Cuộc đọ sức Mỹ – Nga ở Trung Đông – Phần cuối


Hai quả tên lửa đã phá hủy mọi nỗ lực của Biden

Thực tế, ngay cả Israel cũng từng làm Biden rơi vào thế khó xử trước đó. Ngay sau khi Biden rời khỏi Israel, tên lửa đã được bắn từ dải Gaza về phía Israel. Lực lượng phòng vệ Israel đã trả đũa bằng máy bay chiến đấu và thực hiện các cuộc không kích vào các mục tiêu quân sự của Phong trào Hồi giáo Hamas ở dải Gaza. Hamas lên án vụ không kích này và cho rằng vụ ném bom của Israel có sự hỗ trợ và xúi giục của Mỹ.

Tại dải Gaza, lệnh phong tỏa do Israel áp đặt đã bước sang năm thứ 15. Năm 2021, có đến 1/4 người Palestine thất nghiệp. Theo cuộc thăm dò hồi tháng 6, 70% số người Palestine cho rằng lựa chọn thành lập một nhà nước Palestine không còn khả thi do Israel mở rộng khu định cư ở Bờ Tây. Trong bối cảnh này, nhiều người Palestine cảm thấy thất vọng với Chính quyền Biden, 65% số người Palestine phản đối nhà lãnh đạo nước này đối thoại với Mỹ. Mặc dù Chính quyền Biden thường kêu gọi “giải pháp hai nhà nước” để giải quyết xung đột Israel-Palestine và trong chuyến công du Trung Đông, cá nhân Biden cũng nhắc lại lời kêu gọi này, nhưng lời nói của ông thường không đi đôi với hành động.

Biden đã gặp người đồng cấp Palestine Mahmoud Abbas tại Bethlehem thuộc khu vực Bờ Tây. Biden nhắc lại lập trường giải quyết vấn đề Israel-Palestine thông qua “giải pháp hai nhà nước”. Trong khi đó, Tổng thống Palestine cho biết ông hy vọng Chính phủ Mỹ thực hiện các biện pháp để tăng cường quan hệ song phương, chẳng hạn như mở lại lãnh sự quán Mỹ ở Đông Jerusalem và loại bỏ PLO khỏi danh sách tổ chức khủng bố của Mỹ. Theo các nguồn tin, hai bên đã trao đổi với nhau về tuyên bố chung vài giờ trước khi Abbas và Biden gặp nhau, nhưng cuối cùng đã từ bỏ do có quá nhiều bất đồng. Phía Palestine cho rằng chuyến thăm của Biden chỉ là một “cử chỉ trống rỗng”  và là một “chuyến thăm theo nghi thức”. Chuyến thăm Trung Đông của Tổng thống Mỹ sẽ làm gia tăng mâu thuẫn và càng khiến Mỹ cảm thấy bất lực trước Israel.

Biden bất lực ở Trung Đông

Một bài phân tích của BBC thẳng thắn cho rằng: Mặc dù Biden miễn cưỡng đến thăm Trung Đông, nhưng ông đã để lộ một bí mật của Mỹ – Mỹ đang tỏ ra bất lực ở Trung Đông. Bài viết cho rằng có lẽ Biden không nên đến thăm khu vực này, bởi ông có quá nhiều việc phải làm. Trong Quốc hội Mỹ, dường như các nghị sĩ của đảng Dân chủ sẽ phải đối mặt với kết quả bầu cử ảm đạm sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tháng 11 tới đây. Điều phiền phức hơn là chuyến thăm Trung Đông của Biden đã cho thấy những giới hạn về sức mạnh quốc gia của Mỹ. Về mặt chính trị, chuyến thăm của Biden có khả năng một lần nữa nhắc nhở người ta rằng ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông đang tiếp tục thu hẹp.

So với một số tổng thống tiền nhiệm, chuyến thăm Trung Đông của Biden diễn ra có phần chậm trễ và không gây được sự chú ý. Donald Trump đã chọn Saudi Arabia cho chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi lên cầm quyền. Barack Obama đã đến thăm Saudi Arabia sau 4 tháng lên cầm quyền và đến thăm Saudi Arabia 5 lần trong nhiệm kỳ của mình. Sau khi lên cầm quyền, Chính quyền Biden đã thúc đẩy chính sách thu hẹp chiến lược ở Trung Đông – rút hết quân khỏi Afghanistan, quay trở lại thỏa thuận hạt nhân Iran, kết thúc chiến tranh ở Yemen… So với Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, Biden rõ ràng không có nhiều hứng thú đối với Trung Đông, nếu lần này không phải vì dầu mỏ, thì e rằng Biden vẫn chưa muốn đến khu vực này.

Ngược lại, Iran rất hoan nghênh chuyến thăm của Putin. Có thông tin cho biết Iran sẽ cung cấp cho Nga hàng trăm máy bay không người lái để giúp nước này trong chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine. Điều này cho thấy rõ mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước. Trong khi đó, Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan cũng thăm Iran cùng ngày để tham gia cuộc đàm phán ba bên.

Nhìn vào bàn cờ của Trung Đông ngày nay, có thể nhận thấy chưa có quốc gia Trung Đông nào hoàn toàn đi theo Mỹ. Ngược lại, Syria đã ngả hẳn về phía Nga, trở thành quốc gia thứ hai sau Nga công nhận nền độc lập của hai nước cộng hòa ở vùng Donbass. Một “vùng lưỡi liềm Shiite” do Nga hậu thuẫn cũng đã hình thành ở miền Nam Thổ Nhĩ Kỳ dọc theo tuyến từ Iran đến Syria. Điều quan trọng nhất là mối quan hệ giữa các quốc gia Trung Đông như Saudi Arabia và Các Tiểu Vương quốc Arab thống nhất với Nga không quá tồi, nhiều khả năng họ sẽ không đi theo Mỹ.

Có hai chi tiết đáng để chú ý: Một là, khi Biden đang nỗ lực điều phối mối quan hệ giữa Saudi Arabia và Israel, Saudi Arabia tuyên bố mở cửa không phận cho tất cả các hãng hàng không dân dụng bao gồm cả Israel. Điều này được Mỹ hết lời khen ngợi. Tuy nhiên, Ngoại trưởng Saudi Arabia ngay lập tức làm mất mặt Mỹ trong một cuộc họp báo khi tuyên bố quyết định mở không phận không liên quan gì đến quan hệ ngoại giao của Israel và không phải là màn dạo đầu cho tiến trình bình thường hóa quan hệ hai nước.

Hai là, trong cuộc gặp với Biden, Thái tử Saudi Arabia Mohammed nói rằng Mỹ không nên áp đặt quan niệm giá trị của mình lên nước khác. Nếu Mỹ muốn các nước khác có những quan niệm giá trị hoàn toàn nhất quán, thì chỉ có Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) sẽ ở bên cạnh nước này. Sau khi hội nghị thượng đ3inh về an ninh và phát triển kết thúc, Ngoại trưởng Israel, cũng như cái gọi là “NATO phiên bản Arab”. Từ đó có thể thấy nỗ lực lôi kéo đồng minh và xây dựng một “NATO phiên bản Arab”. Từ đó có thể thấy nỗ lực lôi kéo đồng minh và xây dựng một “NATO phiên bản Trung Đông” của Biden gần như thất bại.

Nhìn vào bàn cờ Nga-Mỹ ở Trung Đông, Mỹ đã thua khi đi trước nước cờ. Không có gì ngạc nhiên khi chuyến đi của Biden đến Trung Đông chỉ có thể kết thúc trong thất bại. Lý do là một mặt Nga xích lại gần Trung Đông hơn và các nước Trung Đông phải cân đo tầm quan trọng của Nga, nhưng điều quan trọng hơn là các nước Trung Đông đã nhận ra sự ích kỷ của Mỹ. Mỹ đã chiến đấu ở Afghanistan trong 20 năm, nhưng lại bỏ rơi nước này vào năm 2021. Năm 2011, Trung Đông rơi vào tình trạng hỗn loạn và Ai Cập cũng không may mắn thoát khỏi. Mặc dù Tổng thống Ai Cập khi đó là Hosni Mubarak là một đồng minh đáng tin cậy của Mỹ nhưng cũng bị nước này bỏ rơi. Điều này có nghĩa là Mỹ có thể bỏ rơi các nước Trung Đông bất cứ lúc nào. Vì vậy, việc các nước Trung Đông xa lánh Mỹ chính là “kết quả” mà nước  này tự tay gieo trồng.

Nguồn: TLTKĐB – 14/08/2022

Cuộc đọ sức Mỹ – Nga ở Trung Đông – Phần đầu


Theo trang hk01.com số ra gần đay, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã kết thúc chuyến thăm Trung Đông đầu tiên kể từ khi lên cầm quyền. Qua chuyến thăm này, Mỹ muốn tăng cường mối quan hệ với Israel và Saudi Arabia – hai trụ cột trong chiến lược đại Trung Đông, đồng thời tiếp xúc với Tổ chức giải phóng Palestine (PLO) ở Jordan để xoa dịu mâu thuẫn giữa các nước Arab và Israel, dốc toàn lực đối đầu với Nga trong vấn đề năng lượng, gây thêm áp lực với phé Shiite do Iran đứng đầu. Tuy nhiên, ông đã đạt được gì trong chuyến thăm này?

Điều trùng hợp là Tổng thống Nga Vladimir Putin cũng đến thăm Iran vào ngày 19/7, sau đó gặp người đồng cấp Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan và tổ chức hội nghị thượng đỉnh ba bên. Cuộc đọ sức Mỹ – Nga kéo dài từ Ukraine sang Trung Đông.

Chuyến đi tay trắng?

Trong chuyến cônhg du 4 ngày, Joe Biden đã có cuộc gặp mặt trực tiếp đầu tiên với người đồng cấp Ai Cập Abdel-Fattah El-Sisi và Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman. Ông cũng tổ chức hội nghị thượng đỉnh về an ninh và phát triển với nhà lãnh đạo của 9 quốc gia Trung Đông. Mục đích của chuyến thăm này là “ngoại giao dầu mỏ”, nhưng dường như Biden đã đạt được rất ít kết quả thực chất.

Vào ngày Biden khởi hành chuyến công du Trung Đông, Bộ Lao động Mỹ thông báo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 6 tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước, mức cao kỷ lục mới trong 40 năm và gần một nửa mức tăng là do giá năng lượng. Biden hy vọng thông qua chuyến công du này hối thúc các nước Trung Đông như Saudi Arabia tăng nguồn cung dầu. Saudi Arabia không chỉ đứng đầu Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) mà còn là một trong số ít quốc gia trong tổ chức này có năng lực sản xuất dư thừa. Nếu Saudi Arabia tăng cung dầu ra thị trường quốc tế thì sẽ giúp kìm hãm giá dầu.

Tuy nhiên, có thể nói Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman lại hoàn toàn nắm thế chủ động trong các cuộc đàm phán với Biden và cả thế giới đều thấy rằng vị thái tử sinh sau năm 1980 này dám “cụng tay” với Biden.

Trước tiên, tuyên bố chung sau cuộc hội đàm với Quốc vương Saudi Arabia Salman và Thái tử Mohammed chỉ nêu rõ Mỹ và Saudi Arabia cho rằng việc tiếp tục quan hệ đối tác chiến lược có vai trò rất quan trọng, tái khẳng định sự cần thiết phải duy trì sự ổn định của thị trường năng lượng quốc tế và đồng ý tiến hành tham vấn định kỳ về thị trường năng lượng quốc tế.

Thứ hai, Mỹ và Saudi Arabia đã ký 18 thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực như năng lượng, thông tin liên lạc, hàng không và chăm sóc sức khỏe. Các thỏa thuận này bao gồm hợp tác với Boeing, Raytheon, Medtronic, Digital Diagnostics và IQVIA. Hai nước cũng thỏa thuận về các dự án năng lượng sạch, năng lượng hạt nhân và urani. Tuy nhiên, trong số các thỏa thuận này không có cam kết tăng sản lượng dầu mỏ mà Biden mong muốn.

Sau cuộc gặp với Thái tử Saudi Arabia, Biden cho biết ông dự đoán Saudi Arabia sẽ tăng nguồn cung dầu trong những tuần tới. Tuy nhiên, Saudi Arabia nhanh chóng đáp lại rằng điều đó tùy thuộc vào nhu cầu. Bộ trưởng Ngoại giao Adel Jubeir hói rằng dầu mỏ không phải là vũ khí chính trị, cũng không phải là xe tăng, bạn không thể dùng nó để khai hỏa vào ai đó. Dầu mỏ là hàng hóa. Nếu bạn nói liệu chúng tôi có cam kết cung cấp thêm dầu hay không, điều này có nghĩa là chúng tôi thấy thiếu dầu và nếu chúng tôi thấy thiếu dầu thì sẽ sản xuất nhiều dầu hơn.

Cuối cùng, phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh an ninh và phát triển ở Jeddah, Thái tử Saudi Arabia Mohammed cho biết Saudi Arabia có khả năng tăng công suất sản xuất dầu thô trong nước lên 13 triệu thùng/ngày, nhưng không có khả năng tăng sản lượng khai thác dầu thô ngoài hạn ngạch ở thời điểm hiện tại.

Theo số liệu mới nhất, sản lượng dầu thô của Saudi Arabia trong tháng 6 là 10,585 triệu thùng/ngày. Tuy nhiên, không nên cho rằng việc gia tăng hàng triệu thùng dầu này là công lao của Biden. Trước tiên, cần lưu ý rằng có thể mất 5 năm mới đạt được mục tiêu 13 triệu thùng. Hai là, ngay từ đầu tháng 5, Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia cho biết nước này dự kiến sẽ tăng sản lượng dầu từ 1 triệu thùng/ngày lên hơn 13 triệu thùng/ngày vào cuối năm 2026 hoặc đầu năm 2027. Mặc dù Biden cuối cùng đã phải nhún mình để đề nghị Saudi Arabia tăng sản lượng nhưng sự thỏa hiệp lại không thể đổi lấy dầu.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 14/08/2022

Tương lai sự can dự của Mỹ ở Trung Đông – Phần cuối


Xây dựng lại chính sách đối ngoại Mỹ trong bối cảnh tương quan lực lượng mới trong khu vực

Hướng tới một chiến lược ngoại giao mới dựa trên các đối tác chủ chốt: Israel, Saudi Arabia, Ai Cập

Trong khi chính sách của Mỹ ở Trung Đông chủ yếu hướng tới Iraq và cuộc xung đột Israel-Palestine cho đến năm 2008, Tổng thống Obama đã cố gắng rút dần lực lượng Mỹ khỏi Iraq và tiến tới cùng Iraq giám sát các hoạt động tại thực địa. Lường trước những tác động của ảnh hưởng ngày càng tăng của Iran, ông ũng khởi xướng Kế hoạch hành động toàn diện chung (JCPOA) nhằm ngăn chặn sự phát triển của một năng lực hạt nhân khác trong khu vực có thể đe dọa an ninh của Israel. Cuối cùng, dưới thời Tổng thống Trump, Mỹ đã khởi xướng các thỏa thuận bình thường hóa giữa Israel và các nước láng giềng Arab – giờ đây được biết đến với tên gọi “Thỏa thuận Abraham”, bao gồm Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), Bahrain, Sudan và Maroc – với mục đích tạo ra một liên kết chiến lược cho phép làm giảm sức nặng của Iran trong khu vực cũng như các lực lượng ủy nhiệm và đồng lõa của Iran (Hezbollah, lực lượng dân quân Shiite của Iraq, chế độ Syria, lực lượng (Houthi). Nói tóm lại, các sáng kiến ngoại giao được ưu tiên hơn các hành động quân sự phòng ngừa kém hiệu quả, nhiều rủi ro an ninh và chi phí tốn kém. Theo nhà nghiên cứu Tamara Cofman Wittes, những kết quả chiến lược tốt nhất của Mỹ ở Trung Đông có được là nhờ ngoại giao. Theo Dalton và Karlin, Mỹ cần chú trọng hơn đến các công cụ phi quân sự để giúp các đối tác trong khu vực vượt qua những thách thức dài hạn về quản trị, thiết lập các khế ước xã hội, củng cố cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố. Những sáng kiến như vậy sẽ cần một nguồn tài trợ bền vững và có trách nhiệm từ Bộ Ngoại giao Mỹ và Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ (USAID). Tuy nhiên, các yêu cầu ngân sách của USAID đã được Quốc hội Mỹ điều chỉnh giảm từ năm 2017, từ 50,1 tỷ USD vào năm 2017 xuống 41 tỷ USD vào năm 2021. Nói tóm lại, các công cụ ngoại giao, kinh tế (viện trợ phát triển) và tình báo sẽ cho phép Mỹ theo đuổi một chiến lược cạnh tranh hơn trong khu vực.

Theo Tamara Cofman Wittes, việc giảm sự hiện diện của Mỹ ở Trung Đông sẽ tạo ra một thế cân bằng khó khăn: Giảm bớt dấu ấn quân sự đã lỗi thời của Mỹ mà không gây thêm mất an ninh, đồng thời duy trì sự răn đe đối với các nước thù địch, điều này là cần thiết để đáp ứng những lợi ích then chốt của Mỹ. Cũng theo ông, có hai câu hỏi khó đặt ra với Washington về những ưu tiên và kỳ vọng của họ: Làm thế nào để nối lại các cuộc đàm phán hạt nhân với Iran và làm thế nào để phối hợp tham vọng ngoại giao với việc rút khỏi cam kết quân sự. Liên quan tới Iran, ba nhà phân tích chính trị Martin Indyk, Mara Karlin và Tamara Cofman Wittes gợi ý rằng ngoại giao Mỹ nên áp dụng cách tiếp cận có thể khôi phục thỏa thuận hạt nhân Iran năm 2015. Với cách tiếp cận này, Mỹ sẽ làm việc với các bên liên quan khác (Trung Quốc, Pháp, Nga, Anh và Đức) và Iran để đàm phán một thỏa thuận tiếp theo. Đồng thời, các nước này sẽ góp phần vòa sự ổn định của khu vực.

Hướng tới một chiến lược quân sự ít tốn kém hơn

Để có một chiến lược quân sự ít tốn kém hơn, các nhà phân tích Dalton và Karlin khuyến nghị Chính quyền Washington nên từng bước xem xét lại các lực lượng của họ ở Trung Đông – đó là các căn cứ quân sự, tài sản và quân nhân Điều này có thể kéo theo việc giảm bớt quân số và chú trọng vào các hoạt động đầu tư có mục tiêu hơn. Các lực lượng mặt đất và các phương tiện tấn công cũng có thể được giảm bớt. Cuối cùng, cần phải giảm bớt nhân sự trong các cơ quan đầu não và chỉ huy của Mỹ ở vùng Vịnh. D(iều này có nghĩa là cần tập trung vào yếu tố cốt lõi, như củng cố hệ thống phòng thủ chống tên lửa, xây dựng lực lượng hải quân có khả năng tiếp cận bờ biển, các chiến dịch đặc biệt và năng lực chống khủng bố, năng lực tình báo, giám sát và trinh sát và, cuối cùng, hậu cần và các công cụ cần thiết. Theo Melissa Dalton và Mara Karlin, Mỹ nên hợp lý hóa các căn cứ quân sự của mình trong khu vực. Toàn bộ căn cứ của Mỹ (hầu hết nằm ở Vùng Vịnh) được duy trì và phát triển kể từ Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 đều có ý nghĩa quan trọng để tiến hành các cuộc chiến tranh liên tiếp ở Iraq và triển khai các chiến dịch ở Afghanistan, cũng như thực hiện các nỗ lực trong cuộc chiến chống khủng bố và răn đe đối với Iran. Để duy trì vị thế an ninh mới của mình trong khu vực, Mỹ cần tăng cường các quan hệ đối tác an ninh, cũng như tăng cường huấn luyện, các cuộc tập trận và các hoạt động trao đổi quân sự để có thể đạt được các mục tiêu an ninh chung với các nước đối tác. Chẳng hạn, các cuộc tập trận quân sự của Mỹ với một số quân đội trong khu vực rất hữu ích, cả về mặt chiến lược (để răn đe Iran, trấn an các đối tác vùng Vịnh và tạo điều kiện hợp tác giữa họ dựa trên mối quan hệ chính trị căng thẳng giữa các nước vùng Vịnh khác nhau) lẫn mặt tác chiến (để đảm bảo rằng quân đội Mỹ luôn sẵn sàng đối phó với các cuộc xung đột trong tương lai ở Trung Đông). Việc hợp tác với các đồng minh như Anh và Pháp để cùng chia sẻ các nguồn lực và các căn cứ quân sự cũng có thể góp phần bù đắp cho những thay đổi vị thế của Mỹ. Chiến lược quân sự mới được nhiều nhà phân tích và nhà nghiên cứu khuyến nghị này dường như ngụ ý sửa đổi các hình thức can thiệp quân sự của Mỹ ở Trung Đông sao cho một số cường quốc khu vực có thể tham gia tích cực hơn vào hợp tác an ninh nhằm hỗ trợ những lợi ích của Mỹ trong khu vực.

Kết luận

Sau 3 thập kỷ bá quyền của Mỹ ở Trung Đông, các chuyên gia Mỹ nhận thấy Mỹ có sự thu mình lại mang tính chiến lược trong khu vực để đầu tư nhiều hơn vào Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, và tập trung vào những lợi ích ưu tiên còn lại: đảm bảo tiếp cận các tuyến hàng hải chiến lược, hưởng lợi từ các mạng lưới kinh tế và tài chính, đấu tranh chống khủng bố và chống lại ảnh hưởng địa chính trị của Iran. Nhiều nhà phân tích Mỹ khuyến nghị một chiến lược ngoại giao mới, nhằm củng cố các quan hệ đối tác với các đồng minh quan trọng của Mỹ trong khu vực (như Israel, Saudi Arabia, Ai Cập) để đối phó với các đối thủ địa chính trị như Nga và Trung Quốc, đồng thời triển khai một chiến lược quân sự ít tốn kém hơn. Điều này đòi hỏi phải xem xét lại chiến lược của Mỹ ở Trung Đông, điều vẫn chưa rõ ràng dưới thời Tổng thống Biden. Hiện tại, Biden đang tự định vị mình như một người bảo vệ hiện trạng và về cơ bản dường như không đoạn tuyệt với chính sách mà Donald Trump đã theo đuổi. Chính quyền Biden dường như đang tiếp tục từ bỏ cam kết với khu vực này và chỉ duy trì sự hiện diện của Mỹ trong các lĩnh vực chiến lược. Trong Hướng dẫn Chiến lược an ninh quốc gia tạm thời (tháng 3/2021), Tổng thống Mỹ dường như quay trở lại với cách tiếp cận truyền thống hơn, ưu tiên ổn định khu vực, các giá trị cơ bản như nhân quyền và duy trì hiện trạng. Ưu tiên của Chính quyền Biden cho đến nay trước hết là xử lý cuộc khủng hoảng COVID-19 cũng như kế hoạch phục hồi, tái tập trung các hành động vào các thách thức trong nước.

Nguồn: www.frstrategie.org

TLTKĐB – 16/04/2022

Khi “tam giác” an ninh Mỹ-Israel-Saudi Arabia đối đầu với “trục” Nga-Iran


Theo đài RFI, ngày 13/7, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã có mặt ở Israel, bắt đầu một chuyến công du vùng Trung Đông mà chặng cuối cùng là Saudi Arabia được đánh giá là rất quan trọng. Moskva cũng loan báo chuyến thăm Iran vào đầu tuần tới của Tổng thống Nga Vladimir Putin, nơi ông sẽ có cuộc gặp ba bên với những người đồng nhiệm Iran và Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 19/7.

Đối với giới quan sát, việc hai lãnh đạo Nga-Mỹ cũng đến vùng Trung Đông gần như cùng lúc là dấu hiệu phản ánh cuộc đọ sức giữa Washington và Moskva đang ngày càng gay gắt, đặc biệt kể từ khi Nga đem quân xâm lược Ukraine ngày 24/2.

Việc Tổng thống Biden chọn tới thăm Israel và nhất là Saudi Arabia không phải là vô tư vì ở Trung Cận Đông, đây là hai quốc gia được coi là “kẻ thù không đội trời chung” của Iran, nước đang đối kháng với Mỹ và ngày càng xích lại gần Nga kể cả trong vấn đề cuộc chiến ở Ukraine.

Đối với Washington, trong bối cảnh trục liên kết Moskva-Tehraen ngày càng trở nên chặt chẽ, cần phải nhanh chóng có biện pháp ứng phó. Việc hình thành và củng cố điều có thể gọi là “tam giác an ninh” Mỹ-Israel-Saudi Arabia đã trở nên cần thiết.

Theo chuyên gia Pháp Dominique Moisi, cố vấn đặc biệt của Viện Nghiên cứu Montaigne ở Paris (Pháp), với việc Nga xâm lược Ukraine ngày 24/2, Mỹ đã buộc phải thay đổi cách nhìn về thế giới nói chung và Trung Đông nói riêng.

Tam giác an ninh Mỹ-Israel-Saudi Arabia

Trong một phân tích được Ouest-France, một nhật báo địa phương lớn tại Pháp, công bố ngày 13/7, ông Moisi cho rằng ngày 24/2, thế giới bắt đầu bước vào một cuộc “Chiến tranh Lạnh” mới bao gồm cả một cuộc chiến tranh nóng ở phía đông châu Âu và trong tình thế mới này, “Mỹ đang khám phá lại tính chất tối cần thiết của Trung Đông”.

Theo chuyên gia Moisi, cho đến gần đây, Mỹ từng cho rằng mình có thể độc lập với Trung Đông về nhiên liệu hóa thạch, Thế nhưng, với cuộc khủng hoảng năng lượng phát sinh từ cuộc chiến Ukraine, Mỹ đã nhận thức được rằng họ cần đến thiện chí Saudi Arabia để hạn chế đà tăng giá năng lượng vào thời điểm nguồn cung cấp từ Nga có thể ngưng. Một trong những mục tiêu trong chuyến thăm Saudi Arabia của Biden là thuyết phục Riyad mở van dầu để ổn định giá năng lượng.

Trục Moskva-Tehran

Bên cạnh đó, với tham vọng hạt nhân ngày càng gia tăng của Tehran, ý tưởng về một tam giác an ninh giữa Washington, Tel Aviv và Riyad, dường như là điều cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh phe bảo thủ thống trị tại Iran ngày càng kiên quyết hơn trong việc sát cánh cùng với Nga trong việc chống lại Mỹ, Israel và Saudi Arabia.

Từ trước khi nổ ra cuộc chiến tranh ở Ukraine, khi tới thăm Nga vào tháng 01, Tổng thống Iran đã không ngần ngại cho rằng hai nước cần tạo ra một “sức mạnh tổng hợp” để “chống lại chủ nghĩa đơn phương của Mỹ”.

Ngày 11/7, Nhà Trắng đã tiết lộ những thông tin tình báo theo đó, Iran đã có dấu hiệu sẵn sàng hỗ trợ Nga về mặt quân sự trong cuộc chiến ở Ukraine, với việc chuyển giao “hàng trăm máy bay không người lái” đang được thực hiện cũng như đào tạo binh sĩ Nga về cách sử dụng các phương tiện này ngay trong tháng 7 này.

Nhìn chung, theo nhận định của chuyên gia Moisi, khi xâm lược Ukraine, Nga không chỉ đánh thức các khái niệm phương Tây, NATO và Liên minh châu Âu mà còn khiến Mỹ nhận ra rằng Trung Đông là quân cờ quan trọng trên bàn cờ thế giới và Washington không thể rời bỏ khu vực này cho những tham vọng của chính Nga, Trung Quốc, Iran và Thổ Nhĩ Kỳ.

Nguồn: TKNB – 15/07/2022

Tương lai sự can dự của Mỹ ở Trung Đông – Phần II


Trung Đông không còn là ưu tiên trong chiến lược toàn cầu của Mỹ

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính trị và Chiến lược Al-Ahram ở Cairo, Abdel Moneim Saeed, cho biết chính sách quốc tế của Mỹ vẫn hướng tới vai trò lãnh đạo toàn cầu nhưng tập trung ở châu Âu và Thái Bình Dương (và ít hơn ở Trung Đông) nhằm tăng cường liên minh với các nước thành viên khác của NATO, Australia, New Zealand, Nhật Bản và Hàn Quốc. Một số phương tiện truyền thông theo chủ nghĩa tự do của Mỹ cho rằng Mỹ nên từ bỏ giáo điều chủ nghĩa can thiệp đã ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của họ cho đến nay và chỉ dẫn đến những thảm họa trong khu vực (trong đó có cuộc chiến chống khủng bố do George W. Bush khởi xướng). Giám đốc Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) William J. Burns cho rằng Mỹ phải điều chỉnh lại các mối quan hệ của mình trong khu vực để duy trì một hiện trạng nhất định. Với Saudi Arabia và các quốc gia vùng Vịnh khác, điều này đồng nghĩa với một sự hỗ trợ cho an ninh của họ trước các mối đe dọa từ bên ngoài, dù từ Iran hay bất kỳ quốc gia nào khác, và một sự hỗ trợ đáng kể cho quá trình hiện đại hóa chính trị và kinh tế. Liên quan đến Iran, Mỹ có mọi lợi ích trong việc quay trở lại thỏa thuận hạt nhân. Đó không phải là phương thuốc kỳ diệu cho mọi bất đồng giữa Washington và chế độ hiện tại ở Tehran, nhưng nó sẽ là điểm khởi đầu cần thiết để chống lại các mối đe dọa hạt nhân Iran và cuối cùng là giảm thiểu chúng.

Do vậy, Trung Đông không còn là mối quan tâm lớn đối với Mỹ như 30 năm trước, khi nước này gần như nắm quyền bá chủ và phụ thuộc vào Trung Đông về nguồn cung khí đốt. Theo các nhà nghiên cứu Aaron David Miller và Richard Sokolsky thuộc Quỹ Carnegie vì hòa bình quốc tế, khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, sự phát triển của các nguồn năng lượng không hóa thạch và việc phát hiện ra các trữ lượng dầu khí lớn ngoài vùng Vịnh đã làm giảm sự quan tâm của Mỹ đối với Trung Đông. 85% lượng dầu xuất khẩu từ vùng Vịnh hiện nay là sang Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Về sự can thiệp quân sự, không giống như các nhà phân tích khác, Miller và Sokolsky cho rằng thật là ảo tưởng khi tin rằng một chính sách đối ngoại ít quân sự hóa hơn – một chính sách dựa nhiều hơn vào ngoại giao, viện trợ phát triển và các chương trình xây dựng dân chủ hơn là sử dụng vũ lực quân sự – sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp hơn về ổn định, phát triển kinh tế và chuyển đổi dân chủ. Những cạnh tranh sắc tộc, khu vực và bộ tộc, sự thiếu năng lực lãnh đạo và các quyền tự do cơ bản, sự quản trị yếu kém và những thể chế kém hiệu quả, sự thiếu minh bạch, thiếu tôn trọng nhân quyền và tham nhũng lan rộng đã tạo ra một khu vực rạn nứt và rối loạn mà Mỹ không thể cải thiện, càng không thể “sửa chữa”. Theo Miller và Sokolsky, những trách nhiệm này chủ yếu cần được các cường quốc khu vực gánh vác và giải quyết.

Những thách thức kinh tế, an ninh và địa chính trị trong một bối cảnh bất ổn

Đảm bảo tiếp cận các tuyến hàng hải chiến lược và hưởng lợi từ các mạng lưới kinh tế và tài chính

Một trong những lợi ích kinh tế ưu tiên của Mỹ trong khu vực là duy trì sự ổn định tương đối để đảm bảo tiếp cận các tuyến hàng hải chiến lược (đặc biệt là Biển Đỏ và Vịnh Arab) và không làm suy yếu thương mại thế giới. Điều này có thể lý giải tại sao Mỹ hiện diện mạnh mẽ ở Qatar, Kuwait và Bahrain, những quốc gia chiến lược trong nền kinh tế thế giới và cung cấp khí đốt. Căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ là Al-Udeid – nơi đồn trú khoảng 10.000 lính Mỹ cùng với trụ sở CENTCOM (Bộ chỉ huy các chiến dịch quân sự của Mỹ ở Trung Đông, Trung Á và Nam Á). Như vậy, cho dù Mỹ đã trở thành nước xuất khẩu dầu mỏ, quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên dầu mỏ vẫn nằm trong sự cạnh tranh giữa các cường quốc (dầu mỏ vùng Vịnh đã được xuất khẩu sang phương Đông, chứ không chỉ sang phương Tây).

Mỹ phần lớn vẫn là nước hưởng lợi từ các mạng lưới kinh tế và tài chính ở các khu vực mà họ tham gia, và đây vẫn là một lý do quan trọng khiến họ can dự. Theo Ghassan Salamé, học giả và nguyên là nhà ngoại giao, Mỹ đã “tư nhân hóa” phần lớn các hoạt động bên ngoài của mình. Trong cuộc xâm lược Iraq năm 2003, một mạng lưới kinh tế và tái chính thực sự đã được hình thành, trong đó Mỹ là bên hưởng lợi chính. Những người lính trẻ được đưa ra mặt trận, còn các công ty an ninh tư nhân ban đầu chịu trách nhiệm bảo vệ các bệnh viện quân đội, và sau đó tuyển mộ những người lính trẻ này. Quả thực, sự can thiệp của các công ty tư nhân trên chiến trường chủ yếu liên quan đến sự hỗ trợ cho thể chế quân sự: cung cấp lương thực và quần áo cho binh lính, bảo trì và sửa chữa thiết bị, hậu cần, vận tải… Nước đầu tiên sử dụng loại hình công ty tư nhân là Mỹ. Sự thiếu hụt quân số kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc (từ 2,1 triệu người năm 1991 xuống còn 1,4 triệu người hiện nay) đã buộc Chính quyền Washington kêu gọi sự tham gia của các thực thể dân sự. Chẳng hạn, trong lực lượng Mỹ tham gia Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1990 – 1991), cứ 50 binh sĩ thì có một thường dân được tuyển mộ theo  hợp đồng. Ở Iraq, vào năm 2004, tỷ lệ này đã tăng lên 1/10. Cuộc can thiệp vào Afghanistan (2001 – 2021), mặc dù tốn kém (theo ước tính của Lầu Năm Góc là 654 tỷ euro), vẫn mang lại lợi ích cho Mỹ.

Những thách thức địa chính trị và an ninh mới

Trong Chiến tranh Lạnh, những ưu tiên địa chính trị của Mỹ là chống lại ảnh hưởng của Liên Xô và bảo vệ Israel. Ngày nay, cục diện địa chính trị đã thay đổi đáng kể. Trước hết, mặc dù Mỹ vẫn là một đồng minh chính của Israel, nhưng nói đúng hơn quốc gia này đã trở nên tự chủ trong việc đảm bảo an ninh bên ngoài của mình. Cho dù Liên Xô sụp đổ, nhưng Nga đã hiện diện trở lại ở Trung Đông, đặc biệt là ở Syria, nơi các lợi ích của Nga gắn với các lợi ích của Iran để ủng hộ chế độ Bashar al-Assad. Theo nhà khoa học chính trị Matthieu Rey, “Vladimir Putin tìm thấy ở Trung Đông một cơ hội để trả thù cho những điều tủi nhục trong thời kỳ bá quyền của Mỹ”. Chẳng hạn, các sáng kiến của Liên hợp quốc bị ngăn chặn một cách có hệ thống bởi quyền phủ quyết của Nga, và Syria (đặc biệt là ở Aleppo) được Nga sử dụng làm nơi phô trương các loại vũ khí mới và các công ty an ninh tư nhân của họ. Kể từ nhiệm kỳ tổng thống của Obama, người ta đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều cường quốc khu vực thay thế vị trí bá quyền của Mỹ trong khu vực. Các quốc gia như Thổ Nhĩ Kỳ và iran đã tạo thành một thách thức địa chính trị mới đối với Mỹ: một mặt, ảnh hưởng trong khu vực của Iran (thông qua lực lượng dân quân và các trung gian chính trị của nước này) là một thách thức lớn đối với an ninh của Israel; mặt khác, Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù là thành viên của NATO, đã mua hệ thống phòng không S-400 của Nga và làm xáo trộn mối liên minh xuyên Đại Tây Dương. Cuối cùng, sự hiện diện ngày càng rõ rệt của Trung Quốc, thông qua các quan hệ đối tác kinh tế và các dự án phát triển trong khu vực, có thể là mối quan ngại đối với Washington, vì các nước vùng Vịnh là các đối tác thương mại chính của Trung Quốc.

Do đó, bảo vệ các lợi ích địa chính trị và an ninh của Mỹ bao hàm sự đối lập trực diện hơn với các quốc gia thù địch nhất, đặc biệt là ở Vùng Vịnh. Thật vậy, quyết định của Chính quyền Trump rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran và tìm kiếm một cách tiếp cận quyết đoán hơn để đối phó với cách hành xử gây bất ổn của Iran có thể kéo theo những hành động leo thang mà Mỹ sẽ phải sẵn sang đối phó bằng cách phối hợp chặt chẽ với các đồng minh và đối tác. Các nhà nghiên cứu chính trị Mỹ cho rằng sự bất ổn ngày càng gia tang của khu vực và sự thay đổi các hình thức can thiệp của Mỹ đã khiến Quốc hội Mỹ phải yêu cầu Lầu Năm Góc nghĩ đến việc cải cách bộ máy sao cho linh hoạt và hiệu quả để đáp ứng các yêu cầu cảu CENTCOM (thường xuyên tăng cường quân sự để chống Iran – được coi là “mối đe dọa sắp xảy ra”), cũng như trong bối cảnh của các ưu tiên toàn cầu mới của Mỹ.

Theo phân tích của các nhà nghiên cứu chính trị Dalton và Karlin, quân đội Mỹ sẽ không rời khỏi Trung Đông hoàn toàn, nhưng điều quan trọng là chiến lược phòng thủ quốc gia của Mỹ tập trung chủ yếu vào Iran, Nga và Trung Quốc, và do đó sự hiện diện của họ tất nhiên hạn chế hơn nhưng mang tính chiến lược hơn. Theo Matthieu Rey, không hề có chuyện “rút lui” sự hiện diện của Mỹ trong khu vực (và đặc biệt ở Iraq), mà đúng hơn là sự tái triển khai các lực lượng đóng trên thực địa. Từ 10 năm qua, Mỹ tự xác định mình là trọng tài của một không gian mới mà họ chỉ muốn can thiệp máy bay không người lái và đường hàng không, điều này đặc biệt được nhận thấy trong cuộc xung đột ở Libya và Syria. Hơn nữa, một thách thức an ninh lớn đối với Mỹ vẫn là cuộc chiến chống khủng bố trong khu vực, tiếp tục và tăng cường một chính sách tập trung đối phó với các nhóm vũ trang. Việc tiêu diệt Bin Laden và việc sử dụng ồ ạt các máy bay không người lái (cho một cuộc chiến chống khủng bố có mục tiêu) minh họa cho chiến lược này. Như quan chức Lầu Năm Góc James H. Anderson đã phát biểu trước Quốc hội Mỹ vào tháng 5/2020: “Các mục tiêu chiến lược của Mỹ là đảm bảo rằng khu vực này không phải là thiên đường dành cho những kẻ khủng bố, không bị khống chế bởi bất kỳ thế lực nào thù địch với Mỹ, và góp phần vào một thị trường năng lượng toàn cầu ổn định”. Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi Afghanistan, Tổng thống Biden đã dự tính tiếp tục các hoạt động chống khủng bố nếu nhận thấy vẫn còn các mối đe dọa ở nước này. Tuy nhiên, theo một báo cáo của Nhóm Khủng hoảng quốc tế ngày 17/9/2021, vẫn chưa rõ liệu Chính quyền Biden có tiếp tục chính sách chống khủng bố kế thừa từ các chính quyền trước đây hay sẽ đoạn tuyệt với quá khứ. Các nhóm thánh chiến đã trải qua một quá trình phát triển mạnh mẽ trong hai mươi năm qua, hàng ngũ của họ đã phát triển trong thời kỳ này và không còn phân tán như trước. Nhưng Mỹ cũng đã phát triển khả năng phòng thủ mạnh mẽ hơn trước những bất ổn quốc tế. Tuy nhiên, chính sách chống khủng bố của Biden cho đến nay dường như không rõ ràng, thậm chí không nhất quán.

Như vậy, 20 năm sau vụ tấn công ngày 11/09/2001 và 10 năm sau khi các biệt kích Mỹ tiêu diệt Osma Bin Laden, Chính phủ và Quốc hội Mỹ cần tự hỏi liệu lực lượng quân sự Mỹ có còn là công cụ cần thiết chống khủng bố, và trong bối cảnh nào. Theo nhiều nhà phân tích, các nhà lãnh đạo chính trị Mỹ phải xem xét lại khuôn khổ pháp lý đã tạo nền tảng cho cuộc chiến chống khủng bố.

(còn tiếp)

Nguồn: www.frstrategie.org

TLTKĐB – 16/04/2022

Tương lai sự can dự của Mỹ ở Trung Đông – Phần I


Sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/09/2001, Quốc hội Mỹ đã ra một đạo luật Ủy quyền sử dụng lực lượng quân sự (AUMF), cho phép Tổng thống George W. Bush tiến hành các hoạt động quân sự “chống lại các quốc gia, tổ chức hoặc những người lên kế hoạch, ủy quyền, thực hiện hay hỗ trợ” các cuộc tấn công này. Kể từ thời Obama, ảnh hưởng quân sự của Mỹ trong khu vực đã thu hẹp đáng kể, thay vào đó, Washington chuyển hướng sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Do đó, sự hiện diện quân sự của Mỹ (tập trung chủ yếu ở Qatar, Bahrain, Kuwait, Saudia Arabia, Thổ Nhĩ Kỳ, Afghanistan và Iraq) đã giảm dần, từ 70.000 quân vào năm 1990 xuống còn khoảng 30.000 quân trước khi rút khỏi Afghanistan và 16.000 sau khi rút quân. Nhiệm kỳ của Donald Trump, được đánh dấu bằng một chính sách kép gây sức ép tối đa lên Iran và hỗ trợ không giới hạn các đồng minh (Saudi Arabia, đặc biệt là Israel), tái tập trung hành động của Mỹ vào các ưu tiên quan trọng, nhưng không vì thế mà thể hiện quan điểm rõ ràng về các cuộc xung đột khác nhau trong khu vực. Thách thức hiện nay đối với sự can dự của Mỹ là tiếp tục bảo vệ các lợi ích kinh tế, chính trị và ngoại giao của Mỹ trước những bất ổn và cạnh tranh địa chính trị. Quả thực, giá dầu thô giảm, các cuộc nội chiến và chiến tranh giành ảnh hưởng (Syria, Libya, Yemen…), mối đe dọa khủng bố, các cuộc nổi dậy của quần chúng và cuộc khủng hoảng y tế đã đe dọa những lợi ích này. Sự can thiệp của Mỹ ở Trung Đông đã phát triển đáng kể kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, chuyển từ chủ nghĩa can thiệp chính trị-quân sự sang một sự tái định vị phức tạp hơn. Các chuyên gia Mỹ có thể phân tích như thế nào về hành động của Mỹ ở Trung Đông trong 10 năm qua? Bài phân tích này nhằm làm nổi bật các cuộc tranh luận của các chuyên gia Mỹ liên quan đến chiến lược chính trị và quân sự hiện tại của Mỹ ở Trung Đông, cũng như ảnh hưởng thực sự của Mỹ trong khu vực.

Sự kết thúc ảnh hưởng và chủ nghĩa can thiệp của Mỹ?

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và chiến dịch “Bão táp sa mạc” do Mỹ tiến hành dưới sự ủy nhiệm của Liên hợp quốc, nước này lại ở trong một trạng thái ba quyền chưa từng có. Vị thế này đã cho phép Washington áp đặt một vai trò lãnh đạo nhất định trong khu vực và ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa các nhà nước ở Trung Đông (và xa hơn nữa). Nhưng kể từ sau vụ tấn công ngày 11/09/2001, Mỹ tập trung ít hơn vào việc giám sát địa chính trị khu vực, và dành sự quan tâm nhiều hơn tới các lợi ích an ninh trong và ngoài nước. Mục tiêu rất rõ ràng: Tiến hành “cuộc chiến chống khủng bố” và xác định một “trục ma quỷ” bao gồm Iran, Iraq và Triều Tiên. Đối với Iran, một trong những thách thức của Mỹ là chống lại ảnh hưởng của Iran trong khu vực. Đối với Iraq, một mục tiêu vào năm 2003 của Mỹ là loại bỏ chế độ Saddam Hussein (bị cáo buộc – không có bằng chứng xác thực – sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt và hỗ trợ khủng bố) và mang lại mọt nền dân chủ. 20 năm sau, kết quả rất hạn chế.

Những can thiệp của Mỹ đã không đạt được mục tiêu về ổn định, an ninh và phát triển

Ngay từ năm 2008, các nhà ngoại giao Richard N. Haass (dưới nhiệm kỳ của Tổng thống George W. Bush từ 2001 – 2003) và Martin S. Indyk (dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, từ 1997 – 2001) đã khẳng định sự cần thiết phải thay đổi chiến lược ở Iraq sau thất bại của cuộc tấn công nước này vào năm 2003 – một trong những chủ đề gây phân cực nhất trong đời sống chính trị Mỹ đương đại. Thực vậy, các nghị sĩ cả trong đảng Dân chủ lẫn đảng Cộng hòa cũng bất đồng về những lý do dẫn đến cuộc chiến ở Iraq, tác động thực sự của sự hiện diện của Mỹ và những cách thức rút quân khỏi Iraq. Chẳng hạn, theo Haass và Indyk, Mỹ cần phải rút quân hỏi Iraq và chấm dứt sự hiện diện ở nước này nhưng vẫn duy trì mối liên hệ với các nhà ra quyết định của Iraq để tiếp tục đảm bảo những lợi ích Mỹ. Họ đề nghị, để tránh một cuộc nội chiến mới với bối cảnh căng thẳng tôn giáo sắc tộc và để duy trì sự ổn định nhất định trong nước, cần thiết lập một hệ thống ngừng bắn tương tự như hệ thống được áp dụng ở Bosnia và Kosovo. Như vậy, việc rút quân cần diễn ra từ từ, bởi chính người dân Iraq cũng cần một sự hỗ trợ nhất định từ phía Mỹ để đảm bảo an ninh và ổn định của đất nước.

Về vấn đề Syria, chiến lược Mỹ theo đuổi từ những năm 1970 đã thất bại. Thứ nhất, việc Damascus từ chối công nhận Israel đã góp phần làm sứt mẻ mối quan hệ Mỹ – Syria. Thứ hai, vì chế độ này đã đánh đồng các lợi ích của nhà nước Syria với các lợi ích riêng của gia đình Assad, sự tồn vong của chế độ đã nhanh chóng được coi là đối lập với các lợi ích khu vực của Mỹ và Israel. Chính vì vậy, tính hợp pháp và vị thế trong khu vực của chế độ Assad tùy thuộc vào việc nước này từ chối công nhận Israel và do đó, Syria tham gia các liên minh đi ngược lại những lợi ích của Mỹ. Thực vậy, từ nhiều thập kỷ qua, Syria và Iran đã cản trở những lợi ích của Mỹ bằng cách đỡ đầu các nhóm vũ trang chủ yếu (như Hezbollah, Hamas…) chống lại nền hòa bình Arab-Israel.

Theo Tamara Cofman Wittes, nhà nghiên cứu tại Viện Brookings, thách thức thực sự đối với chính sách của Mỹ ở Trung Đông là chấm dứt thời kỳ dài can thiệp ở Iraq và Afghanistan, bằng việc rút quân dần dần, bất chấp những rủi ro và tốn kém. Bởi vì như cuộc can thiệp cho thấy dù Mỹ đầu tư nhiều hơn vẫn không giúp ích gì cho sự ổn định, dân chủ hóa và phát triển của khu vực. Các bài phát biểu của Obama về chính sách của Mỹ ở Trung Đông (2009 – 2016), mà các mục tiêu đã không đạt được, đã minh họa cho sự thất bại này. Bài diễn văn của Obama tại Cairo (2009) đã nhắc lại sự ủng hộ lâu dài của Mỹ đối với nền dân chủ được coi như một chế độ phù hợp nhất để phục vụ ý nguyện của quần chúng và sự ổn định. Với quan điểm này, Chính quyền Obama đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa tân bảo thủ của Bush Quả thực, việc đề cao các giá trị dân chủ bởi một chính quyền vừa mới nhậm chức đã nhằm trước hết tạo ra sự khác biệt với chính quyền tiền nhiệm, để rồi xây dựng một chiến lược thực sự cho khu vực. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát đã giải thích quan điểm của Obama là mong muốn duy trì hiện trạng và không thay đổi. Trên thực tế, việc nhấn mạnh dân chủ trong các bài phát biểu của Obama đã bị dư luận ở nhiều nước trong khu vực coi là mang dấu ấn của một chủ nghĩa tân đế quốc từng dẫn đến các cuộc nổi dậy dân sự, bạo lực và bất ổn.

Những giới hạn ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông có thể được nhận thấy ngay cả trong quan hệ Mỹ – Israel đã không chấm dứt các hoạt động thực dân hóa trong các lãnh thổ Palestine, bất chấp việc uy tín của họ bị giảm sút trong dư luận Mỹ (tỷ lệ ủng hộ từ 62% năm 2017 rơi xuống 58% năm 2021). Một sự kiện đặc biệt làm xáo trộn mối quan hệ Mỹ – Israel – khi Chính quyền Obama bỏ phiếu trắng đối với Nghị quyết 2334 ngày 23/12/2016 lên án các khu định cư của Israel tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Hành động này đã không cho phép nối lại tiến trình hòa bình và giải pháp hai nhà nước cho cuộc xung đột Israel-Palestine, cũng như không khẳng định ảnh hưởng của Mỹ đối với đồng minh Israel. Tuy nhiên, nó đã cho Mỹ thấy những giới hạn ảnh hưởng và quyền lực mềm của họ ở Trung Đông và đặc biệt nhiều rào cản từ lâu đã làm phức tạp các sáng kiến ngoại giao của nước này. Sự suy giảm ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông đã dẫn đến một lập trường thực tế hơn trong khu vực, Washington bằng lòng với việc duy trì các thể chế đã có, thay vì thúc đẩy nền dân chủ tự do.

Một báo cáo chung hồi tháng 6/2020 của Viện Brookings và Ngân hàng Thế giới (WB) đã nói đến những trở ngại mà Mỹ đã gặp phải trong các dự án hỗ trợ nhân đạo, ổn định và phát triển kinh tế. Thứ nhất, các nỗ lực ổn định, tái thiết và phát triển kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã không đánh giá được các động lực chính trị, kinh tế và xã hội ở mỗi giai đoạn lập kế hoạch, đôi khi có thể dẫn đến xung đột dân sự, như trường hợp ở Iraq. Sự hỗ trợ và phối hợp quốc tế mà Mỹ mang lại sau Mùa Xuân Arab để giải quyết các cuộc xung đột, khôi phục sự ổn định khu vực và trợ giúp những người tị nạn là không đủ. Cấu trúc toàn cầu được tạo ra sau Chiến tranh thế giới thứ hai để hỗ trợ các quốc gia trong những trường hợp như vậy đã không thể ngăn chặn, giảm thiểu hay giải quyết các cuộc xung đột.

Một yếu tố khác là trật tự quốc tế từ nay được thiết lập trong bối cảnh cạnh tranh giữa Washington và Bắc Kinh. Hơn cả một cuộc cạnh tranh kinh tế, đó thực sự là hai tầm nhìn đối lập nhau về trật tự thế giới. Trong khi dư luận các nước Arab nhìn nhận hoài nghi về viện trợ phát triển và nhân đạo của Mỹ (chỉ 18% công dân ở Bắc Phi và Trung Đông tin rằng viện trợ của Mỹ được thúc đẩy bởi mong muốn phát triển kinh tế), Trung Quốc vẫn duy trì tiếng tăm là một nước không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, điều này tạo lợi thế cho mô hình phát triển của Trung Quốc đối với các nền kinh tế mới nổi.

(còn tiếp)

Nguồn: www.frstrategie.org

TLTKĐB – 16/04/2022

Chiến thắng rỗng tuếch của Iran: Cái giá phải trả cho việc thống trị khu vực – Phần cuối


Sự đồng thuận giữa Mỹ và châu Âu cũng rất quan trọng. Trong vài chục năm qua, các nước châu Âu thỉnh thoảng vẫn theo đuổi đối thoại với Iran và đưa ra các gói hỗ trợ kinh tế với hy vọng điều tiết chính sách của Tehran trong 4 vấn đề: nhân quyền, vũ khí hạt nhân, khủng bố và hòa bình Trung Đông. Tuy nhiên, cách tiếp cận này đến nay vẫn chưa tạo ra kết quả nào đáng kể trong các chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Iran. Trái lại, Iran còn đe dọa sử dụng chính sách khu vực để làm phức tạp thêm cuộc khủng hoảng di cư tại châu Âu, đồng thời tiếp tục bắt giữ công dân châu Âu làm con tin, thậm chí còn hành quyết một công dân Pháp trong năm 2020. Điều này phần nào khiến người dân châu Âu cũng có thái độ tiêu cực về Iran giống như người Mỹ.

Có thể nói lần duy nhất chính sách của châu Âu tác động tích cực tới hành vi của Iran là vào năm 2012, khi Liên minh châu Âu hợp tác với chính quyền Obama quyết định ngừng nhập khẩu dầu thô từ Iran, mở đường cho sự ra đời của Thỏa thuận hạt nhân 2015. Chính phủ Iran sẽ không nhượng bộ các yêu cầu của Mỹ nếu cảm thấy châu Âu đứng về phía mình, như trường hợp năm 2018, khi Tổng thống Mỹ Trump đơn phương rút khỏi thỏa thuận hạt nhân.

Mặc dù vậy, Mỹ còn cần phải tìm kiếm sự hợp tác ngoài châu Âu. Theo một số ước tính, xấut khẩu dầu thô của Iran sang Trung Quốc đã tăng gấp 4 lần chỉ trong năm qua, khiến Tehran không còn cảm thấy nhất thiết phải quay lại thỏa thuận hạt nhân. Mọi nỗ lực nhằm thay đổi toan tính của Iran đều phải được Trung Quốc chấp thuận. Mặc dù quan điểm về Iran giữa Washington và Bắc Kinh có sự khác biệt, nhưng hai bên vẫn có điểm chung là không muốn Iran sở hữu bom hạt nhân và không muốn xung đột với Iran. Hơn nữa, Trung Quốc muốn Trung Đông ổn định để bảo đảm nguồn cung dầu dồi dào từ khu vực này. Các vụ Iran bắt giữ tàu chở dầu hoặc tấn công bằng máy bay không người lái nhằm vào Saudi Arabia và UAE – hai đối tác mà giá trị thương mại của họ với Trung Quốc đều cao hơn với Iran – ảnh hưởng tới lợi ích của Bắc Kinh nhiều hơn lợi ích của Mỹ, do gần đây xuất khẩu năng lượng của Washington đã nhiều hơn nhập khẩu.

Cuối cùng, Mỹ cần phải giúp củng cố các quốc gia Arab đang bị Iran thao túng và nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết giữa họ. Các quốc gia này bị Iran lợi dụng do có chính quyền yếu kém, bất ổn hoặc xã hội chia rẽ. Trong thế kỷ 20, chủ nghĩa dân tộc là nhân tố quyết định để các nước thuộc địa chống lại các đế quốc phương Tây và Xô Viết. Tương tự, chủ nghĩa dân tộc ở các nước như Iraq, Liban, Syria và Yemen – hoặc một tinh thần dân tộc chung của khối Arab – sẽ là yếu tố không thể thiếu để chống lại sức ảnh hưởng của Iran và khôi phục chủ quyền của các quốc gia này. Tinh thần đoàn kết nội bộ trong khối Arab cũng vô cùng quan trọng. Mối bất hòa giữa các thành viên Hội đồng hợp tác vùng Vịnh (GCC) dẫn đến việc Saudi Arabia và UAE cấm vận Qatar từ năm 2017 đến đầu năm 2021 đã làm suy yếu đáng kể tiếng nói của GCC về các mối quan ngại chung liên quan đến chương trình hạt nhân và các chính sách khu vực khác của Iran. Mặc dù Mỹ, châu Âu và Trung Quốc có các lợi ích khác nhau liên quan đến Iran, nhưng không bên nào muốn gây chiến với Tehran hoặc chứng kiến họ sở hữu vũ khí hạt nhân. Mỹ từng đóng vai trò liên kết các cường quốc này trong vòng đàm phán dẫn đến sự ra đời của Thỏa thuận hạt nhân năm 2015, và hiện nên một lần nữa đứng ra nhận trách nhiệm này trong các cuộc thảo luận mới về an ninh Trung Đông. Không một quốc gia nào có lợi (có lẽ ngoại trừ Nga) nếu Trung Đông không tôn trọng pháp quyền, chủ quyền, quyền tự do cung cấp năng lượng, hoặc bị các lực lượng khủng bố hoành hành. Mỹ cần phải nỗ lực thuyết phục các đối tác về sự thật này, kêu gọi các bên cùng chống lại các hành vi ác ý của Iran và hạn chế cũng như chống lại các năng lực của nước này.

Vua bãi rác

Quyền lực của Iran ở Trung Đông đang lên, nhưng có thể sẽ sớm chấm dứt. Người Arab từng đối đầu với các thế lực bá quyền Thổ Nhĩ Kỳ và phương Tây trong nhiều thế kỷ sẽ không dễ dàng khuất phục trước ảnh hưởng của Iran. Ngay cả những người Arab được coi là có thiện cảm với Iran, chẳng hạn như cựu Thủ tướng Iraq Nouri al-Maliki, người từng sống lưu vong nhiều năm ở Tehran trước khi bước chân vào chính trường, cũng oán hận Iran. Maliki từng nói với Đại sứ Mỹ ở Baghdad: “Ngài chưa hiểu thế nào là đau khổ, trừ phi ngài là một người Arab buộc phải sống chung với người Ba Tư”.

Đại chiến lược của Iran làm nước này kiệt quệ về nguồn lực và sa sút về uy tín như một cây nến cháy cả hai đầu. Nó mang sang các nước khác sự đàn áp chính trị, bức bối xã hội và khó khăn kinh tế mà người dân Iran trong nước từ lâu đã phải gánh chịu. Có thể Iran sẽ tiếp tục là “vua bãi rác” trong nhiều năm hoặc nhiều thập kỷ nữa. Rất ít quốc gia trong khu vực hoặc thế giới mong muốn hoặc có đủ khả năng thách thức sự vượt trội của Iran tại Iraq, Liban, Syria và Yemen. Sau hai thập kỷ chiến tranh ở Afghanistan và Iraq, chắc chắn Mỹ không điều quân đến Trung Đông nộp mạng. Vì vậy, giống như một tòa nhà cao tầng với nền móng đang xuống cấp, Iran dù lung lay dễ đổ nhưng sẽ tiếp tục phủ bóng đen lên một số nước Trung Đông trong tương lai.

Cũng có thể tòa nhà cao tầng này sẽ sụp đổ. Mỹ không thể thay đổi quyết tâm chống Mỹ và tiêu diệt Israel của Iran, nhưng với sự giúp đỡ của các nước khác, Mỹ có thể kiềm chế Tehran cho đến khi quốc gia này có một chính phủ mới với mong muốn làm những điều tốt cho Iran, thay vì hành động chỉ để chống phá các đối thủ về ý thức hệ. Rốt cuộc, đại chiến lược của Iran sẽ bị đánh bại, không phải bởi Mỹ hay Israel, mà bởi chính người dân Iran, những người đã phải trả cái giá đắt nhất cho chính sách này.

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/articles/iran/2022-02-16/irans-hollow-victory

TLTKĐB – 19 – 20/03/2022

Chiến thắng rỗng tuếch của Iran: Cái giá phải trả cho việc thống trị khu vực – Phần III


Thành công dẫn tới tự mãn

Một cuộc cách mạng chống lại tình trạng hủ bại và sự đàn áp dưới thời chế độ quân Mohammad Reza Shah Pahlavi giờ đây đã trở thành một đội quân Hồi giáo nước ngoài lún sâu vào những hành vi đàn áp chính trị còn nghiêm trọng hơn, như tiến hành các vụ ám sát, bắt giữ con tin, tham nhũng và buôn bán ma túy. Tuy nhiên, dù Iran thành công trong việc nuôi dưỡng các nhóm chiến binh trên khắp Trung Đông, có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy họ đã đi quá xa. Theo các cuộc thăm dò dư luận, gần 2/3 thanh niên Arab trong khu vực coi Iran là kẻ thù; phần lớn người Arab ở mọi lứa tuổi muốn Iran rút khỏi các cuộc xung đột khu vực; và hơn một nửa số người Arab Hồi giáo dòng Shiite có cái nhìn không thiện cảm về Iran. Trong những năm gần đây, người biểu tình Iraq đã tấn công và phóng hỏa các lãnh sự quán Iran ở Najaf và Karbala – hai thành phố linh thiêng của người Shiite và vốn là thành trì lâu đời của Iran ở Iraq – và người Shiite ở Liban đã biểu tình chống lại Hezbollah ở thành phố Nabatiyah, miền Nam Liban.

Mối lo ngại chung về Iran cũng là lý do dẫn đến sự ra đời của Hiệp định Abraham, thỏa thuận năm 2020 nhằm bình thường hóa quan hệ giữa Israel với các nước Arab mang lại cho Israel một chỗ đứng chiến lược cách biên giới Iran vài chục cây số. Lên án hiệp định Abraham là “sự phản bội đối với thế giới Hồi giáo”, Khamenei cho rằng những khó khăn của người Palestine là vấn đề quan trọng nhất trong thế giới Hồi giáo và tiếp tục dành nguồn lực đáng kể để chống lại Israel. Sự ủng hộ của Khamenei dành cho các đội quân ủy nhiệm khu vực trong và ngoài các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng đã tạo ra một “trục đau khổ” trải dài khắp Trung Đông. Syria và Yemen vẫn chìm trong nội chiến. Tại Liban, một cuộc thăm dò gần đây của Gallup cho thấy 85% dân số sống trong nghèo khó, hơn 50% không đủ tiền mua thực phẩm và 63% muốn rời khỏi đất nước vĩnh viễn.

Các chính sách khu vực của Iran có thể khiến người Arab xa lánh, nhưng nhiều khả năng sẽ không thể khiến Mỹ đưa ra phản ứng đáng kể. Không giống các nhóm cực đoan tiến hành tấn công trực diện vào lãnh thổ Mỹ, chẳng hạn như al-Qaeda và ISIS, các nhà lãnh đạo thần quyền của Iran – những người điều hành một đất nước dồi dào tài nguyên và do đó có nhiều điều để mất – nhắm vào các lợi ích của Mỹ ở Trung Đông thông qua các lực lượng ủy nhiệm và máy bay không người lái, tạo ra thêm một tầng ngăn cách giữa hai bên. Hơn nữa, mục tiêu của Iran là khuếch trương ảnh hưởng ở Trung Đông mà không phải gánh trách nhiệm điều hành công vụ hàng ngày. Không có quyết định an ninh quốc gia quan trọng nào có thể được đưa ra ở Iraq hoặc Liban mà không có ự ủng hộ của các dân quân Shiite do Iran điều khiển. Nhưng các lực lượng dân quân này không phải chịu trách nhiệm giải quyết tình trạng thất nghiệp hoặc tham nhũng, hay những việc như thu gom rác thải. Lực lượng dân quân của Iran có sức mạnh; chính phủ chịu trách nhiệm giải trình.

Quê nhà sẽ là nơi chiến lược lớn của chế độ Iran đe dọa sự tồn vong của chính họ. Khi nền kinh tế trong nước suy thoái, người dân Iran chắc chắn sẽ chất vấn các chính sách của chính phủ bao gồm chính sách thù địch với Mỹ và chủ nghĩa phiêu lưu nước ngoài. Trong các cuộc biểu tình ở Iran, người dân thường hô các khẩu hiệu như “Quên Syria đi; hãy nghĩ về chúng tôi” và “Họ nói dối rằng kẻ thù của chúng ta là Mỹ; kẻ thù của chúng ta đang ở ngay đây”. Tuy nhiên, thường có hai điều kiện tiên quyết dẫn đến sự sụp đổ của một chế độ độc tài: áp lực từ bên dưới và sự chia rẽ ở cấp trên. Mặc dù bất ổn trong dân chúng Iran ngày càng gia tăng, nhưng chí ít thì khi nhìn từ bên ngoài, lực lượng an ninh Iran hiện vẫn đoàn kết và sẵn sàng xuống tay thực hiện các vụ sát hại, trong khi quần chúng bất mãn vẫn bị chia rẽ và thiếu sự dẫn dắt.

Sự ổ định trong ngắn hạn cho thấy chiến lược lớn của Iran sẽ không thay đổi chừng nào Khamenei còn là nhà lãnh đạo tối cao, và có thể sẽ còn được duy trì sau khi ông ra đi, nhờ thành công mà Iran nhận thấy từ nó. Sau khi Mỹ rút khỏi Afghanistan, Iran càng có thêm động lực để ép Washington phải từ bỏ Iraq và các căn cứ quân sự ở vùng Vịnh. Với các chính sách của mình trong khu vực, Iran chỉ phải trả những cái giá tương đối nhẹ nhàng, nhất là nếu so với những thiệt hại khổng lồ mà Tehran đã phải gánh chịu khi bị phương Tây trừng phạt mỗi khi vi phạm cam kết hạt nhân. Vì vậy, không có lý do gì để Tehran ngừng sự hỗ trợ cho các lực lượng dân quân ở Trung Đông.

Mặt trận thống nhất

Trải qua 4 thập kỷ thù địch Mỹ – Iran, đã có vô số giải pháp đơn giản được đề xuất nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh này. Tại sao Mỹ không theo đuổi chính sách ngoại giao, bắt tay với nước Cộng hòa Hồi giáo, hoặc ủng hộ người dân Iran lật đổ chế độ? Tuy nhiên, vấn đề cơ bản nhất lại không tìm được câu trả lời dễ dàng: Mỹ phải làm gì trước một đối thủ luôn tránh đối thoại trực tiếp, coi sự thù địch với Mỹ là nền tảng cho bản sắc, đồng thời có cả nguồn lực lẫn quyết tâm gieo rắc sự hỗn loạn khắp Trung Đông và sẵn sàng sát hại hàng nghìn công dân của chính mình để bảo toàn quyền lực?

Nhận thức của Mỹ về Iran bị ảnh hưởng bởi sự ghẻ lạnh và tự kiêu chiến lược trong 4 thập kỷ qua. Các nhà hoạch định chính sách ở Washington tin rằng tư tưởng cách mạng của Iran có thể được uốn nắn bằng cách can dự hoặc bị triệt tiêu bởi các biện pháp cứng rắn. Phe cấp tiến cho rằng sự cứng đầu của Tehran chỉ là sự phản ứng trước các chính sách thù địch của Mỹ, trong khi phe bảo thủ tin rằng kinh tế cùng quẫn sẽ buộc Tehran phải lựa chọn giữa lý tưởng và sự tồn vong của chế đọ. Tuy nhiên, với Khamenei, duy trì lý tưởng cách mạng Iran vừa là mục đích vừa là phương tiện để đảm bảo sự tồn tại của chế độ.

Giống như Nga, Iran luôn tìm kiếm an ninh trong sự bất an của kẻ khác. Nhà nước Cộng hòa Hồi giáo luôn lợi dụng sự chia rẽ về ý thức hệ, bè phái và tôn giáo để có được sức ảnh hưởng tại các quốc gia nhỏ, đồng thời cũng rất giỏi trong việc lợi dụng sự cạnh tranh giữa các nước lớn. Do Mỹ không có nhiều công cụ để gây sức ép với Iran, bởi hầu hết thương mại của Tehran là với các nước khác, nên việc xây dựng một chiến lược hiệu quả để kiềm chế và chống lại Iran không chỉ cần tới sự lãnh đạo của Mỹ mà còn đòi hỏi phải xây dựng một sự đồng thuận quốc tế.

Bước đi đầu tiên hướng tới chiến lược này là xây dựng sự đồng thuận chính trị trong nước Mỹ. Trước khi thỏa thuận hạt nhân năm 2015 được ký kết, đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa đã có sự nhất trí cao về bản chất của chế độ Iran và các mối đe dọa của nó đối với an ninh khu vực. Nhưng thỏa thuận năm 2015, theo đó các lệnh trừng phạt của Mỹ và quốc tế được dỡ bỏ để đổi lấy sự nhượng bộ hạt nhân của Iran, lại khiến cuộc tranh luận chính sách rẽ theo hai hướng khác nhau, thể hiện rõ chủ trương của mỗi đảng: Phe Cộng hòa chỉ trích Chính quyền Obama quá mềm mỏng và phe Dân chủ chỉ trích đảng Cộng hòa thích gây chiến.

Tuy nhiên, nhìn bao quát, rõ ràng cả hai đảng đều có chung quan điểm chiến lược về Iran. Đảng Cộng hòa có thể kịch liệt phản đối chế độ Iran và thỏa thuận hạt nhân, nhưng cũng nhận ra rằng các đảng viên đều không muốn Mỹ dính líu vào một cuộc xung đột nữa ở Trung Đông. Về phần mình, các đảng viên Dân chủ có thể ủng hộ biện pháp can dự với Tehran và quay lại thỏa thuận hạt nhân, nhưng các cuộc thăm dò của Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy 70% cử tri Dân chủ có cái nhìn không thiện cảm về Iran. Nói cách khác, giữa hai đảng đã có đủ cơ sở để xây dựng sự đồng thuận trong đánh giá khách quan về bản chất về chế độ Iran, không cường điệu hóa và cũng không coi nhẹ mối đe dọa mà Tehran đang tạo ra với Mỹ, cũng như với lợi ích và các đối tác của Washington tại Trung Đông.

(còn tiếp)

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/articles/iran/2022-02-16/irans-hollow-victory

TLTKĐB – 19 – 20/03/2022

Thổ Nhĩ Kỳ là trọng tâm địa chiến lược mới của thế giới?


Theo thehill.com, Mỹ và Trung Quốc hiện là hai nền kinh tế lớn nhất nhì thế giới, trong khi Mỹ và Nga là siêu cường hạt nhân duy nhất trên toàn cầu. Thế nhưng, Thổ Nhĩ Kỳ, vối vị trí địa lý của mình cùng cú hat-trick gồm 3 quyết định vô cùng thảm họa của Tổng thống Nga Vladimir Putin, có thể còn có sức ảnh hưởng hơn cả ba nước kia tại thời điểm này.

Cuộc tấn công của Putin vào Ukraine đã phơi bày sự yếu kém của quân đội Nga; kéo theo điều có thể coi là một sự mở rộng của NATO – điều mà Putin không muốn nhất; và đẩy nhanh một cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu cho khoảng 1 tỷ dân. Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ cần phải chấp nhận để Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO, điều kiện cần thiết theo quy định về sự đồng thuận tuyệt đối trong Hiệp ước Washington. Tuy nhiên, cho đến nay, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đưa ra những phản đối mạnh mẽ đối với cả hai nước này với lý do Phần Lan, Thụy Điển bị cho là ủng hộ hoặc công nhận Đảng Công nhân người Kurd (PKK) – vốn bị Thổ Nhĩ Kỳ ấn định là một tổ chức khủng bố.

Công ước Montreux 1936 quy định hạn chế các tàu không thuộc các nhà nước nằm ở xung quanh Biển Đen tiếp cận vùng biển này về cả mặt thời gian, trọng tải và vũ trang. Nếu một chuyến tàu nhân đạo thông qua Eo biển Dardanelles được lập ra để vận chuyển các nông sản thiết yếu tại Odessa để phân phối ra toàn cầu, qua đó dập tắt nạn đói tiềm tàng và đòi hỏi sự hỗ trợ của tàu hộ tống hải quân, thì Thổ Nhĩ Kỳ là nước duy nhất có thể cho phép hoặc từ chối các tàu chiến quá cảnh.

Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan là người rất nóng tính và sự thất bại trong việc nhất trí kết nạp thêm các thành viên mới sẽ là một đòn giáng mạnh vào NATO, còn hơn cả việc Pháp không tham gia khía cạnh quân sự của liên minh này vào năm 1966 dưới thời Charles de Gaulle. Putin hẳn nhận thức rõ được tình huống này. Chắc chắn là ông sẽ làm mọi thứ để có thể thuyết phục Erdogan từ chối sự kết nạp này.

Về các hình thức vận tải trên biển để chở lúa mì và các sản phẩm nông nghiệp khác từ Odessa, nhưng trở ngại là rất lớn. Nga sẽ chỉ đồng ý với một điều kiện thuận lợi cho họ, chẳng hạn như dỡ bỏ các lệnh trừng phạt. Các phương pháp tiếp cận Odessa đang được khai thác. Ukraine sẽ phải đồng ý đảm bảo một tuyến đường an toàn ra vào cảng. Và một nghị quyết của Liên hợp quốc nhất thiết phải đến từ Đại hội đồng vì Nga sẽ phủ quyết mọi đề xuất tại Hội đồng Bảo an.

Các bên khác thì lập luận rằng tàu chiến của NATO là cần thiết nếu như buộc phải đi vào vùng biển này. Tuy nhiên, các tàu đó có thể sẽ phải đối đầu với các lực lượng hải quân, không quân và tên lửa của Nga và có thể dẫn đến một sự leo thang căng thẳng, thậm chí là một cuộc chiến tranh trên biển. Hầu hết hạm đội trên Biển Đen của Nga đều đã già nua. Tuy nhiên, các tàu ngầm chạy bằng diesel lớp Kilo của nước này vẫn rất dữ dội. Với tính chất ồn ào của Biển Đen, việc phát hiện các lực lượng này là rất khó. Và tên lửa Kalibr cùng các loại tên lửa khác của Nga cũng đã được chứng tỏ là rất hiệu quả. NATO cũng cần sự hỗ trợ mạnh mẽ ở trên không.

Nếu Thổ Nhĩ Kỳ vẫn duy trì lập trường cứng rắn đối với sự gia nhập của Phần Lan và Thụy Điển và việc cho phép các tàu chiến của NATO hay các bên thứ ba đi vào Biển Đen, sẽ còn rất ít lựa chọn tích cực. Vậy liệu một phiếu trắng, cũng có tác dụng như một phiếu chống, đối với sự mở rộng của NATO, có thể được tận dụng để cho phép một tỷ lệ bỏ phiếu 29-0 đủ được coi là nhất trí hay không? Khả năng là không, bởi Thổ Nhĩ Kỳ vẫn phải thông qua các thay đổi theo quy định trong công ước.

Công ước Montreux là một công ước mang tính lịch sử lâu đời. Điều thú vị là trong số 4 nước đầu tiên ký kết công ước, gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Bulgaria, Romania và Liên Xô, thì Liên Xô hiện đã không còn tồn tại. Và các thành viên mới hơn như Gruzia và Ukraine theo đó cũng không tồn tại nữa. Tuy nhiên, công ước này vẫn có hiệu lực. Việc thay thế nó dường như là bất khả thi bởi Thổ Nhĩ Kỳ có một vai trò chủ đạo nhờ vị trí địa lý của mình và có các Eo biển Bosporus và Dardanelles nằm giữa đất nước.

Về vấn đề thiếu lương thực, đây là một công cụ ngoại giao mạnh mẽ có thể được sử dụng để chống lại Nga. Việc cản trở chuyển hàng cứu trợ cho hàng trăm triệu người đang bị thiếu ăn thực sự là một tội ác chiến tranh. Tuy nhiên, Nga sẽ đổi lỗi cho Ukraine và phương Tây đã gây ra tình trạng thiếu lương thực này và thoái thác mọi trách nhiệm. Mặc dù vậy, vẫn còn phải chờ xem lời cáo buộc dù có hơi thái quá nói trên có được chấp nhận bởi những khu vực và cộng đồng người dân bị ảnh hưởng hay không. Nhìn chung, chính sách ngoại giao và các thông điệp truyền tải của Mỹ và NATO sẽ là cần thiết để gây sức ép buộc Nga chấm dứt chiến tranh.

Một kết luận quan trọng khác có lẽ đã bị bỏ quên. Thế giới vẫn là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau, không thể tách rời và vì vậy rất dễ bị tổn thương trước những cuộc tấn công ồ ạt mới gây rối loạn trên toàn cầu. Trớ trêu thay, chiến tranh tại Ukraine càng làm trầm trọng thêm tính chất dễ bị tổn thương này.

Ngoài những thiệt hại không thể bù đắp về người, sự tàn phá đất nước và hàng nghìn sinh mạng mà cuộc chiến Ukraine gây ra, sự đoàn kết của NATO cũng đang lâm nguy. Tồi tệ hơn, nạn đói có thể bao trùm một phần lớn dân số thế giới. Những kịch bản này không phải là mới. Điều mới ở đây là số lượng chúng nhiều hơn và mang tính tàn phá hơn trong kỷ nguyên này. Và với đại dịch COVID-19 đang hoành hành hiện nay mà thế giới chưa kịp chuẩn bị trước, mọi thứ còn tồi tệ hơn nữa.

Nguồn: TKNB – 03/06/2022

Chiến thắng rỗng tuếch của Iran: Cái giá phải trả cho việc thống trị khu vực – Phần II


Trục đau khổ

Iran có được thành công là nhờ chủ nghĩa cơ hội và cũng nhờ quyết tâm. Nội chiến ở Liban, cuộc xâm lược Iraq của Mỹ và cuộc nổi dậy ở các nước Arab đã tạo ra những khoảng trống quyền lực để Iran có thế lấp đầy bằng các lực lượng dân quân ở nước ngoài, với tổng quân số hiện có trong khoảng 50.000 đến 200.000 chiến binh. Nói cách khác, câu chuyện ở Trung Đông hiện đại liên quan đến sự yếu kém của các nước Arab nhiều hơn là sức mạnh của Iran: Tình trạng rối ren ở các nước Arab đã tạo điều kiện cho tham vọng của Iran, và tham vọng của Iran làm trầm trọng thêm tình trạng rối ren của các nước Arab.

Tài sản lớn nhất của cuộc cách mạng Iran ở nước ngoài là Hezbollah. Được thành lập năm 1982, sau cuộc xâm lược của Israel vào Liban, đây là nhóm đầu tiên đưa ra chiến lược mà sau này đã được Iran áp dụng đối với các lực lượng ủy nhiệm khác: thực hiện các cuộc tấn công gây thương vong nhằm vào lính Mỹ ở Trung Đông để đánh vào dư luận và làm suy yếu quyết tâm của Washington. Tháng 10/1983, Hezbollah dùng bom xe tấn công một phái đoàn gìn giữ hòa bình đa quốc gia, giết chết hơn 300 người trong khi họ đang ngủ, trong đó có 241 binh sĩ Mỹ. Iran và Hezbollah đã ăn mừng vụ tấn công này nhưng phủ nhận trách nhiệm. Bốn tháng sau, Chính quyền Reagan bắt đầu rút các lực lượng Mỹ khỏi Liban.

Hiện Hezbollah đang là lực lượng mạnh nhất ở Liban. Nhóm này sát hại các đối thủ chính trị và người bất đồng chính kiến mà không phải chịu hậu quả, vận hành nền kinh tế ngầm riêng và được cho là đang sở hữu trên 100.000 quả rocket và tên lửa có khả năng vươn tới Israel. Hezbollah cáo buộc các đối thủ tại Liban là những kẻ phản quốc, nhưng giờ đây thậm chí còn không giấu giếm sự phụ thuộc vào Iran. Thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah cho hay trong một bài phát biểu năm 2016: “Chúng tôi công khai khẳng định rằng ngân sách của Hezbollah, thu nhập, chi phí, mọi thứ từ đồ ăn thức uống, vũ khí và tên lửa, đều đến từ Cộng hòa Hồi giáo Iran. Iran có tiền là chúng tôi có tiền… Chúng tôi nhận được tiền, giống như nhận được tên lửa để đe dọa Israel”.

Iran áp dụng cách tiếp cận tương tự để biến Iraq thành địa ngục đối với Mỹ vì lo ngại Washington sẽ lấy một Iraq dân chủ và thành công làm bàn đạp để lật đổ hoặc đe dọa Iran. Lực lượng dân quân người Shiite do Iran hậu thuẫn đã gây thương vong cho 1000 người Mỹ bằng các thiết bị nổ tự tạo. Trong khi Mỹ còn phải mang gánh nặng tái thiết Iraq, thì Tehran chỉ tìm cách cản trở mọi nỗ lực của Mỹ. Khi bị tra khảo, Qais al-Khazali, một thủ lĩnh lực lượng dân quân Shiite do Iran hậu thuẫn ở Iraq, từng khai với quân đội Mỹ rằng Washington chi “hàng tỷ” cho cuộc chiến tại Iraq, trong khi Iran chi “hàng triệu”, nhưng Iran hiệu quả hơn. Ngày nay, dân quân Shiite do Iran ủy nhiệm là lực lượng chiến đấu mạnh mẽ nhất tại Iraq và là một tổ chức xã hội đen vụ lợi, vừa làm giàu cho bản thân vừa giúp Iran đảm bảo lợi ích của mình ở Iraq.

Iran và các lực lượng dân quân ủy nhiệm cũng đóng vai trò quyết định trong việc giúp chế độ tàn bạo Assad ở Syria không sụp đổ. Chế độ Assad là chính phủ đồng minh duy nhất của Tehran trong khu vực. Mối quan hệ hợp tác mang tính chiến thuật vào những năm 1980 nhằm chống lại Iraq dưới thời Saddam Hussein sau đó đã được duy trì do hai bên cùng có ác cảm với Mỹ và Israel và có chung bản năng sinh tồn. Các quốc gia Arab đã thúc đẩy nỗ lực lôi kéo Assad tránh xa Tehran nhưng không thành công, bởi hai chính phủ giờ đây rất phụ thuộc lẫn nhau: Assad cần tiền và vũ khí của Iran, còn Tehran cần lãnh thổ Syria làm cầu nối với Hezbollah và làm tiền đồn chống Israel. Năm 2017, BBC đưa tin Iran đang xây dựng một “căn cứ quân sự thường trực” ở Syria để bổ sung mặt trận mới chống lại nhà nước Do Thái.

Mặc dù Iran khẳng định các nguyên tắc đạo đức của một nhà nước thần quyền, nhưng các lực lượng ủy nhiệm của nước này khi gặp phải khó khăn kinh tế lại tìm đến các hoạt động bất chính để kiếm tiền. Mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất đối với Chính phủ Syria túng thiếu hiện nay là Captagon, một loại amphetamine bất hợp pháp được Hezbollah vận chuyển đi khắp thế giới với sự hỗ trợ ngầm của Tehran. Chính phủ Iran đã hành quyết hàng nghìn công dân của mình vì các tội liên quan đến ma túy, nhưng lại trở thành trụ cột của một trong những mạng lưới buôn lậu ma túy lớn nhất thế giới.

Gần đây, Yemen được bổ sung vào danh sách các quốc gia nơi Tehran có ảnh hưởng đáng kể thông qua các lực lượng dân quân ủy nhiệm. Iran cung cấp vũ khí và các hình thức hỗ trợ khác cho Houthi, lực lượng nắm quyền ở Sanaa kể từ năm 2014, bằng khoản ngân sách mà phần nào được cho là đến từ buôn bán ma túy. Tiếp tay cho Houthi là một biện pháp hiệu quả và tiết kiệm để Iran gây thiệt hại lớn về tài chính và uy tín cho Saudi Arabia, quốc gia ước tính đã chi hơn 100 tỷ USD để can thiệp vào Yemen và được coi là nguyên nhân gây ra thảm họa nhân đạo khủng khiếp trong cuộc xung đột này. Quy tắc không khoan nhượng và các khẩu hiệu của Houthi – tiêu diệt Mỹ, Israel, người Do Thái và những người theo tín ngưỡng Bahai – phản ánh tư tưởng của nhà bảo trợ Iran. Houthi tìm cách gây ra cho Saudi Arabia những gì mà Hamas và Hezbollah lâu nay vẫn làm với Israel – chỉ khác ở chỗ họ sử dụng các máy bay không người lái chính xác và công nghệ mới nhất thay vì các tên lửa cũ kỹ và các vụ đánh bom liều chết.

Với tư cách là nhà nước thần quyền duy nhất ở Trung Đông, Iran đã lợi dụng chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo (Sunni cũng như Shiite) thành công hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Một trong những lý do khiến Tehran đánh bại các đối thủ Arab dòng Sunni là hầu hết các nhóm cực đoan dòng Shiite đều sẵn sàng chiến đấu vì Iran, trong khi hầu hết các nhóm cực đoan dòng Sunni, bao gồm cả al-Qaeda và IS, đều chống lại các chính phủ Arab cầm quyền. Iran lấy ý thức hệ, chứ không phải tôn giáo, làm tiêu chí đầu tiên cho các liên minh chiến lược. Bằng chứng là Tehran có quan hệ mật thiết với nhóm cực đoan người Sunni Hamas và các chiến binh thánh chiến Hồi giáo Palestine, với việc họ chi hàng tỷ USD để các nhóm này chống lại Israel. Moussa Abu Marzouk, mọt lãnh đạo Hamaas, nói trong một cuộc phỏng vấn năm 2021: “Iran là một trong những quốc gia giúp đỡ Hamas nhiều nhất, là quốc gia duy nhất phớt lờ các giới hạn áp đặt đối với Hamas. Họ hỗ trợ quân sự cho chúng tôi về huấn luyện, vũ khí và chuyên môn”.

Thậm chí đôi khi Iran còn hợp tác cả với các nhóm Sunni theo chủ nghĩa chính thống như al-Qaeda và Taliban, bất chấp việc các nhóm này thường xuyên tấn công bằng hữu dòng Shiite của Iran mà họ coi là dị giáo. Thay vì ưu tiên lợi ích quốc gia, chính quyền Iran xây dựng chiến lược dựa trên hệ thống phân cấp kẻ thù: Bất kỳ kẻ thù nào của Mỹ và Israel đều có thể là đối tác của Tehran. Năm 2021, Đại giáo chủ Khamenei từng tuyên bố: “Chúng tôi sẽ hỗ trợ và giúp đỡ bất kỳ quốc gia hoặc bất kỳ nhóm nào ở bất kỳ đâu phản đối và chống lại Nhà nước Do Thái, và chúng tôi không ngần ngại nói lên điều này”.

(còn tiếp)

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/articles/iran/2022-02-16/irans-hollow-victory

TLTKĐB – 19 – 20/03/2022