Sáu bước cách biệt – Phần II


Thomas Blass, một nhà tâm lý học xã hội đã dành suốt mười lăm năm nghiên cứu chuyên sâu về cuộc đời và các công trình của Stanley Milgram, chỉ cho tôi thấy, bản thân Milgram không bao giờ dùng cụm “sáu bước cách biệt”. John Guare lần đầu sử dụng thuật ngữ này trong vở kịch xuất sắc của ông năm 1991. Sau một mùa rất thành công ở Broadway, vở kịch được chuyển thể thành phim cùng tên. Trong vở kịch, Ousa (nhân vật Stockard Channing đóng trong phim), suy nghĩ về mối tương kết của mọi thứ, nói với con gái rằng, “Cha được đọc ở đâu đó rằng mọi người trên hành tinh chỉ cách nhau sáu người khác. Sáu bước cách biệt. Giữa chúng ta và mọi người trên hành tinh này. Cả Tổng thống Mỹ. Người chèo thuyền ở Venice… Không phải chỉ những tên tuổi mới như vậy. Ai cũng thế. Một thổ dân trong một khu rừng nhiệt đới. Một Tierra del Fuegan hay một Eskimo nào đó. Cha bị buộc với mọi người trên thế giới này bởi một chuỗi sáu người. Đó quả là một suy nghĩ uyên thâm… Mỗi người là một cách cửa mới mở ra những thế giới khác”.

Nghiên cứu của Milgram chỉ giới hạn trong nước Mỹ, kết nối những người dân từ các thành phố như Wichita và Omaha đến Boston. Tuy nhiên, đối với nhân vật Ousa của Guare, sáu bước đúng trên quy mô toàn thế giới. Bởi nhiều người xem phim hơn là đọc những nghiên cứu xã hội học, bộ phim của Guare nhanh chóng trở nên phổ biến. Giả thuyết “sáu bước cách biệt” đã ra đời như thế.

Giả thuyết này thật sự là điều thú vị, bởi vì nó cho rằng, dù xã hội này có rộng lớn, đa dạng đến mức nào, ta đều có thể kết nối hai người bất kỳ qua những liên kết xã hội. Trong một mạng lưới gồm sáu tỉ nút, nối bất kỳ hai nút nào với nhau chỉ cần trung bình sáu liên kết mà thôi. Thật sự có một con đường giữa hai người bất kỳ từ mọi ngóc ngách của thế giới! Điều này quả kỳ diệu! Chúng ta đã biết rằng, để tạo một mạng kết nối hoàn toàn, chỉ cần mỗi người có hơn một liên kết xã hội. Vì tất cả chúng ta đều có nhiều hơn một liên kết, nên mỗi người cũng đều là một phần của mạng lưới khổng lồ mà chúng ta gọi là xã hội.

Stanley Milgram khiến ta nhận ra rằng, chúng ta không chỉ kết nối với nhau, mà sống trong thế giới mà mỗi người chỉ cách nhau khoảng vài cái bắt tay mà thôi. Tức là, thế giới này thật sự nhỏ bé, xã hội là một mạng lưới rất dày đặc. Chúng ta có nhiều quan hệ xã hội hơn ngưỡng tới hạn. Tuy nhiên, phải chăng sáu bước cách biệt là một nét độc đáo chỉ có ở con người, gắn với ước vọng thuộc về các xã hội, và cộng đồng trong sâu thăm con người chúng ta? Hay những mạng lưới khác cũng như vậy? Câu trả lời cho những câu hỏi này chỉ xuất hiện vài năm trước. Bây giờ, chúng tôi đã biết rằng các mạng xã hội không phải là những tiểu thế giới duy nhất.

2

“Giả sử, hết thảy thông tin trữ trong máy tính khắp nơi được kết nối với nhau… Tất cả những thông tin giá trị nhất trong mọi máy tính của CERN (Trung tâm châu Âu Nghiên cứu hạt nhân) và trên thế giới đều có sẵn cho tôi và mọi người sử dụng. Thế là xuất hiện một không gian thông tin toàn cầu đơn nhất”. Đây là điều mong mỏi của Tim Berners-Lee khi ông là một lập trình viên tại CERN, Geneva, Thụy Sĩ. Để biến giấc mơ thành sự thật, ông viết một chương trình điện toán cho phép các máy tính chia sẻ thông tin – tức kết nối với nhau. Nhờ đó, ông đã tạo ra một mạng lưới nhân tạo mà giờ đây tất cả chúng ta đều biết đến. Chỉ chưa đến mười năm, nó đã trở thành Mạng toàn cầu (World Wide Web), một trong những mạng lưới nhân tạo lớn nhất từ trước đến nay. Mạng toàn cầu chính là mạng ảo, có các nút là những trang web có đủ thứ trên đời: tin tức, phim ảnh, các công thức, tiểu sử, sách vở. Bất cứ thứ gì có thể viết ra, vẽ hình, hay chụp ảnh, đều có thể tìm thấy trong một nút của Mạng toàn cầu dưới một hình thức nào đó.

Sức mạnh của Web nằm ở các liên kết (đường link), định vị cố định của nguồn tài nguyên (URL) cho phép chúng ta chỉ một cú nhấp chuột có thể nhảy từ trang này sang trang khác. Nhờ các liên kết URL mà ta có thể lướ (surf), định vị và xâu nối thông tin lại với nhau. Các liên kết này biến những tài liệu cá nhân thành một mạng khổng lồ bện với nhau qua những cú nhấp chuột. Chúng là những mũi khâu giữ cho những mảnh vải của thông tin hiện đại gắn kết với nhau. Nếu cắt bỏ các liên kết này, Mạng toàn cầu sẽ tan biến trong tích tắc, vô số những cơs ở dữ liệu khổng lồ thành vô dụng, một sự phá hủy tạm thời thế giới tương kết của chúng ta.

Web ngày nay lớn nhường nào? Có bao nhiêu trang web và liên kết trong đó? Đến tận gần đây, không ai có thể trả lời câu hỏi đó, không có tổ chức nào chịu trách nhiệm theo dõi tất cả các nút và liên kết. Chính Steve Lawrence và Lee Giles, làm việc tại Viện nghiên cứu NEC ở Princeton, đã nhận thử thách đặc biệt này năm 1998. Phép đo của họ cho thấy vào năm 1999, Web đã có gần một tỉ trang văn bản – con số không nh3o so với một xã hội ảo mới mười năm tuổi. Bởi tốc độ phát triển của Web nhanh hơn tốc độ phát triển xã hội con người, rất có thể là vào thời điểm cuối cuốn sách này được xuất bản, số trang văn bản trên Web sẽ nhiều hơn số cư dân trên trái đất.

Nhưng vấn đề thực sự không nằm ở kích thước Web mà là khoảng cách giữa hai trang văn bản. Cần bao nhiêu nhấp chuột để đi từ trang chủ của một học sinh trung học ở Omaha tới trang web của một nhà môi giới chứng khoán ở Boston? Mặc dù có hàng tỉ nút, phải chăng Web cũng là một “thế giới nhỏ”? Câu trả lời cho câu hỏi này thực sự liên quan đến tất cả những ai dùng Web. Nếu các trang văn bản cách nhau hàng ngàn cú nhấp chuột, việc tìm tài liệu mà không có công cụ tìm kiếm là việc bất khả thi. Nếu Web không phải “thế giới nhỏ”, có lẽ mạng lưới đằng sau xã hội và thế giới trực tuyến có sự khác biệt căn bản. Nếu vậy, để thông hiểu các mạng lưới, chúng ta cần phải hiểu nguyên nhân của khác biệt này. Vì thế, cuối năm 1998, tôi cùng với Reka Albert và Hawoong Jeong – hai nghiên cứu sinh đều làm việc trong nhóm nghiên cứu của tôi tại khoa vật lý Đại học Notre Dame, bắt đầu nghiên cứu kích thước thế giới Web.

Mục tiêu đầu tiên của chúng tôi là có được một sơ đồ Web, về cơ bản là tóm tắt tất cả những trang văn bản và những liên kết giữa những trang văn bản này. Chắc chắn, thông tin rút ra từ sơ đồ như vậy sẽ rất mới mẻ. Nếu chúng ta tạo ra một sơ đồ tương tự cho xã hội, sơ đồ đó phải bao gồm những sở thích cá nhân, nghề nghiệp của mỗi người và cả những người mà họ quen biết. Sơ đồ này sẽ khiến thử nghiệm của Milgram trở nên cồng kềnh và lỗi thời. Chỉ trong vài giây, nó sẽ cho chúng ta biết con đường ngắn nhất đến một người bất kỳ trên thế giới. Nó sẽ là một công cụ cần thiết cho tất cả mọi người từ các chính trị gia đến nhân viên bán hàng và các nhà dịch tễ học. Tất nhiên, không thể xây dựng một “công cụ tìm kiếm xã hội” như vậy, ta sẽ mất cả đời người để phỏng vấn tất cả 6 tỷ người trên Trái Đất rồi tìm hiểu về bạn bè và người quen của họ. Tuy nhiên, Web có một khác biệt diệu kỳ với xã hội loài người: chúng ta có thể định vị các liên kết của nó ngay lập tức. Chỉ với những cú nhấp chuột mà thôi.

Không giống như xã hội hiện tại của chúng ta, Web hoàn toàn là kỹ thuật số. Chúng ta có thể viết một phần mềm tải bất cứ tài liệu nào, tìm tất cả những liên kết của các tài liệu đó, sau đó đến và tải những tài liệu mà tài liệu này chỉ đến, tiếp tục như vậy cho đến khi đi hết các trang web. Nếu bạn chạy một chương trình như thế, về lý thuyết, nó sẽ đem lại một sơ đồ Web hoàn chỉnh. Trong một thế giới máy tính phần mềm này sẽ được gọi là một robot hay crawler bởi nó sẽ đi khắp các Web dù không có sự cho phép của con người. Những bộ máy tìm kiếm (search engine) như Alta Vista hay Google, có hàng ngàn những máy tính chạy vô số những robot để ngay lập tức tìm kiếm những tài liệu mới trên Web. Về quy mô, nhóm nghiên cứu nhỏ của chúng tôi rõ ràng không thể so sánh với những bộ máy này. So Jeong tạo ra một robot thực hiện công việc đơn giản hơn. Đầu tiên, robot này sẽ vẽ cho chúng tôi sơ đổ của miền nd.edu bằng cách phác đồ khoảng 300.000 trang của Đại học Notre Dame, tức là thu thập điện tử bao gồm mọi thứ từ những trang web của các khóa triết học đến những trang cho fan nhạc Ireland. Nhưng chúng tôi không quan tâm đến nội dung của những trang này. Chúng tôi chỉ chú ý đến những liên kết cho phép chúng tôi di chuyển từ trang này đến trang khác. Có trong tay một sơ đồ như vậy, chúng tôi có thể đo khoảng cách của bất cứ hai trang nào trong Notre Dame.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Albert-László Barabási – Thế giới mạng lưới – NXB DT 2017

Sáu bước cách biệt – Phần I


Năm 1912, khi Anna Erdős vừa biết rằng cô đang mang thai đứa con thứ ba – bé Paul, những đường phố Budapest ồn ào nói về tập thơ và tản văn của những nhà văn hàng đầu Hungary và thế giới. Những bản in đầu tiên đã bán sạch hết, thậm chí giới phê bình văn chương cũng chẳng mua kịp. Loạt sách in thứ hai cũng nhanh chóng biến mất khi những bài phê bình đầu tiên chính thức xuất hiện trên mặt báo trên cả nước. Lúc đó, Anna Erdős đã bước vào bệnh viện, hạ sinh Paul, về nhà và phát hiện rằng hai đứa con gái lớn của cô bị bệnh sốt phát ban vốn đang hoành hành ở Budapest lúc bấy giờ.

Mặc dù trong thành phố dịch bệnh bắt đầu lan tràn, cơn sốt văn chương vẫn không hề thuyên giảm. Sự nổi tiếng của cuốn sách bắt nguồn từ một điều: tất cả những bài thơ và truyện ngắn đều là giả. Trong Igy irtok ti, hay This Is How You Write, Frigyes Karinthy, một nhà thơ và nhà văn vô danh hai mươi lăm tuổi, đã tạo ra thứ mà ông gọi là biếm họa văn chương. Cuốn sách là tuyển tập các bài thơ và truyện ngắn (giả mạo) của những nhân vật có tên tuổi của giới văn chương thế giới. Nếu bạn đã quen với các tác giả, bạn có thể dễ dàng nhận ra phong cách của họ. Mỗi tác phẩm là một bài văn, bài thơ giễu nhại khéo léo, giống như một cái gương gây méo ảnh, để độc giả vẫn nhận ra những tác giả bị bắt chước nhưng thay đổi tất cả các tỉ lệ. Karinthy đã sử dụng lối hài hước chua cay với cả những người lồ đã khuất và những bạn thân trong giới văn chương. Karinthy đã giáng những đòn chí tử: những tác giả mà ông nhại cay độc nhất chỉ được người đời biết đến qua Igy irtok ti, những tác phẩm thật sự của họ lạc mất trong những cơn sóng vô tình của thị hiếu văn chương và lịch sử.

Igy irtok ti là một trong những cuốn sách được đọc nhiều nhất trong lịch sử Hungary, khiến Karinthy ngay lập tức nổi như cồn. Ông không bao giờ phải đứng đợi xe bus ở trạm dừng nữa, dù đang đứng ở bất cứ nơi đâu, ông chỉ cần vẫy nhẹ tay, các bác tài sẽ cười thật tươi, dừng xe để đón người nổi tiếng. Công việc viết lách của ông chủ yếu diễn ra sau những cửa sổ kính đắt tiền của quán Central Café giữa trung tâm Budapest. Những người đi qua sẽ có hành động khá hài hước: đang đi, họ sẽ đột ngột dừng lại, xoay người và nhìn qua khung cửa kính chiêm ngưỡng nhà văn đang làm việc, như chiêm ngưỡng một sinh vật lạ trong bể nuôi.

Sau gần hai thập kỷ kể từ Igy irtok ti, năm 1929, lúc bấy giờ Erdős mười bảy tuổi đang diễn thuyết về định lý Pitago trong cửa hàng giày, cách tiệm Café Central vài con phố, Karinthy xuất bản cuốn sách thứ bốn mươi sáu của mình, Mọi thứ đều khác biệt (Minden masképpen van), một hợp tuyển gồm năm mươi hai truyện ngắn. Giờ đây, mọi người đều tôn vinh ông là một thiên tài của văn chương Hungary. Tuy nhiên, mọi người vẫn tiếp tục ngóng đợi một tác phẩm để đời của ông, một tiểu thuyết thực sự làm nên tên tuổi của Karinthy và đảm bảo vị trí của ông giữa những tượng đài văn chương bất hủ. Giới phê bình lên tiếng, quan ngại rằng Karinthy đang làm cạn kiệt tài năng độc đáo của mình nếu chỉ viết những truyện ngắn “ăn tiền”. Karinthy sống cuộc đời rối ren và xô bồ giữa những tiệm cà phê và một căn nhà nhiều ồn ào, hối hả đã không thể thực hiện cuốn sách được ngóng đợi đó. Tuyển tập truyện ngắn không được giới phê bình đánh giá cao và sớm chìm vào quên lãng. Từ đó, sách cũng không còn được tái bản. Tôi đã ghé thăm hầu hết các tiệm sách và cửa hàng đồ cổ ở Budapest nhưng không thấy dấu vết gì của cuốn sách. Nhưng có một truyện ngắn tên là Láncszemek hay Các chuỗi, đáng được chú ý.

“Để chứng minh rằng con người trên Trái Đất hiện nay đang xích lại gần nhau hơn trước đây, một thành viên trong nhóm đề xuất một thử nghiệm. Anh cá cược rằng chúng tôi có thể chọn một người nào trong số một tỷ rưỡi người sống trên hành tin này, qua năm người, trong đó có một người ta biết, anh có thể kết nối với người được chỉ định”. Karinthy đã viết như vậy trong chuyện ngắn Các chuỗi. Và thật ra, nhân vật hư cấu của Karinthy đã ngay lập tức kết nối mình với một người đạt giải Nobel khi kể lể rằng người đạt giải Nobel phải biết vua Gustav. Đức vua Thụy Sĩ trao giải Nobel này cũng chính là một người chơi tennis giỏ, thỉnh thoảng chơi với quán quân tennis tình cờ là bạn tốt của nhân vật của Karinthy. Biết rằng trò kết nối với những người nổi tiếng tương đối dễ, nhân vật của Karinthy ra một yêu cầu khó hơn. Lần này, anh thử kết nối mình với một công nhân ở nhà máy Ford: “Người công nhân biết người quản lý cửa hàng, quản lý sẽ biết Ford; Ford có mối quan hệ với giám đốc của Tạp chí Heartst, năm ngoái ngài giám đốc lại làm bạn với Arpad Pasztor, Arpad Pasztor thì không những tôi biết, mà còn là người bạn thân thiết của tôi – vì vậy, tôi dễ dàng nhờ anh gửi một bức điện đến giám đốc nhờ Ford bảo với quản lý yêu cầu công nhân  trong cửa hàng nhanh chóng lập cho tôi một cái xe hơi, tôi đang có ý thay xe mới!” Mặc dù, những truyện ngắn này không nhận được sự quan tâm, nhưng điều này thể hiện rằng từ năm 1929, Karinthy đã cho rằng, con người chúng ta kết nối với nhau qua tối đa năm liên kết. Khái niệm ngày nay chúng ta vẫn gọi là “sáu bước cách biệt”.

1

Ba thập kỷ sau, năm 1967, Stanley Milgram – giáo sư Đại học Harvard đã khám phá lại “sáu bước”, biến giả thuyết này thành một nghiên cứu trứ danh mang tính đột phá về thế giới tương kết. Điều tuyệt vời là, nghiên cứu đầu tiên của Milgram về chủ đề này lại khá giống như bản dịch tiếng Anh của “Các chuỗi” (Karinthy) viết cho độc giả là các nhà xã hội học. Có lẽ, Milgram là người sáng tạo nhất trong lĩnh vực tâm lý học thực nghiệm, nổi tiếng với hàng loạt những thí nghiệm về sự tuân thủ mệnh lệnh một cách mù quáng và bản chất của cái ác. Nhưgn hiểu biết của ông rất rộng, không lâu sau, ông lại quan tâm đến cấu trúc mạng xã hội, chủ đề thảo luận thường xuyên của những nhà khoa học xã hội ở Harvard và MIT trong những năm cuối thập kỷ 1960.

Mục đích của Milgram là tìm “khoảng cách” giữa hai người bất kỳ ở Mỹ. Câu hỏi của thí nghiệm này là, cần bao nhiêu người trung gian để kết nối hai người được chọn ngẫu nhiên? Đầu tiên, ông chọn hai người, một người vợ của một sinh viên sau đại học ở Sharon, Massachusetts và một người làm môi giới chứng khoán ở Boston. Ông chọn các thành phố Wichita, Kansas, Omaha và Nebraska là những nơi khởi đầu nghiên cứu, bởi một lẽ “từ Cambridge, những thành phố này dường như thuộc về một nơi xa xôi nào đó, trên Đại Bình Nguyên hay một nơi nào khác”. Mọi người dự đoán số liên kết cần để kết nối những người từ những vùng đất này rất khác nhau. Chính Milgram cũng nói điều này năm 1969, “Gần đây, tôi hỏi một học giả rằng anh ta cần bao nhiêu bước kết nối, anh ta nói rằng có lẽ 100 người trung gian để đi từ Nebraska đến Sharon”.

Thí nghiệm của Milgram bắt đầu bằng việc gửi những bức thư đến những người được chọn ngẫu nhiên ở Wichita và Omaha, nhờ họ tham gia vào nghiên cứu sự giao tiếp xã hội trong xã hội Mỹ. Lá thư kèm theo một bản tóm lược mục đích của nghiên cứu, một bức hình, tên và địa chỉ và những thông tin khác về một trogn những người “mục tiêu”, cùng với hướng dẫn sau đây:

CÁCH THAM GIA VÀO NGHIÊN CỨU NÀY

1/ VIẾT TÊN VÀO BẢNG KÊ PHÍA CUỐI TRANG NÀY, để người tiếp nhận thư sẽ biết ai là người gửi.

2/ GỠ RA MỘT BƯU THIẾP, ĐIỀN NỘI DUNG VÀ GỬI VỀ ĐẠI HỌC HARVARD. Không cần dán tem. Bưu thiếp này rất quan trọng. Nó cho phép chung tôi theo dõi hành trình của bức thư khi nó đang nhắm đến “mục tiêu”.

3/ NẾU BẠN BIẾT “MỤC TIÊU”, GỬI TỆP TÀI LIỆU NÀY TRỰC TIẾP ĐẾN NGƯỜI ĐÓ. Lưu ý, bạn cần đã từng gặp người này, hoặc các bạn khá thân thiết.

4/ NẾU BẠN KHÔNG BIẾT “MỤC TIÊU”, ĐỪNG LIÊN LẠC VỚI NGƯỜI ĐÓ TRỰC TIẾP, HÃY GỬI TỆP TÀI LIỆU NÀY (BAO GỒM BƯU THIẾP) ĐẾN NGƯỜI BẠN BIẾT CÓ KHẢ NĂNG BIẾT NGƯỜI ĐÓ. Bạn có thể gửi tệp tài liệu cho bạn bè, người thân hay người quen, nhưng phải là người bạn biết rõ hay khá thân thiết.

Milgram rất lo lắng: liệu có bức thư nào đến được “mục tiêu” hay không? Nếu quả thật cần tới một trăm liên kết như lời đoán của bạn ông, thí nghiệm có thể thất bại, bởi sẽ luôn có một người trong chuỗi trung gian sẽ không hợp tác. Chẳng bao lâu sau, Milgram hết sức ngạc nhiên, vui sướng khi thấy chỉ sau vài ngày, lá thư đầu tiên đến được “mục tiêu” chỉ với hai liên kết. Đó là con đường ngắn nhất. Cuối cùng, có 42 trong số 160 lá thư quay lại, có những lá thư cần gần chục người trung gian. Những vòng tròn khép kín này cho phép Milgram tính được số người cần để gửi lá thư cho “mục tiêu”. Ông thấy rằng số người trung gian trung bình là 5,5 – thật ra là con số rất nhỏ, và thật tình cờ, rất gần với ước tính của Karinthy. Nếu làm tròn thành sáu, bạn sẽ có “sáu bước cách biệt”.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Albert-László Barabási – Thế giới mạng lưới – NXB DT 2017

Chính sách đổi mới khoa học – công nghệ của Hàn Quốc – Phần cuối


Hiện tại, thế giới đang bước vào thời kỳ bất ổn. Trong lúc cuộc cạnh tranh giành quyền bá chủ giữa Mỹ và Trung Quốc đang diễn ra căng thẳng, công nghệ được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định vị thế kinh tế-chính trị toàn cầu của một nước – vốn được xem là nền tảng cốt lõi cho sức mạnh quốc gia. Vì thế, nhiều quốc gia đang mở rộng quy mô đầu tư vào việc phát triển khoa học-công nghệ. Đặc biệt, khi tốc độ đổi mới công nghệ hỗ trợ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tăng nhanh và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số cũng như nền kinh tế dữ liệu tiến triển mạnh, việc đầu tư lớn vào các công nghệ mới đã mở ra một mô hình kinh tế mới. Quốc hội Mỹ đang chuẩn bị các dự luật về cạnh tranh trong hoạt động sáng tạo và Luật cạnh tranh của Mỹ nhằm nâng cao khả năng đổi mới công nghệ và duy trì khoảng cách công nghệ với Trung Quốc thông qua các khoản đầu tư quy mô lớn vào khoa học cơ bản, sản xuất chất bán dẫn, truyền thông và các lĩnh vực khoa học-kỹ thuật khác. Thông qua Quy hoạch 5 năm lần thứ 14 (2021 – 2025), Trung Quốc đã nhấn mạnh và ủng hộ sự phát triển và độc lập về công nghệ, do đổi mới công nghệ cao là nội dung cốt lõi của chiến lược quốc gia.

Tại Hàn Quốc, các biện pháp hỗ trợ như dự luật đặc biệt nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp chiến lược trọng điểm quốc gia đang được thảo luận, nhưng xét về cường độ và quy mô đầu tư, cũng như mức độ quan tâm của nước này còn kém xa so với Mỹ và Trung Quốc. Điều này được cho là do đổi mới công nghệ vẫn chỉ được coi là một vấn đề thuộc lĩnh vực khoa học-công nghệ và chưa được mở rộng đến cấp độ an ninh đối ngoại hoặc chiến lược quốc gia, đồng thời do đổi mới công nghệ và an ninh ngoại giao chưa có sự phối hợp ăn ý với nhau.

Trường hợp của chất bán dẫn cho thấy công nghệ đã trở thành tài sản ngoại giao quan trọng nhất trong cấu trúc nền kinh tế-chính trị toàn cầu của Hàn Quốc và công nghệ tiên tiến sẽ tiếp tục là cơ sở để đánh giá sức mạnh quốc gia của nước này. Về mặt này, đổi mới công nghệ chắc chắn là một phần quan trọng trong chiến lược an ninh và đối ngoại của Hàn Quốc. Từ quan điểm công nghệ, điểm cốt lõi trong chiến lược ứng phó của Hàn Quốc đối với cuộc cạnh tranh giành bá quyền công nghệ Mỹ-Trung không nên chỉ nằm ở việc chọn bên, mà cần hướng đến việc xác định những công nghệ mà Hàn Quốc có thể tiếp tục giới thiệu ra thị trường toàn cầu và những công nghệ mà Hàn Quốc có thể dựa vào đó để xây dựng tương lai của mình. Ví dụ, Hàn Quốc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thống trị lĩnh vực chất bán dẫn, song câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Giai đoạn hậu chất bán dẫn sẽ thế nào? Và làm thế nào để tìm kiếm công nghệ mới và thiết lập chiến lược đối với những thách thức từ công nghệ mới?

Chính phủ đương nhiệm ở Hàn Quốc đã cam kết đưa khoa học-công nghệ phát triển thành lĩnh vực dẫn đầu trong tương lai. Theo đó, các công nghệ mới cần được lựa chọn cẩn thận; việc hỗ trợ quá trình nghiên cứu có thể kéo dài tới 10 năm và tiến hành song sng với việc tách nghiên cứu khoa học khỏi chính trị, không để chính trị can thiệp vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Hàn Quốc cần chuẩn bị một chiến lược quốc gia kết hợp đổi mới khoa học-công nghệ với các lĩnh vực ngoại giao và an ninh trong bối cảnh các công nghệ mới, bao gồm cả trí tuệ nhân tạo, đang phát triển và cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung giành quyền bá chủ gây bất ổn cho các hoạt động sáng tạo.

Ngoại giao khoa học – công nghệ và hợp tác điều phối

Theo truyền thống, khoa học-công nghệ, ngạoi giao và an ninh luôn song hành với nhau cho dù mỗi lịnh vực đều phát triển một cách độc lập. Ví dụ, sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc ở các nước châu Âu và việc hình thành các thuộc địa ở châu Phi vào thế kỷ 19 đã trở nên khả thi nhờ việc phát minh động cơ hơi nước có khả năng đi sâu vào vào vùng đất thuộc địa và việc bào chế thành công thuốc trị sốt rét Quinin. Bước vào thế kỷ 21, mối quan hệ giữa khoa học-công nghệ và ngoại giao ngày càng được mở rộng. Ngoại giao khoa học-công nghệ đang được triển khai tích cực dưới nhiều hình thức như hợp tác nghiên cứu và phát triển quốc tế, hoạt động phối hợp giữa các tổ chức khoa học-công nghệ quốc tế và ngoại giao cộng đồng khoa học-công nghệ. Hiện nay, cùng với những tiến triển trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cuộc xung đột giành quyền bá chủ công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn tiếp diễn, và ngoại giao khao học-công nghệ đang tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao.

Tuy nhiên, khi khoa học-công nghệ, chẳng hạn như công nghệ khí hậu, công nghệ năng lượng thân thiện với môi trường, vaccine và phương pháp điều trị, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết những thách thức chung của nhân loại trong phòng chống sự lây lan của dịch bệnh và mối đe dọa từ biến đổi khí hậu, hợp tác trong lĩnh vực khoa học-công nghệ và ngoại giao giữa các nước lại gia tăng mạnh mẽ.

Vấn đề nổi cộm trong phát triển trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học tiên tiến là sự thừa nhận và phản ứng với những thách thức liên quan đến nền văn minh do những công nghệ này gây ra đã bị lu mờ, và các bên chỉ tập trung vào việc dùng công nghệ để vượt qua đối thủ. Vì vậy, đây sẽ là lĩnh vực ngày càng có nhiều rủi ro trong việc thiết lập các mặt bằng phát triển. Trong trường hợp này, nhiều khả năng chiến thắng cuối cùng trong cuộc đua công nghệ Mỹ – Trung sẽ thuộc về công nghệ đã đẩy lùi con người, chứ không phải Mỹ hay Trung Quốc.

Hợp tác quốc tế trong quá trình xác định và giải quyết các vấn đề phát sinh từ công nghệ tiên tiến như robot sát thủ phụ trách an ninh quốc gia, robot trí tuệ nhân tạo trong sản xuất, các tổ hợp máy móc mô phỏng chức năng của con người và không gian ảo là điều cần thiết. Trong quá trình tìm cách giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu, cần chú ý đến quá trình thiết lập và hình thành các chuẩn mực quốc tế về khoa học-công nghệ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Thay vì chọn bên, Hàn Quốc cần quan tâm đến việc đóng góp vào các chiến lược, phương án và đối sách giải quyết các vấn đề quốc tế quan trọng và phối hợp ngoại giao với các quốc gia tầm trung có những mối quan tâm tương tự.

Chính phủ mới dự kiến sẽ đưa ra nhiều chính sách khác nhau và tìm cách tái cơ cấu tổ chức để giải quyết các vấn đề an ninh kinh tế và ngoại giao khoa học-công nghệ mà các bộ ngành không thể tự mình xử lý. Tất cả những thách thức hiện nay phải được tiếp và giải quyết từ góc độ tổng thể, bao gồm các vấn đề kinh tế, công nghệ, đối ngoại, an ninh và y tế. Sự thành công của chính sách khao học-công nghệ của chính phủ mới phụ thuộc vào việc chính sách đó có được thực hiện một cách quyết liệt và toàn diện thông qua sự hợp tác và phối hợp giữa các bộ ngành hay không. Sự hợp tác hoặc phối hợp này là điều cần thiết đối với các vnấ đề liên quan đến nhiều bộ ngành. Do đó, cần phải tìm ra một cơ chế quản trị có thể tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình này.

Nguồn: TLTKĐB – 29/07/2022

Chính sách đổi mới khoa học – công nghệ của Hàn Quốc – Phần đầu


Chính sách đổi mới khoa học – công nghệ của tân Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol hướng đến mục tiêu đưa Hàn Quốc từ một quốc gia “rượt đuổi” về khoa học – công nghệ thành một trong năm quốc gia dẫn đầu thế giới về công nghệ cao và một trong bảy cường quốc không gian vào năm 2035. Đánh giá về chủ trương này, giáo sư khoa học chính trị và quan hệ quốc tế Yeungja Bac thuộc Đại học Konkuk đã có bài viết với nội dung như sau:

Tranh giành quyền bá chủ công nghệ Mỹ – Trung và những thay đổi trong môi trường đổi mới toàn cầu

Chính phủ mới ở Hàn Quốc đang phải đối mặt với nhiều thách thức cần vượt qua trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang tăng tốc, cuộc cạnh tranh giành quyền bá chủ công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc diễn ra quyết liệt và tình hình dịch bệnh COVID-19 vẫn tiếp diễn. Khi khoa học – công nghệ được coi là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế cũng như tài sản ngoại giao quan trọng đối với an ninh quốc gia, chính sách khoa học – công nghệ được quan tâm hơn bao giờ hết. Các chính phủ tiền nhiệm ở Hàn Quốc đã thực hiện nhiều chính sách khác nhau để tăng cường khả năng đổi mới khoa học – công nghệ của nước này. Chính vì thế, chính phủ mới cần tìm kiếm và thiết lập các chính sách khoa học – công nghệ phù hợp trong bối cảnh môi trường cho đổi mới khoa học – công nghệ đang thay đổi nhanh chóng.

Trong vài thập kỷ qua, tăng trưởng kinh tế và khả năng đổi mới công nghệ của Hàn Quốc đã được củng cố trong trật tự thương mại tự do và hệ thống đổi mới toàn cầu mở do Mỹ dẫn đầu. Trong bối cảnh dòng vốn, hàng hóa và nhân lực có thể dịch chuyển một cách tự do, hàng hóa được xuất khẩu, nhân lực được đào tạo và các kỹ năng khác được thu nạp. Dưới thời Chính quyền Donald Trump, xung đột Mỹ – Trung về các công nghệ tiên tiến như chất bán dẫn, 5G và trí tuệ nhân tạo ngày càng tăng. Việc Mỹ áp dụng các biện pháp hạn chế cạnh tranh đã ảnh hưởng đến dòng hàng hóa, vốn và nhân lực mà trước đó có thể tự do di chuyển qua biên giới quốc gia theo logic thị trường.

Khi cách tiếp cận địa chính trị đối với thương mại, đầu tư, sản xuất và đổi mới giữ vai trò chi phối và khoa học – công nghệ nổi lên như một nhân tố chính trong địa chính trị. Chính phủ Hàn Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải cân nhắc yếu tố này trong chính sách đổi mới khoa học – công nghệ của mình. Các chính sách đổi mới khoa học – công nghệ hiện hành, được thực hiện dựa trên logic thị trường tự do và cởi mở, cần phải được rà soát và tích hợp trong khuôn khổ các quan điểm về kinh tế, đối ngoại, quốc phòng và an ninh mới.

Phối hợp an ninh kinh tế và chuỗi cung ứng đổi mới khoa học – công nghệ

Các vấn đề kinh tế và an ninh trở nên nổi cộm trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ – Trung ngày càng gay gắt và dịch bệnh tiếp tục lây lan. Trước đây, an ninh kinh tế được hiểu là nhu cầu hỗ trợ sinh kế cho tầng lớp thu nhập thấp nhằm ổn định trật tự xã hội và duy trì tăng trưởng kinh tế – nền tảng chính của an ninh quốc gia. Hiện tại, khi cuộc cạnh tranh công nghệ Mỹ – Trung và cuộc chiến Ukraine vẫn đang tiếp diễn, an ninh kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào sự ổn định của chuỗi cung ứng và việc kiểm soát xuất khẩu. Khi Mỹ tích cực áp dụng các chính sách kinh tế và an ninh nhằm kiềm chế Trung Quốc và Nga, các quốc gia còn lại không có lựa chọn nào khác ngoài việc thực hiện những hành động tương ứng.

Nhìn chung, các vấn đề kinh tế và an ninh ngày càng phức tạp. Trong khi đó, các lĩnh vực khác nhau như chuỗi cung ứng, công nghệ, thương mại, đầu tư, quốc phòng mạng, đối ngoại và y tế có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trên quan điểm an ninh quốc gia. Với Mỹ, các vấn đề kinh tế và an ninh lớn bao gồm các hạn chế đối với hoạt động mua bán và sáp nhập các công ty công nghệ cao trong nước, hoạt động xuất khẩu công nghệ cao và hoạt động trao đổi chuyên gia nghiên cứu, cũng như sự cần thiết của việc đảm bảo ổn định chuỗi cung ứng cho các ngành chiến lược như thiết bị bán dẫn, việc tăng đầu tư vào công nghệ cao trong nước và việc củng cố các liên minh công nghệ và giá trị. Đặc biệt, Bộ Quốc phòng Mỹ còn đưa nhiều lĩnh vực công nghệ khác nhau – không chỉ các công nghệ liên quan trực tiếp đến ngành công nghiệp vũ khí và quốc phòng, mà cả các công nghệ cơ bản và mới nổi có tác động đến an ninh quốc gia – vào các quy định về an ninh quốc gia.

Trên quan điểm an ninh kinh tế, Hàn Quốc cũng cần xác định mối quan hệ giữa chuỗi cung ứng-sản xuất với việc đổi mới các sản phẩm công nghệ chủ chốt, tìm kiếm và điều chỉnh những bộ phận có thể được bổ sung và thay thế bằng công nghệ trong nước. Hàn Quốc đã nhiều lần trải qua sự gián đoạn của chuỗi cung ứng, không chỉ trong trường hợp do bên thứ ba gây ra như việc Nhật Bản hạn chế xuất khẩu vật liệu bán dẫn và Trung Quốc hạn chế xuất khẩu hóa chất ure. Kinh nghiệm từ các đợt bùng phát dịch COVID-19 cho thấy các vấn đề y tế trong trường hợp khẩn cấp có thể là mối đe dọa lớn đối với sự ổn định của chuỗi cung ứng. Trong bối cảnh mọi thứ trong nước không thể mua sắm, hợp tác quốc tế là nhu cầu tất yếu trong quá trình sản xuất và đổi mới nhằm đảm bảo an ninh kinh tế. Tuy nhiên, sự hợp tác xuyên biên giới cần được điều phối một cách có chiến lược. Mặc dù việc lựa chọn các giao dịch hiệu uqả nhất dựa trên logic thị trường là điều quan trọng, nhưng vẫn cần phải xem xét các rủi ro ngắn hạn và dài hạn trong giao dịch một cách toàn diện – nghĩa là cần phải xem xét cả từ khía cạnh đối ngoại và an ninh – và cần phải điều chỉnh chuỗi cung ứng cũng như hiệu chỉnh các chính sách thương mại-đầu tư một cách thích hợp. Cần xây dựng một chính sách đổi mới khoa học – công nghệ phù hợp trên cơ sở xem xét một cách tổng hợp các chi phí kinh tế và các quan điểm ngoại giao – an ninh trong toàn bộ quá trình sản xuất, đổi mới và mua bán các sản phẩm công nghệ.

Tăng cường quy mô đầu tư đổi mới khoa học – công nghệ trong thời kỳ bất ổn

Cho đến nay, nghiên cứu đổi mới khoa học – công nghệ chủ yếu tập trung theo các thể chế và chủ trương chính sách trong nước. Tuy nhiên gần đây, nhiều người cho rằng môi trường kinh tế – chính trị toàn cầu mới là mối đe dọa an ninh và coi đó là nhân tố chính thúc đẩy đổi mới công nghệ. Quan điểm này xuất phát từ việc quá trình và kết quả đổi mới công nghệ không trung lập về mặt chính trị và bị chi phối bởi các nguồn ngân sách hay chính sách đổi mới công nghệ. Khi nhận thức về các mối đe dọa an ninh được chia sẻ rộng khắp, nhu cầu đổi mới công nghệ nhằm giải quyết những thách thức đó được nhấn mạnh, các thỏa thuận được thực hiện tương đối dễ dàng và đầu tư nhanh chóng được thực hiện. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng bản thân các mối đe dọa từ bên ngoài không trực tiếp quyết định việc đổi mới công nghệ. Và nếu có sự tranh cãi hoặc phản ứng trong nước đối với việc đổi mới công nghệ do nhận thức về các mối đe dọa từ bên ngoài chưa đầy đủ, thì khó có thể tập trung nguồn lực cho nhu cầu này. Ví dụ, khi Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo Sputnik đầu tiên vào không gian, Mỹ đã lo ngại tới mức quyết định đầu tư một số tiền khổng lồ để thành lập NASA và đặt nền móng cho sự đổi mới trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ. Ở thời điểm bình thường, sẽ có nhiều cuộc tranh cãi về việc thành lập một viện nghiên cứu quy mô lớn như NASA. Tuy nhiên khi đó, nhận thức chung về mối đe dọa từ Liên Xô đã tạo điều kiện thuận lợi để Chính phủ Mỹ đổi mới công nghệ vũ trũ một cách mạnh mẽ.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 29/07/2022

Con người với tính cách là khách thể tác động của công nghệ – Phần cuối


Con người nhân tạo?

Cuối cùng, còn một vùng nữa chưa xác định – giữa con người và máy móc. Việc phân định vùng này không đơn giản như thế, vì theo cách hiểu rộng, có thể hình dung thứ đồ tạo tác nào đó, thứ dụng cụ nào đó, thiết bị nào đó được con người tạo ra và (hoặc) sử dụng như là sự tiếp nối nhân tạo nó.

Có thể nghĩ, có một sự hạn chế không có gì là quá đáng: sự hạn chế mà theo đó chỉ có những cơ cấu là những vật giống nhau về mặt kết cấu hay chức năng, các vật thay thế các cơ quan này khác của con người mới được xem xét. Các tác động công nghệ trong vùng này cũng có thể mang tính chất trị liệu. Thí dụ đơn giản nhất là cặp kính mà chúng ta sử dụng khi có vấn đề về thị lực. Ở đây cặp kính đóng vai trò là kết cấu nhân tạo có chức năng tăng cường cho mắt, cơ quan thị giác tự nhiên đã bị suy yếu về chức năng. Một thí dụ khác – chân giả thay thế chân người đã bị mất do tai nạn xe cộ cũng có thể cải thiện đáng kể chất lượng sống của người đó. Ở đây chúng ta bàn tới sự giống nhau không chỉ về chức năng mà cả về kết cấu giữa cơ quan tự nhiên và kết cấu nhân tạo thay thế cơ quan đó.

Theo quan điểm của nhà triết học Hà Lan gốc Mỹ J. Anderson, có thể vạch ra sự khác nhau giữa hai thí dụ này trên cơ sở “tiêu chí về tính xâm tập”: liệu thứ kết cấu này hay khác có xâm nhập vào cơ thể con người hay không. Khác với thí dụ đầu, trong thí dụ thứ hai ta nói đến thứ kết cấu “phá vỡ ranh giới giữa cái nằm bên trong con người và cái nằm ngoài nó”. J. Anderson sử dụng tiêu chí này khi thảo luận vấn đề: làm thế nào để có thể phân biệt những tác động công nghệ lên con người có khuynh hướng trị liệu và những tác động theo ý nghĩa ưu sinh học nhằm cải thiện nó. Không khó nhận thấy, vấn đề nằm ở tính gần gũi trực tiếp với điều được đặt ra ở đầu bài viết. Quả thực khi đưa ra câu trả lời này khác cho câu hỏi: tác động công nghệ nào đó lên con người mang tính chất trị liệu hay nó được hướng tới việc cải thiện con người (đương nhiên cải thiện được hiểu theo ý nghĩa ưu sinh học hay, có thể, theo ý nghĩa siêu-nhân-học [transgumanisticheskij]), chúng ta dựa trên quan niệm xác định về vấn đề “con người là gì”. Trong trường hợp đó, vấn đề này có thể chuyển thành: các giới hạn mà vượt qua chúng chúng ta sẽ liên quan không phải với con người mà với cái gì đó khác là như thế nào.

Theo tôi, Anderson hoàn toàn đúng khi chống lại ý đồ mở ra trong chính các hiện tượng những tuyến phân giới cho phép phân biệt trị liệu với cải thiện hoặc phân biệt quản lý tính đồng nhất của con người nhờ sự trợ giúp của các phương tiện được quản lý với việc phục hồi cái “tôi” chân chính. Quả thực chúng ta không hẳn rút ra những tuyến phân giới đó ra từ chính các hiện tượng, mà đúng hơn là chúng ta vạch ra chúng khi chúng ta tuân theo những quy định của nền văn hóa của mình, các hệ thống giá trị và đạo đức của mình. Mà ở đâu những quy định và hệ thống này không cho phép đi tới những quyết định đơn nghĩa, chúng ta buộc phải tiến hành đối thoại, tìm ra những thỏa hiệp.

Đồng thời Anderson có thái độ phê phán cả đối với tiêu chí tính xâm tập, cho rằng nó không thỏa mãn cả theo quan điểm siêu hình lẫn quan điểm đạo đức. Về mặt này, theo tôi lập trường của ông không có sức thuyết phục. Quả thực, ngay cả khi thừa nhận tính khả nghi có tính siêu hình và đạo đức của tiêu chí tính xâm tập, chúng ta cũng tuyệt nhiên không buộc phải hoàn toàn khước từ nó. Bởi nó có tính thuyết phục nhất định, ít nhất là ở cấp độ ý thức thường nhật, và dù có tính không chặt chẽ, nó có thể có ích về mặt gợi mở. Quả là trong trường hợp này, nó không hẳn là tiêu chí mà đúng hơn là chỉ báo gợi ý các phương hướng tìm kiếm có triển vọng các câu trả lời cho câu hỏi mà chúng ta đang quan tâm.

Bài viết của Anderson xem xét các vấn đề đạo đức gắn với việc sử dụng các bộ phận giả thần kinh (nejroprotez), các kết cấu cho phép cá nhân thực hiện một số chức năng vốn có ở con người. Thí dụ đơn giản nhất ở đây là chiếc gậy đóng vai trò bộ phận giả thần kinh đối với cá nhân mù, vì nó đem lại khả năng phục hồi phần nào khả năng đã bị mất về định hướng không gian. Tuy nhiên về mặt này Anderson phân tích cả một số kết cấu tinh tế hơn như các máy tính cho phép ghi nhận, phân biệt và lĩnh hội các sắc thái tinh tế nhất khi dàn nhạc trình tấu các tác phẩm âm nhạc.

Việc trở về với các bộ phận giả thần kinh và nói chung là với các kết cấu được gắn theo cách này hay cách khác với việc xử lý thông tin cho phép chúng ta chuyển theo cách hoàn toàn tự nhiên từ các công nghệ thuần túy y sinh sang các công nghệ được gọi là hội tụ, vì ở đây chúng ta nhận thấy việc ứng dụng chung cả các công nghệ thông tin lẫn các công nghệ nhận thức bên cạnh các công nghệ y sinh Về mặt này cần lưu ý, sự tương tác, thậm chí sự xâm thấu lẫn nhau giữa con người và máy móc có lẽ là một trong những khuynh hướng nổi bật nhất của tiến bộ khoa học – kỹ thuật ngày nay. Ngoài ra, thu hút sự chú ý đặc biệt là các công nghệ hướng vào việc tăng cường khả năng trí tuệ của con người. Về mặt này, có ý nghĩa là việc quay trở về với thứ cá tính kỳ dị như giáo sư Đại học Reding (Anh Quốc) Kevin Warwick, người có lần nói: “Tôi muốn làm cái gì đó với sự sống của mình. Tôi muốn trở thành cơ thể điều khiển học”. Năm 1998, ông là người đầu tiên trải nghiệm sự tồn tại với tính cách là cơ thể điều khiển học, nửa người nửa máy.

Nhằm mục đích đó, con vi chíp điện tử được gắn vào tay ông theo cách phẫu thuật, nó cho phép điều khiển cánh cửa và dòng điện từ xa cũng như tương tác với máy tính đặt trong tòa nhà. Trong giai đoạn thứ hai của cuộc thí nghiệm, năm 2002 hệ thần kinh của Warwick, lúc đó đang ở Đại học Columbia của Mỹ, thông qua Internet được gắn với người máy – cần điều khiển ở Đại học Reding. Khi ấy Warwick ở trong trạng thái sẵn sàng điều khiển cần điều khiển.

Một vấn đề được thảo luận trong những năm gần đây: liệu có thể gắn vào người một con chíp, trong đó chứa bộ Đại Bách khoa toàn thư Anh, một ấn phẩm bách khoa uy tín nhất trên thế giới, hay không? Nếu điều đó xảy ra, con người sẽ không cần đi tới thư viện hay ngồi trước máy tính nữa, mọi thứ sẽ có trong bộ nhớ của nó. Việc rút thông tin này từ bộ nhớ sẽ có thể cho thấy vấn đề. Nói chung các dự án tương tự muốn nói đến việc bảo đảm cho con người các bộ phận giả mà thoạt tiên được nghĩ ra để bù vào chức năng tự nhiên nào đó đã bị tước mất. Nhưng sau đó, như trong các thí dụ được xem xét trên đây, xuất hiện cả những ý tưởng đi xa hơn, hướng vào việc thực hiện những chức năng vượt ra ngoài khuôn khổ các khả năng tự nhiên của con người.

Như vậy, chúng ta thấy, trong tất cả các thí dụ được xem xét, trong các giai đoạn đầu đã diễn ra việc tìm kiếm các khả năng trị liệu, nhưng sau đó, theo mức độ hoàn thiện các công nghệ, người ta bắt đầu nghĩ tới các nhiệm vụ không phải là điều trị con người mà là hoàn thiện nó. Đây là những nhiệm vụ mang tính chất tân ưu sinh luận: hoàn thiện cả các khả năng thể chất lẫn các khả năng trí tuệ của con người. Và ở đây chúng ta có thể bổ sung vào bốn vùng biên đã được ghi nhận một vùng nữa mà theo ý nghĩa nào đó là sự tiếp nối của vùng chuyển tiếp giữa con người và máy móc. Đó là ranh giới giữa con người và siêu người (nếu dùng thuật ngữ của F. Fukuyama thì là hậu người). Tuy vậy, tương quan giữa hai sinh thể này là một đề tài đặc biệt vượt ra ngoài khuôn khổ của bài viết này.

Để kết thúc, cần lưu ý điểm sau: Không ai có thể đem lại cho ta một định nghĩa về con người mà tất cả chúng ta đều nhất trí. Chúng ta cần trở lại vấn đề này nhiều lần, theo mức độ phát triển và ngày càng đi sâu vào đời sống chúng của các công nghệ y sinh. Và cho dù chúng ta tìm ra được một định nghĩa vừa ý tất cả mọi người thì nó cũng sẽ thay đổi theo thời gian. Điều này chúng ta chắc chắn gặp phải torng thế kỷ phát triển mạnh mẽ của các công nghệ y sinh.

Người dịch: Viễn Phố

Nguồn: TN 2012 – 88 & 89.

Con người với tính cách là khách thể tác động của công nghệ – Phần IV


Ngày nay thí dụ được xem xét dù sao vẫn có tính chất giả định, hơn nữa chính các công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm và chẩn đoán tiền cấy ghép vẫn không thật đáng tin cậy. Nhưng có những thí dụ hoàn toàn hiện thực, liên quan không phải đến chẩn đoán tiền cấy ghép, mà đến chẩn đoán tiền sinh đẻ (được tiến hành ngay tại giai đoạn bào thai đang phát triển trong bụng mẹ). Công nghệ này được áp dụng để phát hiện các khuyết tật bẩm sinh của bào thai đang phát triển, và các khả năng của nó nhanh chóng được mở rộng, vì nó cho phép tìm ra ngày càng nhiều càng dị tật bẩm sinh.

Việc áp dụng rộng rãi chẩn đoán tiền sinh đẻ ngày nay về cơ bản gắn với điều là ở nhiều nước nó được áp dụng để chọn lọc theo dấu hiệu giới. Ở đây đi liền theo chẩn đoán sẽ là việc phá thai nếu giới tính của đứa trẻ tương lai không thỏa mãn cha mẹ. Mọi người đều biết, thông thường cứ 100 ca sinh con gái thì có 105 – 106 ca sinh con trai. Về bản chất tự nhiên, con gái có khả năng sống hơn, vì vậy đến lứa tuổi sinh đẻ, tương quan giới tính được san đều, trở thành 100/10. Còn bây giờ ở một số nước (chủ yếu là ở Đông Nam Á, mặc dầu không phải chỉ ở đó) tương quan này đạt tới 120/100. Có nghĩa là có 120 con trai sinh ra trong khi con gái chỉ là 100. Và nguyên nhân là ở chỗ, khi biết rằng thai nhi là con gái thì các cặp cha mẹ thường đi phá thai.

“Tại đa số nước trên thế giới, luật pháp cấm sử dụng các thử nghiệm xác định giới tính của đứa trẻ – nhà vật lý học sinh học Mỹ G. Stock, một trong những nhà tuyên truyền năng nổ nhất cho tư tưởng quá độ từ con người sang siêu người (trankschelovek) trong tương lai hậu con người (postchelovecheskij) viết – nhằm mục đích lựa chọn giới tính, những thói quen đó được mọi người tiếp nhận. Nghiên cứu được tiến hành ở Bombey cho kết quả đáng ngạc nhiên: trong số 8000 thai bị phá thì 7997 thai là nữ giới. Còn ở Hàn Quốc, các vụ phá thai tương tự phổ biến đến mức gần 65% số trẻ được sinh ra là đứa thứ ba trong gia đình là con trai, xem ra là vì vợ chồng không muốn có thêm một đứa con gái nữa”.

Ở Trung Quốc những thói quen tương tự đã có từ khá lâu. Hậu quả của việc chạy theo thói quen đó dẫn đến việc nhà nước thực hiện chính sách hạn chế sinh đẻ, quy định “mỗi gia đình chỉ có một con”. Do đó ở đó người ta có động cơ mạnh mẽ để thực hiện chẩn đoán trước sinh, và trong trường hợp cần thiết thì tiến hành phá thai. Và đất nước đụng đầu với một vấn đề gay gắt: con trai ở lứa tuổi sinh đẻ nhiều hơn nhiều so với con gái, những cô dâu tiềm tàng. Đây là nguồn gốc gây ra những căng thẳng và vấn đề xã hội nghiêm trọng, vì những thanh niên khó tìm bạn đời chắc chắn sẽ có nhiều khả năng tìm đến những kiểu hành vi phi xã hội hơn.

Nói chung cần lưu ý, vùng biên mà sinh thể người sinh ra đi qua có thể đầy rẫy những vấn đề đạo đức. Để minh họa có thể nhắc lại rằng, trước đây một nhóm công tác gồm các chuyên gia liên quốc gia đã được thành lập trong khuôn khổ ban lãnh đạo về đạo đức sinh học của Hội đồng châu Âu. Nhiệm vụ đặt ra cho nhóm là thảo ra văn kiện bắt buộc về mặt pháp lý nhằm bảo vệ các bào thai người. Nhưng qua một số năm, nhóm đi tới kết luận rằng ngày nay việc thảo ra một văn kiện tương tự xem ra là không thể. Các chuyên gia tỏ ra chưa sẵn sàng đi tới một quyết định nhất trí về điều: sự sống con người bắt đầu từ thời điểm nào. Kết quả là nhóm chỉ đưa ra được một báo cáo ghi nhận những lập trường phổ biến nhất về vấn đề này.

Giữa người và động vật

Bây giờ xin nói qua về hai vùng biên khác, chúng cũng buộc đặt ra vấn đề “con người là gì?”. Một trong số chúng là vùng giữa động vật và người. Các sinh thể cư trú tại vùng này được gọi là các tạp chủng, các cơ thể có được do sự lai tạp giữa các giống khác nhau về mặt di truyền, hoặc các thể khảm, tức là các cơ thể (hoặc các bộ phận của cơ thể) hợp thành từ các mô khác nhau về mặt di truyền.

Trong những năm 1950, cuốn tiểu thuyết của nhà văn Pháp  Jan Vercors Người hay động vật? (nguyên bản là Động vật phi tự nhiên) được phổ biến. Đề tài như sau: người ta phát hiện được ở Australia những sinh thể mà các nhà nhân học gọi là Paranthropus. Người ta không rõ những sinh thể này là khỉ hay người. Và xuất hiện những người bắt đầu dùng chúng để làm những công việc nặng nhọc, bóc lột chúng. Đương nhiên những người ủng hộ đã luận chứng cho lập trường của mình rằng, những sinh thể ấy không phải là người, bóc lột chúng không đáng chê trách. Vậy là để trả lời cho câu hỏi: Paranthrotus là người hay động vật thì cần đưa ra định nghĩa “con người là gì?”. Và sau đó mới vỡ nhẽ, chưa có một lĩnh vực tri thức nào có độc quyền đưa ra lời giải đáp đúng duy nhất cho vấn đề này.

Năm 1974, J. Pletcher, nhà thần học và chuyên gia về đạo đức sinh học Mỹ, trong cuốn Đạo đức của việc kiểm soát gen: Đoạn kết của cái cối xay sinh đẻ [The Ethnics of Genetic Control: The Ending of Reproductive Roulette] đưa ra thuật ngữ “người đôi (paraljudi)” để biểu thị các thể khảm và cơ thể điều khiển học. Theo lời ông, có thể tạo ra người đôi để dùng vào các công việc dơ bẩn và nguy hiểm. Tuy nhiên, những tư tưởng này của Fletcher đã bị cả đồng nghiệp lẫn công chúng phê phán rộng rãi.

Ngày nay sự quan tâm tới vùng biên giữa người và động vật mạnh lên do sự xuất hiện của các công nghệ như, chẳng hạn, cấy ghép dị thể (ksenoltransplantacija), việc sử dụng các cơ quan cung cấp máu của động vật để cấy ghép cho con người. Vấn đề là, với sự phát triển của công nghệ cấy ghép, các thủ thuật về cấy ghép trở nên ngày càng nhiều, còn tình trạng thiếu các cơ quan và mô người cần thiết cho việc đó không ngừng tăng lên. Gắn liền với điều này, đã xuất hiện cả ý tưởng sử dụng các cơ quan của động vật để cấy ghép. Nhưng nếu cơ quan nào đó của động vật được cấy ghép cho người, ranh giới giữa người và động vật rõ ràng bị xói mòn. Trong các cuộc thảo luận ngày nay về các vấn đề đạo đức do cấy ghép dị thể gây ra, có hai chủ đề chi phối. Một trong số đó là rủi ro gắn với điều là, trong cơ thể của động vật mà các cơ quan hay mô của nó được lấy để gấy ghép cho người có thể chứa các vi thể như các loại virus mà trong quá trình tiến hóa trở nên hoàn toàn vô hại cho chủ tự nhiên của nó. Tính vô hại đó có thể làm cho chúng khó bị phát hiện. Nhưng khi rơi vào một môi trường khác – vào một cơ thể người có sự khác biệt mạnh mẽ về gen – các virus cóthể trở nên cực kỳ nguy hiểm, gây bệnh cho người chủ mới mà cơ thể của người đó không có khả năng tạo ra các cơ chế chống lại chúng.

Chủ đề thứ hai trong thảo luận về cấy ghép dị thể gắn với giá trị văn hóa của ranh giới giữa người và động vật. Chúng tôi xin lưu ý là theo một loạt kiến giải khoa học và thực tiễn, trong số tất cả các loại động vật, lợn là loại phù hợp nhất xét từ các khả năng sử dụng cho mục đích cấy ghép dị thể. Hơn nữa trong một số tôn giáo (Hồi giáo, Do Thái giáo…), lợn được coi là động vật không sạch, vì vậy việc cấy ghép cơ quan lấy từ lợn sẽ được coi là hoàn toàn không chấp nhận được. Ngoài ra, trong những nền văn hóa nào đó có tồn tại ranh giới giữa người và động vật. Sự hiện diện của ranh giới đó (với tất cả những tính đặc thù của các nền văn hóa cụ thể) là một trong những tính phổ quát của văn hóa. Nhưng nếu thế thì chúng ta có thể nghĩ, sẽ không thoải mái cho con người, ít nhất là về mặt tâm lý, nếu đề nghị nó – ngay cả dưới danh nghĩa cứu mạng – đặt vào cơ thể mình đoạn cơ thể động vật nào đó. Mà nếu đi tiếp ít nữa và suy nghĩ về cái con người mà trong đó không phải chỉ là một mà cả một loạt cơ quan quan trọng sống còn là có nguồn gốc động vật?

Như vậy, ngay trong vùng biên này cũng đặt ra vấn đề “Con người là gì?” mà trong trường hợp này có thể chuyển thành: “Đâu là nơi động vật kết thúc và con người bắt đầu?”. Một lần nữa vấn đề này vẫn mang trong nó ý nghĩa hoàn toàn thực tiễn, vì có sự cần thiết giải quyết vấn đề cái gì được phép (từ quan điểm đạo đức, và có thể cả từ quan điểm luật pháp) còn cái gì thì không. Nhưng tiếp theo cần phải nói về sự kết hợp giữa con người và động vạt không chỉ trong mối liên hệ với việc cấy ghép dị thể. Ngày nay các giống lai và thể khảm giữa con người và động vật được tạo ra vì các mục đích nghiên cứu, để nhận được các sản phẩm có giá trị, các chế phẩm dược nào đó…

(còn tiếp)

Người dịch: Viễn Phố

Nguồn: TN 2012 – 88 & 89.

Con người với tính cách là khách thể tác động của công nghệ – Phần III


Về mặt này, nước Nga hoàn toàn không phải là duy nhất. Chẳng hạn ở Nhật Bản, việc tán thành về mặt luật pháp, mà đúng hơn, về mặt đạo đức tiêu chí này cũng đã có không ít phức tạp. Có những người cho đến nay vẫn không muốn chấp nhận nó. Nhưng bây giờ cho phép chúng tôi thử đặt vấn đề: thế cái gì và ai có thể ép buộc người không tín ngưỡng đó chấp nhận tiêu chí về cái chết não?

Vâng, các học giả, các nhà sinh học và các nhà y học đã khẳng định rằng sinh thể người ở trong trạng thái đó là đã chết. Nhưng một trong những người không đồng ý như vậy – chúng ta gọi anh ta là người không tín ngưỡng Foma – một người bình thường, nhìn thấy rằng, người thân của anh ta nằm trên giường bệnh, vẫn thở (dù là nhờ thiết bị nhân tạo) và mạch vẫn đập… Và khi các bác sĩ nói rằng người thân của anh ta đã chết, Foma không đồng ý với họ, anh ta không muốn tin vào lời người khác, mà muốn tin vào mắt mình.

Ta đi tiếp, các luật gia tham gia vào công việc và tiếp theo họ là các nhà làm luật. Một bộ luật tương ứng được thông qua, hợp pháp hóa tiêu chí đó. Giờ đây đằng sau nó là quyền uy không chỉ của các nhà bác học mà cả của nhà nước. Liệu điều đó có nghĩa là giờ đây Foma của chúng ta nhất trí với nó có thể nói là từ bên trong, theo niềm tin của mình? Tôi không tin là như vậy.

Và quả thật có những người không muốn chấp nhận tiêu chí này. Đương nhiên có thể coi họ là lạc hậu, u tối, nhưng vấn đề vẫn còn đó; liệu có thể buộc họ nhất trí với tiêu chí cái chết não, buộc họ coi sinh thể người vẫn duy trì tuần hoàn và hô hấp là đã chết?

Ở đây có thể so sánh Foma của chúng ta với người vô học không chịu thừa nhận rằng trái đất quay quanh mặt trời chứ không phải là ngược lại. Đương nhiên chúng ta có thể chê cười con người như vậy, nhưng liệu có ý nghĩa gì không việc thông qua một bộ luật ép buộc thừa nhận một hệ thống nhật tâm? Một bộ luật như vậy chẳng còn đáng buồn cười hay sao? Trong thực tế, cho tới bây giờ, các quan niệm và niềm tin của Foma chưa gây tổn thất cho ai đó khác, chúng vẫn là việc riêng của anh ta.

Trở lại tiêu chí của chúng ta, có thể nhận xét rằng ở một số nước, bộ luật chưa đòi hỏi tính phổ biến của nó. Trong trường hợp này, nếu ai đó từ chối thừa nhận tiêu chí cái chết não, lập trường của anh ta được thừa nhận, còn cái chết của người thân của anh ta sẽ được xác định phù hợp với các tiêu chí truyền thống.

Như chúng ta thấy, mọi thứ bắt đầu từ chỗ là, người ta đã tạo ra được các công nghệ y sinh cho phép đấu tranh kéo dài sự sống của con người nhằm đẩy lùi những trạng thái nào đó mà trước kia là cuối cùng, để đời sống con người có thể tiếp nối thêm. Chắc gì ai đó sẽ tranh cãi rằng, mục tiêu được theo đuổi ở đây là tốt đẹp nhất. Còn sau đó, khi những công nghệ này bắt đầu được áp dụng, chúng ta sẽ quan sát thấy cả những khả năng mới nào đó mà ban đầu chưa hiện rõ. Và kết quả là chúng ta sẽ phát hiện ra những con đường phát triển, những quỹ đạo đẻ ra không chỉ là những khả năng mới mà cả những vấn đề luân lý – đạo đức mới.

Vùng sinh sản

Bây giờ chúng ta chuyển sang một vùng biên khác xuất hiện trước sự ra đời của sinh thể người cá thể mới. Nói một cách thô lược, có thể giới hạn khoảng cách này một mặt bằng yếu tố dung hợp tinh trùng và tế bào trứng và mặt khác, bằng yếu tố ra đời của đứa trẻ từ trong bụng người mẹ. Ở đây các công nghệ y sinh cũng tác động trong những thập kỷ gần đây. Toàn bộ thời kỳ này, như mọi người đều biết, kéo dài 28 tuần, số tuần này tuy vậy không đồng nghĩa về tính hiệu quả của những vi tác động lên cơ thể đang phát triển: càng gần giai đoạn bắt đầu, những tác động này càng có kết quả. Cùng với đó, về mặt giá trị – đạo đức, sự việc diễn ra như sau: càng gần lúc sự phát triển trong bụng mẹ kết thúc, những tác động công nghệ bên ngoài lên cơ thể được coi là càng ít dung nạp được về mặt thời gian.

Cần lưu ý một điểm không kém phần quan trọng. Giống như trong vùng kết thúc đời sống con người, ở đó một số tác động quan trọng về mặt công nghệ trùng với thời gian cái chết được ghi nhận, trong vùng khởi đầu sự sống, nhiều tác động có ý nghĩa lên tế bào sinh dục của đàn ông và đàn bà cũng diễn ra cho tới thời điểm liên kết chúng.

Nhà sinh lý học người Anh Robert Edwards, một trong những người cha sáng lập các công nghệ phụ trợ sinh sản, chẳng hạn phương hướng được gọi là thụ thai ngoài cơ thể, đã nhận giải Nobel Y học năm 2010. Và vùng này cũng là đối tượng quan tâm chăm chú nhất cả về mặt khoa học lẫn về mặt xã hội, từ đó đẻ ra khối lượng nghiên cứu khoa học đồ sộ.

Các nghiên cứu trong lĩnh vực sinh sản nhân tạo dẫn tới xuất hiện hàng loạt công nghệ mới. Và tự nhiên là cùng với sự phát triển của các công nghệ này thì cũng xuất hiện những vấn đề mới: vậy thứ mà các nhà bác học thao tác trong ống nghiệm đã là sinh thể người hay chưa?

Ngày nay người ta nói đặc biệt nhiều về vấn đề tế bào thân phôi thai. Để nhận được chúng, cần, chẳng hạn, sử dụng sự sống con người đang nẩy sinh. Hay một vấn đề nữa: liệu có thể (từ quan điểm đạo đức chứ không phải kỹ thuật – khả năng kỹ thuật về việc này thì đã rõ) tạo ra các phôi thai người cho các mục đích nghiên cứu? Điều 18, phần 2 Hiệp ước về các quyền con người và về y sinh học (thường chỉ gọi đơn giản là Hiệp ước về đạo đức sinh học) đã đề cập có nói: “Cấm tạo ra các phôi thai người nhằm mục đích nghiên cứu”. Nhưng, chẳng hạn, Anh không tán thành hiệp ước này, vì ở đó người ta cho rằng các thủ thuật với phôi thai trong chừng mực nào đấy là chấp nhận được. Đương nhiên việc tiến hành các thủ thuật này được điều chỉnh chứ không phải là “tất cả đều được phép”. Nhưng không có những cấm đoán khắt khe. Ở Anh có một cơ cấu đặc biệt tác động: Cơ quan Điều chỉnh vấn đề Thụ tinh và Phôi thai học (Human Fertilisation and Embryology Authority – HFEA). Nó chịu trách nhiệm cấp phép và kiểm tra các bệnh viện thụ tinh nhân tạo và tất cả các nghiên cứu tiến hành trên đất nước về phôi thai người và bảo đảm thông tin cho xã hội vấn đề này.

Cả trong luật pháp Nga cũng không có cấm đoán việc tạo ra các bào thai nhằm mục đích nghiên cứu và đây là một trong các căn cứ để theo đó Vụ Pháp chế Bộ Y tế và Phát triển xã hội Liên bang Nga phản đối việc Nga tham gia Hiệp ước về đạo đức sinh học. Đúng là ở nước Nga không có cả một cơ quan giống như HFEA, thành thử từ quan điểm pháp lý, nếu không phải là tất cả thì là rất nhiều thủ thuật với vật liệu phôi thai đã được cho phép bất kể chúng được đánh giá về mặt đạo đức như thế nào.

Sự xuất hiện của các công nghệ cho phép thực hiện các thủ thuật tương tự trước hết được quyết định bởi mục tiêu trợ giúp về mặt y học cho các cặp vợ chồng vô sinh. Nói cách khác, câu chuyện liên quan đến việc ứng dụng về mặt trị liệu các công nghệ này. Ngoài ra, sự phát triển của chúng mở ra những khả năng mới, trong đó kể cả các khả năng phi trị liệu.

Ta hãy xem xét thí dụ về khoa chẩn đoán tiền cấy ghép (preimplantacionnaja). Chính khả năng của nó xuất hiện khi công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm được nghiên cứu. Nếu thụ tinh diễn ra trong ống nghiệm thì ngay lập tức một số tiền phôi bắt đầu phát triển, những tiền phôi này sau đó có thể được cấy vào cho người phụ nữ để thai nhi phát triển ở người đó. Chẩn đoán tiền cấy ghép được nghiên cứu để lựa chọn những tiền phôi đó.

Và tiếp theo, công nghệ bắt đầu phát triển theo logic của nó: thì ra, có thể không đơn giản là lựa chọn những tiền phôi không có khuyết tật, mà lựa chọn tiền phôi nào mà trong quá trình phát triển của mình được chuyển thành đứa trẻ có những đặc điểm xác định nào đó hấp dẫn đối với cha mẹ của nó. Hóa ra là có thể tìm đến công nghệ trợ giúp sinh sản (thụ tinh trong ống nghiệm) này không phải vì cơ quan sinh sản của người phụ nữ hay đàn ông có những khuyết tật nào đó, mà vì khả năng chọn lọc đã xuất hiện. Nói cách khách, việc thựchiện hóa – dù mới ở cấp độ gia đình riêng lẻ – các dự án ưu sinh học để cải thiện thế hệ sau trong thực tế đã trở nên có thể. Và lúc đó hóa ra người ta có thể đi tới thụ tinh trong ống nghiệm không phải vì các mục đích trị liệu, mà là để có được khả năng chọn lọc như vậy.

Đề tài sau đây bắt đầu được thảo luận: giả sử công nghệ này được phổ biến rộng rãi và có thể tiến hành sự chọn lọc tiền cấy ghép những tiền phôi theo những gen bảo đảm trình độ trí tuệ cao. Trong bối cảnh đó có thể nghĩ đến một kịch bản trong tương lai tương đối không xa: từ lúc các công nghệ chọn lọc đó được mọi người chấp nhận, trải qua 20 năm, và một đứa trẻ được đẻ ra theo cách thông thường, không thụ tinh trong ống nghiệm, giờ đã là một thanh niên, hỏi cha mẹ: “Tại sao trước đây cha mẹ không quan tâm đến con chu đáo? Mọi người xung quanh con tài năng về trí tuệ như thế, phát triển như thế, còn riêng con xoàng xĩnh và hạn chế, vì cha mẹ hoặc là tiếc tiền cho việc thụ tinh trong ống nghiệm và chẩn đoán, hoặc là nói chung chẳng nghĩ gì đến việc này”. Như vậy xuất hiện một tình huống khi công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm trở nên chiếm ưu thế, nhưng không theo các căn cứ y học, mà hoàn toàn theo các căn cứ khác.

(còn tiếp)

Người dịch: Viễn Phố

Nguồn: TN 2012 – 88 & 89.

Con người với tính cách là khách thể tác động của công nghệ – Phần II


Con người giữa sự sống và cái chết

Vậy thì các vùng này là như thế nào? Thứ nhất là vùng phân bố giữa sự sống và cái chết của sinh thể người cá thể. Vùng thứ hai dự báo sự ra đời của sinh thể người cá thể. Vùng thứ ba phân chia (hay có thể là liên kết?) con người và động vật. Và thứ tư là vùng có thể là phân chia mà cũng có thể là liên kết con người và máy móc.

Trong mỗi vùng này, nếu cố chăm chú nhìn vào chúng, chúng ta sẽ phát hiện được những quá trình rất lý thú, thường là dữ dội mà dần dà con người bắt đầu kiểm soát được với sự trợ giúp của các công nghệ y sinh. Hóa ra những gì mà nhìn bề ngoài giống như là chốc lát thì giờ đây hiện ra như là một chuỗi hoàn chỉnh các hiện tượng và quá trình gắn kết với nhau, còn ở vị trí của những gì mà chúng ta tưởng như là sự kiện dạng điểm (tochechnoe sobytie) thì lại là một lĩnh vực rộng lớn mà trong ranh giới của nó các công nghệ y sinh cho phép thực hiện các kiểu thao tác khác nhau.

Một trong những thí dụ về những thao tác tương tự liên quan đến một trong những vùng biên được nêu trên kia là việc chẩn đoán “cái chết não”. Nó được ghi nhận khi não ngừng hoạt động, hơn nữa tình huống này mang tính chất bất khả nghịch đảo. Nhưng vấn đề ở chỗ, các công nghệ y sinh ngày nay cho phép bảo đảm trong thời gian khá dài được tính bằng giờ và ngày cho các quá trình và chức năng sinh học nào đó trong cơ thể. Nếu bệnh nhân được nối với máy “tim-phổi nhân tạo” thì anh ta có thể giữ được tuần hòa và hô hấp khi tim và phổi không thực hiện các chứng năng của mình nữa. Đây là một trạng thái nhân tạo mà tự bản thân tự nhiên không bảo đảm được. Mà nếu học được và duy trì được trạng thái nhân tạo này thì xem ra chúng ta có thể tiến hành các thao tác khác nhau với cơ thể ở trong trạng thái đó.

Trước hết, khả năng duy trì sự sống của con người trong điều kiện tuần hoàn và hô hấp tự nhiên ngừng hoạt động có nghĩa là các trạng thái mà trước đây gắn với cái chết thì giờ đây lại tỏ ra là ngược lại trong các phạm vi căn bản. Mà chính vì thế, ngay cả cái chết của con người cũng bị đẩy lùi, cho nên khi cố gắng trả lời câu hỏi “con người là gì?”, chúng ta không thể dễ dàng và đơn giản coi hô hấp và (hay) tuần hoàn tự động như là một trong những dấu hiệu không thể tách rời của nó được.

Hơn thế, đã tạo ra được những công nghệ để một mặt ngắt sự tuần hoàn và hô hấp này khi dừng sự hoạt động có nghĩa là các trạng thái mà trước đây gắn với cái chết thì lại tỏ ra là ngược lại trong các phạm vi căn bản. Mà chính vì thế, ngay cả cái chết của con người cũng bị đẩy lùi, cho nên khi cố trả lời câu hỏi “con người là gì?”, chúng ta không thể dễ dàng và đơn giản coi hô hấp và (hay) tuần hoàn tự động như là một trong những dấu hiệu không thể tách rời của nó được.

Hơn thế, đã tạo ra được những công nghệ để một mặt ngắt sự toàn hoàn và hô hấp này khi dừng sự hoạt động bình thường của tim và phổi, và mặt khác, ngược lại, khởi động một cách nhân tạo sự vận hành bình thường của chúng. Chính bằng cách ấy đã mở ra khả năng tiến hành những thủ thuật ngoại khoa chẳng hạn như phân lưu động mạch chủ cho phép phục hồi việc cung cấp máu cho cơ tim. Bệnh nhân được cắt một đoạn mạch máu, chẳng hạn một mẩu ven ở chân, sau đó đó được nối vào động mạch vành của chính bệnh nhânh như là kênh (phân lưu) vòng quanh. Ngoài ra trong thời gian tiến hành tất cả các thủ thuật ngoại khoa, mất khoảng một số giờ, dòng máu tự nhiên ở bệnh nhân ngừng lại, như thế, theo các tiêu chí truyền thống về cái chết, phải coi bệnh nhân này là đã chết. Trong thời gian gần đây, việc phân lưu động mạnh chủ đã cho phép đẩy lùi ranh giới giữa sự sống và cái chết cho hàng triệu người trong cả hàng thập kỷ.

Khả năng thực hiện tất cả các thủ thuật này chứng minh rằng, vùng biên giữa sự sống và cái chết của sinh thể người đã mở rộng, hơn nữa, không hẳn ở ý nghĩa vật thể, mà đúng hơn là ở ý nghĩa công nghệ. Còn một lĩnh vực mở rộng của nó gắn với việc sử dụng các cơ quan và các mô hình của người bệnh được chẩn đoán “chết não” để cấy ghép cho người bệnh khác. Chỉ với việc tiếp nhận tiêu chí này thì việc thu hồi các cơ quan như tim, phổi, gan từ cơ thể của người được chẩn đoán như vậy mới trở thành có thể. Vì việc lấy các cơ quan này từ cơ thể người bệnh còn sống, tức là người không được chẩn đoán là chết não (và chưa được xác nhận về mặt pháp lý) sẽ được xếp vào loại giết người.

Còn nếu như sự chẩn đoán đó được đưa ra thì việc thu hồi không chỉ những cơ quan và mô này mà cả nhiều cơ quan và mô khác sẽ trở thành một thủ thuật hoàn toàn có thể chấp nhận: những cơ quan và mô thu hồi được có thể được sử dụng cho các mục tiêu trị liệu để giúp những người bệnh khác.

Sự xuất hiện và sau đó sự mở rộng vùng thủ thuật trong không gian giữa sự sống và cái chết cũng đẻ ra nhiều vấn đề về mặt đạo đức mà các nhà đạo đức sinh học nghiên cứu. Ngoài ra, như lịch sử phát triển của nó cho thấy, các vấn đề được bốc lên khá mạnh đã có được cách giải quyết cuối cùng vừa ý tất cả mọi người. Thông thường những vấn đề này – liệu chúng có liên quan tới việc cho và cấy ghép các cơ quan, tới khả năng táchngười bệnh khỏi các cơ chế duy trì sự sống, cho phép thực hiện các thí nghiệm di truyền học khác nhau hay là can thiệp vào gen của con người… hay không – liên tục trở thành vũ đài của sự đụng độ giữa các lập trường đối lập nhau, của sự tìm kiếm không ngơi nghỉ các giải pháp có thể chấp nhận được. Và một trong những căn cứ chủ yếu mà các giải pháp được đề xuất dựa vào lại chính là quan niệm của chúng ta về vấn đề “con người là gì?”. Liệu có thể cho rằng cái sinh thể được chẩn đoán là chết não đó đã không còn là người nữa hay không nếu chúng ta nhận thấy tận mắt rất nhiều dấu hiệu hoạt động sinh học của cơ thể anh ta?

Rõ ràng dẫn dắt những tìm kiếm này của chúng ta về câu trả lời cho vấn đề này nói chung không phải là sự tò mò vô tích sự, mà là sự suy tính hoàn toàn thực tiễn. Chỉ vì chúng ta thừa nhận rằng sinh thể này không còn là con người, con người sống nữa chúng ta mới có thể thực hiện những thủ thuật như là lấy và sau đó sử dụng các cơ quan và mô của sinh thể này và ngắt thiết bị duy trì sự sống.

Vì khi chúng ta nói rằng sinh thể đó là người, chúng ta không đơn giản ghi nhận những tiêu chí khách quan nào đó cho phép chẩn đoán cái chế não. Chúng ta cũng bày tỏ lập trường giá trị của chúng ta mà trên cơ sở đó chúng ta xác định những thủ thuật nào thì sẽ có thể chấp nhận về mặt đạo đức, còn những thủ thuật nào thì không. Và vì con người có những giá trị khác nhau, đôi lúc hoàn toàn xung khắc nhau, trong những tình huống như vậy, muốn tìm ra một giải pháp thỏa mãn tất cả mọi người là điều rất không đơn giản.

Thí dụ của chúng tôi về vùng biên giữa sự sống và cái chết thể hiện rất rõ điều này. Quả là vào những năm 60 của thế kỷ XX khi lần đầu tiên tiêu chí mới về cái chết được đề nghị bổ sung vào các tiêu chí truyền thống mà theo đó cái chết được ghi nhận, hoàn toàn không phải tất cả mọi người đều sẵn sàng chấp nhận nó. Mọi người đều biết ở Liên Xô, V.P. Demikhov đã tiến tiến hành những nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực cấy ghép, thí nghiệm trên chó. Chẳng hạn ngay vào năm 1946 ông đã tiến hành cấy ghép tim và sau đó cả tổ hợp tim – phổi. Và chẳng bao lâu sau khi bác sĩ Nam Mỹ K. Barnard tiến hành ca cấy ghép tim thành công đầu tiên trên thế giới từ người sang người vào năm 1967 thì ở Liên Xô cũng thực hiện thủ thuật tương tự nhưng đúng là đã không thành công. Việc cấy ghép tim ở Liên Xô đã bị gián đoạn gần 20 năm. Và nguyên nhân là bộ trưởng y tế Liên Xô lúc bấy giờ, viện sỹ B.V. Petrovskij – nhân tiện nói thêm, chính ông là nhà phẫu thuật tim xuất sắc, vì những căn cứ đạo đức đãkhông thể chấp nhận tiêu chí cái chết não. Ông lập luận đại thể như thế nào: “Làm sao đối với cái con người vẫn duy trì được hô hấp và tuần hoàn, dù là bằng những phương tiện nhân tạo, mà chúng ta lại coi là anh ta đã chết?”. Kết quả là ở Liên Xô, thủ thuật thành công về cấy ghép tim chỉ được thực hiện vào năm 1987 bởi Viện sỹ V.I. Shumakov. Cũng chính tiêu chí về cái chết não đã được hợp pháp hóa với mức độ đầy đủ ở Nga hiện nay [Luật Liên bang Nga “Về cấy ghép các cơ quan và (hoặc) mô người” năm 1992].

(còn tiếp)

Người dịch: Viễn Phố

Nguồn: TN 2012 – 88 & 89.

Con người với tính cách là khách thể tác động của công nghệ – Phần I


B.G. Judin

Các vùng biên trong sự tồn tại của con người

Đối tượng thảo luận trong bài viết này là vấn đề cơ bản, không có gì phải nghi ngờ: con người là gì? Đương nhiên tôi không có ý định đưa ra một định nghĩa mới nào đó về con người – sẽ là quá tự tin nếu định làm điều đó. Nhiệm vụ của tôi khiêm tốn hơn nhiều: chỉ là khẳng định một thực tế rằng sự phát triển các công nghệ y sinh đã làm cho cái vấn đề triết học (thường được coi là trừu tượng) này trở thành một vấn đề hoàn toàn thực dụng trong đời sống thường ngày của chúng ta. Phải đụng đầu với nó không chỉ là các nhà nghiên cứu về các công nghệ sinh học mới mà cả những người dân bình thường tiếp xúc với các công nghệ này.

Cách tiếp cận của tôi sẽ dựa trên khái niệm tình huống tới hạn hay áp biên. Khái niệm này mang tính chất liên bộ môn, được ứng dụng rộng rãi trong cả các khoa học tự nhiên lẫn các khoa học xã hội. Có tồn tại các tình huống tới hạn khi chúng ta ở vào ranh giới giữa hai hoàn cảnh. Thí dụng rõ rệt nhất – sự chuyển hóa của nước từ trạng thái liên kết này sang một trạng thái liên kết khác, chẳng hạn, từ rắn sang lỏng (sự tan băng). Trong nhiệt động học sự chuyển biến như vậy được gọi là sự chuyển hóa trạng thái.

Nếu xem xét sự chuyển hóa tương tự không cần đến sự chi tiết hóa không cần thiết, từ tầm cao chim bay, thì chúng ta chỉ phân biệt được sự đột biến nào đó – là tảng băng mà qua một thời gian nào đó thì chuyển thành một khối lựng chất lỏng nhất định. Nhưng một cái nhìn chăm chú hơn sẽ cho phép nhận ra không ít điều thú vị – những thứ được nghiên cứu với sự chú ý kỹ càng nhất trong nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên (nếu nói về các hiện tượng). Thông thường chuyển biến trạng thái là quá trình qua nhanh, được đặc trưng bằng trạng thái không ổn định của hệ thống. Hậu quả quan trọng của tính không ổn định đó nằm ở chỗ, sự phụ thuộc giữa cường độ tác động vào hệ thống và phản ứng của nó trước những tác động đó thường là phi tuyến tính, cho nên những tác động tương đối yếu cũng có thể gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng, dẫn đến những biến đổi căn bản trạng thái của hệ thống.

Ngay cả các khoa học nghiên cứu xã hội loài người và lịch sử của nó cũng liên quan tới những hiện tượng tương tự. Và ở đây chúng ta ghi nhận những “chuyển biến trạng thái” khi sự tồn tại tương đối ổn định của tổ chức xã hội được thay bằng thời kỳ biến đổi cách mạng nhanh chóng và dữ dội. Trong các điều kiện không ổn định, điều hoàn toàn có thể là những quá trình nào đó diễn ra ở cấp độ vi mô kéo theo những hậu quả sâu sắc thể hiện trên quy mô rất đáng kể, thậm chí là toàn cầu.

Cần đặc biệt nhấn mạnh điều sau đây: trong cả các hệ thống tự nhiên lẫn xã hội, những nhiễu loạn yếu diễn ra trong giai đoạn chuyển biến trạng thái cũng có thể gây ra những thay đổi đáng kể. Việc chú ý tới đặc điểm của các quá trình chuyển biến là quan trọng không chỉ trong nghiên cứu các hệ thống này mà cả trong tìm kiếm các công nghệ hữu hiệu để tác động tới chúng. Đây phần nhiều chính là cơ sở của sự chú ý đang tăng nhanh lên nhanh chóng trong khoa học hiện đại đối với các trạng thái và tình huống loại này. Đến lượt mình, chính sự quan tâm ngày càng tăng đối với các khả năng công nghệ đang được mở ra ở đây đã quyết định các phương hướng ưu tiên của nhận thức khoa học và chính các hệ thống và trạng thái này.

Quay trở lại vấn đề được đặt ra ở đầu bài viết, cần nhận xét rằng, điều nói trên về các tính huống chuyển biến có thể áp dụng được cả cho con người. Ngày nay nó ngày càng trở thành đối tượng của những tác động khác nhau được thực hiện với sự trợ giúp của các công nghệ tương ứng. Có cơ sở để khẳng định rằng, việc tạo ra các công nghệ mới, hữu hiệu hơn để tác động vào con người trong thời đại ngày nay đã trở thành một trong những khuynh hướng có ý nghĩa nhất của tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Mà điều này có ý nghĩa là, thu hút sự chú ý đặc biệt là các vùng biên mà trong phạm vi của nó sự can thiệp công nghệ có thể đặc biệt có hiệu quả.

Áp dụng vào nhận thức về con người, các vùng biên đó có ý nghĩa còn là vì quay về với chúng cho phép chúng ta hiểu rõ hơn con người là gì. Vì chính trong các tình huống áp biên thì những nét quyết định nào đó của khách thể mà chúng ta quan tâm thường thể hiện rõ nhất. Cũng chính trong trường hợpp đó, các tình huống áp biên vốn là ranh giới giữa bản chất riêng của con người và những gì không phải như vậy sẽ làm chúng ta quan tâm. Biến các tình huống áp biên kiểu đó thành điểm tính, chúng ta có thể cố nhận ra con người là gì, một mặt tựa hồ ở bên trong cái tính người này, còn mặt khác, nhìn nó từ bên ngoài. Áp dụng với con người, ngày nay các công nghệ y sinh hóa ra là người tiếp liệu cho các tình huống tới hạn tương tự. Chúng được phát triển và ứng dụng đặc biệt tích cực để thực hiện các thao tác trong các vùng biên đầy rẫy những khả năng khác nhau nhất. Thiết tưởng, chính việc áp dụng các công nghệ y sinh này vào các vùng này phần nhiều đã làm cho vấn đề con người là gì ngày nay cực kỳ thời sự, có thể quyết định các hình thức đặcbiệt trong cách đặt và suy nghĩ về vấn đề này.

Đây là một số thí dụ như vậy. “Hiệp ước về bảo vệ quyền con người và sự tôn nghiêm của sinh thể người liên quan đến việc ứng dụng các thành tựu sinh học và y học: Hiệp ước về quyền con người và y sinh học” được Hội đồng châu Âu thông qua năm 1997 đã trở thành văn kiện bắt buộc về mặt luật pháp đầu tiên kêu gọi điều chỉnh việc tạo ra và ứng dụng các công nghệ y sinh. Theo điều 1 của văn kiện này – là điều mở ra đối tượng và mục tiêu của nó – “Khi ứng dụng các thành tựu y học và sinh học, các bên của hiệp ước cam kết bảo vệ sự tôn nghiêm và cá tính của mỗi sinh thể người và bảo đảm với mỗi sinh thể người, không có sự phân biệt, là sẽ tôn trọng tính toàn vẹn và bất khả xâm phạm của cá tính của nó và tuân thủ các quyền và các tự do cơ bản khác”.

Như có thể thấy rõ qua nội dung bài viết này, ý nghĩa của nó phụ thuộc bằng phương thức căn bản nhất vào điều là, “sinh thể người” và “mỗi” (người) sẽ được hiểu như thế nào. Mà trong khi đó Hiệp ước không đưa ra định nghĩ về cáckhái niệm “con người” (chelovek) và “sinh thể người” (chelovecheskoe sushestvo). Về mặt này, Báo cáo thuyết minh, một văn kiện giải thích các luận điểm của Hiệp ước đã chỉ ra: “Hiệp ước không đưa ra định nghĩa về thuật ngữ “mỗi” (trong tiếng Pháp là “toute personne”). Hai thuật ngữ tương đương nhau và được dùng trong các phương án tiếng Anh và tiếng Pháp của Hiệp ước châu Âu về các quyền con người, nhưng trong đó cũng không có định nghĩa về chúng. Trong tình hình thiếu sự nhất trí giữa các nước thành viên Hội đồng châu Âu về định nghĩa các thuật ngữ này, một quyết định đã được đưa ra: để áp dụng hiệp ước này, việc định nghĩa về chúng là tùy thuộc kiến giải của luật pháp quốc gia của các nước”. Như vậy, Hội đồng châu Âu không nhận về mình dũng khí đưa ra định nghĩa bắt buộc về mặt luật pháp cho các khái niệm “con người” và “sinh thể người”.

Một thí dụ nữa. Mấy năm trước, Ginda Glenn, chuyên gia Mỹ về đạo đức sinh học đã nhận xét: “Mấy năm gần đây đã sản sinh một số thành tựu khoa học mà trước đây chúng ta liệt vào lĩnh vực viễn tưởng khoa học. Từ di chuyển hạt nhân tế bào tới mang thai ngoài cơ thể, từ những con chíp được cấy vào não người đến các cơ thể di chuyển gen, từ cơ thể điều khiển học (kiborg) đến thể khảm (khimera) – các bước tiếp theo trong tiến hóa của chúng ta là như vậy. Những phát minh trong tương lai rõ ràng làm thay đổi quan niệm của chúng ta về vấn đề “con người là gì”. Ngày nay không thể cấp bằng sáng chế ra các sinh thể người, nhưng chính khái niệm “sinh thể người” vẫn cần được tòa án hay người làm luật định nghĩa”. Tôi nhất trí với những lời nói này, nhưng có sửa lại chút ít: theo tôi, để định nghĩa khái niệm này, không chỉ các luật sư và người làm luật, mà cả giới chuyên gia rộng rãi, kể cả các nhà triết học, đều cần tham gia.

Tiếp theo xin nói về 4 vùng biên, mặc dù điều đó hoàn toàn không có nghĩa là chúng không thể nhiều hơn. Đúng là có thể tìm ra những vùng biên khác mà liên quan tới chúng có thể đặt ra chính vấn đề này. Theo mức độ chúng ta tiếp cận một vùng nào đó trong số các vùng biên này từ bên trong, chúng ta sẽ có ít căn cứ hơn để khẳng định dứt khoát rằng chúng ta vẫn liên quan tới con người. Còn khi đi qua biên giới ngoài của vùng này, chúng ta có quyền vững tin khẳng định rằng “đây” không còn là con người nữa. Ở lại bên trong vùng biên, chúng ta mất đi các định hướng rõ ràng cho phép quyết định một cách đơn nghĩa, chúng ta có liên quan tới con người hay là không. Từ quan điểm này có thể nói về các vùng biên như là các vùng không xác định.

(còn tiếp)

Người dịch: Viễn Phố

Nguồn: TN 2012 – 88 & 89.

Dữ liệu: Nguyên liệu thô của thời đại thông tin – Phần cuối


Dữ liệu câm

Dữ liệu lớn mạnh đến như vậy, vẫn có một vài thứ khiến nó hoạt động tốt và vì thế ít có cơ hội cho những cải thiện có ý nghĩa trong tương lai gần. Tôi không thấy bất kỳ phát triển nào của dữ liệu lớn sẽ làm thay đổi cái sự thật cũ, rằng máy móc giỏi ở những việc mà con người thấy khó (chẳng hạn như làm việc 24 giờ liên tục hoặc nhanh chóng giải quyết một bài toán học phức tạp) còn con người thì giỏi ở những việc mà máy móc khó làm (như sáng tạo hoặc hiểu biết bối cảnh văn hóa – xã hội).

David Brooks, cây bút xã luận của New York Times, đã chỉ ra rằng dữ liệu đã thất bại trong phân tích các khía cạnh xã hội của tương tác hoặc trong nhận thức bối cảnh: “Con người thực sự gỏi khi kể những câu chuyện có đan xen nhiều mạch. Phân tích dữ liệu thì khá tệ trong việc kể chuyện và nêu bật các thứ lên, và nó không thể theo kịp sự linh hoạt trong cắt nghĩa của thậm chí một cuốn tiểu thuyết kém cỏi nhất”.

Đó cũng là trường hợp mà việc phân tích các bộ dữ liệu lớn chưa từng thấy cho ra những kết quả giống như một bản dịch máy gần như hoàn hảo, nhưng đồng thời cũng tạo ra một lượng lớn những tương quan sai. Các bộ dữ liệu càng lớn hơn và càng mở rộng hơn thì các mối tương quan đó càng vừa sai vừa hợp thức. Và hầu hết các chương trình dữ liệu lớn đều kém cỏi trong việc xác định mối tương quan nào có ít nhiều khả năng là sai. Người ta thường bỏ qua việc sử dụng dữ liệu lớn để rút ra những suy luận cho việc đánh giá và kiểm tra, trong khi lại ưu tiên cho các giao dịch thời thực – dù là giao dịch chứng khoán, điều chỉnh chuỗi cung ứng, hoặc ra quyết định tuyển dụng. Nhưng không phải tất cả các xu hướng đều bắt nguồn từ thực tế – hoặc từ các biến mà chúng có vẻ là. Và tất cả các dự đoán thực hiện qua phân tích dữ liệu nên đi kèm với cái gọi là những “thanh lỗi” (error bars), tức những biểu diễn trực quan về khả năng dự đoán bị lỗi bắt nguồn từ tương quan sai.

Khi tôi nói chuyện với phần lớn các CEO hoặc nhà đầu tư, họ đều không biết hoặc không xây dựng các thanh lỗi, và họ nói về thuật toán “nghiền” dữ liệu của họ như thế chúng được thần thánh tạo ra vậy. Nhưng chúng không như vậy. Chúng được con người tạo ra và vì thế rất dễ bị lỗi. Dữ liệu lớn đã không dự đoán được dịch Ebola vào năm 2014, và khi dịch xảy ra, chúng đã đánh giá sai phạm vi tác động của nó. Chúng khôngthể dự đoán hoặc phát hiện sự bùng phát sớm chuyếu là do dữ liệu Ebola từ các khu vực của Tây Phi đã không đến từ các ngôn ngữ đã được các chương trình giám sát lựa chọn.

Khi dự án giám sát dữ liệu lớn của Đại học Harvard có tên là HealthMap cuối cùng báo cáo kết quả phát hiện được, lý do mà nó đưa ra là dữ liệu đã được lấy từ một hệ thống truyền tin dùng tiếng Pháp (truyền thông cũ) và chỉ được báo cáo sau khi chính phủ Guinea đã cảnh báo Tổ chức Y tế Thế giới. Khi xác định Ebola đã trở thành đại dịch, một dự báo thống kê được Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh công bố ước tính đã có 1,4 triệu người có thể đã bị nhiễm virus vào cuối tháng 01/2015 tại Liberia và Sierra Leone. Con số thực tế cuối cùng là chưa đến 25.000 người. Dữ liệu lớn có thể phạm những sai lầm lớn.  

Những gì con người làm với những sản phẩm suy luận dữ liệu lớn cũng có thể là một thử nghiệm cho các giá trị. Khi dữ liệu đi từ không được cấu trúc đến cấu trúc, nó luôn lấy các giá trị và định kiến, nấu lên thành công thức của nó. Lấy ví dụ, trong tương lai, có khả năng một chương trình xây dựng những chuyên gia nhân sự sẽ đối chiếu các chỉ số sức khỏe với việc làm xứng đáng. Liệu phân tích dự báo có nên được sử dụng để xác định nên chăng tuyển dụng một người có khả năng sẽ mắc một căn bệnh nào đó nhưng hiện tại vẫn chưa biểu hiện ra? Điều này có vẻ là phân biệt đối xử và không công bằng. Nhưng ngay cả khi bạn không công khai tính đến các yếu tố gây nguy cơ mắc bệnh, bạn vẫn có thể tình cờ ước lượng chúng chỉ đơn giản bằng cách nhìn vào các yếu tố truyền thống. Nếu một chuyên gia nhân sự làm việc trong một tổ chức lớn và chỉ đánh giá theo các tiêu chí tuyển dụng truyền thống (chẳng hạn như mức duy trì dự kiến và đầu ra các công nhân mà người này đưa vào), sẽ có một sự thiên vị thống kê chống lại những người có khuynh hướng mắc bệnh cao hơn (cũng như đối với một số tiêu chí có thể bị phản đối, bao gồm thiên vị đối với phụ nữ đang trong thời gian mang thai).

Các mối tương quan được thực hiện bằng dữ liệu lớn có kkhả năng củng cố những thiên vị tiêu cực. Do dữ liệu lớn thường dựa trên dữ liệu lịch sử hoặc ít ra là vào hiện trạng, nó có thể dễ dàng tái tạo những phân biệt đối xử chống lại các sắc tộc và dân tộc thiểu số bị thất thế. Các mô hình xu hướng được sử dụng trong nhiều thuật toán có thể tạo ra trong một thiên vị chống lại ai đó sống ở khu vực có mã vùng thuộc về một khu ngoại ô có thu nhập thấp tại bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời của người này. Nếu một thuật toán được các công ty nhân sự sử dụng để truy biểu đồ xã hội của bạn và tích dực đong đo các ứng viên đang có nhiều kết nối nhất với lực lượng lao động, điều đó sẽ khiến việc chiếm vị trí tuyển dụng đầu trở nên khó khăn hơn. Trên thực tế, các thuật toán này có thể che giấu sự thiên vị đằng sau một bức màn mã máy tính.

Dữ liệu lớn về bản chất là vô hồn và không sáng tạo. Nó thúc ép chúng ta theo cách này hay cách khác, và làm vậy vì những lý do mà chúng ta không cách chi hiểu được. Nó bóc tách sự riêng tư của chúng ta rồi đưa ra những sai lầm, những bí mật và tai tiếng của chúng ta công khai lên màn hình. Nó gia cố sự rập khuôn và thiên vị lịch sử. Và phần lớn nó không được kiểm soát bởi vì chúng ta cần nó để tăng trưởng kinh tế và vì những nỗ lực kiểm soát đều có xu hướng không tác dụng. Các công nghệ là quá xa vời, và chúng đã không được xây lên để nhận ra những ranh giới quốc gia của 196 nhà nước có chủ quyền trên thế giới.

Tuy vậy, liệu cố gắng dẹp bỏ hoàn toàn (nếu như có thể) các công nghệ này có phải là cách tốt nhất? Không. Dữ liệu lớn giúp giải quyết nhiều thách đố toàn cầu nhưng đồng thời cũng tạo ra một loạt thách đố hoàn toàn mới. Đó là cơ hội tốt nhất của chúng ta để nuôi sống 9 tỷ người, và nó cũng giúp giải quyết vấn đề chia rẽ ngôn ngữ vốn đã quá xưa cũ, đến mức phải lần ngược lại thời Cựu Ước và Tháp Babel. Các công nghệ dữ liệu lớn sẽ cho phép chúng ta khám phá các tế bào ung thư ở mức 1% kích cỡ những gì được phát hiện bằng công nghệ ngày nay, giúp cứu sống hàng chục triệu mạng người.

Cách tiếp cận tốt nhất cho dữ liệu lớn có lẽ đã được giám đốc công nghệ trong chiến dịch tranh cử của Obama là Michael Slaby đưa ra: “Sẽ có sự kết hợp liên tục giữa trải nghiệm định tính và kinh nghiệm định lượng của bạn. Sẽ có những lúc chúng mâu thuẫn với nhau và cũng sẽ có những lúc khác chúng hòa hợp với nhau. Và tôi nghĩ đó là sự pha trộn. Nó giống như bạn có một bản phối âm và bạn phải đôi lúc tắt cái này đi và bật cái kia lên. Và bạn không bao giờ muốn hoặc chỉ thế này hoặc chỉ thế kia, vì nếu như nó chỉ là một thì coi như bạn đã đánh mất một phần linh hồn vậy”. Slaby đã có một sự nghiệp ấn tượng trong phát triển các công cụ dữ liệu lớn, nhưng ông cũng nhận ra rằng những công cụ này sẽ hoạt động tốt nhất khi được điều khiển bởi phán xét con người.

Những lựa chọn mà chúng ta đưa ra về cách thức quản lý dữ liệu sẽ quan trọng không kém các quyết định về quản lý đất đai trong thời đại nông nghiệp và quản lý công nghiệp trong thời đại công nghiệp. Ta chỉ có một khoảng thời gian ngắn – tôi nghĩ chỉ là vài năm – trước khi một bộ chuẩn mực mới được thiết lập và nó sẽ gần như không thể đảo ngược. Hy vọng con người sẽ chấp nhận gánh lấy trách nhiệm trong việc đưa ra những quyết định này và không chuyển giao nó máy móc.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Alec Ross – Công nghiệp tương lai – NXB Trẻ 2019.