duy trì tỷ giá của đồng NDT ở mức hợp lý và cân bằng, ngân hàng trung ương cũng tuyên bố sẽ kiên quyết ổn định tỷ giá hối đoái trước những biến động mạnh.

Do đó, tỷ giá hối đoái cân bằng của đồng NDT so với đồng USD trong năm 2023 sẽ tăgn cùng với đồng USD trở lại mức cân bằng, các yếu tố khó đoán định của hai đồng tiền này tăng sẽ khiến tỷ giá của đồng NDT so với đồng USD biến động, mức độ cụ thể sẽ được quyết định bởi sự kịp thời và hiệu quả của chính sách vi mô và thận trọng do ngân hàng trung ương ban hành.

Nguồn: www.ftchinese.com

TLTKĐB – 09/01/2023

Quan hệ Việt – Mỹ từ kẻ thù đến đối tác


27 năm đã trôi qua kể từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Mỹ. Trong 27 năm đó, mối quan hệ này đã đạt được những bước đột phá đáng kể. Hai kẻ thù trong Chiến tranh Lạnh hiện là đối tác an ninh và kinh tế gần gũi.

Hầu hết các chuyên gia đều chỉ rõ yếu tố quyết định quan trọng nhất là sự e ngại chung của cả hai nước đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ hơn lịch sử mối quan hệ, sẽ thấy rằng sự biến đổi phi thường từ kẻ thù trong thời chiến sang đối tác toàn diện là điều không phải diễn ra trong một sớm một chiều. Việc Mỹ rút khỏi Việt Nam năm 1975 là một sự thật khó chấp nhận đối với nhiều người Mỹ. Việc để mất Sài Gòn vào tay những người Cộng sản ở miền Bắc đã làm xói mòn vị thế của Mỹ trên thế giới và niềm tin của người Mỹ vào chính họ. Trong khi đó, dù chiến thắng, những tàn tích của chiến tranh như chất độc da cam, vật liệu chưa nổ và thiệt hại về người do binh lính Mỹ lẽ ra đã không thể xóa bỏ sự phản kháng và tâm lý bài Mỹ trong lòng người dân Việt Nam. Tuy nhiên, Mỹ và Việt Nam đã vượt qua những rào cản lịch sử dường như không thể vượt qua này để thúc đẩy một mối quan hệ hướng tới tương lai dựa trên lòng tin, với động lực là mối quan tâm chung về hòa giải thực sự, tăng trưởng kinh tế, an ninh khu vực và quan điểm chung về những lợi ích của một trật tự dựa trên nguyên tắc.

Từ thù địch đến tình hữu nghị

Các tài liệu chính sách đối ngoại của Việt Nam đã chỉ ra nhiều yếu tố khác nhau dẫn đến sự đảo chiều đầy ấn tượng trong quan hệ song phương. Hai trong số những yếu tố được trích dẫn thường xuyên nhất là chương trình cải cách kinh tế “Đổi mới” và Trung Quốc. Chính sách Đổi mới đã biến Việt Nam từ một nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, mở cửa cho đầu tư và vốn nước ngoài. Điều này khiến cho cách tiếp cận của Việt Nam với quan hệ đối ngoại bớt đi tính ý thức hệ và làm giảm những lo ngại an ninh của Mỹ. Yếu tố Trung Quốc đã trở thành mối quan ngại an ninh lớn đối với Hà Nội và Washington trong những năm gần đây, nhưng mối quan hệ gần gũi hơn giữa Việt Nam với Mỹ đã trải qua chặng đường thực hiện kéo dài 27 năm.

Đầu những năm 1990, các nước láng giềng Đông Nam Á không còn coi Việt Nam là một mối đe dọa an ninh và hoan nghênh nước này trở thành thành viên thứ sáu của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), một bước tiến đáng hoan nghênh về phía Mỹ. Chính quyền Clinton đã chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào năm 1995.

Nền tảng kinh tế

Trong hai thập kỷ qua, khía cạnh kinh tế đã giúp củng cố mối quan hệ chặt chẽ hơn. Ở Việt Nam, khi an ninh quốc gia bớt đi tính ý thức hệ và tính chính danh của Đảng gắn liền với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, quan hệ với Mỹ thậm chí còn được đánh giá là hấp dẫn hơn. Quan hệ kinh tế với Mỹ đã mở ra cánh cửa hội nhập kinh tế toàn cầu. Theo sau quyết định bình thường hóa quan hệ là cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại song phương, cuối cùng đã đi đến ký kết vào năm 2000. Những cải cách còn lại theo yêu cầu của hiệp định này đã giúp Việt Nam dễ dàng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007. Kể từ sau thời kỳ Đổi mới, trở thành thành viên ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Mỹ và gia nhập WTO, Việt Nam đã nằm trong nhóm các nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á.

Hiện nay, Mỹ là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, thậm chí còn lớn hơn cả nước láng giềng Trung Quốc. Thương mại của Mỹ với Việt Nam đã tăng vọt lên hơn 111 tỷ USD vào năm 2021, từ mức gần như bằng 0 vào năm 1975. Thương mại của Mỹ với Việt Nam hiện tại hiện lớn hơn so với hai đồng minh Đông Nam Á là Philippines và Thái Lan cộng lại. Trong 10 năm qua, Việt Nam đã nhận được tổng cộng 143 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Mỹ, phần lớn trong số đó đổ vào lĩnh vực sản xuất. Những số liệu thống kê kinh tế lạc quan này đã giúp tạo việc làm và thúc đẩy phát triển ở Việt Nam.

Nền tảng địa chính trị và an ninh

Dù hệ thống chính trị khác nhau, các mục tiêu an ninh quốc gia của Hà Nội và Washington ở Đông Nam Á đang ngày càng trở nên gắn kết. Hai bên đều chia sẻ mối quan ngại về hành vi của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và sông Mekong, cũng như về chính sách viện trợ nước ngoài và đầu tư bị cáo buộc là mang tính vụ lợi của Bắc Kinh.

Ở biển Nam Trung Hoa, Việt Nam là nước thường xuyên chịu ảnh hưởng từ hành vi quyết đoán của Trung Quốc. Kết quả của cuộc đụng độ ở Đá Gạc Ma giữa lực lượng Việt Nam và Trung Quốc năm 1988 đánh dấu khởi đầu của việc Trung Quốc hiện diện thường trực ở Trường Sa. Nhiều người Việt Nam hoan nghênh việc Mỹ tiếp tục hiện diện ở Đông Nam Á để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc và ngăn chặn những hành vi leo thang hơn nữa của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa. Việt Nam biết quyền tự do hàng hải là lợi ích trọng yếu của Mỹ trong khu vực. Mặc dù thể chế pháp lý trong nước có thể không nhất thiết ủng hộ các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) của Hải quân Mỹ, đặc biệt là với các tàu quân sự nước ngoài đi qua lãnh hải Việt Nam một cách vô hại, Hà Nội đã ngầm ủng hộ các hoạt động của Mỹ bằng cách thường xuyên tham khảo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) liên quan đến các quyền tự do hàng hải.

Washington đã bắt đầu nhận ra mối quan tâm của Hà Nội. Ngoài các vấn đề về quyền tự do hàng hải, Mỹ đã nhắc lại những lo ngại của Việt Nam và các nước Đông Nam Á về biển Nam Trung Hoa. Chẳng hạn, vào ngày 13/07/2020, Washington đã làm rõ lập trường của mình, nhấn mạnh rằng mặc dù Mỹ không đưa ra lập trường về những tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc địa hình bị tranh chấp, nước này có quan điểm rõ ràng về tài nguyên biển và quyền tài phán. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ nêu rõ: “Mỹ bác bỏ bất kỳ yêu sách nào của Trung Quốc đối với vùng biển bên ngoài lãnh hải 12 hải lý tính từ những đảo mà nước này tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Trường Sa (mà không ảnh hưởng đến yêu sách chủ quyền của các quốc gia khác đối với các đảo này)… Mỹ bác bỏ bất kỳ yêu sách hàng hải nào của Trung Quốc trong vùng biển xung quanh bãi Tư Chính (ngoài khơi Việt Nam), bãi cạn Luconia (ngoài khơi Malaysia), vùng biển trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Brunei và Natuna Besar (ngoài khơi Indonesia). Bất kỳ hành động nào của Trung Quốc nhằm quấy rối hoạt động đánh bắt cá hoặc phát triển dầu khí của các quốc gia khác trong những vùng biển này – hoặc đơn phương thực hiện các hoạt động như vậy – đều là bất hợp pháp”.

Việt Nam cũng nhận thấy giá trị của sự hỗ trợ Mỹ dành cho khu vực hạ lưu sông Mekong, đặc biệt trong bối cảnh quan ngại về các con đập của Bắc Kinh có nguy cơ góp phần gây ra thời kỳ hạn hán kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trong những năm gần đây. Đối với Việt Nam, vấn đề Mekong không chỉ là vấn đề chính trị mà còn ảnh hưởng đến sinh kế của người dân và nền kinh tế đất nước. Một số chuyên gia ước tính chính sách xây đập của Trung Quốc ở thượng nguồn sông Mekong tác động đến gần 10% diện tích trồng lúa của Việt Nam. Việt Nam hoan nghênh Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong, một nỗ lực đối tác đa quốc gia do Mỹ khởi xướng năm 2009 nhằm “thúc đẩy hợp tác lớn hơn ở tiểu vùng Mekong”, sau đó là thiết lập Quan hệ đối tác Mekong-Mỹ năm 2002 nhằm khởi động các dự án hợp tác liên quan đến chia sẻ dữ liệu thủy văn, quản lý thiên tai và hợp tác an ninh. Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Bình Minh mô tả những nỗ lực do Mỹ dẫn đầu bằng những thuật ngữ tích cực, cho biết những nỗ lực này đã “đóng góp vào sự phát triển bền vững của tiểu vùng sông Mekong và giúp các nước Mekong thu hẹp khoảng cách phát triển, nắm bắt cơ hội mới và vượt qua thức”.

Ngoài ra, trong khi công khai ủng hộ Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc, Việt Nam “vẫn khá do dự trong việc nhân các khoản vay của Trung Quốc trong khuôn khổ sáng kiến này”. Thay vào đó, Hà Nội đang tìm kiếm các giải pháp thay thế từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ. Các chuyên gia coi đây là một nỗ lực được cân nhắc kỹ lưỡng nhằm giảm sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc.

Trên thực tế, lợi ích an ninh của hai nước tiếp tục gắn kết. Có lẽ dấu hiệu mạnh mẽ nhất cho thấy hai nước đã thực sự bỏ lại quá khứ thù địch trong Chiến tranh Lạnh xuất hiện khi Hà Nội và Washington nâng cấp mối quan hệ thành quan hệ đối tác toàn diện vào năm 2013. Bước tiến hợp lý tiếp theo là nâng tầm quan hệ thành mối quan hệ chiến lược chính thức, cho dù hầu hết các nhà phân tích đều khẳng định mối quan hệ song phương đã đạt mức này, chỉ là chưa được chính thức gọi tên.

Thật vậy, hợp tác an ninh đang trên đà phát triển ổn định. Tháng 9/2011, Hà Nội và Washington đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương, tập trung vào an ninh hàng hải, tìm kiếm và cứu nạn, hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, và trao đổi giữa các trường đại học quốc phòng và các viện nghiên cứu. Đối thoại Chính trị, An ninh và Quốc phòng Việt – Mỹ (PSDD) đã được tiến hành gần như hàng năm kẻ từ khi được khởi động vào năm 2008. Tương tự như vậy, Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt – Mỹ (DPD) đã trở thành một sự kiện chính thức được tổ chức thường niên kể từ năm 2010. Năm 2016, Washington dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kéo dài hàng thập kỷ đối với việc bán vũ khí sát thương cho Hà Nội. Trong thập kỷ qua, ít nhất ba tàu sân bay Mỹ đã ghé cảng Việt Nam – USS George Washington, USS Carl Vinson và USS Theodore Roosevelt – cùng với các tàu Hải quân Mỹ nhở hơn khác thỉnh thoảng tiến hành các chuyến thăm thiện chí.

Những hạn chế trong việc thúc đẩy quan hệ

Bất chấp sự phát triển ổn định của các mối quan hệ an ninh, kinh tế và chính trị song phương, một số hạn chế vẫn còn tồn tại. Việt Nam vẫn thận trọng về những tác động mà quan hệ với Washington sẽ gây ra đối với mối quan hệ quan trọng không kém với Bắc Kinh. Như hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam dường như không muốn chọn bên trong mối quan hệ được coi là đối đầu hoặc cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung. Những luận điệu chính sách đối ngoại của Washington nhấn mạnh “sự cạnh tranh với Trung Quốc” khi đề cập đến cái gọi là chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và cởi mở (FOIP) cũng không mấy hữu ích. Một số nhà phân tích chỉ ra “yếu tố Trung Quốc” khi giải thích cho việc Hà Nội không muốn chính thức nâng cấp quan hệ với Washington thành quan hệ đối tác chiến lược.

Hơn nữa, vẫn còn tồn tại những vấn đề về lòng tin. Một số người Việt Nam vẫn nghi ngờ ý định của Mỹ, coi những tuyên bố của Mỹ về nhân quyền và dân chủ là mối đe dọa đối với sự cầm quyền và tính chính danh của Đảng Cộng sản, và nói rộng ra, đối với sự ổn định chính trị lâu dài của Việt Nam. Tại Washington, những lo ngại về quyền tự do dân sự thường cản trở các điều luật quốc Mỹ có lợi cho Việt Nam.

Nguồn: Asia-pacific Forum

CVĐQT số 01/2023

Triển vọng tỷ giá đồng Nhân dân tệ so với đồng USD trong năm 2023 – Phần đầu


Đàm Khưu Thái

Do kể từ đầu năm 2022, tỷ giá hối đoái của đồng NDT so với đồng USD đã mất giá mạnh và dao động dữ dội, nên để nhận định xu hướng tỷ giá hối đoái này trong năm 2023, tác giả bài viết cho rằng dưới các cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau, xu hướng tỷ giá hối đoái cũng khác nhau, vì vậy cần phải phân tích xu hướng tỷ giá hối đoái trên cơ sở cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái.

Những thay đổi trong cơ chế hình thành giá hối đoái của đồng NDT

Theo phân loại của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tỷ giá của đồng USD từ lâu đã thuộc kiểu “thả nổi hoàn toàn”. Kể từ khi Trung Quốc thực hiện cải cách tỷ giá hối đoái vào ngày 11/8/2015, cơ chế tỷ giá của đồng NDT có tương đối nhiều thay đổi. Báo cáo hàng năm về cơ chế tỷ giá và những hạn chế ngoại hối (AREAER) do IMF công bố năm 2015 đã điều chỉnh cơ chế tỷ giá đồng NDT thành cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh (crawl-like arrangement), năm 2019 và 2020 điều chỉnh thành cơ chế sắp xếp quản lý khác (other managed arrangement), và đến năm 2021 lại điều chỉnh thành cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh (crawl-like arrangement). Luật pháp Trung Quốc nêu rõ cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý, tức là cơ chế hình thành tỷ giá của đồng NDT tuân theo cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý dựa trên cung và cầu của thị trường, được điều chỉnh theo rổ tiền tệ. Vì vậy, để dự đoán xu hướng tỷ giá của NDT so với đồng USD trong năm 2023, cần phân tích từ các góc độ sau: Một là, yếu tố thị trường; hai là, yếu tố quản lý (yếu tố quản lý của chính phủ được thể hiện ở việc phát huy chức năng tự điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô và ổn định cán cân thanh toán quốc tế, tức là chức năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và duy trì sự ổn định giá cả của tỷ giá hối đoái), và ba là, yếu tố điều chỉnh tỷ giá hối đoái (với mấu chốt là tỷ giá của đồng NDT được duy trì ở mức hợp lý và cân bằng thông qua việc quản lý vĩ mô và thận trọng).

Yếu tố thị trường: Từ cơ bản không can thiệp đến hoàn toàn không can thiệp

Kể từ khi Trung Quốc thực hiện cải cách tỷ giá hối đoái năm 2005, đặc biệt là kể từ khi thực hiện cải cách tỷ giá hối đoái ngày 11/8/2015, tỷ giá của đồng NDT so với đồng USD đã không ngừng được nâng cao. Ngày 18/10/2017, ngay trước khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc (Đại hội XIX) khai mạc, Phan Công Thắng, Phó thống đốc Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (Ngân hàng trung ương), Cục trưởng Cục quản lý ngoại hối Nhà nước, cho biết tỷ giá hối đoái của đồng NDT đã tương đối ổn định trong thời gian gần đây, hơn nữa có thể nhận thấy tỷ giá hối đoái được thúc đẩy bởi thị trường hàng hóa, về cơ bản ngân hàng trung ương đã không can thiệp ngoại hối và tỷ giá hối đoái của đồng NDT sẽ có cơ sở ổn định hơn sau Đại hội XIX. Kết quả đánh giá từ giữa tháng 6 đến đầu tháng 8/2018 của IMF cho thấy Ngân hàng nhân dân Trung Quốc hầu như không còn can thiệp vào ngoại hối. Năm 2019, Thống đốc Ngân hàng nhân dân Trung Quốc Dịch Cương cho biết ngân hàng đã không còn can thiệp vào ngoại hối, mức độ thị trường hóa và tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái đồng NDT đã được nâng cao đáng kể và nó đã duy trì được vị trí ổn định trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Tỷ giá của đồng NDT do cung và cầu thị trường quyết định. Báo cáo thực hiện chính sách tiền tệ trong quý III/2022 của Ngân hàng nhân Trung Quốc tiếp tục cho rằng ngân hàng này đã không còn can thiệp vào ngoại hối và tỷ giá hối đoái của đồng NDT do cung và cầu của thị trường quyết định.

Tỷ giá hối đoái do cung và cầu thị trường quyết định bao gồm cả tỷ giá hối đoái cân bằng do các yếu tố cơ bản quyết định và tỷ giá hối đoái thị trường do các yếu tố gây xáo trộn gây ra. Lý thuyết kinh tế cho rằng các yếu tố cơ bản bao gồm xu hướng giá cả ở hai quốc gia, thay đổi năng suất tương đối, đầu tư quốc tế, điều kiện thương mại, biến số tài chính và chênh lệch lãi suất. Trong khi Ngân hàng nhân dân Trung Quốc cho rằng các yếu tố cơ bản bao gồm một số điểm sau: Một là, kinh tế trong nước ổn định là yếu tố quan trọng nhất để ổn định tỷ giá hối đoái, từ đó khiến các yếu tố cơ bản của nền kinh tế như có khả năng chống chịu, có tiềm năng lớn, tràn đầy sức sống và phát triển tốt trong thời gian dài không thay đổi; hai là, cán cân thanh toán quốc tế có nền tảng vững chắc là cơ sở cho sự hoạt động ổn định của thị trường ngoại hối; ba là, dự trữ ngoại hối đứng đầu thế giới là nền tảng để duy trì ổn định tỷ giá và an ninh tài chính.

Yếu tố chính phủ: Phát huy chức năng tự điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô và ổn định cán cân thanh toán quốc tế

Lý thuyết kinh tế cho rằng cơ chế thuế lũy tiến, cơ chế thanh toán chuyển giao tự động giá cả và tỷ giá hối đoái linh hoạt là những yếu tố tự động ổn định nền kinh tế thị trường, có thể giúp nền kinh tế tự thực hiện sự cân bằng. Cơ chế tự ổn định của tỷ giá hối đoái được thể hiện ở việc đồng nội tệ mất giá sẽ có lợi cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đó, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.

Quản lý tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô của chính phủ. Ví dụ như tỷ giá hối đoái được định giá thấp có thể cải thiện khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong nước và thúc đẩy việc nâng cao xuất khẩu ròng trong cỗ xe tam mã (đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu). Tỷ giá hối đoái tăng có lợi cho việc chống lại áp lực lạm phát do nhập khẩu và đảm bảo vật giá ổn định. Trong khuôn khổ Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20), hầu hết các quốc gia đã từ bỏ cuộc chiến tỷ giá hối đoái nhằm đẩy tai họa cho nước khác để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong Báo cáo về chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Mỹ công bố vào tháng 11/2022, Bộ Tài chính Mỹ đã xác định ba tiêu chí quan trọng đối với các đối tác thương mại chính: (1) Thặng dư thương mại song phương với Mỹ; (2) thặng dư cán cân vãng lai; và (3) can thiệp một chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ.

Hiện vẫn chưa có chính sách cụ thể về việc chính phủ các nước có can thiệp vào tỷ giá hối đoái để đảm bảo ổn định vật giá hay không. Do Mỹ từ lâu đã kiên trì cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn đối với tỷ giá hối đoái của đồng NDT so với đồng USD, nên có ít khả năng can thiệp vào tỷ giá hối đoái để ổn định vật giá. Về phía Trung Quốc, trong Báo cáo thực hiện chính sách tiền tệ quý III/2022, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc hiếm khi đề xuất duy trì sự ổn định cơ bản của giá trị tiền tệ và sức mua của đồng NDT. Vì vậy, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc đã lựa chọn lấy cơ chế tỷ giá hối đoái để bảo vệ sự ổn định của vật giá.

(còn tiếp)

Nguồn: www.ftchinese.com

TLTKĐB – 09/01/2023

Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XVI


Cung cấp thông tin rõ ràng và công khai về các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc. Trong mọi trường hợp Mỹ sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế nhằm vào Trung Quốc, dù là một biện pháp trừng phạt tài chính, hạn chế xuất khẩu hay biện pháp nào khác, thì một quan chức Mỹ phải cung cấp thông tin rõ ràng và công khai về mục tiêu và biện pháp khắc phục cho hành động này. Điều này sẽ đặc biệt quan trọng khi cơ sở pháp lý của biện pháp được gắn trực tiếp với vấn đề chính sách khác, như là Iran hay Triều Tiên, và gián tiếp với Trung Quốc với tư cách bên hỗ trợ.

Tiến hành đánh giá toàn chính phủ về các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc. Chính quyền cần tiến hành đánh giá toàn chính phủ về các biện pháp ép buộc kinh tế liên quan đến Trung Quốc 4 năm một lần để đánh giả tỷ lệ, tính thích đáng về mặt pháp lý, và những hủy bỏ hay thay đổi thích hợp đối với các biện pháp cho phù hợp với chính sách phát triển. Bản đánh giá này cần lưu ý các ảnh hưởng về kinh tế của các biện pháp ép buộc kinh tế và mức độ mà chúng hỗ trợ các mục tiêu chiến lược cốt lõi của Mỹ đối với Trung Quốc.

5/ Báo hiệu và lên kế hoạch hiệu quả cho việc leo thang

Ngoài việc xác định và đưa ra các mục tiêu chính sách rõ ràng liên quan đến các biện pháp ép buộc kinh tế cụ thể, các nhà hoạch định chính sách nên tập trung nhiều hơn vào các chiến lược để báo hiệu các mục tiêu đó cho Trung Quốc và các nước thứ ba. Tương tự, các nhà hoạch định chính sách nói chung nên báo hiệu các trường hợp theo đó Mỹ sẽ xem xét leo thang hoặc giảm leo thang các biện pháp ép buộc kinh tế cụ thể. Việc báo hiệu hiệu quả sẽ khuyến khích Trung Quốc đưa ra những nhượng bộ và kiềm chế các hành động mà sẽ làm gia tăng leo thang của Mỹ, và sẽ giảm khả năng Trung Quốc vô tình kích hoạt vòng xoáy leo thang bằng cách tự leo thang sau việc hiểu sai về các mục tiêu của một biện pháp ép buộc kinh tế cụ thể của Mỹ. Lên kế hoạch cho việc leo thang tiềm năng có nghĩa là đánh giá tỉ mỉ cách thức Trung Quốc có thể phản ứng với một biện pháp ép buộc kinh tế cụ thể của Mỹ, bao gồm cả việc xác định rõ Trung Quốc có hay không trả đũa và/hoặc leo thang để đáp trả và nếu có thì bằng cách nào, và lên kế hoạch cho các hành động phòng thủ chống lại các biện pháp ép buộc kinh tế của Trung Quốc. Việc báo hiệu hiệu quả cũng rất quan trọng để cho phép các đồng minh hiểu chính sách của Mỹ và xây dựng sự hỗ trợ của đồng minh cho các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ.

Phát triển các khái niệm chiến lược về can dự kinh tế với Trung Quốc. Một điều phối viên chính sách kinh tế mới đối với Trung Quốc ở Nhà Trắng nên thành lập một nhóm biệt phái từ các cơ quan chính phủ Mỹ khác nhau để xem xét và phát triển các khái niệm chiến lược liên quan đến ràng buộc kinh tế với Trung Quốc. Nhóm này nên là chuyên gia về cơ sở pháp lý và lịch sử chính sách kinh tế Mỹ liên quan tới Trung Quốc, và cũng nên là chuyên gia về lên kịch bản và mô hình, đề ra chiến lược tác chiến và các hoạt động quản lý khủng hoảng. Nhóm này nên xây dựng một bộ khung cho cạnh tranh kinh tế của Mỹ với Trung Quốc mà sẽ cung cấp các văn kiện vạch kế hoạch dài hạn, trong đó có Chiến lược an ninh quốc gia và Chiến lược quốc phòng, cũng như đặt kế hoạch chiến lược ngắn hạn. Nhóm này cũng nên đưa ra các khuyến nghị về cách thích ứng, trên cơ sở liên tục, các hoạt động phối hợp của Chính phủ Mỹ để liên kết các mục tiêu và báo hiệu cho Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế và cạnh tranh kinh tế.

Phối hợp thông tin về cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc. Điều phối viên chính sách kinh tế đối với Trung Quốc, bên cạnh công việc điều phối chính sách ngắn hạn trong liên ngành, nên phối hợp việc truyền đạt thông tin của các quan chức Chính phủ Mỹ liên quan đến cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc và sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế. Điều này có thể bao gồm tạo ra các đề tài bàn luận chung cho các quan chức Chính phủ Mỹ can dự với các đối tác ngoại giao nước ngoài và khu vực tư nhân. Trên thực tế, điều này sẽ giúp trang bị kiến thức cho nhiều quan chức Chính phủ Mỹ, những người trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc về vấn đề cạnh tranh kinh tế Mỹ – Trung và các công cụ ép buộc kinh tế trong mối quan hệ này. Điều đó cũng làm gia tăng tính nhất quán trong thông tin và một nền văn hóa hợp tác mới quanh việc báo hiệu trong lĩnh vực này.

6/ Củng cố các thể chế của Mỹ có trách nhiệm phát triển và triển khai các biện pháp ép buộc kinh tế

Chính phủ Mỹ cần khẩn trưởng đầu tư nguồn lực đáng kể vào bộ máy chính quyền và năng lực vận hành để kiểm soát và điều phối cạnh tranh kinh tế Mỹ – Trung trong tương lai. Điều này sẽ giúp hỗ trợ chính sách có hiểu biết, mạnh mẽ, đảm bảo tốt hơn sự liên kết chính sách với các mục tiêu, và củng cố văn hóa hợp tác và lên kế hoạch dài hạn được nêu trong các khuyến nghị trước đây. Về hoạt động cụ thể, Mỹ có thể triển khai các hoạt động huấn luyện mới và thiết lập các nguồn lực mới có tác động ngay lập tức và dài hạn.

Thực hiện một loạt bài huấn luyện đàm phán thường xuyên về chiến tranh kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc. Nhà Trắng nên phối hợp với các quan chức Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Ngoại giao, và Bộ Quốc phòng, cùng với USTR, các ủy ban quốc hội và các văn phòng quan trọng, một loạt các bài huấn luyện đàm phán thường xuyên hay các trò chơi chiến tranh tập trung vào các chủ đề về leo thang cạnh tranh kinh tế, hay chiến tranh kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc. Các cơ quan này nên có sự tham gia của các quản lý cấp cao và những viên chức cấp cao được bổ nhiệm vì nhu cầu chính trị trong các phiên này để gia tăng cơ hội học tập nhằm xem xét vấn đề quan trọng này về hiệu quả kinh tế và an ninh quốc gia. Kết quả của những hoạt động này nên được chia sẻ rộng rãi trong Chính phủ Mỹ, phổ biến tới nhiều nhân viên chuyên nghiệp chịu trách nhiệm về việc đưa ra các ý tưởng và các lựa chọn chính sách trong các cơ quan nhà nước và cơ quan pháp lý để sử dụng trong cuộc cạnh tranh chiến lược của Mỹ với Trung Quốc.

Thu thập và chia sẻ dữ liệu về sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc. Bộ Tài chính và Bộ Thương mại phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao và USTR nên thành các nhóm nghiên cứu chuyên biệt để xem xét dữ liệu và các nghiên cứu cụ thể về sự ép buộc và ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc. Những nguồn dữ liệu này nên được chia sẻ với Điều phối viên chính sách kinh tế đối với Trung Quốc tại Nhà Trắng và trong toàn bộ liên ngành. Dữ liệu và phân tích liên quan cũng nên được chia sẻ với Quốc hội Mỹ và các đối tác và đồng minh nước ngoài, nếu phù hợp.

7/ Tiếp tục hiện đại hóa bộ công cụ

3 năm qua, Mỹ đã thực hiện các bước đi quan trọng để hiện đại hóa bộ công cụ các biện pháp ép buộc kinh tế mà có thể được triển khai trong cạnh tranh với Trung Quốc. Những bước đi này bao gồm mở rộng chế độ kiểm soát xuất khẩu của Mỹ, mở rộng đánh giá CFIUS đối với đầu tư nước ngoài ở Mỹ, và bắt đầu giới hạn nhập khẩu các sản phẩm nhất định của Trung Quốc mà đe dọa tới an ninh quốc gia. Tất cả các biện pháp này đều được đưa thêm vào thuế quan mở rộng mà Trump đã áp đặt đối với hơn 360 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc. Mỹ phải tiếp tục hiện đại hóa bộ công cụ ép buộc kinh tế của mình như một phần của cuộc cạnh tranh đang quyết liệt hơn với Trung Quốc, điều chỉnh các công cụ hiện nay và cũng như tạo ra các quyền hạn mới.

Mở rộng các biện pháp hạn chế đối với mục đích sử dụng cuối cụ thể các thành phẩm của Mỹ, cũng như “những người dùng cuối” nhất định. Mỹ nên mở rộng chế độ kiểm soát xuất khẩu để cấm việc bán các sản phẩm của Mỹ cho các mục đích sử dụng cuối mới có lựa chọn ở Trung Quốc mà thách thức lợi ích và giá trị Mỹ, như giám sát toàn bộ người dân và các vi phạm nhân quyền nghiêm trọng ở Trung Quốc. Việc mở rộng như vậy sẽ đòi hỏi sự can dự đáng kể với khu vực tư nhân để giải quyết các thách thức về thực hiện để giảm thiểu chi phí ngoài ý muốn, bao gồm cả đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ của Mỹ. Các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Mỹ hiện được thiết kế chủ yếu để hạn chế việc bán các sản phẩm cụ thể, hoặc cho Trung Quốc với tư cách một quốc gia (ví dụ, hạn chế phần lớn xuất khẩu vũ khí sang Trung Quốc) hoặc cho những “người sử dụng cuối” cụ thể ở Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ cũng có một số hạn chế nhất định đối với “mục đích sử dụng cuối”, ví dụ như các công ty của Mỹ không thể xuất khẩu hàng hóa cho được sử dụng cuối ở Trung Quốc cho mục đích quân sự, ngay cả nếu sản phẩm vốn không dành cho mục đích quân sự và đang được xuất khẩu cho những người dùng cuối dân sự.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020

Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XV


2/ Cải thiện các đánh giá về các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ và các điểm dễ bị tổn thương của Mỹ trước sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc

Chính phủ Mỹ vẫn chưa nghiên cứu một cách hệ thống các điểm dễ bị tổn thương của Mỹ trước sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc hay phân tích chặt chẽ những tác động và phí tổn của các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc. Với khả năng Trung Quốc sẽ khai thác các điểm dễ bị tổn thương và khả năng các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ có những khoản phí tổn phát sinh và những hậu quả khó lường, Mỹ sẽ cần một quy trình rõ ràng và chặt chẽ hơn để đánh giá sự ép buộc kinh tế trong quan hệ Mỹ-Trung.

Tạo một quy trình liên ngành để đảm bảo các chuỗi cung ứng quan trọng. Nhà Trắng nên đứng đầu một quy trình liên ngành, bao gồm Tài chính, Thương mại, Ngoại giao, Quốc phòng, Năng lượng, An ninh nội địa và Cộng đồng tình báo, để xác định một cách hệ thống những rủi ro mà Trung Quốc gây ra cho chuỗi cung ứng của Mỹ. Các nỗ lực hiện tại nhằm hạn chế hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc để đảm bảo các chuỗi cung ứng là thất thường và tập trung vào các vấn đề riêng lẻ mà thu hút sự chú ý của công chúng, như giao thông công cộng. Mỹ cần xem xét toàn diện những công nghệ và hàng hóa mà cơ sở hạ tầng dân sự của Mỹ dựa vào rất nhiều hay độc quyền từ Trung Quốc trong bối cảnh có rủi ro an ninh quốc gia, và hành động để đảm bảo các chuỗi cung ứng này, và Bộ Quốc phòng cũng cần nghiên cứu một cách hệ thống các chuỗi cung ứng quốc phòng để xác định các điểm dễ bị tổn thương tiềm tàng.

Thành lập một văn phòng trong Bộ Thương mại để tiến hành phân tích một cách hệ thống các biện pháp ép buộc kinh tế. Quốc hội nên chuẩn chi và phê chuẩn ngân sách cho việc thành lập một phòng phân tích trong Bộ Thương mại, thông qua hợp tác chặt chẽ với các đối tác ở các cơ quan khác, để phân tích kinh tế một cách hệ thống và chặt chẽ về các phí tổn của các biện pháp ép buộc kinh tế, bao gồm các biện pháp trừng phạt, kiểm soát thương mại và một số hạn chế đầu tư. Văn phòng này nên đánh giá chi phí đối với các công ty Mỹ và hiệu quả kinh tế chung, và nên tìm kiếm sự tham vấn chính  thức từ Bộ Ngoại giao, cộng động tình báo và các cơ quan khác, nếu thấy phù hợp. Văn phòng này nên đưa ra các phân tích ngắn và dài hạn mà được chuyển cho các nhà lãnh đạo an ninh quốc gia trong Chính phủ Mỹ và cho các ủy ban tư pháp trong Quốc hội.

Thành lập một cơ quan tư vấn bên ngoài về các tác động thương mại của các biện pháp ép buộc kinh tế. Bộ Tài chính Mỹ, Văn phòng đại diện thương mại Mỹ (USTR) và Bộ Thương mại nên cùng thiết lập một cơ quan tư vấn bên ngoài để thu thập phản hồi và đánh giá các tác động kinh tế và thương mại của các biện pháp ép buộc kinh tế đối với các công ty và kinh tế Mỹ. Thành viên của các cơ quan này phải được lựa chọn từ một bộ phận tiêu biểu rộng rãi các ngành công nghiệp Mỹ và được bổ nhiệm tạm thời, có thể gia hạn. Một ban chỉ đạo các thành viên nên hỗ trợ việc thành lập và giám sát nghiên cứu bởi nhóm cố vấn, mà nên được chia sẻ trong toàn chính phủ Mỹ và với các ủy ban tư pháp của Quốc hội nếu thấy phù hợp.

3/ Duy trì đòn bẩy dài hạn

Trung Quốc đã phản ứng với các biện pháp ép buộc kinh tế đang gia tăng của Mỹ bằng việc mở rộng các nỗ lực tự bảo vệ mình khỏi đòn bẩy kinh tế của Mỹ. Thí dụ, phản ứng với các hạn chế xuất khẩu của Mỹ trong 2 năm qua đối với ZTE và Huawei, Trung Quốc đã thúc đẩy nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào chất bán dẫn của Mỹ và các nhà cung cấp IT khác. Với quy mô và phạm vi kinh tế toàn cầu của Trung Quốc, Mỹ không thể đơn giản cô lập Trung Quốc khỏi nền kinh tế toàn cầu. Mỹ sẽ lãng phí thời gian và nguồn lực vòa việc vô ích này và làm xói mòn sự tập trung chiến lược hơn vào việc hạn chế các hành động của Trung Quốc trong các lĩnh vực cốt lõi hẹp và hỗ trợ các đấu trường kinh tế hoặc công nghệ, nơi Mỹ duy trì đòn bẩy lâu dài. Như một nguyên tắc chính sách, Mỹ nên tìm cách duy trì đòn bẩy kinh tế đối với Trung Quốc trong dài hạn để có thể thúc đẩy lợi ích quốc gia cốt lõi của Mỹ nói chung, và để sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế để thực hiện một cách cụ thể. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ nên cân bằng các lợi ích ngắn hạn của các biện pháp ép buộc kinh tế ngay lập tức với nguy cơ rằng chúng sẽ giảm bớt đòn bẩy của Mỹ đối với Trung Quốc trong dài hạn, trong khi đó cũng thực hiện các bước khẳng định để gia tăng đòn bẩy của Mỹ đối với Trung Quốc.

Thúc đẩy quyền tiếp cận thị trường lớn hơn cho các công ty của Mỹ trong thỏa thuận thương mại giai đoạn 2. Trong quá trình đàm phán song phương, bao gồm cả thỏa thuận thương mại giai đoạn 2 và trong các cuộc thảo luận bên ngoài lộ trình này, Bộ Tài chính và Bộ Thương mại Mỹ cũng như USTR nên thúc đẩy các đối tác Trung Quốc cho phép các công ty Mỹ có quyền tiếp cận thị trường lớn hơn, đặc biệt là các công ty tài chính. Mỹ nên làm việc với các nước cùng chí hướng để thiết lập các tiêu chuẩn cao cho các dịch vụ tài chính mà theo đó các công ty dịch vụ tài chính Trung Quốc sẽ phải tuân theo. Mỹ cũng nên làm việc cùng với các nước mà Trung Quốc đang nhắm tới để triển khai, các ứng dụng thanh toán trong nước và nước ngoài, trong đó có cả kiều hối, để ủng hộ cạnh tranh, minh bạch, ổn định và liêm chính trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Điều này có thể sẽ giúp, cả trực tiếp và gián tiếp, duy trì đòn bẩy tài chính của Mỹ đối với Trung Quốc trong dài hạn hơn.

Nâng cao và tăng cường các cuộc điều tra và hành động thực thi pháp luật. Bên cạnh việc thúc đẩy các cuộc điều tra mới và quan trọng trong lĩnh vực công nghệ của Mỹ, các quan chức tại Bộ Tư pháp Mỹ nên tìm cách giúp duy trì và mở rộng vị thế thống trị của Mỹ ở nhiều đấu trường công nghệ bằng việc nâng cao và tăng cường các cuộc điều tra và hoạt động thực thi pháp luật để trấn áp hành vi trộm cắp và tài sản trí tuệ và gián điệp thương mại của Trung Quốc. Nơi mối đe dọa cụ thể tồn tại trong một ngành công nghiệp nhạy cảm hoặc liên quan tới một công nghệ cụ thể, các quan chức Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao và Thương mại có thể xem xét các hạn chế về visa đặc biệt, hay các yêu cầu nâng cao đối với việc thẩm định chuyên sâu, hay các biện pháp hạn chế, liên quan tới thương mại, xuất khẩu, hay tái xuất khẩu, đối với các công ty Trung Quốc mà có thể liên kết với trộm cắp hoặc gián điệp.

4/ Nhận dạng và truyền đạt các mục tiêu rõ ràng

Tương tự như việc Mỹ chưa bao giờ thực hiện các hoạt động quân sự nhằm trực tiếp vào Trung Quốc mà không có mục tiêu rõ ràng, Mỹ không nên thực hiện các biện phép ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc mà không có các mục tiêu chính sách rõ ràng nào. Tuy nhiên, trong các trường hợp chính sách gần đây, điều này thường xuyên xảy ra. Do vậy, trong hai năm qua, sự thiếu rõ ràng trong các mục tiêu của các biện pháp ép buộc kinh tế đặc biệt, thì Trung Quốc ít có động cơ hơn đưa ra những nhượng bộ để được giảm các biện pháp ép buộc và một động cơ lớn hơn tương đối để tìm cách tránh né chúng. Thiếu rõ ràng trong các mục tiêu cũng làm tăng khả năng Trung Quốc leo thang. Nếu Trung Quốc coi một biện pháp ép buộc kinh tế nào đó của Mỹ là hung hăng, thì Trung Quốc nhiều khả năng hơn tìm cách trả đũa bằng leo thang thay vì tìm cách giải quyết bằng thương lượng. Thiếu các mục tiêu rõ ràng, và những thách thức trong việc truyền đạt thông tin về các mục tiêu, cũng đã ảnh hưởng tới nhận thức và chính sách của các nước thứ ba đối với Mỹ. Trong khi các nước Đông Nam Á hưởng lợi chủ yếu từ các tác động của cuộc cạnh tranh thương mại Mỹ-Trung, thì nhận thức về triển vọng của Mỹ lại giảm trong 2 năm qua.

Cung cấp một phát biểu chính sách công chính thức về cạnh tranh kinh tế với Trung Quốc. Một quan chức cấp cao Chính phủ Mỹ – nhân viên Nhà Trắng hay một thư ký nội các – nên có một phát biểu chính sách công, chính thức về cạnh tranh kinh tế và quan hệ song phương với Trung Quốc và đưa ra một chỉ thị chính sách tổng thống chính thức về cạnh tranh kinh tế Mỹ-Trung đặt ra cơ sở hợp lý về chính sách và các mục tiêu mà sẽ chỉ dẫn Mỹ trong việc sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế. Cách giải quyết này cần làm rõ rằng Mỹ sẽ sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế để đạt được các mục tiêu chính sách và sẽ sửa đổi hay loại bỏ các biện pháp nếu Trung Quốc điều chỉnh chính sách của nước này để phù hợp với tiêu chuẩn rõ ràng. Chính quyền có thể và nên cập nhật lập trường chính sách này với các bài phát biểu hằng năm hoặc nửa năm một lần để phù hợp với môi trường kinh tế năng động và mối quan hệ song phương.

Bổ nhiệm một điều phối viên chính sách kinh tế đối với các vấn đề Trung Quốc tại Nhà Trắng. Nhà Trắng nên đặt ra một Điều phối viên chính sách kinh tế đối với các vấn đề Trung Quốc để giám sát các chính sách kinh tế khác nhau áp dụng cho Trung Quốc, cho dù là các biện pháp ép buộc hay các biện pháp nhằm hỗ trợ tăng trưởng, phát triển và cùng can dự kinh tế. Điều phối viên này nên giám sát một quá trình liên ngành để đánh giá và giảm mức độ gây xung đột của các sáng kiến kinh tế liên quan tới Trung Quốc.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020

Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XIV


Các điểm dễ bị tổn thương chính của Trung Quốc trước Mỹ

Việc đẩy mạnh các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ trong 2 năm qua đã làm nổi bật một số điểm dễ bị tổn thương của Trung Quốc, trong đó bao gồm chuỗi cung ứng công nghệ cao. Công ty Fujian Jinhua Integrated Circuit nằm trong Danh sách đen của Mỹ vốn phụ thuộc vào thiết bị sản xuất vi mạch của Mỹ và đồng minh, dường như tạm ngừng phần lớn các hoạt động của công ty. Nhưng như việc Huawei nằm trong Danh sách đen của Mỹ cho thấy, các công ty lớn Trung Quốc đang thích nghi để giảm thiểu các điểm dễ bị tổn thương trong chuỗi cung ứng của họ. Trung Quốc vẫn tương đối phụ thuộc vào Mỹ nói chung như một thị trường xuất khẩu, mặc dù số lượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc đến Mỹ trong lượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc trên toàn cầu giảm trong vài năm qua.

Nhiều công ty Trung Quốc, đặc biệt là các công ty đa quốc gia, vẫn phụ thuộc vào quyền tiếp cận hệ thống tài chính của Mỹ vì thực tế rằng nhiều hàng xuất khẩu của họ được định giá bằng USD. Tương tự, nhiều ngân hàng lớn của Trung Quốc vẫn phụ thuộc vào quyền tiếp cận hệ thống tài chính toàn cầu để phục vụ khách hàng Trung Quốc ở nhiều quốc gia và tham gia các giao dịch xuyên biên giới. Các nhà đầu tư Trung Quốc cũng phụ thuộc vào khả năng huy động vốn thông qua niêm yếu và giao dịch tại thị trường Mỹ. Tuy nhiên, sẽ có chi phí phát sinh đáng kể đối với thị trường toàn cầu nếu các quan chức Mỹ đưa một ngân hàng hoặc một công ty Trung Quốc lớn và có liên kết toàn cầu vào danh sách trừng phạt của Mỹ, hay nói cách khác là cấm các nhà đầu tư Trung Quốc tham gia các thị trường vốn của Mỹ.

Liên quan tới chính sách công, và để phục vụ an ninh quốc gia Mỹ, những gì các nhà hoạch định chính sách Mỹ hiện cần đến là một bộ nguyên tắc về cách thức áp dụng các biện pháp ép buộc kinh tế trong cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung rộng lớn hơn. Họ cũng cần sự hướng dẫn để hiểu Mỹ và các nước đồng minh dễ tổn thương thế nào trước sự ép buộc kinh tế Trung Quốc trong các hoàn cảnh khác nhau, và các điểm chuẩn để hiểu việc thực thi và tác động của các biện pháp ép buộc kinh tế trong mối quan hệ song phương. Về vấn đề thực hiện, Chính phủ Mỹ cũng cần tổ chức các hoạt động nội bộ để chia sẻ thông tin, lên kế hoạch kịch bản và báo hiệu rõ ràng cho Trung Quốc và các nước khác. Ngoài ra cần phải thiết lập hoặc điều chỉnh các cấu trúc liên minh quốc tế để thích nghi tốt hơn hoạt động hợp tác giữa Mỹ và các đối tác nước ngoài khi nói đến việc sử dụng hoặc phòng thủ chống lại sự ép buộc kinh tế. Mặc dù sự phát triển toàn diện của các khái niệm chiến lược và hướng dẫn như vậy nằm ngoài phạm vi của bản báo cáo này, nhưng các nguyên tắc và khuyến nghị sơ bộ đã được nêu ở dưới đây.

VI/ Các khuyến nghị chính sách

Những luận điểm chính

+ Các khoản đầu tư mạnh trong nước của Mỹ là cần thiết để duy trì lợi thế cạnh tranh của Mỹ so với Trung Quốc. Hơn nữa, các biện pháp ép buộc kinh tế là một phần chủ chốt của bộ công cụ của Mỹ để cạnh tranh với Trung Quốc.

+ Mỹ cần một cách tiếp cận có hệ thống hơn để triển khai các biện pháp ép buộc kinh tế chống lại Trung Quốc mà được dẫn dắt bởi những đánh giá tốt hơn về những điểm dễ bị tổn thương của Mỹ và về những tác động, có một sự tập trung rõ ràng và báo hiệu hiệu quả hơn, tích hợp tốt hơn các biện pháp ép buộc kinh tế khác nhau, và liên tục cập nhật bộ công cụ.

+ Mỹ cần tập trung nhiều hơn vào việc đảm bảo sự hỗ trợ của các đồng minh cho các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc.

* * *

Trong cuộc cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc, và khi các biện pháp ép buộc kinh tế trở nên ngày càng quan trọng trong mối quan hệ Mỹ-Trung, thì các nhà hoạch định chính sách trong cơ quan hành pháp và trong Quốc hội Mỹ cần một bộ nguyên tắc rõ ràng để sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc.

Tuân thủ một bộ nguyên tắc sẽ tối đa hóa lợi thế mà các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc sẽ đạt được các mục tiêu chính sách được dự định trong khi giảm thiểu các phí tổn phát sinh không mong muốn. Phần này phác thảo một loạt các nguyên tắc chủ chốt và các khuyến nghị chính sách có liên quan. Một vài trong số đó sẽ giúp Mỹ hiểu hơn về các công cụ ép buộc kinh tế của mình khi cân nhắc việc áp dụng chúng với Trung Quốc, và để tổ chức hệ thống hóa cách sử dụng. Các nguyên tắc và các khuyến nghị chínhs ách khác sẽ hữu ích cho Mỹ, các đồng minh và các đối tác, gia tăng khả năng chống đỡ trước sự ép buộc kinh tế từ Trung Quốc ở cấp độ quốc gia và địa phương.

Những khuyến nghị để tăng cường sự cạnh tranh của Mỹ và cải thiện cách tiếp cận chính sách đối với sự ép buộc kinh tế

Chính phủ và Quốc hội Mỹ trước hết phải nỗ lực tăng cường sự cạnh tranh của Mỹ, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và công nghệ, để cạnh tranh hiệu quả hơn với Trung Quốc và sử dụng sự ép buộc kinh tế trong bối cảnh cạnh tranh này. Mỹ phải tập trung mạnh mẽ vào việc phát triển và duy trì một nền kinh tế hùng mạnh mà có thể bảo vệ và tận dụng được việc sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế. Việc để cho động cơ kinh tế này không hoạt động hay ngừng lại sẽ làm suy yếu mức độ mà Mỹ có thể sử dụng sự ép buộc kinh tế và khiến nước này dễ bị tổn thương hơn trước sự ép buộc kinh tế do các nước khác thực hiện. Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách Mỹ phải cải thiện việc thực thi chính sách và thông điệp để truyền tải các hình thức rõ ràng và hiệu quả của sự ép buộc kinh tế trong quan hệ song phương.

1/ Đầu tư vào việc duy trì lợi thế cạnh tranh của Mỹ

Các biện pháp ép buộc kinh tế có thể hạn chế Trung Quốc tiếp cận các công nghệ cụ thể của Mỹ và giảm sự phụ thuộc của Mỹ vào các chuỗi cung ứng của Trung Quốc trong các công nghệ chủ chốt, như thiết bị mạng viễn thông điện thoại di động, mà Trung Quốc có thể khai thác để ăn cắp thông tin. Nhưng trong một kỷ nguyên cạnh tranh nước lớn với một nền kinh tế gần như ngang nhau, Mỹ phải đầu tư vào việc duy trì lợi thế cạnh tranh và không thể chỉ đơn giản tập trung vào việc giới hạn khả năng của Trung Quốc trong việc mua hay đánh cắp công nghệ từ Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Trung Quốc đang cạnh tranh với Mỹ về các công nghệ như viễn thông và trí tuệ nhân tạo và sẽ vượt qua Mỹ ở những lĩnh vực này trong trung và dài hạn nếu Mỹ không đầu tư vào việc duy trì khả năng cạnh tranh của mình. Mặc dù việc chi tiêu liên bang cho nghiên cứu và phát triển (R&D) như một phần của nền kinh tế gần đây đã được gia tăng chút ít sau khi bị giảm dần giữa những năm đầu những năm 2000 và năm 2016, nhánh hành pháp trong những năm gần đây đã đề xuất cắt giảm chi tiêu R&D, với việc Quốc hội cuối cùng đưa ra sự gia tăng khiêm tốn.

Tăng chi tiêu R&D liên bang. Nhánh hành pháp nên tăng khoản chi tiêu liên bang cho R&D lên tới 1,2% GDP, phù hợp với các mức chi tiêu trong những năm 70 của thế kỷ 20, để duy trì lợi thế cạnh tranh của Mỹ đối với Trung Quốc trong dài hạn. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ cũng nên tìm cách tận dụng và khuyến khích đầu tư tư nhân để mở rộng công nghệ đổi mới ở Mỹ, một lợi thế quan trọng khác của Mỹ trong cuộc cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc.

Đầu tư vào giáo dục lực lượng lao động tương lai của Mỹ. Nhánh hành pháp nên triển khai một sáng kiến đào tạo giáo dục và huấn luyện kỹ năng mới và quan trọng để hỗ trợ phát triển lực lượng lao động Mỹ trong tương lai. Điều này phải bao gồm đầu tư vào giáo dục STEM ở mọi cấp độ. Hội đồng Khoa học và công nghệ quốc gia nên làm việc với Quốc hội để phát triển một kế hoạch thực hiện những khuyến nghị trong bản báo cáo của mình, “Vạch ra một tiến trình tới thành công: Chiến lược của Mỹ về giáo dục STEM”. Ngoài ra, đối với các chương trình như Học bổng Boren cho sinh viên và người đi làm, Học bổng Khoa học và kỹ thuật quốc phòng cho người đi làm, Chương trình học bổng ngôn ngữ quan trọng, và Chương trình nghiên cứu ngôn ngữ và khu vực nước ngoài, các cơ quan tài trợ nên thăm dò các lựa chọn như đem lại quy chế ưu tiên cho ngành dân chính mà sử dụng lao động thời vụ là các cựu chiến binh trong chương trình này, chủ động nhận những người từng tham gia chương trình vào làm cố vấn chính phủ và cấp cho những người hoàn thành những chương trình này quyền miễn trừ an ninh. Chính phủ Mỹ cũng nên trang bị tốt hơn cho các nhà quản lý tuyển dụng trong chính phủ để hiểu cách thức tuyển dụng những ứng cử viên đã hoàn thành các chương trình này.

Điều chỉnh chính sách nhập cư hiện có. Chính quyền cũng nên điều chỉnh cho thích ứng chính sách nhập cư để cho phép nhiều hơn các cá nhân có kỹ năng cao được nhập cư và đưa sinh viên có triển vọng hơn tiếp tục học ở nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ bằng việc loại bỏ mức trần cấp visa H-1B. Kể từ năm 2005, visa H-1B đã bị giới hạn ở mức 85.000 người mỗi năm, không tương xứng với 199.000 người nộp đơn xin visa trong năm 2018. Tương tự, chính quyền không nên bỏ chương trình thực tập không bắt buộc (OPT), mà cho phép sinh viên STEM nhận visa F-1 để làm việc đến 3 năm sau khi tốt nghiệp ở Mỹ.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020

Vũ khí mới cho cạnh tranh Mỹ-Trung: Các biện pháp ép buộc kinh tế – Phần XIII


V/ Vai trò của chính sách ép buộc kinh tế trong cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung

Những luận điểm chính

+ Các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc đang và sẽ nhất thiết phải khác các biện pháp ép buộc kinh tế nhằm vào các nền kinh tế nhỏ hơn.

+ Cả Mỹ và Trung Quốc đều có khả năng gây tổn hại cho nhau bằng các biện pháp ép buộc kinh tế. Mỹ cần hiểu rõ hơn về các điểm yếu của mình.

* * *

Như đã được mô tả trong bản báo cáo này, cả Mỹ và Trung Quốc đang mở rộng các công cụ ép buộc kinh tế của mình, và sự ép buộc kinh tế trở thành điểm chung trong mối quan hệ Mỹ-Trung.

Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo chính sách Mỹ vẫn chưa phát triển cách tiếp cận chiến lược, toàn diện để vận dụng các biện pháp ép buộc kinh tế chống lại Trung Quốc. Cho đến nay Mỹ đã thất bại trong việc phát triển một chính sách mạnh mẽ để phối hợp với các nước đồng minh, kể cả bằng việc giúp họ củng cố những lợi thế kinh tế và khả năng cạnh tranh của họ. Chắc chắn, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã thể hiện sự sáng tạo và sáng kiến ở mức độ cao trong việc thực hiện sự ép buộc kinh tế chống lại cách chính sách thương mại không công bằng và những thách thức của Trung Quốc đối với các lợi ích chiến lược của Mỹ. Tuy nhiên, ban lãnh đạo chính sách của Mỹ vẫn bị tụt lại phía sau trong việc vạch ra một học thuyết hoặc những điều khoản sử dụng cho những công cụ ép buộc kinh tế. Khoảng cách này sẽ khiến việc triển khai các biện pháp ép buộc trở nên không hiệu quả, gây ra những phản ứng không được dự tính của Trung Quốc, vô tình gây hại cho các đồng minh của Mỹ và cuối cùng làm giảm hiệu quả của sự ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc.

Nhìn về tương lai, việc Mỹ sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế đối với Trung Quốc sẽ khác hẳn việc Mỹ sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế đối với các mục tiêu gần đây khác như Iran, Venezuela và thậm chí cả Nga, Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, và là một nước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế Mỹ, có sức chống đỡ tốt hơn các nước khác trước một số kiểu biện pháp ép buộc của Mỹ và có khả năng trả đũa mạnh mẽ các lợi ích của Mỹ. Ngoài ra, các biện pháp ép buộc kinh tế của Mỹ được sử dụng để chống lại Trung Quốc có nhiều khả năng khiến Mỹ phải được sử dụng để chống lại Trung Quốc có nhiều khả năng khiến Mỹ phải chịu những phí tổn phát sinh ngoài ý muốn hơn những gì các biện pháp ép buộc kinh tế mà Mỹ sử dụng đối với các mục tiêu ít quan trọng hơn về kinh tế. Các biện pháp này cũng có thể chỉ mang lại lợi ích chính trị một số trường hợp, hạn chế tính hữu dụng của các biện pháp này để buộc đối tượng phải thay đổi chính sách và thúc đẩy an ninh của Mỹ.

Hiện tại, nhiều nhà quan sát và phân tích về sự ép buộc kinh tế gặp khó khăn trong việc đánh giá mức độ mạnh mẽ của các biện pháp này đối với cả vấn đề kinh tế và chính trị khi được thực hiện. Mặc dù câu trả lời đầy đủ và dựa trên kinh nghiệm cho câu hỏi này sẽ khó có thể được đưa ra trong một môi trường đầy đủ năng động và tiến triển, nhưng ít nhất người ta có thể rút rra một số kết luận sơ bộ về khả năng dễ bị tổn thương do sự ép buộc kinh tế. Những phát hiện như vậy sẽ hữu ích đối với các nhà hoạch định chính sách Mỹ, thí dụ như khi họ xem xét liệu có sử dụng và sử dụng như thế nào các công cụ ép buộc kinh tế cũng như đánh giá ra sao tầm quan trọng của các biện pháp leo thang. Ngoài ra, những phát hiện như vậy có thể giúp Mỹ và các nước khác suy ngẫm về những thay đổi chính sách để gia tăng sức chống đỡ khi đối mặt với sự ép buộc kinh tế.

Những khả năng dễ bị tổn thương của Mỹ và Trung Quốc

Là 2 nền kinh tế lớn nhất trên thế giới với thương mại hai chiều hơn 700 tỷ USD/năm, cả Mỹ và Trung Quốc đều có những khả năng dễ bị tổn thương trước sự ép buộc kinh tế của nhau. Một đánh giá toàn diện về các điểm dễ bị tổn thương nằm ngoài phạm vi của bản báo cáo này, và một trong những khuyến nghị quan trọng của báo cáo là Mỹ nên thực hiện một nghiên cứu có tính hệ thống về các điểm dễ bị tổn thương của Mỹ và Trung Quốc. Để đánh giá các điểm dễ bị tổn thương của Mỹ trước sự ép buộc kinh tế của Trung Quốc, Mỹ cần xem xét các điểm dễ bị tổn thương trong kinh tế vĩ mô, trong các lĩnh vực quan trọng cụ thể, và các dòng chảy thương mại và tài chính. Cuối cùng các điểm dễ bị tổn thương của Mỹ sẽ phụ thuộc vào khả năng Trung Quốc hạn chế kinh doanh theo những cách gây thiệt hại cho Mỹ lớn hơn cho Trung Quốc. Tương tự, các điểm dễ bị tổn thương của Trung Quốc trước sự ép buộc của Mỹ cuối cùng phụ thuộc vào khả năng Mỹ áp đặt các biện pháp gây phí tổn phát sinh ở mức hạn chế và có thể chấp nhận.

Các điểm dễ bị tổn thương chính của Mỹ trước Trung Quốc

Trong lịch sử Trung Quốc đã thực hiện sự ép buộc kinh tế bằng việc hạn chế tiếp cận thị trường nội địa rộng lớn của họ. Mỹ xuất khẩu hơn 150 tỷ USD mỗi năm sang Trung Quốc. Mặc dù tổng giá trị xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc về cơ bản chưa đến 1% GDP cảu Mỹ, việc xuất khẩu sang Trung Quốc đặc biệt quan trọng đối với một số sản phẩm. Trong cuộc cạnh tranh thương mại Mỹ – Trung, Trung Quốc đã mua hơn 55% lượng đậu tương xuất khẩu của Mỹ. bản đánh giá điểm dễ bị tổn thương của Mỹ cần xem xét cẩn thận các mặt hàng xuất khẩu quan trọng để xác định các lĩnh vực dễ bị tổn thương nhất, cả về sự phụ thuộc kinh tế không công bằng vào Trung Quốc, và cũng như về việc liệu áp lực của Trung Quốc lên một lĩnh vực cụ thể có thể gây ra ảnh hưởng chính trị không đáng có đối với các nhóm cử tri trong Chính phủ Mỹ.

Điều quan trọng không kém là một sự hiểu biết sâu sắc về tầm quan trọng của thị trường Trung Quốc đối với các ngành công nghiệp chủ chốt của Mỹ mà đang phụ thuộc vào Trung Quốc thậm chí nếu họ không xuất khẩu nhiều sản phẩm sang Trung Quốc, thí dụ, vì họ sản xuất sản phẩm ở Trung Quốc hay ở các nước thứ ba. Chẳng hạn, Trung Quốc chiếm 34% thị trường bán dẫn toàn cầu. Nước này chiếm tỷ trọng thậm chí lớn hơn trong doanh thu của một số công ty vi mạch (chip) của Mỹ, mặc dù nhiều vi mạch do các công ty Mỹ sản xuất được chế tạo ở ngoài nước Mỹ. Nhiều công ty sản phẩm tiêu dùng của Mỹ, như chuỗi nhà hàng và các công ty may mặc, cũng phụ thuộc tương đối vào thị trường Trung Quốc mặc dù hoạt động kinh doanh của họ ở đó không xuất hiện trong các bản thống kê xuất khẩu của Mỹ.

Mỹ cũng đối mặt với khả năng dễ bị tổn thương tiềm tàng từ sự thống trị của Trung Quốc trong việc cung cấp các mặt hàng cụ thể mà Mỹ sẽ gặp khó khăn khi phải gấp rút đi tìm hàng từ nơi khác. Thí dụ, Lầu Năm Góc đã khuyến khích khai thác các mỏ đất hiếm ở Australia để giảm sự phụ thuộc vào các loại đất hiếm ở Trung Quốc. Như đã được nhắc tới trước đó, Bộ Nội vụ Mỹ gần đây đã chọn cấm sử dụng đội máy bay không người lái mà chủ yếu do Trung Quốc sản xuất, thay vì đơn giản là mua các sản phẩm thay thế không phải của Trung Quốc vì rất ít các nhà cung cấp sẵn có không phải là Trung Quốc.

Mỹ dường như ít bị tổn thương hơn trước sự ép buộc tài chính của Trung Quốc vì sức mạnh vốn có của Mỹ và thực tế chi phí phát sinh đối Trung Quốc trong việc tham gia ép buộc tài chính có thể cao. Thí dụ, Trung Quốc dường như không thể cố ép buộc Mỹ bằng việc bán hạ giá số lượng lớn trái phiếu Chính phủ Mỹ mà Trung Quốc sở hữu vì Mỹ có thể sẽ can thiệp thị trường để ổn định nó. Hơn nữa, nếu Mỹ không ổn định được thị trường, thì chi phí phát sinh đối với Trung Quốc, một sự sụt giảm mạnh mẽ giá trị của các trái phiếu còn lại của họ, sẽ cao. Tuy nhiên, một nghiên cứu về điểm dễ bị tổn thương nên xem xét liệu có những thị trường tài chính cụ thể mà Mỹ có thể nhằm vào các điểm dễ bị tổn thương hay không.

(còn tiếp)

Nguồn: Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS)

CĐ số 7-2020

Cuộc đối đầu bất khả kháng: Hoa Kỳ, Trung Quốc và bi kịch của chính trị giữa các cường quốc – Phần cuối


Liên Xô không những nghèo hơn Hoa Kỳ; mà trong Chiến tranh Lạnh, vẫn đang phải phục hồi sau sự tàn phá khủng khiếp của Đức Quốc xã. Trong Thế chiến thứ Hai, Liên Xô đã mất 24 triệu dân, chưa kể hơn 70.000 thị trấn và làng mạc, 32.000 công xưởng và 40.000 dặm đường ray. Họ không có lợi để đối đầu với Hoa Kỳ. Ngược lại, Trung Quốc đã tham chiến lần cuối vào năm 1979 (tấn công biên giới Việt Nam) và trong những thập kỷ sau đó đã trở thành một đầu tàu kinh tế.

Liên Xô còn vướng vào rào cản khác mà Trung Quốc không gặp phải: đó là các đồng minh phiền hà. Trong suốt cuộc Chiến tranh Lạnh, một số lượng lớn quân đội Liên Xô vẫn duy trì hiện diện ở Đông Âu và tham gia sâu vào nền chính trị của hầu hết mọi quốc gia trong khu vực đó. Họ phải đối đầu với các cuộc nổi dậy ở Đông Đức, Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc. Trong khi đó, Albania, Romania và Nam Tư thường xuyên thách thức các chính sách an ninh và kinh tế của Moscow. Liên Xô cũng phải bận rộn với Trung Quốc, nước này đã đổi phe giữa chừng trong Chiến tranh Lạnh. Những đồng minh này giống con chim hải âu quanh cổ Moscow khiến các nhà lãnh đạo Liên Xô bị phân tán sự chú ý khỏi đối thủ chính của họ: Hoa Kỳ. Trung Quốc hiện nay có ít đồng minh, chẳng hạn như Bắc Triều Tiên nhưng quan hệ đồng minh còn lạnh nhạt hơn so với quan hệ Liên Xô đối với họ. Nói tóm lại, Bắc Kinh có khả năng linh hoạt hơn nhiều khi vươn ra bên ngoài khu vực.

Còn về vấn đề hệ tư tưởng? Giống như Liên Xô, trên danh nghĩa Trung Quốc do chính phủ cộng sản lãnh đạo. Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh từng sai lầm khi coi Moscow là một hiểm họa cộng sản, quyết tâm truyền bá hệ tư tưởng xấu trên toàn cầu, và cũng sẽ là một sai lầm khi nhận định Trung Quốc là một hiểm họa ý thức hệ ngày nay. Chính sách đối ngoại của Liên Xô bị chi phối bởi tư duy cộng sản; Joseph Stalin là một người theo chủ nghĩa hiện thực cứng rắn, giống như những người kế nhiệm ông. Trung Quốc đương đại ít chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản hơn, diễn giải rõ nhất thì đó là một nhà nước độc tài kèm theo chủ nghĩa tư bản. Hoa Kỳ nên mong rằng Trung Quốc là một nước cộng sản; vì khi đó nền kinh tế của nó sẽ chậm chạp.

Trung Quốc còn đeo đuổi một chủ nghĩa nữa, có khả năng làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa họ với Hoa Kỳ: đó là chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc là hệ tư tưởng chính trị mạnh mẽ nhất thế giới, nhưng lại có tầm ảnh hưởng hạn chế ở Liên Xô vì nó mâu thuẫn với chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc đã nổi lên từ đầu những năm 1990. Điều khiến nó trở nên đặc biệt nguy hiểm là vì nó nhận mạnh vào “thế kỷ đất nước bị sỉ nhục” của Trung Quốc, thời kỳ bắt đầu từ Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất, khi đó Trung Quốc là nạn nhân của các cường quốc, đặc biệt là Nhật Bản, và cả Hoa Kỳ theo như lời người Trung Quốc thuật lại. Ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ này được thể hiện khi Trung Quốc và Nhật Bản tranh chấp trên quần đảo Điếu Ngư/Senkaku vào những năm 2012 – 2013, các cuộc biểu tình chống Nhật Bản đã nổ ra trên khắp Trung Quốc. Trong những năm tới đây, tranh chấp an ninh ngày càng gay gắt ở Đông Á chắc chắn sẽ làm gia tăng mâu thuẫn giữa Trung Quốc với Nhật Bản và Hoa Kỳ, làm gia tăng khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh vũ trang.

Ngoài ra, những tham vọng của Trung Quốc trong khu vực làm gia tăng khả năng chiến tranh. Các nhà lãnh đạo Liên Xô phải tập trung phục hồi sau Thế chiến thứ Hai và quản lý đế chế của họ ở Đông Âu, nên phần lớn trong số họ hài lòng với hiện trạng ở khu vực. Ngược lại, Trung Quốc dấn sâu vào chương trình nghị sự bành trướng ở Đông Á. Mặc dù các mục tiêu chính mà Trung Quốc khao khát chắc chắn có giá trị chiến lược đối với Trung Quốc, nhưng chúng đồng thời cũng được coi là lãnh thổ thiêng liêng, người dân ở đó có sự ràng buộc với chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc. Điều này đặc biệt đúng với Đài Loan: người Trung Quốc cảm thấy gắn bó tình cảm với hòn đảo này, điều mà người Liên Xô chưa bao giờ cảm nhận được đối với Berlin, cho nên cam kết che chở hòn đảo này của Washington mang lại nhiều nguy cơ hơn.

Cuối cùng, vị trí địa lý của cuộc chiến tranh lạnh mới có khả năng xảy ra cao hơn so với cuộc chiến tranh lạnh cũ. Mặc dù tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trên phạm vi toàn cầu, nhưng trung tâm của nó là Bức màn Sắt ở châu Âu, nơi cả hai bên đều tập trung quân đội và lực lượng không quân khổng lồ được trang bị hàng nghìn vũ khí hạt nhân. Rất ít khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường ở châu Âu, bởi vì các nhà hoạch định chính sách của cả hai bên đều hiểu rõ những nguy cơ đáng sợ của leo thang hạt nhân. Không một nhà lãnh đạo nào sẵn sàng khơi mào một cuộc xung đột có khả năng sẽ phá hủy đất nước của mình.

Ở châu Á, không có chiến trường phân chia rõ ràng như Bức màn Sắt. Thay vào đó, có một số khu vực tiềm ẩn xung đột mà có thể kiểm soát và triển khai vũ khí thông thường, những nơi này có thể trở thành chiến trường, bao gồm các cuộc chiến giành quyền kiểm soát Đài Loan, Biển Đông, quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và các tuyến hàng hải chạy giữa Trung Quốc và Vịnh Ba Tư. Những cuộc xung đột này chủ yếu diễn ra ở các vùng biển rộng giữa các lực lượng không quân và hải quân đối địch, và trong những trường hợp giành quyền kiểm soát trên một hòn đảo, thì các lực lượng quân đội mặt đất quy mô nhỏ có thể tham chiến. Trong cuộc chiến giành Đài Loan, Trung Quốc đã triển khai quân đội đổ bộ chứ không sử dụng đội quân trang bị vũ khí hạt nhân.

Điều này không có nghĩa là những kịch bản chiến tranh kiểm soát này được tính đến, nhưng vẫn hợp lý hơn một cuộc chiến tranh lớn giữa khối NATO và khối Warsaw. Tuy nhiên, không ai có thể chắc chắn rằng không có leo thang hạt nhân giữa Bắc Kinh và Washington trong cuộc tranh giành Đài Loan hoặc Biển Đông. Thật vậy, nếu một bên bị thua nặng, thì ít nhất bên đó cũng sẽ tính đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân để cứu vãn tình hình. Một số người có quyền ra quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân mà kiểm soát được nguy cơ leo thang, miễn là các cuộc tấn công diễn ra trên biển và ngoài lãnh thổ của Trung Quốc, Hoa Kỳ và các đồng minh. Cuộc chiến giữa các cường quốc và cả việc sử dụng hạt nhân đều không dễ nổ ra trong cuộc chiến tranh lạnh mới.

Đối thủ do Hoa Kỳ tạo nên

Mặc dù số lượng đã giảm đi nhưng những người ủng hộ chính sách hỗ trợ Trung Quốc vẫn còn, và họ vẫn nghĩ rằng Hoa Kỳ có thể tìm thấy tiếng nói chung với Trung Quốc. Vào cuối tháng 7 năm 2019, 100 chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc đã ký một bức thư ngỏ gửi Trump và các thành viên Quốc hội bác bỏ ý kiến cho rằng Bắc Kinh là một mối đe dọa. Họ nhận định nhiều quan chức và giới tinh hoa Trung Quốc hiểu rằng cư xử ôn hòa và có tinh thần thực sự hợp tác với phương Tây phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc và kêu gọi Washington hợp tác với các đồng minh và đối tác để tạo nên một thế giới tự do và thịnh vượng hơn trong đó Trung Quốc được trao cơ hội tham gia.

Thế nhưng các cường quốc chỉ đơn giản là không muốn để các cường quốc khác phát triển mạnh hơn. Động lực thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các cường quốc này là do cấu trúc, có nghĩa là vấn đề không thể được loại bỏ nhờ vào việc hoạch định chính sách khéo léo hơn. Điều duy nhất có thể thay đổi tiềm lực này là một cuộc khủng hoảng lớn ngăn cản sự trỗi dậy của Trung Quốc – điều này dường như khó có thể xảy ra nếu xét đến quá trình phát triển ổn định, về năng lực và tăng trưởng kinh tế của đất nước này. Do đó, nguy cơ của một cuộc đối đầu an ninh là không thể tránh khỏi.

Tốt nhất là các bên phải kiểm soát sự thù địch để tránh chiến tranh. Điều đó đòi hỏi Washington phải duy trì các lực lượng mạnh và thường trực ở Đông Á để thuyết phục Bắc Kinh rằng một cuộc đụng độ vũ trang sẽ chỉ mang lại chiến thắng kiểu Pyrros. Ngăn chặn chiến tranh bằng cách thuyết phục đối thủ rằng họ không thể đạt được chiến thắng nhanh chóng và dứt khoát. Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ phải liên tục nhắc nhở chính họ – cũng như các nhà lãnh đạo Trung Quốc – về khả năng leo thang hạt nhân trong thời chiến. Xét cho cùng, vũ khí hạt nhân là biện pháp răn đe cuối cùng. Washington cũng có thể thiết lập các quy tắc rõ ràng trong quá trình tiến hành cuộc đối đầu an ninh này – ví dụ, các thỏa thuận để tránh các va chạm trên biển hoặc các cuộc xung đột quân sự ngẫu nhiên khác. Nếu mỗi bên đều nắm vững ý nghĩa của việc vượt qua ranh giới đỏ của bên kia, thì chiến tranh sẽ ít xảy ra hơn.

Những biện pháp này chỉ có thể làm giảm thiểu những nguy cơ tiềm tàng trong cuộc đối đầu ngày càng gia tăng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tuy nhiên đó là cái giá mà Hoa Kỳ phải chịu cho việc phớt lờ quan điểm của chủ nghĩa hiện thực và để Trung Quốc thành một quốc gia hùng mạnh, quyết thách thức Hoa Kỳ trên mọi phương diện.

Người dịch: Tạ Thanh Hải

Nguồn: John J. Mearsheimer (2021) – The Inevitable Rivalry: America, China, and the Tragedy of Great-Power Politics – Foreign Affairs, 100 (6), 48 – 59.

TN 2022 – 1, 2