Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 cũng cho thấy một dấu hiệu có khả năng mở ra cơ hội thay đổi cho quan hệ Việt – Trung theo hướng có lợi cho Mỹ:
“Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ xem xét phát triển quan hệ quốc phòng và quân sự cần thiết, phù hợp với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác vì các bên cùng có lợi và vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”.
Tuy nhiên, nếu tồn tại một “lằn ranh đỏ” đối với Việt Nam liên quan đến hành vi của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa, thì có lẽ lằn ranh này đã bị vượt qua sau khi Trung Quốc quân sự hóa các đảo trong vùng lãnh thổ tranh chấp, quấy rối tàu cá và giàn khoan dầu của Việt Nam, và chèn ép các nhà đầu tư vào EEZ của Việt Nam. Mối quan hệ gần gũi, kiềm chế và không đối đầu mà Việt Nam dành cho Trung Quốc đặt ra câu hỏi liệu Việt Nam có thể dấn sâu vào mối quan hệ quốc phòng bền vững với Mỹ hay không, vì điều đó tất yếu đòi hỏi nước này phải có lập trường cứng rắn hơn nhiều đối với Trung Quốc. Sách trắng Quốc phòng năm 2019 đã bổ sung điều “không” thứ tư vào chính sách “Ba không” từ trước tới nay của Việt Nam: đó là không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Điều này có thể càng làm gia tăng sự hoài nghi của Mỹ về tuyên bố rằng Việt Nam là một đối tác khu vực với sứ mệnh kiềm chế sự gây hấn của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa.
Có lẽ các mối đe dọa an ninh ít được thảo luận khác của Trung Quốc, chẳng hạn như việc Trung Quốc kiểm soát dòng chảy từ đầu nguồn Mekong-Lan Thương đến khu vực sông Mekong hay việc Trung Quốc triển khai quân đội đến Vịnh Thái Lan, có thể trở thành những vấn đề “lằn ranh đỏ” đối với Hà Nội. Tuy nhiên, mặc dù vị trí địa lý của Việt Nam khiến nước này trở thành một trở ngại trên thực tế đối vớ sự mở rộng trên biển của Trung Quốc, câu hỏi liệu có thể mong đợi sự thay đổi trong quan hệ Việt – Trung hay không vẫn còn bỏ ngỏ nếu Việt Nam không muốn sử dụng vũ lực hoặc công khai liên kết chống lại Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không tăng cường đáng kể hành động gây hấn, buộc Hà Nội phải phá bỏ nguyên trạng, nhiều khả năng Việt Nam sẽ duy trì lập trường truyền thống đối với hành động gây hấn của Trung Quốc, điều này cản trở mối quan hệ an ninh với Mỹ.
Chính sách đối ngoại không liên kết và đa hướng
Có liên quan nhưng độc lập với mối quan hệ thân thiết của Việt Nam với Trung Quốc là lập trường không liên kết của nước này, được tóm tắt trọn vẹn nhất trong chính sách “Ba không”, cụ thể là “không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, không đứng về phía nước này chống lại nước khác, cũng như không cho phép các quốc gia khác thiết lập căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để thực hiện các hoạt động quân sự chống lại các quốc gia khác”.
Chính sách “Ba không” lẽ ra có thể bắt nguồn như một cách thức để Việt Nam đảm bảo với Trung Quốc rằng nước này sẽ không gây ra mối đe dọa đối với an ninh và lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Tuy nhiên, chữ “không” đầu tiên không hàm ý rằng Việt Nam không thể tham gia quan hệ quốc phòng với các nước khác – ngược lại, Việt Nam duy trì nhiều mối quan hệ như vậy ở nhiều cấp độ hợp tác khác nhau. Thay vào đó, chính sách phi liên kết của Việt Nam trên thực tế có mục tiêu cụ thể là tránh bị cuốn vào sự cạnh tranh nước lớn đang diễn ra giữa Trung Quốc và Mỹ.
Những người Việt Nam ủng hộ lập trường không liên kết tin rằng Việt Nam có nhiều lợi ích hơn từ vị thế trung lập so với việc đứng hẳn về phía Mỹ và kích động sự giận dữ từ Trung Quốc. Do đó, thay vì chỉ mô tả như một lập trường không liên kết, một số học giả đề xuất rằng sẽ hữu ích hơn nếu xem chính sách đối ngoại của Việt Nam là mang tính chất đa hướng hoặc một hình thức chủ động hội nhập. Cụ thể, Việt Nam tìm kiếm nhiều mối quan hệ quốc phòng ở các mức độ can dự khác nhau nhằm tránh tỏ ra là ngả về một siêu cường hoặc một cường quốc trung gian này thay vì một cường quốc khác.
Chính sách đối ngoại này có nguồn gốc từ cuộc cải cách Đổi mới của Việt Nam năm 1986 được thực hiện nhằm chấm dứt việc Việt Nam bị quốc tế cô lập và giải quyết tình hình kinh tế tồi tệ trong nước. Theo chính sách này, Việt Nam tìm cách đảm bảo quan hệ hòa bình với các quốc gia khác để tiếp cận các nguồn lực, công nghệ và thị trường tài chính nước ngoài. Trên tinh thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã công bố chính sách đối ngoại “làm bạn với tất cả các nước” vào năm 1991, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ lần lượt vào các năm 1991 và 1995. Kể từ đó, Việt Nam đã thành công trong việc đa dạng hóa vai trò thành viên của mình tại các diễn đàn đa phương, bao gồm ASEAN và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và thiết lập quan hệ ngoại giao với 172 quốc gia. Việt Nam cũng mở rộng chiến lược đa dạng hóa này đối với các mối quan hệ quốc phòng.
Xu hướng can dự đa phương này thể hiện qua cách Việt Nam giải quyết các tranh chấp trên biển với Trung Quốc và cách Việt Nam thuyết phục Mỹ về mục tiêu của mình. Thay vì cố gắng giải quyết xung đột với Trung Quốc thông qua các biện pháp song phương và trực tiếp, Hà Nội phòng ngừa bằng cách chọn giải quyết các tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa thông qua các diễn đàn đa phương như ASEAN. Thật không may, ASEAN bị hạn chế nghiêm trọng về vấn đề biển Nam Trung Hoa thay vì cơ chế ra quyết định của nhóm này phải dựa trên sự đồng thuận. Ngoài ra, các nỗ lực của ASEAN nhằm gửi một thông điệp thống nhất đến Trung Quốc đã bị phá hoại bởi một quốc gia Đông Nam Á riêng lẻ đang cạnh tranh để giành được các thỏa thuận song phương tốt hơn với Trung Quốc.
Trong khi Việt Nam cố gắng đối phó với Trung Quốc theo hướng đa phương, nước này cũng mở rộng chiến lược tương tự với Mỹ. Việt Nam đã khuyến khích Mỹ phối hợp với ASEAN để phản đối Trung Quốc trong các tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa. Về cơ bản, việc cố gắng chuyển trọng tâm chính sách của Mỹ từ mối quan hệ song phương sang một diễn đàn đa phương sẽ khiến Trung Quốc khó đổ lỗi hơn cho Việt Nam vì đã khởi xướng vấn đề này. Từ kinh nghiệm của Lewis Stern với Việt Nam vào đầu những năm 2000, ông nhớ lại: “Hà Nội cũng đã khẳng định rằng Mỹ nên có vị thế cao hơn trong các vấn đề ở biển Nam Trung Hoa, có lẽ Mỹ nên ra mặt sau khi ASEAN đạt được đồng thuận (nếu có thể) bằng cách cảnh báo Trung Quốc về những hậu quả chính trị tiềm tàng nếu Trung Quốc tiếp tục quỹ đạo của mình trong vấn đề này khi đối mặt với một ASEAN thống nhất”, về cơ bản là cố gắng tận dụng các tương tác của Mỹ với ASEAN như một cách nhấn mạnh những lo ngại về Trung Quốc của tổ chức này.
(còn tiếp)
Nguồn: Diễn đàn Thái Bình Dương
CĐ số 01/2023