Thách thức và cơ hội trong hợp tác an ninh Mỹ – Việt – Phần III


Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 cũng cho thấy một dấu hiệu có khả năng mở ra cơ hội thay đổi cho quan hệ Việt – Trung theo hướng có lợi cho Mỹ:

“Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ xem xét phát triển quan hệ quốc phòng và quân sự cần thiết, phù hợp với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác vì các bên cùng có lợi và vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”.

Tuy nhiên, nếu tồn tại một “lằn ranh đỏ” đối với Việt Nam liên quan đến hành vi của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa, thì có lẽ lằn ranh này đã bị vượt qua sau khi Trung Quốc quân sự hóa các đảo trong vùng lãnh thổ tranh chấp, quấy rối tàu cá và giàn khoan dầu của Việt Nam, và chèn ép các nhà đầu tư vào EEZ của Việt Nam. Mối quan hệ gần gũi, kiềm chế và không đối đầu mà Việt Nam dành cho Trung Quốc đặt ra câu hỏi liệu Việt Nam có thể dấn sâu vào mối quan hệ quốc phòng bền vững với Mỹ hay không, vì điều đó tất yếu đòi hỏi nước này phải có lập trường cứng rắn hơn nhiều đối với Trung Quốc. Sách trắng Quốc phòng năm 2019 đã bổ sung điều “không” thứ tư vào chính sách “Ba không” từ trước tới nay của Việt Nam: đó là không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Điều này có thể càng làm gia tăng sự hoài nghi của Mỹ về tuyên bố rằng Việt Nam là một đối tác khu vực với sứ mệnh kiềm chế sự gây hấn của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa.

Có lẽ các mối đe dọa an ninh ít được thảo luận khác của Trung Quốc, chẳng hạn như việc Trung Quốc kiểm soát dòng chảy từ đầu nguồn Mekong-Lan Thương đến khu vực sông Mekong hay việc Trung Quốc triển khai quân đội đến Vịnh Thái Lan, có thể trở thành những vấn đề “lằn ranh đỏ” đối với Hà Nội. Tuy nhiên, mặc dù vị trí địa lý của Việt Nam khiến nước này trở thành một trở ngại trên thực tế đối vớ sự mở rộng trên biển của Trung Quốc, câu hỏi liệu có thể mong đợi sự thay đổi trong quan hệ Việt – Trung hay không vẫn còn bỏ ngỏ nếu Việt Nam không muốn sử dụng vũ lực hoặc công khai liên kết chống lại Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không tăng cường đáng kể hành động gây hấn, buộc Hà Nội phải phá bỏ nguyên trạng, nhiều khả năng Việt Nam sẽ duy trì lập trường truyền thống đối với hành động gây hấn của Trung Quốc, điều này cản trở mối quan hệ an ninh với Mỹ.

Chính sách đối ngoại không liên kết và đa hướng

Có liên quan nhưng độc lập với mối quan hệ thân thiết của Việt Nam với Trung Quốc là lập trường không liên kết của nước này, được tóm tắt trọn vẹn nhất trong chính sách “Ba không”, cụ thể là “không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, không đứng về phía nước này chống lại nước khác, cũng như không cho phép các quốc gia khác thiết lập căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để thực hiện các hoạt động quân sự chống lại các quốc gia khác”.

Chính sách “Ba không” lẽ ra có thể bắt nguồn như một cách thức để Việt Nam đảm bảo với Trung Quốc rằng nước này sẽ không gây ra mối đe dọa đối với an ninh và lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Tuy nhiên, chữ “không” đầu tiên không hàm ý rằng Việt Nam không thể tham gia quan hệ quốc phòng với các nước khác – ngược lại, Việt Nam duy trì nhiều mối quan hệ như vậy ở nhiều cấp độ hợp tác khác nhau. Thay vào đó, chính sách phi liên kết của Việt Nam trên thực tế có mục tiêu cụ thể là tránh bị cuốn vào sự cạnh tranh nước lớn đang diễn ra giữa Trung Quốc và Mỹ.

Những người Việt Nam ủng hộ lập trường không liên kết tin rằng Việt Nam có nhiều lợi ích hơn từ vị thế trung lập so với việc đứng hẳn về phía Mỹ và kích động sự giận dữ từ Trung Quốc. Do đó, thay vì chỉ mô tả như một lập trường không liên kết, một số học giả đề xuất rằng sẽ hữu ích hơn nếu xem chính sách đối ngoại của Việt Nam là mang tính chất đa hướng hoặc một hình thức chủ động hội nhập. Cụ thể, Việt Nam tìm kiếm nhiều mối quan hệ quốc phòng ở các mức độ can dự khác nhau nhằm tránh tỏ ra là ngả về một siêu cường hoặc một cường quốc trung gian này thay vì một cường quốc khác.

Chính sách đối ngoại này có nguồn gốc từ cuộc cải cách Đổi mới của Việt Nam năm 1986 được thực hiện nhằm chấm dứt việc Việt Nam bị quốc tế cô lập và giải quyết tình hình kinh tế tồi tệ trong nước. Theo chính sách này, Việt Nam tìm cách đảm bảo quan hệ hòa bình với các quốc gia khác để tiếp cận các nguồn lực, công nghệ và thị trường tài chính nước ngoài. Trên tinh thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã công bố chính sách đối ngoại “làm bạn với tất cả các nước” vào năm 1991, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ lần lượt vào các năm 1991 và 1995. Kể từ đó, Việt Nam đã thành công trong việc đa dạng hóa vai trò thành viên của mình tại các diễn đàn đa phương, bao gồm ASEAN và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và thiết lập quan hệ ngoại giao với 172 quốc gia. Việt Nam cũng mở rộng chiến lược đa dạng hóa này đối với các mối quan hệ quốc phòng.

Xu hướng can dự đa phương này thể hiện qua cách Việt Nam giải quyết các tranh chấp trên biển với Trung Quốc và cách Việt Nam thuyết phục Mỹ về mục tiêu của mình. Thay vì cố gắng giải quyết xung đột với Trung Quốc thông qua các biện pháp song phương và trực tiếp, Hà Nội phòng ngừa bằng cách chọn giải quyết các tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa thông qua các diễn đàn đa phương như ASEAN. Thật không may, ASEAN bị hạn chế nghiêm trọng về vấn đề biển Nam Trung Hoa thay vì cơ chế ra quyết định của nhóm này phải dựa trên sự đồng thuận. Ngoài ra, các nỗ lực của ASEAN nhằm gửi một thông điệp thống nhất đến Trung Quốc đã bị phá hoại bởi một quốc gia Đông Nam Á riêng lẻ đang cạnh tranh để giành được các thỏa thuận song phương tốt hơn với Trung Quốc.

Trong khi Việt Nam cố gắng đối phó với Trung Quốc theo hướng đa phương, nước này cũng mở rộng chiến lược tương tự với Mỹ. Việt Nam đã khuyến khích Mỹ phối hợp với ASEAN để phản đối Trung Quốc trong các tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa. Về cơ bản, việc cố gắng chuyển trọng tâm chính sách của Mỹ từ mối quan hệ song phương sang một diễn đàn đa phương sẽ khiến Trung Quốc khó đổ lỗi hơn cho Việt Nam vì đã khởi xướng vấn đề này. Từ kinh nghiệm của Lewis Stern với Việt Nam vào đầu những năm 2000, ông nhớ lại: “Hà Nội cũng đã khẳng định rằng Mỹ nên có vị thế cao hơn trong các vấn đề ở biển Nam Trung Hoa, có lẽ Mỹ nên ra mặt sau khi ASEAN đạt được đồng thuận (nếu có thể) bằng cách cảnh báo Trung Quốc về những hậu quả chính trị tiềm tàng nếu Trung Quốc tiếp tục quỹ đạo của mình trong vấn đề này khi đối mặt với một ASEAN thống nhất”, về cơ bản là cố gắng tận dụng các tương tác của Mỹ với ASEAN như một cách nhấn mạnh những lo ngại về Trung Quốc của tổ chức này.

(còn tiếp)

Nguồn: Diễn đàn Thái Bình Dương

CĐ số 01/2023

Advertisement

Việt Nam – “cường quốc” nhập khẩu thức ăn chăn nuôi của Mỹ


Việt Nam là một trong những thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Mỹ, xếp vị trí thứ 7, 8 và 9 trong những năm gần đây. Liệu Việt Nam có thể trở thành thị trường lớn hơn cho ngành nông nghiệp Mỹ, khi Mỹ và Trung Quốc đang ngày càng “xa cách” nhau? Việc Mỹ tăng xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp sang Việt Nam thay vì sang Trung Quốc có khôn ngoan? Trang asiatimes.com (Hong Kong) ngày 22/2 đăng bài phân tích như sau:

Việt Nam có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông nhưng hai nước có quan hệ kinh tế gần gũi. Về mặt chính sách, giống như nhiều quốc gia bậc trung và có tư tưởng độc lập, Việt Nam cảnh giác trước sự thống trị của bất kỳ nước nào và sẵn sàng đối đầu với các cường quốc lớn. Tuy nhiên, xét về lịch sử, điều đáng lưu ý là người dân Việt Nam không có thái độ tiêu cực đối với Mỹ. Thậm chí, một cuộc thăm dò dư luận cho thấy nhiều người Việt Nam còn ủng hộ Mỹ.

Những lợi ích kinh tế mà Việt Nam thu được từ thương mại với Mỹ có thể giải thích cho sự thiện cảm của người dân Việt Nam đối với Mỹ.

Theo Bộ Thương mại Mỹ, năm 2021, Mỹ đã nhập khẩu lượng hàng hóa trị giá 101 tỷ USD từ Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ bằng 1/4 tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Hơn nữa, Việt Nam có thặng dư thương mại rất lớn với Mỹ. Năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu từ Mỹ sang Việt Nam chỉ đạt 11 tỷ USD. Hơn 1/4 trong tổng số đó là sản phẩm nông nghiệp.

Việt Nam có 98 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người dưới 4000 USD nhưng đang trên đà tăng nhanh, điều đó có nghĩa là người dân Việt Nam đang ăn nhiều thịt hơn và cần nhiều thức ăn chăn nuôi hơn.

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ năm 2019, “sản xuất thịt lợn và gia cầm của Việt Nam tăng trưởng nhanh nhất so với các nước khác trong khu vực và Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục là nước sản xuất thịt lợn lớn nhất Đông Nam Á trong thập kỷ tới”. Một báo cáo khác của Bộ Nông nghiệp Mỹ xem Việt Nam là “cường quốc nhập khẩu thức ăn chăn nuôi”.

Tất cả những điều đó khiến Việt Nam trở thành thị trường có vẻ hứa hẹn. Tuy nhiên, khi xét về quy mô dân số, Việt Nam đã nhập khẩu từ các trang trại và trại chăn nuôi của Mỹ lượng thức ăn chăn nuôi gần bằng Trung Quốc. Một báo cáo khác của Bộ Nông nghiệp Mỹ chỉ ra rằng: “Việt Nam là một thị trường đầy thách thức, cạnh tranh khốc liệt, quy định phức tạp, thuế nhập khẩu cao và bộ máy hành chính cồng kềnh”.

Liệu Việt Nam có phải là thị trường đáng kể để Mỹ tăng cường xuất khẩu hay không. Câu trả lời có thể là “có” hoặc “không”.

Nước Mỹ có thể giúp gì không? Cựu chuyên gia đàm phán thương mại Mỹ đề xuất dựa vào Việt Nam để đem lại một thỏa thuận tốt cho các sản phẩm nông nghiệp của Mỹ như các đối thủ cạnh tranh có được từ các hiệp định thương mại tự do khu vực. Dù Mỹ không muốn tham gia các thỏa thuận này, nhưng thị trường Mỹ có vị trí đủ quan trọng để Việt Nam yêu cầu được đối xử bình đẳng.

Vì lý do chính trị, Mỹ có thể muốn tránh căng thẳng thương mại với Việt Nam. Tuy nhiên, nếu được thực hiện theo cách thức không hăm dọa nhau thì Mỹ có khả năng tăng cường xuất khẩu sang Việt Nam. Ít nhất cũng đáng để suy nghĩ về khả năng này.

Nguồn: TKNB – 23/02/2023

Thách thức và cơ hội trong hợp tác an ninh Mỹ – Việt – Phần II


Khi mô tả sự phối hợp đầy thận trọng giữa Mỹ với Việt Nam vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, học giả Lewis Stern cho biết Việt Nam ban đầu do dự không muốn tham gia cuộc xét duyệt bắt buộc theo luật Leahy để nhận được hỗ trợ huấn luyện quân sự từ Mỹ. Cuối cùng, Việt Nam đã đồng ý để những người tham gia huấn luyện trải qua quá trình kiểm tra nhân quyền này – một minh chứng cho thấy cách tiếp cận thực dụng để tiếp nhận các điều khoản đi kèm hợp tác an ninh với Mỹ, cũng là bằng chứng cho thấy Việt Nam coi trọng hỗ trợ huấn luyện và trang bị quân sự của Mỹ. Sau đó, năm 2017, với cuộc chuyển giao tàu tuần duyên lớp Hamilton của USCG, Việt Nam đã chấp thuận các yêu cầu của Mỹ để tiếp nhận các trang thiết bị quốc phòng dư thừa trong chương trình bán trang thiết bị quốc phòng (EDA).

Tóm lại, bất chấp những lo ngại về nhân quyền trong quan hệ Việt – Mỹ, hai nước dường như đã nhất trí với một thỏa hiệp không mấy dễ dàng cho phép tăng cường hợp tác an ninh. Mỹ đã có thái độ thoải mái hơn trong những năm qua trong khi Việt Nam ngày càng chấp nhận các biện pháp kiểm soát và cân bằng đi kèm trong hợp tác an ninh với Mỹ. Cuối cùng, có lẽ vẫn còn những vấn đề đáng bận tâm khác mà hai nước cho là còn gây tổn hại hơn tới hợp tác an ninh. Từ quan điểm của Mỹ, mối quan hệ của Hà Nội với Bắc Kinh và Bình Nhưỡng hoặc cách tiếp cận của Hà Nội đối với an ninh mạng đều có vấn đề. Về phía Việt Nam, nước này lo ngại hợp tác quân sự công khai vượt ra ngoài ranh giới vốn có trong quan hệ Việt – Mỹ có thể tác động đến mối quan hệ Việt – Trung, do đó điều này đảm bảo Việt Nam vẫn duy trì nhất quán lập trường trung lập.

Quan hệ Việt – Trung

Việt Nam có mối quan hệ đầy sóng gió với Trung Quốc. Cả hai nước đều được Đảng Cộng sản lãnh đạo, có thế giới quan tương đồng và có mối quan hệ gần gũi từ trong lịch sử. Trung Quốc là đối tác thương mại, láng giềng địa lý lớn nhất và “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” duy nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, căng thẳng trong mối quan hệ bùng phát theo định kỳ. Trong những năm 1980, Trung Quốc nã pháo vào Việt Nam trên đường biên giới chung giữa hai nước, cô lập Việt Nam về mặt ngoại giao và hỗ trợ Khmer Đỏ trong cuộc chiến kéo dài với Việt Nam. Gần đây hơn, việc Trung Quốc theo đuổi vị thế bá chủ khu vực dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình đã làm phức tạp thêm thái độ nhường nhịn từ trong lịch sử của Việt Nam đối với Trung Quốc.

Tuyên bố “đường 9 đoạn” của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa đã xâm phạm Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Bắc Kinh củng cố tuyên bố này thông qua các hành động gây hấn đe dọa chủ quyền và quyền hàng hải của Việt Nam, đặc biệt nhắm vào lĩnh vực dầu khí ngoài khơi của nước này. Trong năm 2009 và 2012, Bắc Kinh đã gây sức ép thành công với BP và ConocoPhiliips – các công ty dầu mỏ có đầu tư lớn vào Trung Quốc – buộc các công ty này phải từ bỏ các hoạt động trong EEZ của Việt Nam. Năm 2012, Tập đoàn Dầu khí Ngoài khơi quốc gia của Trung Quốc (CNOOC) đã mời các công ty nước ngoài đấu thầu quyền khai thác vùng lãnh thổ chồng lấn với EEZ của Việt Nam. Tháng 5/2014, Trung Quốc đã triển khai một giàn khoan dầu vào EEZ của Việt Nam, hành động này khiến Hà Nội phản đối thông qua các cuộc đàm phán ngoại giao và thúc đẩy các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam. Năm 2017, Trung Quốc lại gây sức ép buộc Việt Nam phải thu hồi quyền khai thác của các công ty dầu khí lớn trong EEZ của Việt Nam – khiến Việt Nam thiệt hại ước tính hàng tỷ USD. Năm 2020, Trung Quốc đã đánh chìm một tàu cá Việt Nam trong khu vực tranh chấp trên biển quần đảo Hoàng Sa. Ngay sau sự cố này, các tàu hải cảnh Trung Quốc đã hộ tống một tàu khảo sát địa chất vào EEZ của Việt Nam và Trung Quốc tuyên bố kiểm soát hành chính đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đang tranh chấp.

Bất chấp những hành động gây hấn này, Việt Nam vẫn tiếp tục chính sách “hợp tác và đấu tranh”, đối phó với căng thẳng đồng thời duy trì tình hữu nghị trên các khía cạnh khác của mối quan hệ song phương với Trung Quốc. Ngày 21/4/2020, bất chấp một loạt xung đột trên biển Nam Trung Hoa chỉ vài ngày trước đó, Việt Nam đã tiến hành tuần tra bảo vệ bờ biển chung với Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ. Trong khi Việt Nam đã thực hiện các bước pháp lý để chống lại các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, chẳng hạn như đệ trình một công hàm lên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc phản đối các tuyên bố của Trung Quốc, nhưng Việt Nam đã không có hành động trực tiếp để răn đe Trung Quốc và cho đến nay đã kiềm chế khởi xướng một vụ kiện ra tòa trọng tài.

Mối quan hệ thất thường giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng ảnh hưởng đến chính trị trong nước Việt Nam. Phe bảo thủ Việt Nam, hay còn gọi là nhóm chống đế quốc, muốn đảm bảo rằng Trung Quốc vẫn là một đồng minh chiến lược. Đây cũng có thể là những người nghi ngờ các nỗ lực của Mỹ. Tuy nhiên, những người ủng hộ hội nhập cải cách lại thiên về coi Trung Quốc là một mối đe dọa vì quy mô, vị trí địa lý liền kề và sự hung hăng của nước này trong các tranh chấp lãnh thổ. Một bộ phận đáng kể dân chúng, bị thúc đẩy bởi sự thận trọng từ trong lịch sử và sự gây hấn gần đây của Trung Quốc, vẫn duy trì tâm lý chống Trung Quốc. Điều này tạo ra một ranh giới mong manh cho lãnh đạo Việt Nam khi tìm cách duy trì mối quan hệ với Bắc Kinh trong khi vẫn thận trọng với dư luận ở Việt Nam.

Nỗi lo sợ của Việt Nam về một cuộc Chiến tranh Trung – Việt tái diễn đã tạo ra sức ép lớn với những tính toán chiến lược về cách giải quyết các tranh chấp nảy sinh giữa hai nước. Một mối quan hệ hòa bình và ổn định với Trung Quốc sẽ thúc đẩy ổn định khu vực và giúp Việt Nam không xao nhãng sự chú ý khỏi sự phát triển và tăng trưởng trong nước. Mặc dù các hành động của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa đã khiến Việt Nam tăng cường hợp tác với Mỹ, Hà Nội vẫn thường là một yếu tố cần tính đến trong nhận thức của Trung Quốc trước khi tiến hành bất kỳ động thái chính sách đối ngoại công khai nào, đặc biệt là những động thái liên quan đến Mỹ. Năm 2012, chuyên gia Lê Thu Hương dự đoán rằng “Việt Nam sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách cân bằng giữa Trung Quốc với Mỹ. Việt Nam sẽ coi mối quan hệ với hai cường quốc là một phần trong chiến lược tổng thể “đa dạng hóa và đa phương hóa” các mối quan hệ đối ngoại vì lợi ích phát triển trong nước”. Cho đến nay, có thể coi đó là một đánh giá chính xác về vị thế của Việt Nam.

Có thể cho rằng Việt Nam có khả năng tiến hành một số động thái nhằm buộc Trung Quốc phải trả giá vì hành vi gây hấn của nước này ở biển Nam Trung Hoa. Theo nhận định củ Derek Grossman, nhà phân tích thuộc Tập đoàn RAND – tổ chức tư vấn chính sách toàn cầu của Mỹ, những động thái này bao gồm cả việc đưa vấn đề ra một tòa án quốc tế, hạ cấp mối quan hệ đối tác với Trung Quốc, đáp trả quân sự như Indonesia đã làm ở quần đảo Natuna vào tháng 12/2019, sử dụng tư cách thành viên và ảnh hưởng của mình trong ASEAN để hình thành Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông, tăng cường hợp tác an ninh với Mỹ hoặc tham gia các cuộc tập trận đa phương ở biển Nam Trung Hoa với các nước trong Đối thoại an ninh bốn bên (Bộ tứ) hoặc các đối tác khác. Tuy nhiên, nhiều hành động trong số này đi ngược lại với xu hướng của Việt Nam về việc đảm bảo quyền tự chủ và sự phát triển ổn định trong nước bằng cách duy trì ổn định khu vực bằng mọi giá. Việc Việt Nam từ chối thực hiện những động thái buộc Trung Quốc trả giá là phù hợp với chính sách quốc phòng được nêu trong Sách trắng Quốc phòng năm 2019 của nước này:

“Chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Việt Nam kiên quyết giải quyết mọi tranh chấp và khác biệt bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, tích cực và chủ động phòng ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ xa, sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh xâm lược. Việt Nam nhất quán chủ trương không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, đứng về phía nước này chống lại nước khác, cho phép nước khác lập căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để thực hiện các hoạt động quân sự chống lại nước khác, cũng như không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.

(còn tiếp)

Nguồn: Diễn đàn Thái Bình Dương

CĐ số 01/2023

Cái bẫy Trung Quốc – Phần III


Mọi chuyện sẽ kết thúc ra sao?

Điểm cuối của quỹ đạo hiện tại đã rõ ràng: Đó là một thế giới nhiều hiểm họa và ít sự sống hơn, được xác định bởi nguy cơ đối đầu và khủng hoảng luôn hiện hữu, với việc chuẩn bị cho xung đột được ưu tiên hơn là giải quyết thách thức chung.

Hầu hết các nhà hoạch định chính sách, ít nhất là ở Washington, đều không mong muốn chứng kiến một cuộc khủng hoảng giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người thừa nhận rằng khủng hoảng là điều khó tránh khỏi và hậu quả của nó là rất lớn. Ngay cả khi hai bên đều muốn tránh chiến tranh, thì họ cũng khó có thời gian để ngăn chặn các cuộc khủng hoảng trước sự giám sát chặt chẽ của công chúng, khiến việc tìm ra cách để giảm leo thang trở nên khó khăn. Ngay cả việc áp dụng vũ lực hoặc cưỡng ép có giới hạn cũng có thể tạo ra một loạt phản ứng khó lường trước trên nhiều lĩnh vực – quân sự, kinh tế, ngoài giao và thông tin. Khi các nhà lãnh đạo thể hiện quyết tâm bảo vệ tiếng tăm của họ ở trong nước, thì khủng hoảng là điều khó kiểm soát.

Đài Loan có lẽ là điểm dễ bùng phát nhất vì những thay đổi ở cả Đài Bắc và Bắc Kinh ngày càng khiến hòn đảo này trở thành trung tâm của căng thẳng Mỹ – Trung. Sự thay đổi về nhân khẩu học và thế hệ ở Đài Loan, kết hợp với cuộc đàn áp của Trung Quốc ở Hong Kong, đã khiến Đài Loan tăng cường phản kháng trước ý định kiểm soát của Bắc Kinh và khiến mục tiêu thống nhất hòa bình ngày càng trở nên xa vời. Sau khi đảng Dân Tiến (DPP), vốn có truyền thống ủng hộ Đài Loan độc lập, thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016, Bắc Kinh đã thể hiện quan điểm cứng rắn đối với Tổng thống Thái Anh Văn, bất chấp những nỗ lực thận trọng của bà nhằm tránh động thái hướng tới mục tiêu giành độc lập chính thức. Các kênh liên lạc qua eo biển bị ngăn chặn và Bắc Kinh dựa vào các biện pháp cưỡng chế để trừng phạt và răn đe những động thái mà họ cho là làm gia tăng khả năng Đài Loan vĩnh viễn tách khỏi Đại lục.

Về phần mình, Mỹ tăng cường tuần tra quân sự xung quanh eo biển Đài Loan, nới lỏng hướng dẫn để tăng cường tương tác với các quan chức Đài Loan, mở rộng chính sách thông qua tuyên bố để nhấn mạnh sự ủng hộ của họ đối với hòn đảo này và tiếp tục vận động Đài Loan tham gia các tổ chức quốc tế, bao gồm cả Liên hợp quốc. Tuy nhiên, các nỗ lực của Mỹ nhằm hỗ trợ hòn đảo và ngăn chặn Trung Quốc lại thúc đẩy Bắc Kinh tìm cách cản trở mối quan hệ Mỹ-Đài đang ngày càng phát triển.

Ngay cả khi Mỹ vẫn tiếp tục chính sách “mơ hồ chiến lược” về cách thức phản ứng trong trường hợp Đài Loan bị tấn công, thì các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc vẫn cho rằng Mỹ sẽ can dự. Quả thật, khó khăn được tiên lượng trong việc ngăn chặn Trung Quốc xâm chiếm Đài Loan và kìm chân Mỹ từ lâu đã thúc đẩy việc tăng cường khả năng răn đe ở eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, nhiều hành động của Mỹ nhằm tăng cường khả năng chống chịu cưỡng ép của Đài Loan mang tính hình thức hơn là thực chất, nhằm mục đích khiêu khích hơn là răn đe Trung Quốc. Ví dụ, Chính quyền Trump đã nỗ lực tăng cườgn các chuẩn mực liên quan tới việc Mỹ can dự với Đài Loan. Tháng 8/2020, Bộ trưởng Y tế và dịch vụ nhân sinh Alex Azar trở thành thành viên nội các cấp cao nhất của Mỹ đến thăm Đài Loan kể từ khi Mỹ và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ vòa năm 1979. Trung Quốc đã điều máy bay chiến đấu vượt qua đường trung tuyến của eo biển Đài Loan, bỏ qua hành lang bảo vệ không chính thức để tạo điều kiện cho các hoạt động  an toàn đường thủy. Việc xâm nhập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Đài Loan đã trở thành động thái thường xuyên của Trung Quốc nhằm bày tỏ thái độ không hài lòng trước việc Mỹ tăng cưỡng hỗ trợ hòn đảo này. Tháng 10/2021, Trung Quốc đã gia tăng tần suất xâm nhập ADIZ của Đài Loan lên mức cao mới – 93 máy bay trong vòng 3 ngày – để đáp trả các cuộc tập trận do Mỹ đứng đầu.

Chu kỳ hành động-phản ứng, được thúc đẩy bởi các hành động kèn cựa lẫn nhau ở Bắc Kinh, Đài Bắc và Washington, đang nhanh chóng phá hoại hòa bình và sự ổn định ở eo biển Đài Loan. Trong những tháng gần đây, luận điệu của Trung Quốc ngày càng mang tính đe dọa, với những cụm từ báo hiệu ý định gia tăng căng thẳng. “Ai chới với lửa sẽ bị bỏng” là câu nói mà Tập Cận Bình đã lặp lại nhiều lần với Tổng thống Mỹ Joe Biden. Tháng 5/2022, sau khi Biden ngụ ý cam kết bảo vệ Đài Loan vô điều kiện, thay vì chỉ thực hiện nghĩa vụ lâu dài của Mỹ là cung cấp cho hòn đảo này phương tiện quân sự để tự vệ và duy trì khả năng của Mỹ để chống lại bất kỳ hành vi sử dụng vũ lực nào, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng Bắc Kinh sẽ thực hiện các hành động cứng rắn để bảo vệ chủ quyền và lợi ích an ninh của họ.

Mặc dù Bắc Kinh tiếp tục ưu tiên thống nhất hòa bình, nhưng nhiều người cho rằng cần có các biện pháp cưỡng chế nhằm ngăn chặn các động thái của Đài Loan hướng tới việc vĩnh viễn tách khỏi Đại lục và buộc hòn đảo này phải tiến tới thống nhất, đặc biệt là khi Trung Quốc cho rằng sự ủng hộ của Mỹ đối với Đài Loan là công cụ để kiềm chế Trung Quốc. Ngay cả khi sự tin tưởng vào quỹ đạo kinh tế và quân sự của Trung Quốc khiến Bắc Kinh cho rằng thời gian và động lực vẫn đứng về phía họ, thì các xu hướng chính trị ở Đài Loan và Mỹ vẫn khiến các quan chức ngày càng bi quan về triển vọng thống nhất hòa bình. Bắc Kinh đã không đặt ra thời gian biểu cụ thể cho việc chiếm lại Đài Loan và dường như không tìm được cớ để làm vậy. Tuy nhiên, như nhà khoa học chính trị Taylor Fravel chỉ ra, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực khi cho rằng các tuyên bố chủ quyền của họ đang bị thách thức. Những cử chỉ cho thấy sự ủng hộ của Mỹ đối với Đài Loan có thể bị Trung Quốc hiểu là sự sỉ nhục và do đó cần có hành động đáp trả. (Theo tác giả bài viết này, sau khi tin tức về chuyến thăm Đài Loan của Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi, chuyến đi đầu tiên của bà kể từ năm 1997, được đưa ra, Trung Quốc đã cảnh báo rằng quân đội nước này sẽ không bỏ qua điều này, và động thái tiếp theo của họ là tiến hành các cuộc tập trận và thử tên lửa xung quanh Đài Loan).

Khi cả Mỹ và Đài Loan cùng tiến hành bầu cử tổng thống vào năm 2024, chính trị đảng phái có thể thúc đẩy nỗ lực khẳng định vị thế chính trị và nền độc lập của Đài Loan. Không rõ liệu nhân vật kế nhiệm Thái Anh Văn có kiên định như bà trong việc chống lại sức ép từ những người kiên quyết ủng hộ độc lập hay không. Ngay cả dưới thời Thái Anh Văn, đã có những dấu hiệu đáng lo ngại về việc các nhà lãnh đạo đảng DPP không bằng lòng với hiện trạng. Các nhà lãnh đạo DPP đã vận động Washington không đưa ra tuyên bố rằng Mỹ không ủng hộ Đài Loan độc lập. Tháng 3/2022, văn phòng đại diện của Đài Bắc tại Washington đã trao cho cựu Ngoại trưởng Mike Pompeo vinh dự lớn khi ông đến thăm Đài Loan, nơi ông kêu gọi Mỹ công nhận về mặt ngoại giao Đài Loan là một quốc gia tự do và có chủ quyền.

Nguy cơ xảy ra các vụ va chạm chết người trên không hoặc trên biển cũng đang tăng lên ở khu vực bên ngoài eo biển Đài Loan. Với việc quân đội Trung Quốc và Mỹ hoạt động gần nhau ở biển Nam Trung Hoa và biển Hoa Đông, hai bên đều tỏ ý sẵn sàng chiến đấu; các chỉ huy và phi công đều đang áp dụng chiến thuật nguy hiểm làm tăng nguy cơ xảy ra đụng độ. Năm 2001, máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã va chạm với máy bay do thám của Mỹ trên biển Nam Trung Hoa, khiến phi công Trung Quốc thiệt mạng và phi hành đoàn Mỹ bị giam giữ trong 11 ngày. Sau thành công ban đầu, Trung Quốc đã nỗ lực vượt qua một cuộc khủng hoảng toàn diện.

(còn tiếp)

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/china/china-trap-us-foreign-policy-zero-sum-competition

TLTKĐB – 02 & 03, 04/11/2022

Thách thức và cơ hội trong hợp tác an ninh Mỹ – Việt – Phần I


Giới thiệu

Quan hệ Việt – Mỹ đã được cải thiện trong 27 năm qua với việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, tăng cường các chuyến thăm ngoại giao giữa Hà Nội và Washington và mở rộng hỗ trợ hàng hải song phương. Trong khi đó, quan hệ Trung – Việt ngày càng căng thẳng trước các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Đây cũng là quan ngại an ninh của Mỹ. Trong những thập kỷ tới, Mỹ và Việt Nam có tiềm năng mở rộng hợp tác chiến lược, tuy nhiên, quan hệ đối tác an ninh mở rộng có ba trở ngại chính cần được giải quyết.

Thứ nhất, bất chấp sự gắn kết lợi ích hiện tại, Mỹ và Việt Nam không nhất thiết phải là “đồng minh tự nhiên”. Việt Nam là nhà nước một đảng, yếu tố có khả năng tạo thành một rào cản khiến Quốc hội Mỹ do dự chưa chấp thuận mở rộng đáng kể hỗ trợ an ninh. Thứ hai, trong khi Hà Nội nỗ lực bảo vệ các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và hàng hải của mình ở biển Nam Trung Hoa, tính toán nội bộ của Việt Nam về phản ứng với Trung Quốc chắc chắn phải kể đến sự gần gũi về mặt địa lý và sự phụ thuộc kinh tế của Việt Nam vào nước này. Điều này có thể hạn chế nghiêm trọng quyết tâm của Việt Nam chống lại Trung Quốc. Thứ ba, Việt Nam vẫn duy trì chính sách an ninh “ba không”: không tham gia liên minh quân sự, không cho phép nước khác đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không liên kết với nước này chống lại nước kia. Tuy nhiên, trong Sách trắng Quốc phòng năm 2019, Việt Nam cũng bày tỏ sẵn sàng tham gia các cơ chế an ninh và quốc phòng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Lập trường không liên kết và sự nhấn mạnh vào truyền thống tự cường của Việt Nam đã làm dấy lên những nghi ngờ về khả năng tăng cường quan hệ đối tác với Mỹ. Để thúc đẩy chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở (FOIP), Washington phải đánh giá xem họ định thúc đẩy mối quan hệ an ninh với Hà Nội bằng cách nào trong bối cảnh những lo ngại về nhân quyền, mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và chính sách không liên kết của Việt Nam.

Bài viết phân tích ba trở ngại đối với việc mở rộng hợp tác an ninh Việt – Mỹ và tìm hiểu quan điểm của Việt Nam về từng chủ đề. Đối với mỗi hạn chế từ phía Mỹ, sẽ có một hạn chế tương ứng từ phía Việt Nam cản trở quan hệ quốc phòng song phương phát triển nhanh chóng. Bài viết kết luận với một số khuyến nghị nhằm tăng cường quan hệ an ninh Việt – Mỹ bằng cách thúc đẩy các lợi ích an ninh chung và đảm bảo một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở.

Bài toán nhân quyền

Báo cáo Nhân quyền năm 2019 của Bộ Ngoại giao Mỹ về Việt Nam nêu lên một danhs ách mà phía Mỹ gọi là các hành vi “không thể chấp nhận được” liên quan đến nhân quyền. Báo cáo này khiến Quốc hội Mỹ phải cân nhắc lại việc mở rộng bán vũ khí cho Việt Nam. Một số thành viên Quốc hội Mỹ thậm chí đã yêu cầu phải có các biện pháp trừng phạt. Chẳng hạn như Đạo luật trừng phạt các vi phạm nhân quyền của Việt Nam được đề xuất vào năm 2019 viết: “Quan hệ Việt – Mỹ không thể tiến triển khi hồ sơ nhân quyền và pháp quyền ở Việt Nam tiếp tục xấu đi”.

Tuy vậy, Mỹ vẫn ưu tiên tăng cường hợp tác an ninh với Việt Nam. Điều này được thể hiện qua quyết định của Chính quyền Obama vào năm 2016 về việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam và tăng cường các sáng kiến xây dựng năng lực do M4y tài trợ đến nay. Điều này đánh dấu sự thay đổi rõ ràng trong chính sách. Năm 2014, việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương vẫn còn là một vấn đề gây tranh luận trong nước Mỹ. Nó đòi hỏi phải cân bằng lợi ích an ninh quốc gia trong bối cảnh các hành động ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa cùng với những lo ngại về việc tăng viện trợ cho Việt Nam mà không có tiến triển về tự do chính trị và nhân quyền. Quyết định dỡ bỏ lệnh cấm năm 2016 được đưa ra vào thời điểm Chính quyền Obama đang cố gắng tái cân bằng chính sách đối ngoại đối với châu Á. Việt Nam là một đối tác chiến lược trong khu vực cần được cải thiện an ninh hàng hải.

Tuy nhiên, Việt Nam rất nhạy cảm trước các cuộc thảo luận về vấn đề nhân quyền. Trang web của Đại sứ quán Việt Nam nêu rõ Việt Nam sẵn sàng “chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì nhân quyền” cũng như quyết tâm “ngăn chặn các âm mưu, hành vi xuyên tạc, lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc và tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, ổn định chính trị của Việt Nam”. Bộ Chính trị Việt Nam dường như lo ngại ý định thực sự của Mỹ là lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua tiến trình “diễn biến hòa bình”. Mối quan ngại đó không hoàn toàn vô căn cứ khi chính sách đối ngoại của Mỹ luôn nhấn mạnh việc truyền bá dân chủ và truyền thống thúc đẩy thay đổi chế độ.

Việc Mỹ quan tâm tới hồ sơ nhân quyền của Việt Nam cũng như sự thận trọng của Việt Nam khi tham gia đối thoại về vấn đề này với Mỹ không phải là những diễn biến mới. Những rào cản này từ lâu đã trở thành yếu tố cần phải tính đến trong mối quan hệ nhưng không ngăn được hợp tác an ninh giữa hai nước tiến triển mạnh trong những năm qua.

Khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1995, quân đội hai nước ban đầu đã tiếp cận mối quan hệ một cách thận trọng, tập trung vào những sáng kiến hợp tác quân sự dễ giải trình và không mang tính nhạy cảm, chẳng hạn như các chuyến thăm chính thức, các hội nghị đa phương và các hoạt động như rà phá bom mìn, quân y và tìm kiếm cứu nạn. Sau 8 năm, quan hệ đã được cải thiện đủ để Mỹ tiến hành một chuyến thăm tới cảng Việt Nam vào năm 2003. Đến năm 2017, mối quan hệ song phương gần gũi được thể hiện qua việc Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ (USCG) bàn giao một con tàu tuần duyên lớp Hamilton cho Việt Nam. Trong suốt thời gian qua, Mỹ và Việt Nam đã tăng cường quan hệ song phương, ngoại giao và quân sự một cách từ từ và nhất quán. Điều này đòi hỏi nhiều hoạt động xây dựng lòng tin, từng bước mở rộng để xây dựng sự tin tưởng và sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước.

Cách tiếp cận của Mỹ đối với Việt Nam đã có sự tiến triển rõ ràng. Việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí năm 2016 là một tín hiệu cho thấy Quốc hội Mỹ đang giảm bớt lo ngại về nhân quyền và các vấn đề về quản lý ở Việt Nam khi các hành động của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa trở nên ngày càng đáng báo động và Mỹ phải tập trung trở lại vào việc đảm bảo một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở. Ngya cả những ý kiến trong nước phản đối Mỹ mở rộng hỗ trợ cho Việt Nam cũng công nhận rằng xây dựng năng lực an ninh hàng hải của Việt Nam là nhiệm vụ có tầm quan trọng địa chính trị chiến lược. Một dự luật được đưa ra tại Hạ viện vào năm 2019 đã khuyến nghị Mỹ không bán vũ khí gây sát thương cho Việt Nam trừ phi nước này cải thiện hồ sơ nhân quyền của mình. Tuy nhiên, trường hợp ngoại lệ được chấp thuận khi “việc bán các khí tài hoặc dịch vụ như vậy được Tổng thống xác định là đảm bảo lợi ích của Mỹ trong việc thực thi quyền hàng hải tự do và cởi mở ở biển Nam Trung Hoa”.

Tuy nhiên, Mỹ đã không từ bỏ hẳn vấn đề nhân quyền. Hợp tác an ninh của Mỹ đi kèm với nhiều ràng buộc nhằm đảm bảo việc đào tạo và chuyển giao thiết bị quân sự sẽ thúc đẩy một môi trường quân sự tập trung vào quản trị tốt và bảo vệ nhân quyền. Chẳng hạn, mặc dù Chính quyền Obama đã dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, bất kỳ đơn xin xuất khẩu trang thiết bị quốc phòng, dù gây sát thương hay không gây sát thương, vẫn phải có sự chấp thuận của Cục Quản lý thương mại quốc phòng thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ đối với từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, tùy thuộc vào loại trang thiết bị quân sự, Việt Nam sẽ phải tuân thủ sự giám sát mục đích sử dụng được Mỹ tiến hành đều đặn. Hơn nữa, các sinh viên và đơn vị quân sự nước ngoài nhận sự huấn luyện cũng như hỗ trợ vật chất từ Mỹ sẽ bị kiểm tra nghiêm ngặt về hồ sơ nhân quyền.

(còn tiếp)

Nguồn: Diễn đàn Thái Bình Dương

CĐ số 01/2023

Cái bẫy Trung Quốc – Phần II


Khi giải thích về tình trạng căng thẳng Mỹ – Trung ngày càng tăng, một số học giả đã chỉ ra sự thay đổi về cấu trúc trong cán cân quyền lực. Graham Allison đã viết về “cái bẫy Thucydides” với quan điểm cho rằng khi một quốc gia đang trỗi dậy thách thức cường quốc đã tồn tại từ lâu, thì cuộc chiến giành quyền bá chủ thường xảy ra. Tuy nhiên, việc chỉ tập trung vào năng lực sẽ gặp trở ngại khi tính đến những khúc quanh trong quan hệ Mỹ-Trung, vốn cũng bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhận thức về mối đe dọa, cơ hội và mục đích. Sau chuyến thăm của Tổng thống Richard Nixon tới Bắc Kinh vào năm 1972, Mỹ đã coi Trung Quốc là đối tác chiến lược trong việc kiềm chế Liên Xô. Và khi thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh bắt đầu, các nhà hoạch định chính sách Mỹ bắt đầu triển khai chiến lược phòng ngừa trước sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc, cho dù họ đang tìm cách khuyến khích nước này tự do hóa kinh tế và chính trị thông qua tiến trình hội nhập sâu rộng hơn.

Trong suốt thời kỳ này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhìn thấy cơ hội chiến lược để ưu tiên phát triển đấn ước trong môi trường quốc tế ổn định. Nước này mở cửa cho đầu tư nước ngoài và các hoạt động tư bản, nỗ lực học hỏi từ kinh nghiệm chuyên môn của nước ngoài trong khi vẫn tích cực chống lại tình trạng “ô nhiễm tư tưởng” và “tự do hóa tư sản”. Bất chấp mọi nỗ lực giải quyết căng thẳng, kể cả trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan 1995 – 1996 và sau vụ NATO ném bom Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư năm 1999, các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhìn chung vẫn tuân thủ chiến lược “giấu mình chờ thời” của cựu lãnh đạo Đặng Tiểu Bình để tránh gây ra cảm giác bị đe dọa, có thể thúc đẩy các nỗ lực nhằm bóp nghẹt sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Nếu phải chỉ ra thời điểm được coi là bước ngoặt trong cách tiếp cận thế giới của Trung Quốc, thì đó là năm 2008 chứ không phải là năm 2021, khi Tập Cận Bình lên nắm quyền. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã khiến Bắc Kinh từ bỏ quan điểm rằng Trung Quốc là học trò và Mỹ là giáo viên khi nói đến quản trị kinh tế. Thế vận hội mùa Hè năm đó tại Bắc Kinh được cho là nhằm đánh dấu sự xuất hiện của Trung Quốc trên vũ đài quốc tế, nhưng phần lớn thế giới lại tập trung vào các cuộc bạo loạn ở Tây Tạng, nơi quan chức Trung Quốc nỗ lực ngăn cản sự can thiệp từ bên ngoài vào cuộc đàn áp sau đó của chính quyền nước này. Đảng Cộng sản Trung Quốc mặc định rằng các lực lượng nước ngoài có ý định cản trở sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Trong những năm sau đó, phong trào tự do hóa đã phát triển theo chiều ngược lại: Đảng Cộng sản Trung Quốc cản trở việc truyền bá tư tưởng tự do và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, đè bẹp các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ ở Hong Kong, xây dựng hệ thống giám sát của nhà nước trên diện rộng và thiết lập các trại giam ở Tân Cương. Tất cả những động thái này là biểu hiện của quan niệm rộng hơn về an ninh quốc gia, được khắc họa bởi những lo ngại về tình trạng bất ổn. Trên bình diện quốc tế, Trung Quốc từ bỏ mọi chiến lược thể hiện sự khiêm tốn. Nước này trở nên quyết đoán hơn trong việc bảo vệ các yêu sách lãnh thổ và lãnh hải của mình (cụ thể là yêu sách chủ quyền đối với khu vực dọc biên giới Ấn Độ, biển Nam Trung Hoa, biển Hoa Đông và Đài Loan). Sau khi vượt qua Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vào năm 2010, Trung Quốc bắt đầu sử dụng sức mạnh kinh tế để buộc các bên phải tôn trọng lợi ích của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nước này không ngừng phát triển năng lực quân sự, kể cả việc mở rộng kho vũ khí hạt nhân, để ngăn chặn Mỹ can thiệp vào khu vực. Quyết định phát triển năng lực này đã có trước thời Tập Cận Bình nhưng dưới sự lãnh đạo của ông, Bắc Kinh đã áp dụng cách tiếp cận mang tính cưỡng ép và cứng rắn hơn.

Trước việc năng lực của Trung Quốc ngày càng tăng và nước này sẵn sàng sử dụng chúng, Washington đã tăng cường chính sách phòng ngừa rủi ro. Chính quyền Obama tuyên bố sẽ “xoay trục” sang châu Á. Và trong khi Washington đang tìm kiếm một vai trò mang tính xây dựng cho Trung Quốc trong hệ thống quốc tế, thì tốc độ trỗi dậy của Trung Quốc lại vượt quá sự sẵn sàng của Mỹ. Sau khi Donald Trump đắc cử tổng thống, đánh giá của Washington trở nên cực đoan: Theo lời Trump, một chế độ theo chủ nghĩa Marx-Lenin đang “bắt nạt” Mỹ, thống trị thế giới và lật đổ nền dân chủ. Đáp lại, Chính quyền Trump đã khơi mào một cuộc chiến thương mại và bắt đầu nói về việc tách rời nền kinh tế Mỹ khỏi nền kinh tế Trung Quốc, đồng thời đưa ra một loạt sáng kiến nhằm chống lại ảnh hưởng của cường quốc châu Á này và làm suy yếu Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong phát biểu của mình, các quan chức cấp cao Mỹ ám chỉ đến việc thay đổi chế độ, kêu gọi thực hiện các bước nhằm trao quyền cho người dân Trung Quốc và tìm kiếm hình thức chính phủ khác, đồng thời nhấn mạnh rằng lịch sử Trung Quốc chứa đựng một con đường khác cho người dân nước này.

Chính quyền Biden đã ngừng mọi phát ngôn về việc thay đổi chế độ ở Trung Quốc và phối hợp chặt chẽ cách tiếp cận của họ với các đồng minh và đối tác, tương phản với chủ nghĩa đơn phương của Trump, nhưng vẫn tiếp tục nhiều chính sách của người tiền nhiệm và ủng hộ ý kiến rằng cần phải đánh giá ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc. Một số nỗ lực, chẳng hạn như Sáng kiến Trung Quốc của Bộ Tư pháp, nhằm truy tố hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và gián điệp kinh tế đã được điều chỉnh. Tuy nhiên, các biện pháp khác vnẫ được duy trì, trong đó có việc áp đặt thuế quan, kiểm soát xuất khẩu, hạn chế thị thực và mở rộng các lệnh trừng phạt đối với quan chức và công ty Trung Quốc. Trong khi đó, sự phản đối kịch liệt hơn bao giờ hết đối Trung Quốc có lẽ là điều duy nhất có thể thấy ở cả đảng Dân chủ lẫn đảng Cộng hòa tại Quốc hội, cho dù mối quan tâm chung này chỉ dẫn tới một thỏa thuận hạn chế (chẳng hạn như đạo luật gần đây về đầu tư chất bán dẫn trong nước) về cách thức ganh đua mà Mỹ nên áp dụng.

Trong hơn 5 thập kỷ qua, Mỹ đã cố gắng kết hợp giữa can dự và răn đe để đưa Trung Quốc gia nhập hệ thống quốc tế giúp duy trì lợi ích và giá trị của Mỹ. Cho dù các nhà hoạch định chính sách Mỹ biết rõ đối tác Trung Quốc cam kết bảo vệ vị trí cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, song họ vẫn cho rằng thế giới sẽ an toàn hơn khi Trung Quốc ở bên trong hệ thống quốc tế. Quan điểm này được cho là đúng. Tuy nhiên, nhiều người ở Washington vẫn hy vọng tìm cách thúc đẩy sự phát triển tự do của Trung Quốc. Do đó, chủ nghĩa độc đoán ngày càng tăng của Trung Quốc đã dẫn tới câu chuyện về thất bại toàn diện trong chính sách của Mỹ. Việc tập trung khắc phục thất bại đó đã khiến Bắc Kinh trở nên bất an và tin rằng Mỹ và các đồng minh sẽ không chấp nhận việc Trung Quốc trở thành siêu cường.

Giờ đây, cả hai nước đều tỏ ý sẵn sàng làm mọi việc cần thiết để chứng minh rằng bất kỳ yêu cầu nào của bên còn lại cũng đều sẽ không được đáp ứng. Cả Mỹ và Trung Quốc đều tin rằng đối phương chỉ lùi bước trước sức mạnh và coi sự kiềm chế là điểm yếu. Một ngày sau cuộc gặp với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore hồi tháng 6 vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, tướng Ngụy Phượng Hòa, đã cam kết “chiến đấu đến cùng” với Đài Loan.

(còn tiếp)

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/china/china-trap-us-foreign-policy-zero-sum-competition

TLTKĐB – 02 & 03, 04/11/2022

Thế giới trải qua một năm nhiều biến động – Phần XIII


XII/ Mỹ tăng cường can dự Nam Á do Ấn Độ nắm vai trò chủ đạo

(Hồ Sĩ Thắng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nam Á, Viện Nghiên cứu quan hệ quốc tế hiện đại Trung Quốc)

Năm 2022, sự phát triển kinh tế cũng như tình hình chính trị ở Nam Á đã xuất hiện cục diện hoàn toàn tương phản nhau.

Hoạt động kinh tế của các quốc gia bị “phân cực”

Thành tích kinh tế của Ấn Độ là nổi bật. Trong quý 2 của năm tài chính 2022 – 2023 (từ tháng 4 đến tháng 6), tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Ấn Độ lên tới 13,5%, đây là tốc độ tăng trưởng cao nhất thời gian này trong số các thành viên của Nhóm các nền kinh tế lớn (G20). Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ấn Độ đã vượt qua Anh để trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới. Trong 1 năm qua, để thông suốt vòng tuần hoàn nền kinh tế nội địa, Ấn Độ đã tập trung vào 5 lĩnh vực chính là phát triển ngành sản xuất, thúc đẩy hiện đại hóa năng lực tài chính của nhà nước, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế kỹ thuật số và khuyến khích các tập đoàn địa phương đóng vai trò chủ đạo trong phát triển ngành sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế của Ấn Độ vẫn phải đối mặt với những thách thức quan trọng do cơ cấu mất cân bằng gia tăng và quy mô tầng lớp trung lưu bị thu hẹp.

Các nước vừa và nhỏ ở Nam Á đều đang rơi vào tình trạng bế tắc phát triển. Nhiều cuộc khủng hoảng như dự trữ ngoại hối giảm, đồng nội tệ mất giá, tỷ lệ lạm phát cao, nợ cao… đã gây khó khăn cho các quốc gia trung bình và nhỏ ở Nam Á. Tình hình đặc biệt nghiêm trọng đối với Sri Lanka, đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ khi giành được độc lập vào năm 1948. Từ khi dịch COVID-19 bùng phát, dự trữ ngoại hối của nước này giảm mạnh, tỷ lệ lạm phát liên tục tăng cao, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Ngày 19/5/2022, Sri Lanka lần đầu tiên vỡ nợ kể từ khi độc lập. Ngày 1/7, tỷ giá hối đoái của đồng rupee so với USD đã giảm hơn 80% trong vòng 4 tháng, khiến Sri Lanka trở thành quốc gia có đồng tiền mất giá lớn nhất trong khu vực. Ngày 5/7, trước quốc hội, Thủ tướng khi đó là Ranil Wickremesinghe tuyên bố đất nước Sri Lanka đã bị phá sản.

Áp lực từ bên ngoài gây ra những lo ngại trong nội bộ các nước Nam Á. Năm 2022, việc Ngân hàng dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục tăng lãi suất đã phá vỡ sự ổn định tài chính của các nước Nam Á. Cuộc khủng hoảng Ukraine cũng kéo theo lạm phát đến các quốc gia Nam Á phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu năng lượng và thực phẩm. Đồng thời, nhiều quốc gia ở Nam Á bị “thâm hụt kép” về thu chi ngân sách và thanh toán quốc tế, dẫn đến nền kinh tế của họ khó chống đỡ rủi ro đến từ bên ngoài.

Năm 2022, tình hình chính trị của Ấn Độ ổn định, trong khi các nước trung bình và nhỏ ở Nam Á nhìn chung rơi vào tình trạng hỗn loạn. Một là sự thay đổi của chính quyền bất ngờ ở Pakistan. Tháng 4/2022, Quốc hội Pakistan đã bỏ phiếu bất tín nhiệm do liên minh đối lập khởi xướng, phế truất Thủ tướng Imran Khan, khiến ông trở thành thủ tướng đầu tiên bị lật đổ bởi một “kiến nghị bất tín nhiệm” kể từ khi thành lập Pakistan. Shehbaz Sharif, lãnh đạo liên minh đối lập và chủ tịch Liên đoàn Hồi giáo (PML-N), được bầu làm thủ tướng và sẽ giữ chức vụ này cho đến cuộc tổng tuyển cử năm 2023. Hai là chính quyền đang ở thế mạnh của Sri Lanka bị cuộc khủng hoảng kinh tế lật đổ. Cuộc khủng hoảng Ukraine đã làm gia tăng khủng hoảng kinh tế vốn đã nghiêm trọng ở Sri Lanka, nhanh chóng lan sang lĩnh vực chính trị. Từ cuối tháng 3/2022, các cuộc biểu tình chống chính phủ ở Sri Lanka tiếp tục lan rộng và chế độ của gia tộc Rajapaksa cầm quyền hơn mười năm đã sụp đổ. Ngày 20/7, Wickremesinghe, lãnh đạo đảng quốc gia thống nhất (UNP), được bầu làm tổng thống mới, nhưng đảng do ông lãnh đạo chỉ giữ một ghế trong số 225 ghế quốc hội. Đồng thời, do những cuộc tổng tuyển cử sắp diễn ra ở các quốc gia như Bangladesh, Nepal…, các cuộc đấu tranh đảng phái trong nước cũng tăng lên nhiều.

Việc Ấn Độ thân Mỹ, xa rời Trung Quốc rõ ràng hơn

Ấn Độ đã đẩy mạnh chính sách sản xuất loại bỏ ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong lĩnh vực kinh tế, Chính quyền Modi chủ yếu áp dụng chính sách “thay thế ngành sản xuất của Trung Quốc”, đó là thúc đẩy chính sách sản xuất, tiêu biểu là Chương trình khuyến khích liên kết sản xuất (PLI), chính sách kinh tế mới rõ rệt nhất là tìm kiếm sản phẩm thay thế hàng Trung Quốc và ký hiệp định thương mại tự do song phương trên toàn thế giới, hội nhập vào chuỗi sáng tạo và chuỗi giá trị của Mỹ và phương Tây. Ở cấp độ khu vực, Chính quyền Modi đã lợi dụng cơ hội kinh tế của đa số các nước Nam Á trung bình và nhỏ rơi vào bế tắc, tích cực thúc đẩy chính sách ưu tiên nước láng giềng, mong muốn tăng cường vai trò chủ đạo đối với những quốc gia trung bình và nhỏ ở Nam Á. Trong lĩnh vực an ninh, Ấn Độ tích cực xây dựng “bức tường lửa” ở khu vực Ấn Độ Dương. Nước này đã mua nhiều vũ khí như máy bay trực thăng chống tàu ngầm, máy bay không người lái chống ngầm… để tăng cường khả năng trinh sát và kiểm soát của tàu nước này ở khu vực Ấn Độ Dương, đẩy mạnh triển khai mạng lưới radar xung quanh Ấn Độ Dương và tổ chức lại đối thoại an ninh ba bên với Sri Lanka và Maldives trong Hiệp định an ninh Colombo, tăng cường trọng điểm hợp tác nhận thức trong lĩnh vực hàng hải, chia sẻ thông tin tình báo trên biển. Đồng thời, Ấn Độ đã tích cực hội nhập vào cơ chế an ninh bốn bên (Bộ tứ) và tham gia xây dựng những cơ chế như Quan hệ đối tác Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương về nhận thức trong lĩnh vực hàng hải (IPMDA).

Mỹ đã tăng cường can dự vào công việc khu vực Nam Á. Mỹ thường xuyên lôi kéo ở tầm chiến lược đối với Ấn Độ. Tháng 2/2022, văn bản Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ do Chính quyền Biden công bố đã nêu rõ ủng hộ sự trỗi dậy bền vững và vị thế lãnh đạo khu vực của Ấn Độ. Tháng 10, Mỹ công bố văn bản mới Báo cáo Chiến lược An ninh Quốc gia, trong đó có nội dung liên quan đến việc Ấn Độ nâng cấp toàn diện vị thế chiến lược của nước này. Do đó, sự hợp tác chiến lược giữa Mỹ và Ấn Độ đã đi sâu phát triển trên các lĩnh vực như chuỗi cung ứng, quốc phòng và công nghệ mới nổi… Đồng thời, Mỹ thường xuyên gia tăng sức ép đối với các nước Nam Á trung bình và nhỏ như Nepal, thúc đẩy thỏa thuận Dự án thách thức thiên niên kỷ (MCC) và Chương trình đối tác nhà nước (SPP), thực chất là để tăng cường can dự an ninh vào Nepal. Cuối cùng, do sức ép của Mỹ, Nepal đã thông qua MCC. SPP đã bị hủy bỏ do sự phản đối mạnh mẽ từ đảng cầm quyền và đối lập. Sau khi vội vàng rút quân khỏi Afghanistan, Mỹ từ chối công nhận chế độ Taliban ở Afghanistan, không đồng ý trả lại tài sản của Ngân hàng Trung ương Afghanistan bị phong tỏa ở Mỹ lên tới 7 tỷ USD, tiếp tục giảm bớt hoạt động can dự chống khủng bố vào Afghanistan, có ý định biến vấn đề Afghanistan trở thành “gánh nặng khu vực”.

(còn tiếp)

Nguồn: Tạp chí Tri thức thế giới (TQ) – số 24/2022

TLTKĐB 3-11/01/2023

Cái bẫy Trung Quốc – Phần I


Jessica Chen Weiss

Việc cạnh tranh với Trung Quốc bắt đầu ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Mỹ. Đối mặt với một đối thủ gần như ngang cơ và theo đuổi lợi ích cũng như giá trị khác biệt, các nhà chính trị và hoạch định chính sách Mỹ buộc phải tập trung chống lại Trung Quốc đến mức khiến họ có nguy cơ đánh mất các lợi ích và giá trị được xem là nền tảng cho chiến lược của Mỹ. Lộ trình hiện tại không chỉ khiến mối quan hệ Mỹ-Trung tiếp tục xấu đi, mà còn có nguy cơ dẫn đến xung đột thảm khốc và làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Mỹ trên thế giới, cũng như sức sống của xã hội và nền dân chủ Mỹ ở trong nước.

Có lý do chính đáng để giải thích vì sao việc Trung Quốc trở nên hùng mạnh hơn lại là mối quan ngại lớn đối với các nhà hoạch định chính sách và nhà chiến lược ở Washington (cũng như nhiều thủ đô khác). Đặc biệt dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình, Bắc Kinh ngày càng độc đoán hơn ở trong nước và hung hăng hơn ở nước ngoài. Chính quyền nước này đã đàn áp tàn bạo người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, trấn áp các quyền tự do dân chủ ở Hong Kong, nhanh chóng mở rộng kho vũ khí thông thường và hạt nhân, nỗ lực ngăn chặn máy bay quân sự nước ngoài ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và biển Hoa Đông, xuất khẩu công nghệ kiểm duyệt và giám sát, và nỗ lực định hình lại các chuẩn mực quốc tế. Danh sách này có thể còn kéo dài hơn nữa, nhất là khi Tập Cận Bình tiếp tục nhiệm kỳ 5 năm lần thứ ba và củng cố hơn nữa quyền kiểm soát của mình.

Tuy nhiên, cảnh báo có nguy cơ chuyển thành nỗi sợ, dẫn tới việc định hình lại chính sách và xã hội Mỹ theo những cách phản tác dụng và cuối cùng là có hại. Trong nỗ lực xây dựng chiến lược quốc gia phù hợp với một Trung Quốc quyết đoán và mạnh mẽ hơn, Washington đã tìm cách thiết lập trạng thái ổn định – không có chiến thắng hay thất bại hoàn toàn – có thể chấp nhận được đối với chính phủ hai nước và với cái giá nhất định mà công dân, giới doanh nghiệp và các bên liên quan khác sẵn sàng trả. Chưa rõ Mỹ đang tìm kiếm điều gì và không có sự thống nhất trong nước về cách thức Mỹ nên áp dụng để liên hệ với thế giới, chính sách đối ngoại của Mỹ đã trở nên mang tính phản ứng, thay vì hướng tới mục tiêu mong muốn.

Chính quyền Biden thừa nhận rằng Mỹ và các đối tác của họ phải đưa ra giải pháp thay thế hấp dẫn cho những gì Trung Quốc đang sử dụng và họ đã thực hiện một số bước đi đúng hướng, chẳng hạn như đưa ra sáng kiến đa phương để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và nạn đói. Tuy nhiên, bản năng chống lại mọi sáng kiến, dự án và hành động khiêu khích của Trung Quốc vẫn chiếm ưu thế vượt qua cả những nỗ lực nhằm hồi sinh hệ thống quốc tế bao trùm nhằm bảo vệ các lợi ích và giá trị của họ ngay cả khi cán cân quyền lực toàn cầu thay đổi. Cho dù cuộc xung đột tại Ukraine đòi hỏi sự chú ý và nguồn lực đáng kể của Mỹ, nhưng tác động lớn hơn của nó là khiến Mỹ phải tăng cường tập trung vào cạnh tranh địa chính trị, được củng cố bởi sự liên kết giữa Trung Quốc và Nga.

Giới lãnh đạo ở Washington và Bắc Kinh đều bày tỏ mong muốn tránh một cuộc chiến tranh lạnh mới. Tuy nhiên, trên thực tế, hai quốc gia đã tham gia cuộc cạnh tranh toàn cầu. Mỹ tìm cách duy trì sự ưu việt của mình và hệ thống quốc tế đặc quyền để bảo vệ lợi ích và giá trị của họ. Trong khi đó, Trung Quốc cho rằng vai trò lãnh đạo của Mỹ đang bị suy yếu do sự lơ là và thói đạo đức giả, qua đó tạo cớ ép buộc những nước khác chấp nhận ảnh hưởng và tính hợp pháp của họ. Ngày càng có nhiều người tin rằng khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi và thậm chí là cần thiết. Họ cho rằng các quy tắc về luật chơi công bằng và sự cộng sinh vốn được hai bên chấp nhận chỉ xuất hiện sau các cuộc đối đầu trực tiếp đặc trưng cho những năm đầu Chiến tranh Lạnh – sự tồn tại của chúng vốn khi đó đã không được đảm bảo giờ đây ngày càng ít được đảm bảo hơn.

Ngya cả khi không xảy ra khủng hoảng, thì các phản ứng cũng đã bắt đầu thúc đẩy Mỹ đưa ra một loạt chính sách mới. Washington thường xuyên rơi vào cái bẫy là cố gắng chống lại các nỗ lực của Trung Quốc trên khắp thế giới mà không chú trọng đến mong muốn của chính quyền và người dân địa phương. Thiếu tầm nhìn hướng tới tương lai phù hợp với đánh giá thực tế về các nguồn lực hiện có, Mỹ phải chật vật tìm cách sắp xếp thứ tự ưu tiên ở nhiều lĩnh vực và khu vực khác nhau. Điều này thường gây tổn hại đến lợi ích lớn hơn của chính họ khi tình hình địa chính trị không tạo thuận lợi để có tiến bộ cần thiết trước những thách thức toàn cầu. Rủi ro dài hạn là Mỹ sẽ không thể tránh được tình trạng thiếu khoan dung ở trong nước và mở rộng quá mức phạm vi can dự ở nước ngoài khi tìm cách kiểm soát cuộc cạnh tranh kéo dài hàng thập kỷ. Khi cố gắng vượt qua Trung Quốc, Mỹ có thể làm suy yếu lợi thế của chính mình và che khuất tầm nhìn vốn là cơ sở cho sự lãnh đạo bền vững của họ.

Kim chỉ nam cho cách tiếp cận tốt hơn phải là thế giới mà Mỹ đang tìm kiếm: Đó phải là những gì họ mong muốn, chứ không phải những gì họ lo sợ. Cho dù liên quan đến biện pháp trừng phạt bằng thuế quan hay hành động quân sự, thì các chính sách cần được đánh giá trên cơ sở cân nhắc liệu chúng tiến triển hướng tới thế giới đó hay không thay vì liệu chúng có làm suy yếu lợi ích của Trung Quốc hay mang lại lợi thế cho Mỹ hay không. Những chính sách đó nên chứng tỏ quyền lực của Mỹ, thay vì phản ánh hành vi nhằm mục đích ngăn cản. Thay vì nhìn lại sự ưu việt trong quá khứ, Washington cần cam kết bằng hành động cũng như lời nói, hướng tới tầm nhìn bao quát, tích cực về hệ thống quốc tế đã qua cải cách, bao gồm cả vấn đề Trung Quốc, và đáp ứng nhu cầu hiện tại để giải quyết những thách thức chung.

Điều đó không có nghĩa là từ bỏ những nỗ lực đã được điều chỉnh hợp lý nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc, tăng cường khả năng kháng cự trước sự ép buộc của nước này và củng cố các liên minh của Mỹ. Thay vào đó, những nỗ lực này phải được tiếp tục cùng với các cuộc thảo luận có ý nghĩa với Bắc Kinh – không chỉ về việc tăng cường thông tin liên lạc khi xảy ra khủng hoảng và giảm thiểu rủi ro, mà còn về các điều khoản hợp lý để cùng tồn tại và tương lai của hệ thống quốc tế mà trong đó Bắc Kinh sẽ có vai trò định hướng nhất định. Tầm nhìn toàn cầu bao trùm và rõ ràng phải vừa mang tính cạnh tranh, vừa làm rõ những gì Bắc Kinh sẽ mất. Nếu không, khi mối quan hệ xấu đi và cảm giác bị đe dọa tăng lên, logic cạnh tranh “được mất ngang nhau” sẽ càng trở nên áp đảo. Kết quả là vòng xoáy leo thang sẽ làm suy yếu cả lợi ích và giá trị của Mỹ. Logic đó sẽ làm thay đổi các ưu tiên toàn cầu, làm xói mòn hệ thống quốc tế, làm gia tăng tình trạng bất an, củng cố xu hướng bè nhóm, gây tổn hại đến chủ nghĩa đa nguyên và cản trở tiến trình hội nhập của công dân – tình trạng có thể sẽ kéo dài và cuối cùng dẫn đến thảm họa.

Cạnh tranh là điều không tránh khỏi

Đối với Mỹ, lý do giải thích vì sao mối quan hệ giữa hai nhà nước trở nên tồi tệ là Trung Quốc đã thay đổi: Trong một hoặc hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã chấm dứt chính sách “giấu mình chờ thời”, tăng cường đàn áp trong nước và trở nên quyết đoán hơn ở nước ngoài, cho dù vẫn tiếp tục tận dụng các mối quan hệ và thể chế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thay đổi đó là kết quả của sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc và cách Tập Cận bình sử dụng ảnh hưởng đó. Nhưng cũng phải thừa nhận những thay đổi tương ứng trong chính sách và hoạt động chính trị của Mỹ khi nước này phản ứng với những diễn biến ở Trung Quốc. Washington đã đáp trả các hành động của Bắc Kinh bằng một loạt hành động trừng phạt và chính sách bảo hộ, từ áp đặt thuế quan đến hạn chế trao đổi thương mại và khoa học. Trong quá trình này, Mỹ đã rời xa các nguyên tắc cởi mở và không phân biệt đối xử, vốn là lợi thế so sánh từ lâu của họ, đồng thời củng cố niềm tin của Bắc Kinh rằng Mỹ sẽ không bao giờ chấp nhận một Trung Quốc hùng mạnh hơn. Trong khi đó, Mỹ doa động trong việc ủng hộ các thể chế hóa và thỏa thuận quốc tế đã tồn tại từ lâu. Trong khi đó, Mỹ dao động trong việc ủng hộ các thể chế và thỏa thuận quốc tế đã tồn tại từ lâu, một phần do bất mãn trước ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế.

Cách tiếp cận hung hăng hơn ở cả hai phía đã tạo ra động lực có tính phản chiếu. Trong khi Bắc Kinh tin rằng họ chỉ có thể thuyết phục Mỹ chấp nhận sống chung với một Trung Quốc hùng mạnh thông qua cuộc chiến kéo dài, thì Washington tin rằng họ phải kiểm soát sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc để bảo vệ vị thế thống trị của mình. Kết quả là tình hình ngày càng xấu đi và điều này thúc đẩy đối phương thực hiện các bước tiếp theo để tăng cường năng lực của mình.

(còn tiếp)

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/china/china-trap-us-foreign-policy-zero-sum-competition

TLTKĐB – 02 & 03, 04/11/2022

Thành quả nổi bật của quan hệ Việt – Mỹ và những thách thức với Việt Nam


Đài RFA ngày 18/4 dẫn lời Phó Giáo sư Tiến sĩ Jonathan London thuộc Đại học Leiden (Hà Lan) cho rằng Mỹ và Việt Nam đã đạt được 2 thành quả quan trọng nhân chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đến Hà Nội từ ngày 14 – 16/4.

Thứ nhất, chuyến thăm khẳng định tầm quan trọng của mối quan hệ Việt – Mỹ toàn diện và đa lĩnh vực về lâu dài. Một trong những minh chứng rõ nét là việc Mỹ triển khai xây dựng khu phức hợp Đại sứ quán mới tại Hà Nội.

Thứ hai, sự hợp tác Việt – Mỹ trong vấn đề Biển Đông cũng rất rõ nét, khi lãnh đạo hai nước cùng nhấn mạnh phải có một trật tự trong khu vực tuân theo luật pháp quốc tế. Điều này đã đáp ứng yêu cầu của mối quan hệ song phương lâu dài và củng cố tình hình an ninh – trật tự trên Biển Đông – một vấn đề có tầm quan trọng cho hai bên.

Phó Giáo sư Jonathan nhận định, việc Ngoại trưởng Mỹ tiếp xúc với những lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam, trong đó có người lãnh đạo Đảng và người đứng đầu Chính phủ, cho thấy một mô hình bình thường hóa quan hệ được định hình trong tiếp xúc, trao đổi cấp cao song phương: “Trước thời của Tổng thống Obama, một người trong Chính phủ Mỹ gặp trực tiếp người trong Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều gần như không có. Còn hiện nay, điều này đã trở thành một yếu tố rất là bình thường. Các quan chức của Mỹ sang Việt Nam có thể qua đó trao đổi rất thẳng thắn với phía chủ nhà. Đây là điểm đáng lưu ý qua chuyến thăm của Ngoại trưởng Blinken”.

Những thách thức với Việt Nam và khả năng giúp đỡ của Mỹ

Phó Giáo sư Jonathan nhận thấy, trong thời gian vừa qua, đã có một số trục trặc, tắc nghẽn mà Việt Nam cần cố gắng tháo gỡ, giải quyết sớm. Chiến dịch chống tham nhũng đã đạt được một số tiến bộ nhất định, nhưng Việt Nam cần tiến hành những cải cách về hành chính và luật pháp thực sự toàn diện và hiệu quả. Ngoài ra, hơn bao giờ hết, Việt Nam cần sớm giải quyết những trục trặc trong nền kinh tế.

Thế giới đang chờ xem liệu Việt Nam có thể giải quyết được hay không những hạn chế của nền kinh tế trong nước, cũng như những vấn đề như kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, hệ thống năng lượng chưa được nâng cấp, lao động có kỹ năng cao còn ít… Nếu không giải quyết được những vấn đề này trong khoảng 10 năm tới, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội để hiện thực hóa tiềm năng, trong đó vai trò của Mỹ gần như là chìa khóa để giúp Việt Nam về đầu tư vào khoa học công nghệ, hợp tác giáo dục, tiếp cận thị trường – những lĩnh vực mà Mỹ gần như đóng vai trò duy nhất.

Về khía cạnh hợp tác an ninh, dù chưa phải là một đồng minh của Mỹ và mối quan hệ Việt – Mỹ có thể khác so với mối quan hệ giữa Mỹ với Philippines, Nhật Bản hay Hàn Quốc…, nhưng Việt Nam sẽ giữ được một vị trí đặc biệt nhờ đặc điểm của Việt Nam trong khu vực.

Theo ông Jonathan, Việt Nam không muốn có mối quan hệ gọi là đồng minh và đã rất là rõ ràng trong điều này, nhưng Việt Nam có lý do để “nuôi” mối quan hệ với Mỹ: “Trung Quốc là nền kinh tế hàng đầu thế giới, nhưng hiện Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Và không chỉ về vấn đề thương mại, Mỹ còn hỗ trợ tốt cho Việt Nam trong vấn đề an ninh. Không nên chờ đợi ngày Việt Nam và Mỹ sẽ thành hai nước đồng minh, vì những điều kiện cụ thể của Việt Nam chưa cho phép. Nhiều người, cả ở Mỹ và Việt Nam, hy vọng rằng trong tương lai không xa, hai nước dần dần có điều kiện để mối quan hệ phát triển sâu hơn nữa”.

“Tính toán” của Mỹ và “mong đợi” của Việt Nam

Trang mạng tờ The Diplomat bình luận, muốn giữ quan hệ bền chặt với phương Tây để làm đối trọng với sức mạnh kinh tế và quân sự của nước láng giềng phương Bắc, Hà Nội duy trì quan hệ với Bắc Kinh đồng thời liên kết với càng nhiều quốc gia khác càng tốt. Những gì Việt Nam mong đợi từ Mỹ (quyền tự chủ chiến lược, tăng trưởng kinh tế và duy trì sự cai trị của Đảng) khác với những gì Mỹ mong muốn từ mối quan hệ với Việt Nam (một đối tác trong việc ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc).

Nếu quan hệ Việt – Mỹ được nâng cấp trong năm nay, Mỹ sẽ được lợi gì và Việt Nam nhận được lợi ích gì? Trả lời phỏng vấn RFA, Giáo sư Carlyle Thayer thuộc Đại học New South Wales (Australia) cho rằng Mỹ sẽ ưu tiên cho vấn đề thương mại cân bằng để mở ra những cơ hội lớn hơn cho các doanh nghiệp Mỹ đầu tư và hoạt động tại Việt Nam, ưu tiên cho sự tham gia của Việt Nam vào Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, cũng như xây dựng một chuỗi cung ứng linh hoạt và an toàn.

Ngoài ra, Mỹ sẽ được hưởng lợi từ sự hợp tác chính trị-ngoại giao chặt chẽ hơn với Việt Nam trong các thể chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và các hiệp hội liên quan đến ASEAN.

Bên cạnh đó, Mỹ sẽ được hưởng lợi gián tiếp bằng cách hỗ trợ Việt Nam xây dựng năng lực để giải quyết các vấn đề an ninh hàng hải ở Biển Đông nhằm củng cố một Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở.

Việt Nam nhắm tới những lợi ích trên diện rộng, từ sự hỗ trợ của Mỹ trong việc tiếp cận nhiều hơn vào thị trường Mỹ; những hỗ trợ trong việc phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; hợp tác giáo dục; môi trường (chống biến đổi khí hậu và chuyển đổi xanh), và vấn đề y tế cũng như việc trao đổi thông tin; và giải quyết các di sản chiến tranh.

Dù được mang tên như thế nào đi nữa, quan hệ Việt – Mỹ có thể sẽ tiếp tục phát triển một cách thực chất trong các lĩnh vực đôi bên cùng quan tâm.

Nguồn: TKNB – 20/04/2023

Thế giới trải qua một năm nhiều biến động – Phần XII


XI/ Chiến lược đối ngoại của Chính quyền Biden

(Giáo sư Triệu Minh Hiếu, Viện nghiên cứu vấn đề quốc tế, Đại học Phúc Đán, Trung Quốc)

Nhìn lại chiến lược đối ngoại của Mỹ năm 2022, đầu tiên cần xem xét là cách Chính quyền Biden xử lý khủng hoảng ở Ukraine, vấn đề này chắc chắn là trọng tâm chính sách đối ngoại của Mỹ trong cả năm 2022. Tuy nhiên, việc ứng phó với cuộc khủng hoảng ở Ukraine không làm gián đoạn việc thúc đẩy điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Chính quyền Biden, mà ngược lại thúc đẩy chính quyền này chú ý hơn đến mối liên hệ giữa các vấn đề đối nội và đối ngoại của Mỹ, tăng cường điều chỉnh chiến lược và chiến thuật một cách khách quan trong các lĩnh vực khác nhau như kinh tế và thương mại, năng lượng, thực phẩm, chuỗi cung ứng, khoa học và công nghệ và quản toàn cầu. Trong bối cảnh khủng hoảng Ukraine, Mỹ cũng đang tiếp tục tăng cường cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc. Để diễn giải chiến lược đối ngoại của Mỹ năm 2022, cần liên hệ những gì đã xảy ra trên ba trục chính này.

Ảnh hưởng sâu rộng của việc can thiệp vào khủng hoảng ở Urkaine

Hiện tại, biện pháp ứng phó của Chính quyền Biden đối với cuộc khủng hoảng Ukraine đã có tác động quan trọng đến trật tự quốc tế.

Vị thế sức mạnh của Nga đã thay đổi do cuộc khủng hoảng Ukraine và sách lược ứng phó của Mỹ đối với xu thế phát triển hợp tác giữa hai cường quốc Trung Quốc và Nga cũng thay đổi. Ngoài việc liên tục hỗ trợ Ukraine trên chiến trường, Mỹ còn cùng các đồng minh ở châu Âu, châu Á và các khu vực khác tiến hành cái gọi là “chiến tranh kinh tế”, gây áp lực lên Nga bằng các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc, thực chất có thời hạn, làm suy yếu và cô lập Nga về lâu dài. Hơn 1000 công ty đa quốc gia phương Tây đã rút khỏi thị trường Nga, tổng giá trị nền kinh tế của hơn 30 quốc gia tham gia lệnh trừng phạt chống lại Nga chiếm hơn 50% tổng giá trị của thế giới. Mỹ cũng tạo dư luận quốc tế, bôi nhọ quan hệ Trung-Nga, tìm cách gây sức ép lên quan hệ Trung-Nga, thậm chí, nước này còn có ý định biến Nga vốn bị phương Tây trừng phạt thành “gánh nặng chiến lược” cho Trung Quốc, đồng thời đẩy mạnh hai mục tiêu là trấn áp đối thủ số một là Trung Quốc và làm suy yếu đến cùng Nga.

Mỹ đang lợi dụng cuộc khủng hoảng Ukraine để thắt chặt quan hệ với châu Âu. Thông qua cách phối hợp với các nước cùng trừng phạt Nga và hỗ trợ Ukraine, “liên minh xuyên Đại Tây Dương” và “vị trí lãnh đạo” của Mỹ trong đó dường như được tái khẳng định và củng cố. Mặc dù nhận thức về “quyền tự chủ chiến lược” của các nước châu Âu như Pháp và Đức đã được cải thiện trong những năm gần đây, nhưng châu Âu có thể phải phụ thuộc nhiều hơn vào sự bảo vệ an ninh do Mỹ cung cấp trong vài năm tới. Với việc Thụy Điển và Phần Lan đạt tiến triển trong gia nhập NATO, sự kiểm soát tổng thể của Mỹ đối với an ninh châu Âu đã được tăng cường trở lại. Bước tiếp theo, Mỹ và châu Âu sẽ tăng cường triển khai quân sự ở sườn phía Đông của NATO và xây dựng kế hoạch răn đe lâu dài đối với Nga. Ba Lan và các nước Trung và Đông Âu khác, đặc biệt là các nước Baltic, sẽ tiếp tục tăng cường tuân thủ và mức độ hợp tác với Mỹ.

Mỹ đang lợi dụng tâm lý bất an, nghi ngờ của các nước châu Âu đối với Trung Quốc để củng cố, mở rộng “mặt trận thống nhất” của Mỹ và châu Âu chống Trung Quốc, trong đó có việc thúc đẩy một số nước châu Âu xích lại gần Mỹ về chính sách trong vấn đề Đài Loan. Hợp tác giữa Hội đồng thương mại và công nghệ Mỹ-EU (TTC) tiếp tục tăng cường. Mỹ muốn sử dụng cơ chế này để thúc đẩy việc áp dụng cơ chế trừng phạt và “kinh nghiệm” chống Nga đối với Trung Quốc. Mỹ và châu Âu vẫn đang tăng cường hợp tác xung quanh Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của riêng họ. Các nước châu Âu như Pháp, Đức và Anh đã đẩy mạnh các hoạt động quân sự và sắp xếp liên quan trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, một sự kiện nổi bật vào năm 2022 là việc thiết lập quan hệ đối tác an ninh ba bên giữa Mỹ, Anh và Australia (AUKUS).

Hệ thống Bretton Woods đang được chuẩn bị

Mỹ cũng đang sử dụng cuộc khủng hoảng Ukraine để thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế “kiểu câu lạc bộ”. Mỹ không phải không muốn toàn cầu hóa kinh tế và nhiều điều chỉnh của nước này đối với Trung Quốc cũng không chỉ đơn giản là tìm cách “tách rời” và “cắt đứt chuỗi cung ứng”, mà là hy vọng thông qua các thỏa thậun thể chế nhỏ hơn, dễ kiểm soát hơn và có mức độ tin cậy lẫn nhau cao hơn giữa các thành viên để nâng cấp các quy tắc kinh tế, thương mại và công nghệ quốc tế do Mỹ nắm vai trò chủ đạo, làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc trong cấu trúc kinh tế toàn cầu bằng cách định hình lại chuỗi cung ứng, thậm chí cố gắng từng bước xây dựng hệ thống “chiến tranh kinh tế” chống lại các “đối thủ cạnh tranh chiến lược” như Trung Quốc. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Yellen đã công khai đề xuất tạo ra một “Hệ thống Bretton Woods mới” (Bretton Woods là một hệ thống tiền tệ quốc tế dùng đồng USD thay thế cho một thước đo duy nhất để thanh toán tiền tệ quốc tế và lưu trữ dự trữ. Hệ thống này tồn tại từ năm 1944 đến năm 1976 và ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế thế giới – ND).

Với vai trò là biện pháp quan trọng để định hình lại hệ thống kinh tế quốc tế, Mỹ đã chính thức khởi động Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPEF) vào tháng 5/2022. Nhìn bề ngoài, cơ chế này có vẻ thiếu tính ràng buộc, nhưng cần chú ý tác động thực sự của nó đối với chuỗi cung ứng và các khía cạnh khác. 7 trong số 10 nước ASEAN đã chọn tham gia ngay lập tức, Malaysia và các quốc gia khác hy vọng sẽ nhận được nhiều đầu tư hơn từ Mỹ nhằm nâng cao vị trí của những nước này trong sắp xếp chuỗi công nghiệp toàn cầu như chip. Chính quyền Biden hy vọng rằng IPEF sẽ đạt được các thỏa thuận cụ thể vào năm 2023. Ngoài ra, Mỹ cũng đang thúc đẩy các cơ chế như Quan hệ đối tác về cơ sở hạ tầng và đầu tư toàn cầu (PGII) và Quan hệ đối tác vì thịnh vượng kinh tế châu M4y (APEP).

Một đặc điểm nổi bật khác trong chiến lược kinh tế quốc tế của Mỹ là tăng cường đầu tư vào nền kinh tế số và công nghệ số. Cuộc khủng hoảng Ukraine cho chúng ta thấy rằng quân đội thế giới đang bước vào một giai đoạn mới của tác chiến thông minh và nhu cầu quân sự về mọi mặt đều liên quan mật thiết hơn đến chip. Đầu tháng 10/2022, Chính quyền Biden đã ban hành lệnh cấm chip nghiêm ngặt chưa từng có, mục đích là để đảm bảo Trung Quốc khó có được những con chip cao cấp cần thiết cho trí tuệ nhân tạo, siêu máy tính và tên lửa siêu thanh.

Đọ sức chiến lược với Trung Quốc ngày càng sâu sắc

Mỹ đã bước vào một giai đạon mới của cuộc đọ sức với Trung Quốc trong các cơ chế quản trị toàn cầu như Liên hợp quốc, G20 và cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu cũng đang nóng lên. Bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng Ukraine, các vấn đề như cải tổ Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và vị thế của Nga trong các cơ quan liên quan của Liên hợp quốc và G20 đều trở thành điểm chú ý ngoại giao của Mỹ. Cùng với việc cuộc khủng hoảng Ukraine ngày càng sâu sắc, Mỹ đã tăng cường phát triển và triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật, tăng cường điều chỉnh về phương diện thúc đẩy “răn đe mở rộng”, nỗ lực của tất cả các bên nhằm xây dựng các quy tắc quản trị an ninh toàn cầu xung quanh các vấn đề như vũ khí hóa trí tuệ nhân tạo và an ninh không gian đã trở nên khó khăn hơn, một đợt chạy đua vũ trang toàn cầu mới cần được chú ý và khiến tất cả các bên cũng trở nên khó khăn hơn trong việc quản lý rủi ro xung đột.

Từ báo cáo Chiến lược an ninh quốc gia do Chính quyền Biden công bố vào tháng 10/2022 cho thấy Mỹ tập trung hơn vào cái gọi là “thách thức từ Trung Quốc”. Chính quyền Biden nhấn mạnh rằng 10 năm tới sẽ là “thập kỷ quyết định” để Mỹ cạnh tranh với Trung Quốc và mục tiêu tổng thể trong chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc là “cạnh tranh để giành chiến thắng”. Đồng thời, Chính quyền Biden cũng đang cố gắng tìm kiếm sự cân bằng mới giữa thúc đẩy cạnh tranh nước lớn và giải quyết các thách thức xuyên quốc gia, nhấn mạnh rằng “Mỹ và Trung Quốc có thể chung sống hòa bình và hai nước cũng có thể cùng chia sẻ và cùng đóng góp cho sự tiến bộ của nhân loại”. Trong lời mở đầu của báo cáo, Biden cho rằng thế giới đang ở thời điểm bước ngoặt, “nền dân chủ” vẫn có tác dụng, Mỹ có thể giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này trong thế kỷ 21. Rõ ràng, Mỹ ngày càng quyết tâm giành chiến thắng trong tranh chấp Trung-Mỹ và Trung Quốc cần chuẩn bị tốt để đối phó với sức ép lớn hơn.

(còn tiếp)

Nguồn: Tạp chí Tri thức thế giới (TQ) – số 24/2022

TLTKĐB 3-11/01/2023