Tình hình Biển Đông năm 2023 sẽ tập trung vào “3 lĩnh vực chính”


Tờ Thời báo Hoàn Cầu vừa đăng bài cho rằng trong bối cảnh tình hình Biển Đông ổn định trong năm 2022 và không có biến động mang tính đột phá, trong năm 2023 và giai đoạn tiếp theo, sự phát triển và diễn biến của tình hình Biển Đông sẽ chủ yếu xoay quanh “3 tuyến” và “3 lĩnh vực” chủ yếu.

Một là, sự khiêu khích của Mỹ đối với Trung Quốc xung quanh cuộc tranh giành lợi ích chính trị ở Biển Đông sẽ tăng lên thời gian. Chính quyền Biden sẽ không vì xung đột Nga-Ukraine, sẽ diễn biến tình hình Đài Loan và Bán đảo Triều Tiên… mà giảm đầu tư chiến lược vào Biển Đông hoặc nới lỏng việc sử dụng vấn đề Biển Đông để kiềm chế Trung Quốc.

Hai là, Trung Quốc sẽ tiếp tục đối mặt với sự “xâm phạm” của các bản yêu sách. Chịu ảnh hưởng chồng chéo bởi các yếu tố như sự cổ vũ chính sách Biển Đông của Mỹ, các hành động đơn phương của các bên yêu sách với đặc trưng “củng cố quyền đòi hỏi quyền” sẽ xảy ra thường xuyên và các trò chơi ngoại giao, pháp lý và an ninh giữa Trung Quốc và các bên yêu sách xung quanh “hành động đơn phương” và “chống hành động đơn phương” cũng sẽ tiếp tục trở thành nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình Biển Đông.

Ba là, các nước như Nhật Bản, Australia và Anh trong các cơ chế song phương và đa phương do Mỹ lãnh đạo sẽ can thiệp các vấn đề Biển Đông hoặc mở rộng sự hiện diện quân sự ở Biển Đông từ cấp độ ngoại giao và quân sự. Đây sẽ là một biến số quan trọng khác khuấy động tình hình Biển Đông.

Xét từ mối quan tâm lợi ích và vấn đề tập trung của tất cả các bên, trò chơi và cuộc đọ sức chủ yếu tập trung vào 3 lĩnh vực pháp lý, quy tắc và hợp tác:

Thứ nhất, trong lĩnh vực pháp lý, thách thức đối với Trung Quốc chủ yếu là việc các quốc gia trong và ngoài khu vực dùng các phương thức như lập pháp, hành động quân sự, tuyên bố ngoại giao, viện dẫn có chú ý và xác nhận… thúc đẩy trên thực tế cái gọi là phán quyết của Tòa trọng tài thường trực (PCA) về vấn đề Biển Đông. Đồng thời, đơn xin phân định thềm lục địa ngoài 200 hải lý về phía Bắc Biển Đông do Malaysia đệ trình lên Ủy ban Liên hợp quốc về giới hạn thềm lục địa vẫn còn nguy cơ bị xem xét. Đồng thời “hiệu ứng tràn lan”, “phản ứng dây chuyền” của cái gọi là phán quyết trọng tài và khả năng có quốc gia yêu sách cá biệt nào đó có thể khởi xướng một vụ kiện mới chắc chắn sẽ “đổ thêm dầu vào lửa” cho cuộc đấu tranh pháp lý ở Biển Đông.

Thứ hai, cuộc đọ sức trong lĩnh vực quy tắc (nhằm mục đích tranh giành quyền chủ đạo thiết lập quy tắc và thực hiện tối đa hóa lợi ích) sẽ trở nên khốc liệt hơn cùng với sự tiến triển của các cuộc tham vấn về Bộ Quy tắc ứng xử (COC). Những mâu thuẫn này bao gồm cả Trung Quốc và các nước ASEAN, giữa Trung Quốc và Mỹ và thậm chí giữa Mỹ và các nước ASEAN.

Thứ ba, hợp tác trên biển trong khuôn khổ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) chắc chắn sẽ trở thành tiêu điểm của trò chơi giữa các bên lợi ích liên quan trong tình hình mới. Lựa chọn hợp tác hay thực hiện “hành động đơn phương”, hợp tác được thực hiện “bằng phương thức nào” ở “vùng biển nào”, “luật pháp và quy tắc nào được áp dụng”, “song phương hay đa phương”… đều là những vấn đề trong tương lai có thể sẽ cản trở việc thực hiện DOC giữa Trung Quốc và các nước ASEAN cũng như cản trở việc thúc đẩy hợp tác trên biển.

Ngoài ra, sự gia tăng trò chơi giữa Trung Quốc và Mỹ ở Biển Đông và xu hướng bè phái hóa “chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” của Mỹ có thể đẩy mạnh khuynh hướng đầu cơ của một nước ASEAN cá biệt nào đó về vấn đề Biển Đông.

Trung Quốc nên làm gì khi đối mặt với những thách thức trên và những nguy cơ có thể xảy ra liên quan đến tình hình Biển Đông trong những năm tới?

Các biện pháp hiệu quả và con đường khả thi để tiếp tục đà ổn định của tình hình Biển Đông, ngăn chặn những thay đổi mang tính lật đổ, phòng ngừa sự can thiệp của các thế lực bên ngoài khiến Biển Đông thêm rắc rối là kiên trì khái niệm cùng xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh biển” và “Ngôi nhà chung Biển Đông”, kiểm soát khủng hoảng, hợp tác thực chất trên biển, tham vấn “COC” và xây dựng trật tự…

Để đối phó với áp lực quân sự hóa do Mỹ gây ra ở Biển Đông, trong khi tích hợp các lực lượng trên biển, nâng cao sức phòng thủ và răn đe ở Biển Đông, Trung Quốc nên đưa vào chương trình nghị sự việc thiết lập một cơ chế kiểm soát khủng hoảng có sức ràng buộc giữa Trung Quốc và Mỹ.

Về hợp tác trên biển, xét từ thực tế mức độ tin cậy lẫn nhau và mối quan tâm lợi ích hiện nay của Trung Quốc và các quốc gia ven Biển Đông, có thể tuân thủ nguyên tắc hợp tác “song phương trước, đa phương sau”, “từ không nhạy cảm đến nhạy cảm thấp”, các vấn đề hợp tác có thể được thực hiện ở giai đoạn này bao gồm quản lý rác thải nhựa, bảo vệ nguồn tài nguyên thủy sản và ứng phó với biến đổi khí hậu…

Về tham vấn COC, Trung Quốc và các nước ASEAN nên “lượng sức mà làm, thuận thế mà làm” dưới tiền đề “hội tụ đồng thuận, thu hẹp khác biệt”, cần có dự tính đầy đủ về những mâu thuẫn và bất đồng có thể phát sinh trong vòng thứ hai và thứ ba của cuộc tham vấn văn kiện này, “có thể nhanh thì nhanh, nên chậm thì chậm”, tránh xuất hiện “cơm sống”. Ngoài ra, cần thực hiện các biện pháp tổng hợp tránh việc “chồng chéo chi phí”, “một quốc gia, một chính sách”, “tổn thất trong đê nhưng bổ sung ngoài đê”…, kiềm chế những nước ngoài khu vực có các hành vi cố ý phá hoại hòa bình và ổn định ở Biển Đông như Nhật Bản.

Nguồn: TKNB – 04/01/2023

Advertisement

10 dự báo về thế giới trong năm 2023


Theo trang mạng aspistrategist ngày 11/01/2023 đăng bài viết cảu Chủ tịch Hội đồng Quan hệ đối ngoại Richard Haass đưa ra một số dự báo về thế giới năm 2023.

Theo tác giả, thật khó khăn để đưa ra dự đoán, đặc biệt là về tương lai, tuy nhiên, đây là 10 dự đoán cho thế giới trong năm 2023:

Thứ nhất, cuộc chiến ở Ukraine sẽ tiếp diễn mặc dù sẽ giảm tính khốc liệt hơn. Cả Nga và Ukraine sẽ không thể đạt được một chiến thắng quân sự hoàn toàn, nếu chiến thắng được hiểu là đánh bại phía bên kia và đưa ra các điều khoản về một giải pháp chính trị hoặc lãnh thổ sau chiến tranh.

Thứ hai, trong khi nhiều nhà hoạch định chính sách đang tập trung vào khả năng xảy ra chiến tranh ở Đài Loan, thì điều này dường như rất khó xảy ra vào năm 2023. Nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đang bế tắc trước sự gia tăng của các ca nhiễm COVID-19 đang gây áp lực lên hệ thống chăm sóc sức khỏe của Bắc Kinh, đặc ra nhiều nghi vấn về thẩm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền, và làm suy yếu hơn nữa nền kinh tế đang chậm lại. Trung Quốc hoàn toàn không từ bỏ mục tiêu kiểm soát Đài Loan bằng vũ lực nếu cần thiết; nhưng nhiều khả năng sẽ ở mức tiếp tục gia tăng áp lực lên Đài Loan và có thể đã trì hoãn các hành động hung hăng cao trong ít nhất một vài năm.

Thứ ba, sự nổi lên của Nhật Bản với tư cách là một tác nhân địa chính trị lớn. Tăng trưởng kinh tế cảu nền kinh tế lớn thứ ba thế giới đã được điều chỉnh tăng lên 1,5% và chi tiêu quốc phòng hiện đang trên đà tăng gấp đôi, đạt 2% GDP. Nhật Bản, với một trong những quân đội có năng lực nhất trong khu vực, cũng sẽ liên kết chặt chẽ hơn với Mỹ để ngăn chặn hoặc, nếu cần, bảo vệ Đài Loan trước sự hung hăng của Trung Quốc đối với hòn đảo này. Năm 2023 sẽ là năm Nhật Bản bước vào thời kỳ hậu Chiến tranh Thế giới thứ Hai.

Thứ tư, Triều Tiên gần như chắc chắn sẽ tiến hành vụ thử hạt nhân thứ 7 bên cạnh các vụ thử tên lửa thường xuyên. Cả Hàn Quốc và Mỹ sẽ không thể ngăn chặn những hành động như vậy, trong khi Trung Quốc, quốc gia duy nhất có khả năng làm như vậy, sẽ không sử dụng đòn bẩy đáng kể để ngăn chặn vì sợ rằng sẽ làm suy yếu nước láng giềng và tạo ra những động lực có thể gây bất ổn ở khu vực ngoại vi của Trung Quốc.

Thứ năm, các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương, mạnh mẽ hơn vào thời điểm hiện tại do cùng sẵn sàng đứng lên chống lại cuộc xâm lược của Nga và giúp đỡ Ukraine, sẽ phải chịu những mâu thuẫn gia tăng do người châu Âu không hài lòng với chủ nghĩa bảo hộ kinh tế của Mỹ và người Mỹ không hài lòng với việc lục địa này tiếp tục phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. Các mối quan hệ cũng có thể bị ảnh hưởng bởi những khác biệt đang nổi lên về mức độ hỗ trợ quân sự, kinh tế và ngoại giao cho Ukraine và mức chi tiêu quốc phòng.

Thứ sáu, nền kinh tế toàn cầu có thể sẽ tăng trưởng chậm hơn so với dự báo của hầu hết các nhà quan sát hiện nay. Quỹ tiền tệ quốc tế đang dự đoán mức tăng trưởng chung là 2,7% nhưng thực tế có thể thấp hơn do tác động dây chuyền cảu việc quản lý sai lầm của Trung Quốc đối với COVID-19 và của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ dường như quyết tâm tiếp tục tăng lãi suất cố gắng giảm lạm phát. Bất ổn chính trị ở một số khu vực của châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt và sự gián đoạn chuỗi cung ứng cũng sẽ tạo ra lực cản đối với hoạt động kinh tế toàn cầu.

Thứ bảy, Hội nghị thường niên về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (COP28 dự kiến họp tại Dubai) sẽ tiếp tục gây thất vọng. Với những lo ngại về kinh tế ngắn hạn đang lấn át các cân nhắc về khí hậu trong trung và dài hạn, tác động của sự nóng lên toàn cầu có thể sẽ trở nên tồi tệ.

Thứ tám, quan hệ giữa Israel và Palestine sẽ trở nên căng thẳng và bạo lực hơn khi hoạt động định cư của Israel mở rộng và ngoại giao không cho thấy triển vọng mang lại một nhà nước Palestine theo các điều kiện mà cả người Israel và người Palestine có thể chấp nhận. Thay vào đó, một tương lai có thể được gọi là “không có giải pháp một nhà nước” sẽ dần trở thành hiện thực.

Thứ chín, Ấn Độ sẽ tiếp tục làm thất vọng và sẽ tiếp tục mua vũ khí và dầu mỏ từ Nga và giữ quan điểm không liên kết ngay cả khi Ấn Độ tìm kiếm sự giúp đỡ nhiều hơn từ phương Tây để chống lại Trung Quốc. Và ở trong nước, mối nguy hiểm là Ấn Độ sẽ tiếp tục ngày càng trở nên phi tự do hơn.

Thứ mười, Iran có thể sẽ là vấn đề nổi bật của năm 2023. Các cuộc biểu tình chống lại chế độ gia tăng trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng suy thoái và sự chia rẽ đang nổi lên trong giới lãnh đạo về việc nên thỏa hiệp với những người biểu tình hay bắt giữ và giết họ. Thỏa thuận hạt nhân năm 2015 sẽ không được khôi phục. Các nhà lãnh đạo của Iran có thể lựa chọn tiếp tục thúc đẩy chương trình vũ khí hạt nhân với hy vọng đạt được bước đột phá hoặc kích hoạt một cuộc tấn công của Israel, một diễn biến cho phép họ kêu gọi đoàn kết quốc gia trước sự tấn công từ bên ngoài. Một khả năng khác là sự gắn kết của các lực lượng an ninh sẽ nhường chỗ cho một thứ gì đó giống một cuộc xung đột dân sự.

Nguồn: TKNB – 13/01/2023

Một năm tốt hơn cho các nhà đầu tư


Năm qua là một năm đầy thử thách. Tổng lợi nhuận trên toàn bộ thị trường trái phiếu và cổ phiếu lớn bị âm trong phần lớn năm 2022. Chỉ đến quý IV/2022, tổng lợi nhuận mới tăng lên. Ngay cả hiện tại, nhiều người vẫn hoài nghi về sự phục hồi này do vẫn có khả năng sẽ có những tin tức xấu về lạm phát, tỷ lệ lãi suất, tăng trưởng kinh tế và chính trị toàn cầu.

Niềm tin của các nhà đầu tư rất mong manh và những thông tin này không đáng mừng. Vậy chúng ta nên mong đợi gì trong năm 2023?

Trên toàn bộ thị trường trái phiếu và cổ phiếu đã niêm yết, rất khó để tìm thấy bất kỳ chỉ số nào tăng trong năm nay. Hầu hết đã ghi nhận bất kỳ chỉ số nào tăng trong năm nay. Hầu hết đã ghi nhận thiệt hại nặng nề. Những tổn thất lớn nhất xảy ra đối với những loại tài sản nhạy cảm nhất với những thay đổi về lãi suất. Những khoản đầu tư được gọi là “dài hạn” bao gồm trái phiếu dài hạn và một phần của thị trường cổ phiếu toàn cầu vốn trông chờ vào lời hứa về sự tăng trưởng thu nhập ổn định trong dài hạn. Các tài sản như trái phiếu kho bạc Mỹ dài hạn và chỉ số cổ phiếu Nasdaq đã bị ảnh hưởng nhiều nhất.

Phần lớn sự ảnh hưởng này bắt nguồn từ việc điều chỉnh định giá hiếm khi xảy ra. Thực chất của vấn đề là sự đảo ngược của lãi suất dài hạn xuống mức cực thấp vốn là đặc trưng của thời kỳ nới lỏng định lượng. Hãy nhớ rằng cách đây không lâu, trái phiếu chính phủ dài hạn của Đức được giao dịch với lợi tức âm khi tới kỳ đáo hạn. Lợi tức của trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 30 năm nhanh chóng rơi xuống mức thấp kỷ lục 1% khi đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát.

Mức lợi tức thấp này đã định hình việc định giá trên khắp các thị trường tài chính cho phép hệ số P/E (giá/thu nhập trên một cổ phiếu) cao hơn so với mức dài hạn. Các nhà đầu tư được hưởng lợi lớn. Chỉ số MSCI Toàn cầu, biểu thị cho thị trường chứng khoán toàn cầu, đã đạt 16,5% vào năm 2020 và 22% vào năm 2021.

Lạm phát là nguyên nhân dẫn đến việc điều chỉnh định giá. Các ngân hàng trung ương trên thế giới đã bất ngờ trước tác động mạnh của lạm phát và phải mạnh tay tăng lãi suất. Các chính sách tiền tệ nới lỏng tối đa sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009 sẽ luôn phải kết thúc vào một thời điểm nào đó.

Không ai ngờ điều đó xảy ra nhanh như vậy và các nhà đầu tư đã bị sốc khi lợi tức trái phiếu và cổ phiếu nhanh chóng trở về mức bình thường, phản ánh đúng các nguyên tắc cơ bản. Lợi tức trái phiếu hiện phù hợp với xu hướng dài hạn được dự đoán về mức tăng GDP thực và lạm phát. Các ngân hàng trung ương có kế hoạch về một mức lãi suất mục tiêu, vốn sẽ bị giới hạn đôi chút bởi các tiêu chuẩn gần đây. Hy vọng điều này sẽ đủ để duy trì lạm phát ở mức thấp hơn. Bằng chứng cho thấy lạm phát có thể đạt đến đỉnh điểm với việc các chuỗi cung ứng bị hạn chế và ảnh hưởng của giá cả hàng hóa toàn cầu không còn góp phần gây áp lực tăng giá.

Chúng ta đang ở gần đỉnh trong chu kỳ lãi suất. Điều này có nghĩa là rủi ro thua lỗ cho các nhà đầu tư trái phiếu được giảm thiểu. Thật vậy, triển vọng của thu nhập cố định rất đáng khích lệ. Lợi tức đã cao hơn và các nhà đầu tư giờ đây có thể chốt được lợi tức cao mà không phải chịu những rủi ro về tín dụng hoặc kỳ hạn như những năm gần đây. Chúng ta đã thấy lợi nhuận đầu tư tích cực hơn trên thị trường tín dụng toàn cầu, bao gồm ở cả châu Á, nơi lợi nhuận từ trái phiếu doanh nghiệp bằng USD của người vay châu Á đã rất cao kể từ cuối tháng 10. Lãi suất và lợi tức trái phiếu toàn cầu, khiến thu nhập tăng so với những năm trước. Đối với thị trường chứng khoán, lãi suất đạt đỉnh là một tin tốt. Có thể hệ số P/E đã chạm đáy.

Việc giá dầu toàn cầu gần đây tụt giảm cũng là một tin tốt đối với lợi nhuận của các công ty vì nó giảm bớt áp lực lên tỷ suất lợi nhuận, đặc biệt là đối với các ngành công nghiệp và các ngành sử dụng nhiều năng lượng. Cổ phiếu dầu khí đã có sự tăng giá vượt trội so với phần còn lại của thị trường chứng khoán trong năm 2022. Một sự tăng trưởng ngược dòng đó cùng với giá dầu thấp hơn sẽ mang lại lợi ích cho các lĩnh vực như hàng tiêu dùng và thậm chí cả công nghệ.

Lãi suất đạt đỉnh và giá dầu thấp là hai yếu tố tạo nên triển vọng cho năm tới. Tuy nhiên, các nhà  đầu tư cần chuẩn bị cho việc lãi suất toàn cầu duy trì ở mức cao trong một thời gian. Lạm phát cơ bản sẽ chậm quay lại mức 2 – 3% mà các ngân hàng trung ương lớn mong muốn. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế đang chậm lại. Suy thoái dự kiến sẽ xảy ra trong nửa đầu năm 2023 tại Mỹ và khu vực đồng euro trong khi triển vọng tăng trưởng của Trung Quốc tiếp tục khó khăn do COVID-19.

Một năm tốt đẹp hơn đang ở phía trước. Dự báo ở trên nhằm giảm bớt những kỳ vọng. Triển vọng về lợi nhuận tăng trưởng vốn không phải là quá lớn. Tuy nhiên, có nhiều cơ hội tốt hơn để đầu tư tập trung vào thu nhập. Lãi suất 6% đối với trái phiếu doanh nghiệp chất lượng tốt định giá bằng đồng USD ở châu Á không phải là hiếm. Các công ty chất lượng tốt có thể duy trì khả năng sinh lời và chi trả lợi tức cổ phiếu sẽ có được hiệu suất giá cổ phiếu tương đối cao.

Nguồn: TKNB – 05/12/2022

Xu hướng quan hệ quân sự Trung – Hàn sau Đối thoại Shangri-La


Theo trang mạng Bình luận Trung Quốc (Hong Kong) ngày 13/6, Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc và Trung Quốc đã có cuộc hội đàm song phương bên lề Đối thoại Shangri-La lần thứ 19 tại Singapore. Đây là cuộc gặp đầu tiên giữa bộ trưởng quốc phòng 2 nước sau Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng tại Bangkok (Thái Lan) vào tháng 11/2019. Hai bên đã thảo luận về xu hướng vụ thử hạt nhân thứ 7 của Triều Tiên và các biện pháp làm giảm leo thang căng thẳng. Thông qua cuộc hội đàm lần này có thể nhận thấy hiện trạng của quan hệ quân sự Trung – Hàn.

Quan hệ quân sự Trung – Hàn được chia thành các giai đoạn phát triển theo thỏa thuận quan hệ đối tác hợp tác chiến lược: giai đoạn thử nghiệm do các hành động khiêu khích của Triều Tiên và giai đoạn đình trệ do vấn đề Mỹ triển khai Hệ thống tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) ở Hàn Quốc. Quan điểm và lập trường khác nhau là lý do khiến quan hệ quân sự rơi vào trạng thái đình trệ. Hàn Quốc cho rằng lòng tin được duy trì thông qua trao đổi, trong khi Trung Quốc lại cho rằng để trao đổi cần xây dựng lòng tin trước. Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn là sự hiểu lầm lẫn nhau và sự kỳ vọng quá mức đối với mối quan hệ giữa hai nước. Hai nước đã đạt được quan hệ đối tác hợp tác chiến lược.

Về mặt chiến lược, Hàn Quốc hiểu rằng Trung Quốc cung cấp cho Hàn Quốc sự hỗ trợ về an ninh và quân sự, còn Trung Quốc cho rằng Hàn Quốc nên hiểu rõ về sự hợp tác và phát triển trung và dài hạn của Trung Quốc. Liên quan đến THAAD, Hàn Quốc cho rằng Trung Quốc cần hiểu viẹc triển khai hệ thống này là yêu cầu để đối phó với Triều Tiên, trong khi Trung Quốc quả quyết Hàn Quốc nhất trí triển khai THAAD là để nhằm vào Trung Quốc. Chính sách “3 không” (không triển khai thêm THAAD, không tham gia hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ, không thực hiện liên minh quân sự Mỹ-Hàn-Nhật) là một điểm để phân tích xu hướng quan hệ quân sự hai nước.

Mặc dù bộ trưởng quốc phòng hai nước đã hội đàm trực tiếp, nhưng triển vọng quan hệ quân sự không mấy lạc quan. Nói chung, quan hệ quân sự được chia thành 3 giai đoạn cơ bản nhất là giao lưu quân sự, sau đó là hợp tác quân sự và cuối cùng là liên minh quân sự. Nhìn chung, giao lưu quân sự là các hoạt động quân sự nhằm tăng cường sự hiểu biết và lòng tin giữa các quốc gia, ví dụ như các chuyến thăm lẫn nhau của các cá nhân, huấn luyện và quan sát lẫn nhau, chuyến thăm giữa máy bay và tàu chiến, trao đổi giáo dục quân sự, văn hóa nghệ thuật và thể thao, nghiên cứu và trao đổi học thuật. Hợp tác quân sự là giai đoạn theo đuổi mối quan hệ quân sự chặt chẽ hơn trên cơ sở thiết lập lòng tin trong giao lưu quân sự, triển khai các hoạt động quân sự để thực hiện mục tiêu an ninh chung, bao gồm hợp tác chính sách an ninh, trao đổi thông tin và tình báo, hợp tác công nghiệp quốc phòng, huấn luyện chung, xây dựng căn cứ quân sự, lập bản đồ địa hình quân sự. Hiện nay, do tình hình đặc biệt của liên minh Hàn – Mỹ, Trung – Triều, văn hóa kinh doanh giữa hai nước, quan hệ quân sự Hàn – Trung đang ở giai đoạn cao của “giao lưu quân sự”.

So với mức độ quan hệ đối tác hợp tác chiến lược giữa hai nước hiện nay, quan hệ quân sự Hàn – Trung được coi là ở mức thấp. Trong môi trường quốc tế thời gian tới, mối quan hệ này có khả năng khó được cải thiện. Ngoài ra, có nhiều nhân tố gây căng thẳng trong quan hệ quân sự giữa hai nước dưới thời Yoon Seok-ryul. Ví dụ, chính sách “3 không” đã thay đổi, Hàn Quốc tích cực tham gia chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ ở cấp độ an ninh và quân sự, Hàn Quốc đã có các phát ngôn và triển khai hợp tác đối với liên minh 3 nước Hàn-Mỹ-Nhật về Biển Đông và Eo biển Đài Loan.

Thứ nhất, về quan hệ quân sự, hai nước cũng nên làm rõ những lĩnh vực nào có thể hợp tác. Tách rời chính trị và kinh tế đã khó, tách rời chính trị và quân sự còn khó hơn, vì vậy quan hệ quân sự không phải là lĩnh vực có thể độc lập phát triển. Quan hệ quân sự có thể bắt đầu muộn hơn một chút so với kinh tế và chính trị là điều tất nhiên, do đó, hai nước có thể giao lưu văn hóa quân sự, giao lưu quân sự, thăm hỏi lẫn nhau mang tính gián tiếp. Ngoài ra, hai nước có thể hợp tác quân sự trong các lĩnh vực an ninh phi truyền thống như cứu trợ thiên tai và chống cướp biển.

Thứ hai, cần có thời gian để phát triển hơn nữa mối quan hệ giữa quân đội hai nước và cần áp dụng cách tiếp cận từng bước. Hai nước đã thảo luận về bản ghi nhớ thiết lập đường dây điện thoại trực tiếp giữa Hải quân và Không quân từ năm 2003 nhưng mãi đến năm 2008 mới đạt được thỏa thuận. Trên thực tế, vấn đề này đã được đề xuất và hình thành thông qua nhiều kênh từ Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quan đến Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng thống.

Thứ ba, ngay cả khi mối quan hệ quân sự xấu đi trong 5 năm tới, hai nước vẫn nên duy trì mối quan hệ quân sự kết nối qua điện thoại. Lễ bàn giao hài cốt của binh lính Trung Quốc là một trong những cách để hai bên hòa giải với nhau. Mặc dù phần lớn các hoạt động giao lưu quân sự giữa hai nước đã bị chấm dứt kể từ khi Mỹ triển khai THAAD ở Hàn Quốc, nhưng con đường nhân đạo cũng là một cách để tiếp tục duy trì mối quan hệ trong khi xung đột và đối đầu.

Thứ tư, xu hướng quan hệ quân sự giữa nước sau cuộc gặp giữa hai bộ trưởng quốc phòng. Hiện tại, quan hệ quân sự Hàn – Trung dưới thời Yoon Seok-ryul là tái thiết lập, phát triển trở lại hay sẽ đối đầu căng thẳng hơn trong bối cảnh tình hình xung quanh có nhiều thay đổi thì vẫn cần tiếp tục quan sát.

Nguồn: TKNB – 15/06/2022

Các kịch bản Trung Quốc tấn công Đài Loan


Theo đài RFI, những năm gần đây đã có nhiều dự báo về nguy cơ Trung Quốc tấn công Đài Loan, nhưng dường như chưa bao giờ nguy cơ này lại gần đến như vậy. Trung Quốc có khả năng tấn công Đài Loan như thế nào? Mỹ và các đồng minh, đối tác sẽ phản ứng ra sao? Chiến tranh liệu có phải là điều không thể tránh khỏi?

Hai kịch bản chính

Nhiều kế hoạch hành động được thảo ra xoay quanh chủ yếu 2 kịch bản chính: Kịch bản thứ nhất là bao vây, siết chặt dần dần hòn đảo để buộc Đài Loan phải “tái thống nhất theo chủ trương của Bắc Kinh”; Kịch bản thứ hai là trực tiếp xâm chiếm Đài Loan.

Kịch bản thứ nhất: Bao vây, siết chặt dần hòn đảo

Cuộc tập trận diễn ra ở 6 khu vực biển cho thấy Đài Loan có thể hoàn toàn bị cô lập trên thực tế. Tờ Wall Street Journal cho biết nhiều chuyên gia quân sự Mỹ khẳng định cuộc tập trận vừa qua là củng cố kịch bản Bắc Kinh phong tỏa Đài Loan để buộc Đài Bắc phải thương lượng về việc tái thống nhất.

Bản báo cáo của Rand Corporation nêu khả năng chính quyền Trung Quốc có thể kiểm soát việc ra vào không phận và hải phận, mọi hoạt động vận chuyển hàng hóa bằng tàu biển, hàng không cũng như hành khách của Đài Loan. Việc phong tỏa một vùng lãnh thổ có thể coi là một hành động chiến tranh, nhưng Bắc Kinh tự cho phép làm điều này. Chính quyền Trung Quốc thường viện cớ Liên hợp quốc chỉ thừa nhận “một nước Trung Hoa” duy nhất. Cũng trong kịch bản này, quân đội Trung Quốc có thể đi xa hơn một bước với việc xâm chiếm một số đảo nhỏ mà Đài Loan kiểm soát như 2 nhóm đảo Kim Môn (Kinmen) và Mã Tổ (Matsu). Quân đội Đài Loan không thể bảo vệ được 2 nhóm đảo này vì nằm sát Hoa lục.

Theo giới phân tích Mỹ, kịch bản thứ nhất là sự nối tiếp của chiến thuật “chiến tranh vùng xám”, một cuộc xung đột với cường độ thấp, tức không tuyên chiến. Lợi thế của kịch bản “chiến tranh vùng xám”” là đẩy quyết định nổ súng trước về phía Đài Loan và Mỹ.

Tuy nhiên, điểm yếu của chiến thuật này là không bảo đảm Đài Loan sẽ đầu hàng. Ngược lại, việc phỏng tỏa tấn công các đảo cô lập có thể thổi bùng quyết tâm kháng chiến của dân chúng Đài Loan, chính quyền Đài Loan, cũng như các đồng minh phương Tây. Tình huống này có thể đẩy nhanh viễn cảnh “ác mộng” với Trung Quốc: Đài Loan tuyên bố độc lập và chính thức tham gia liên minh an ninh với Mỹ và Nhật Bản.

Kịch bản thứ hai: Tấn công đầu não, can thiệp ồ ạt

Theo một số chuyên gia, quân đội Trung Quốc có thể sẽ huy động đến 1,2 triệu quân với hy vọng đè bẹp lực lượng phòng vệ 450.000 chiến binh Đài Loan. Thomas Shugart – cựu sĩ quan hải quân Mỹ, nhà nghiên cứu thuộc CNAS (một trung tâm nghiên cứu về an ninh Mỹ) cho biết, quân đội Trung Quốc có thể huy động hàng trăm phương tiện hàng hải dân sự cho mục tiêu chuyển quân này. Tuy nhiên, vượt qua 180 km eo biển dưới “làn mưa tên lửa, đạn pháo” trước khi chọc thủng hàng rào phòng ngự hiểm trở của Đài Loan là chuyện hoàn toàn không đơn giản. Địa hình Đài Loan vốn rất thuận lợi cho các hoạt động phòng ngự.

Một báo cáo hồi đầu năm 2021 của Viện tư vấn chính sách đối ngoại (CFR), kịch bản xâm chiếm Đài Loan là “rất mạo hiểm”. Tuy nhiên, theo quan điểm của một chuyên gia Trung Quốc, “lợi ích lâu dài” của giải pháp này là cho phép “giải quyết dứt điểm vấn đề chủ quyền Đài Loan”. Theo chuyên gia Hal Brands, kịch bản tấn công Đài Loan sẽ ngày càng được củng cố, nhất là khi chính quyền Trung Quốc nhận ra rằng họ sẽ “mất vĩnh viễn Đài Loan”.

Xu thế đối đầu không khoan nhượng

Sau 40 năm tồn tại thỏa hiệp về “Một nước Trung Hoa” (giới chuyên gia thường gọi là chính sách “mơ hồ về chiến lược” của Mỹ là hậu thuẫn Đài Loan, nhưng không ủng hộ độc lập, cũng không khẳng định rõ có trực tiếp can thiệp bảo vệ Đài Bắc hay không), thời thế hiện giờ đã thay đổi, tình trạng trên khó có thể kéo dài. Một số chuyên gia cho rằng quan điểm “Một nước Trung Hoa” không sớm thì muộn không tồn tại.

Viện tư vấn chính sách đối ngoại Mỹ nhấn mạnh: “Trung Quốc đã không loại trừ việc sử dụng vũ lực để đạt được sự “thống nhất” Đài Loan và ngược lại Mỹ cũng không loại trừ việc bảo vệ Đài Loan nếu Trung Quốc tấn công. Sức mạnh quân sự ngày càng gia tăng và thái độ quyết đoán của Trung Quốc cũng như tình hình xấu đi trong qua hệ hai bờ eo biển có thể châm ngòi cho một cuộc xung đột…”

Nếu điều này xảy ra sẽ dẫn đến các hành động trả đũa cứng rắn từ phía quân đội Đài Loan, nhiều khả năng dẫn đến đụng độ vũ trang. Trung Quốc chỉ gia tăng số lượng và cường độ các máy bay và tàu thuyền vượt qua đường trung tuyến của eo biển, điều vốn dĩ từng xảy ra trong quá khứ gần đây.

Cuộc tập trận lịch sử gần như không dẫn đến thay đổi “nguyên trạng”, nhưng có mục tiêu là gây áp lực về tâm lý rất lớn đối với Đài Loan. Đây là điều được nhiều nhà quan sát đặc biệt lưu ý.

Mỹ cần “lật ngược thế cờ truyền thông”

Theo nhiều chuyên gia, để tránh xung đột vũ trang bùng phát tại eo biển Đài Loan, Mỹ cùng các đồng minh cần có các biện pháp để Trung Quốc nhận ra cái giá phải trả  cho một cuộc xâm lược liều lĩnh. Các chính sách răn đe toàn diện đối với chính quyền Bắc Kinh về nhiều mặt, từ quân sự, chính trị, đến ngoại giao, truyền thông… là điều cần thiết.

Chuyên gia Ivan Kanapathy của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ phụ trách mảng Trung Quốc, Đài Loan, Mông Cổ nhấn mạnh vấn đề truyền thông. Chính sách “Một nước Trung Hoa” là điều vẫn có thể được duy trì, với điều kiện Mỹ cần “lật ngược thế cờ về mặt truyền thông”, nỗ lực yêu cầu Trung Quốc trả lại chính sách tim kiếm việc tái thống nhất thông qua “giải pháp hòa bình”. Đây là điều từng được hai bên tỏa thuận trong “Thông cáo chung Mỹ – Trung cuối cùng về Đài Loan vào năm 1982”.

Nguồn: TKNB – 12/08/2022

Liệu “Cuộc nổi dậy của Nga” trong quan hệ với phương Tây có thành công? – Phần cuối


Trước sự bất bình ngày càng tích tụ trong giới chính trị Nga, không có gì đáng ngạc nhiên khi vấn đề Ukraine trở thành nguyên nhân cho “cuộc nổi dậy của Nga”. Moskva coi các cuộc biểu tình và sự thay đổi quyền lực là cuộc tấn công bất ngờ vào hệ thống chính trị của Ukraine, đồng thời cũng cảnh giác trước mối đe dọa từ một cuộc tấn công như vậy đối với chính họ. Ngoài ra, giới học thuật ngày càng coi Ukraine là một dự án khác biệt một cách cơ bản và ngày càng tiến gần về phía các giá trị phương Tây. Theo quan điểm của giới hoạch định chính sách đối ngoại trong vấn đề Ukraine, lợi ích của Nga trong lĩnh vực an ninh không được chú trọng. Các vấn đề kinh tế ở đây cũng tác động tới chính trị: Moskva có thể gây áp lực đối với Kiev thông qua giá khí đốt và đe dọa những nỗ lực đa dạng hóa phương thức vận chuyển, nhưng nước này rõ ràng đang thua Liên minh châu Âu và các nước phương Tây khác trong việc hội nhập kinh tế. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những vấn đề liên quan đến Ukraine đã khiến tất cả những mâu thuẫn tích tụ sau Chiến tranh Lạnh bùng phát.

Nhận thấy trò chơi đang diễn ra theo hướng cơ bản là bất lợi cho Nga, Moskva đã quyết định “ra đòn” với đối thủ và đối thủ của họ lúc này là Ukraine. Về phía mình, phương Tây nhận thấy sự khó chịu, bất mãn và phản đối của Nga tỷ lệ thuận với sự bất mãn của chính họ. Phương Tây thất vọng trước “cuộc nổi dậy” của Nga nhằm cân bằng giữa lợi ích và thiệt hại, cho rằng đó là hành động vô nghĩa và bất mãn trước hành vi ép buộc tàn nhẫn của Nga. Điều này đã dẫn đến các cuộc tấn công trả đũa đầy cảm tính và kế hoạch tịch thu tài sản của phương Tây đối với Nga, sự thất bại của “những kẻ đầu sỏ” (phe cánh thân phương Tây trong giới thượng lưu Nga), cũng như sự ức hiếp vô nghĩa đối với nền văn hóa, thể thao, tầng lớp trí thức và toàn xã hội Nga. Phương Tây chỉ thiếu nước đe dọa tiến hành một cuộc đối đầu quân sự trực tiếp chống lại Nga.

Phương Tây có nhiều lý do để lo sợ về một “cuộc nổi loạn của Nga”. Lo ngại về một trật tự thế giới tự do đã xuất hiện từ trước năm 2014. Tuy nhiên, so với Nga, Trung Quốc gây ra mối nguy hiểm lớn hơn nhiều. Nếu “cuộc nổi dậy của Nga” thành công, thì tham vọng của Trung Quốc rõ ràng sẽ càng khó bị kiềm chế hơn. Hơn nữa, không giống như Nga, Trung Quốc có thể đưa ra một mô hình kinh tế thay thế, quan điểm của riêng họ về nền dân chủ và một khái niệm khác về quan hệ quốc tế.

Thành công của “cuộc nổi dậy của Nga” có thể là phần mở đầu cho những thách thức mang tính hệ thống hơn nhiều. Do đó, đối với Nga, việc “bình định” phương Tây là nhiệm vụ vượt ra ngoài không gian hậu Xô viết và thậm chí là cả châu Âu-Đại Tây Dương.

Trong khi đó, các hành động của Moskva đã có những dấu hiệu tiến triển gây khó chịu cho phương Tây. Quả thực, sự phong tỏa của phương Tây sẽ khiến nền kinh tế Nga càng trở nên lạc hậu và các hoạt động quân sự gây tốn kém, kích động những phản ứng xã hội khó lường và thậm chí thách thức sự ổn định chính trị. Tuy nhiên, tất cả những thách thức này không thể đánh bật Nga khỏi con đường chính trị của họ trong lúc này. Moskva đang từng bước đẩy mạnh một cuộc tấn công và dường như đang chuẩn bị đưa các vùng lãnh thổ Ukraine bị chiếm đóng vào không gian chính trị, thông tin và kinh tế của mình. Ukraine không chỉ đối mặt với thiệt hại lớn về kinh tế và con người, mà còn đối mặt với nguy cơ bị mất lãnh thổ. Viện trợ quy mô lớn cảu phương Tây đang phát huy tác dụng, khiến Nga khó hành động, nhưng điều này rõ ràng không thể ngăn chặn Nga tiến tới mục tiêu của mình: việ cung cấp thiết bị quân sự chỉ đơn giản là tạo cơ sở cho các hoạt động quân sự. Xung đột càng kéo dài, Ukraine càng có nguy cơ mất thêm nhiều lãnh thổ. Điều này buộc phương Tây phải cân nhắc việc đạt được ít nhất một thỏa thuận tạm thời với Nga. Trước khi thỏa thuận tạm thời này được hoàn tất, một nỗ lực nhằm đảo ngược tình thế quân sự có thể được thực hiện. Nhưng nếu nỗ lực này thất bại thì sẽ không thể tránh được việc bị mất lãnh thổ.

Nói cách khác, “cuộc nổi dậy của Nga” có cơ hội sẽ kết thúc thành công với một cuộc cải tổ mang tính nguyên tắc của một quốc gia lớn hậu Xô viết mà không lâu trước đó là đối thủ của Nga. Cuộc nổi dậy này sẽ chứng tỏ thái độ sẵn sàng và khả năng của Nga trong việc hỗ trợ các tuyên bố của mình bằng những hành động cấp thiết.

Liệu thành công của cuộc nổi dậy có đồng nghĩa với chiến thắng của cuộc nổi dậy đó hay không? Câu trả lời sẽ phụ thuộc vào hai thành phần. Thành phần thứ nhất là các hệ quả chính trị quốc tế. Một thành công quân sự ở Ukraine có thể gây ra một loạt hậu quả trên phạm vi toàn cầu, dẫn đến sự suy tàn của phương Tây. Thế nhưng, một viễn cảnh như vậy là điều không chắc chắn. Phương Tây vẫn an toàn, cho dù họ đã bộc lộ những điểm yếu rõ ràng. Nhận định rằng những biên liên quan không thuộc phương Tây sẵn sàng từ bỏ những lợi ích của việc toàn cầu hóa và vì lợi ích của những chủ trương chính trị trừu tượng và mơ hồ giống như trong một thế giới đa cực là điều hoàn toàn không có cơ sở. Nhiều khả năng phương Tây sẽ phải chấp nhận hiện trạng mới của Ukraine. Điều đó không có nghĩa là mô hình phương Tây thất bại. Nga không thách thức mô hình này một cách có hệ thống và chưa có một bức tranh toàn cảnh về sự thay đổi của mô hình đó. Moskva có thể đang dựa vào mô hình này để duy trì sự tồn tại, nhưng kết quả của hành động đó còn lâu mới rõ ràng.

Thành phần thứ hai là hậu quả đối với chính nước Nga. Để tránh thúc đẩy một giải pháp thay thế toàn cầu cho trật tự tự do, Nga ít nhất sẽ phải quyết định một chương trình phát triển của riêng mình. Cho đến nay, một số mô hình của chương trình này trong một số lĩnh vực chủ yếu được xây dựng dựa trên sự phủ nhận của phương Tây. Hơn nữa, đại đa số các quốc gia không thuộc phương Tây vẫn tích cực phát triển và trau dồi các thông lệ phương Tây theo hướng có lợi cho họ trong khi bảo vệ chủ quyền của mình. Đây là  những hình mẫu về việc tổ chức công nghiệp, phát triển khoa học-giáo dục và tham gia hệ thống phân công lao động quốc tế. Việc từ chối các thông lệ như vậy vì cho rằng chúng đi kèm với các điều kiện gắn liền với phương Tây và sao chép các thông lệ của Liên Xô được tạo ra trong những điều kiện lịch sử khác nhau và kế thừa từ quá khứ xa xăm có thể chỉ làm tăng thêm những khó khăn mà nước Nga đang phải đối mặt. VIệc bảo tồn và phát triển nền kinh tế thị trường cũng như một xã hội cởi mở và linh hoạt như vậy là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

Nguồn: TLTKĐB – 24/06/2022

Liệu “Cuộc nổi dậy của Nga” trong quan hệ với phương Tây có thành công? – Phần đầu


Theo bài viết mới đây trên chuyên trang phân tích chính trị của Hội đồng đối ngoại Nga về các vấn đề quốc tế, cuộc xung đột quân sự hiện nay ở Ukraine là mấu chốt của mối quan hệ giữa Nga và phương Tây, là nguyên nhân chính thúc đẩy chính sách an ninh ở khu vực châu Âu-Đại Tây Dương và gây ra nhiều hậu quả trên toàn cầu. Trong lĩnh vực ý thức hệ, cuộc xung đột hiện nay ngày càng giống một cuộc đấu tranh giữa trật tự thế giới tự do và “sự nổi loạn của những kẻ không hài lòng”. Nga đảm nhận vai trò tiên phong trong cuộc nổi dậy này và công khai thách thức các đối thủ phương Tây.

Khái niệm “nổi loạn” ở đây không xuất hiện một cách ngẫu nhiên. Phương Tây đang thúc đẩy một trật tự thế giới tự do dựa trên những tiền đề ý thức hệ rõ ràng, trong đó có tiền đề về kinh tế thị trường, toàn cầu hóa các tiêu chuẩn, thị trường và công nghệ, dân chủ như một hình thức chính trị không thể thay thế cho một quốc gia, xã hội mở, sự đa dạng về văn hóa và phong cách sống, và các quyền con người. Trên thực tế, cách thức thực hiện những nguyên tắc này là không giống nhau giữa các quốc gia và thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên, tính đa dạng của thực tiễn ít ảnh hưởng đến tính toàn vẹn của hệ tư tưởng. Khác với phương Tây, Nga không đưa ra một hệ tư tưởng thay thế. Điều này khiến Nga khác biệt với Liên Xô, vốn áp dụng một hệ tư tưởng khác theo chủ nghĩa hiện đại – chủ nghĩa xã hội – và tích cực quảng bá nó như một giải pháp thay thế mang tính toàn cầu.

Đáng chú ý, cả chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội đều là học thuyết của phương Tây. Cả hai đều dựa trên những ý tưởng về sự tiến bộ, tính hợp lý và sự giải phóng. Những ý tưởng này có nhiều điểm tương đồng. Những người theo chủ nghĩa xã hội đưa ra một cái nhìn khác về tài sản tư nhân và chỉ ra nhược điểm của thị trường khi không được kiểm soát. Xét về hình thức chính trị, dân chủ và quyền lực của nhân dân trong chủ nghĩa xã hội cũng quan trọng như trong chủ nghĩa tự do. Ý tưởng về toàn cầu hóa bắt nguồn từ những khái niệm về sự đoàn kết của người lao động. Việc giải phóng con người khỏi những định kiến và hợp lý hóa các lĩnh vực của cuộc sống trong hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa được thể hiện rõ ràng như trong chủ nghĩa tự do.

Vấn đề của Liên Xô là việc thực hiện các ý tưởng xã hội chủ nghĩa là hành động bắt chước. Các nguyên tắc dân chủ không những chưa được thực hiện mà trên thực tế còn bị một nhà nước độc tài (và ở một số giai đoạn nhất định là nhà nước toàn trị) đè bẹp. Trong quá trình hợp lý hóa nền kinh tế và công nghiệp hóa, Liên Xô đã đạt được những thành tựu đáng kinh ngạc. Tuy nhiên, Liên Xô sau đó lại rơi vào tình trạng trì trệ, không thể điều chỉnh nền kinh tế theo hướng phù hợp với thực tế thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Vùng ngoại vi của nền kinh tế, với lợi thế về nguyên liệu thô, đã được xác định từ thời ông Brezhnev. Sự nghiệp giải phóng được chứng minh là rất thành công, nhưng cuối cùng cũng bị cản trở bởi cấu trúc xã hội ngày càng cứng nhắc của nhà nước Xô viết. Vào giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh Lạnh, thái độ hoài nghi đối với hệ tư tưởng của xã hội và giới tinh hoa Xô viết dần xuất hiện.

Tuy nhiên, bất chấp sự sụp đổ của dự án Liên Xô, chính sách của Liên Xô khó có thể được gọi là một sự nổi loạn. Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Liên Xô vẫn liên tục đưa ra một giải pháp thay thế mang tính hệ thống. Mối quan hệ với giai cấp tư sản có thể được gọi là một nỗ lực cách mạng và sau đó là một cuộc cạnh tranh, nhưng đó vẫn chưa phải là một cuộc nổi dậy. Tuy vậy, chính sách của Liên Xô đi kèm với một chương trình nghị sự tích cực, đưa ra một bức tranh toàn cảnh về thế giới.

“Sự nổi dậy của người Nga” hiện nay bắt nguồn từ sự bất mãn với hiện trạng đã được thiết lập của trật tự thế giới tự do, hay nói đúng hơn là những hậu quả của nó đối với nước Nga.

Có nhiều lý do dẫn tới sự không hài lòng như vậy. Chủ nghĩa hoài nghi về dân chủ bắt nguồn từ mức độ các quốc gia bên ngoài xâm phạm các thể chế dân chủ. Các cuộc “cách mạng màu” trong không gian hậu Xô viết chỉ củng cố thêm thái độ không hài lòng này. Mặt trái của dân chủ là khả năng can thiệp từ bên ngoài vào các thể chế dân chủ để điều chỉnh đường lối chính trị. Không phải vô cớ mà Mỹ bị coi là kẻ đứng đầu trong việc xâm phạm chủ quyền quốc gia thông qua hành vi thao túng các thể chế dân chủ ở nước ngoài. Lý do trớ trêu hơn cả là sự phẫn nộ của Washington sau khi Nga liên tục tìm cách xâm phạm nền dân chủ của Mỹ.

Điều khiến Nga khó chịu nhất là việc nước này chỉ nắm vai trò thứ yếu trong trật tự thế giới đơn cực, khiến lợi ích của họ bị coi thường và mong muốn của họ về việc trở thành một đối tác bình đẳng bị chối bỏ. Điều thú vị là các yếu tố kinh tế chỉ giữ vị trí thứ yếu trong “cuộc nổi dậy của Nga”. Về lý thuyết, Nga có thể được cho là không hài lòng với vị thế ngoại vi trong nền kinh tế toàn cầu và vai trò nguồn cung cấp phụ về nguyên liệu thô. Trên thực tế, Nga đã hội nhập sâu rộng vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, so với các khía cạnh dân chủ, chủ quyền và chính sách đối ngoại, sự không hài lòng của Nga về vị trí của họ trong nền kinh tế thế giới được xem là thứ yếu. Việc giải phóng con người khỏi những định kiến hầu như cũng không phải là một vấn đề chính trị lớn đối với Moskva. Xét ở một số khía cạnh, câu chuyện về nước Nga không còn là vấn đề được phương Tây quan tâm. Điều này liên quan đến các chủ đề như chủ nghĩa đa văn hóa hay thiểu số giới tính, tuy nhiên nhận thức của các nước phương Tây cũng không đồng nhất. Đồng thời, xét về lối sống, Nga vẫn mang tính chất của một quốc gia châu Âu, vì vậy văn hóa cũng như kinh tế khó có thể được coi là nguồn gốc của vấn đề.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 24/06/2022

Tương lai sự can dự của Mỹ ở Trung Đông – Phần cuối


Xây dựng lại chính sách đối ngoại Mỹ trong bối cảnh tương quan lực lượng mới trong khu vực

Hướng tới một chiến lược ngoại giao mới dựa trên các đối tác chủ chốt: Israel, Saudi Arabia, Ai Cập

Trong khi chính sách của Mỹ ở Trung Đông chủ yếu hướng tới Iraq và cuộc xung đột Israel-Palestine cho đến năm 2008, Tổng thống Obama đã cố gắng rút dần lực lượng Mỹ khỏi Iraq và tiến tới cùng Iraq giám sát các hoạt động tại thực địa. Lường trước những tác động của ảnh hưởng ngày càng tăng của Iran, ông ũng khởi xướng Kế hoạch hành động toàn diện chung (JCPOA) nhằm ngăn chặn sự phát triển của một năng lực hạt nhân khác trong khu vực có thể đe dọa an ninh của Israel. Cuối cùng, dưới thời Tổng thống Trump, Mỹ đã khởi xướng các thỏa thuận bình thường hóa giữa Israel và các nước láng giềng Arab – giờ đây được biết đến với tên gọi “Thỏa thuận Abraham”, bao gồm Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), Bahrain, Sudan và Maroc – với mục đích tạo ra một liên kết chiến lược cho phép làm giảm sức nặng của Iran trong khu vực cũng như các lực lượng ủy nhiệm và đồng lõa của Iran (Hezbollah, lực lượng dân quân Shiite của Iraq, chế độ Syria, lực lượng (Houthi). Nói tóm lại, các sáng kiến ngoại giao được ưu tiên hơn các hành động quân sự phòng ngừa kém hiệu quả, nhiều rủi ro an ninh và chi phí tốn kém. Theo nhà nghiên cứu Tamara Cofman Wittes, những kết quả chiến lược tốt nhất của Mỹ ở Trung Đông có được là nhờ ngoại giao. Theo Dalton và Karlin, Mỹ cần chú trọng hơn đến các công cụ phi quân sự để giúp các đối tác trong khu vực vượt qua những thách thức dài hạn về quản trị, thiết lập các khế ước xã hội, củng cố cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố. Những sáng kiến như vậy sẽ cần một nguồn tài trợ bền vững và có trách nhiệm từ Bộ Ngoại giao Mỹ và Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ (USAID). Tuy nhiên, các yêu cầu ngân sách của USAID đã được Quốc hội Mỹ điều chỉnh giảm từ năm 2017, từ 50,1 tỷ USD vào năm 2017 xuống 41 tỷ USD vào năm 2021. Nói tóm lại, các công cụ ngoại giao, kinh tế (viện trợ phát triển) và tình báo sẽ cho phép Mỹ theo đuổi một chiến lược cạnh tranh hơn trong khu vực.

Theo Tamara Cofman Wittes, việc giảm sự hiện diện của Mỹ ở Trung Đông sẽ tạo ra một thế cân bằng khó khăn: Giảm bớt dấu ấn quân sự đã lỗi thời của Mỹ mà không gây thêm mất an ninh, đồng thời duy trì sự răn đe đối với các nước thù địch, điều này là cần thiết để đáp ứng những lợi ích then chốt của Mỹ. Cũng theo ông, có hai câu hỏi khó đặt ra với Washington về những ưu tiên và kỳ vọng của họ: Làm thế nào để nối lại các cuộc đàm phán hạt nhân với Iran và làm thế nào để phối hợp tham vọng ngoại giao với việc rút khỏi cam kết quân sự. Liên quan tới Iran, ba nhà phân tích chính trị Martin Indyk, Mara Karlin và Tamara Cofman Wittes gợi ý rằng ngoại giao Mỹ nên áp dụng cách tiếp cận có thể khôi phục thỏa thuận hạt nhân Iran năm 2015. Với cách tiếp cận này, Mỹ sẽ làm việc với các bên liên quan khác (Trung Quốc, Pháp, Nga, Anh và Đức) và Iran để đàm phán một thỏa thuận tiếp theo. Đồng thời, các nước này sẽ góp phần vòa sự ổn định của khu vực.

Hướng tới một chiến lược quân sự ít tốn kém hơn

Để có một chiến lược quân sự ít tốn kém hơn, các nhà phân tích Dalton và Karlin khuyến nghị Chính quyền Washington nên từng bước xem xét lại các lực lượng của họ ở Trung Đông – đó là các căn cứ quân sự, tài sản và quân nhân Điều này có thể kéo theo việc giảm bớt quân số và chú trọng vào các hoạt động đầu tư có mục tiêu hơn. Các lực lượng mặt đất và các phương tiện tấn công cũng có thể được giảm bớt. Cuối cùng, cần phải giảm bớt nhân sự trong các cơ quan đầu não và chỉ huy của Mỹ ở vùng Vịnh. D(iều này có nghĩa là cần tập trung vào yếu tố cốt lõi, như củng cố hệ thống phòng thủ chống tên lửa, xây dựng lực lượng hải quân có khả năng tiếp cận bờ biển, các chiến dịch đặc biệt và năng lực chống khủng bố, năng lực tình báo, giám sát và trinh sát và, cuối cùng, hậu cần và các công cụ cần thiết. Theo Melissa Dalton và Mara Karlin, Mỹ nên hợp lý hóa các căn cứ quân sự của mình trong khu vực. Toàn bộ căn cứ của Mỹ (hầu hết nằm ở Vùng Vịnh) được duy trì và phát triển kể từ Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 đều có ý nghĩa quan trọng để tiến hành các cuộc chiến tranh liên tiếp ở Iraq và triển khai các chiến dịch ở Afghanistan, cũng như thực hiện các nỗ lực trong cuộc chiến chống khủng bố và răn đe đối với Iran. Để duy trì vị thế an ninh mới của mình trong khu vực, Mỹ cần tăng cường các quan hệ đối tác an ninh, cũng như tăng cường huấn luyện, các cuộc tập trận và các hoạt động trao đổi quân sự để có thể đạt được các mục tiêu an ninh chung với các nước đối tác. Chẳng hạn, các cuộc tập trận quân sự của Mỹ với một số quân đội trong khu vực rất hữu ích, cả về mặt chiến lược (để răn đe Iran, trấn an các đối tác vùng Vịnh và tạo điều kiện hợp tác giữa họ dựa trên mối quan hệ chính trị căng thẳng giữa các nước vùng Vịnh khác nhau) lẫn mặt tác chiến (để đảm bảo rằng quân đội Mỹ luôn sẵn sàng đối phó với các cuộc xung đột trong tương lai ở Trung Đông). Việc hợp tác với các đồng minh như Anh và Pháp để cùng chia sẻ các nguồn lực và các căn cứ quân sự cũng có thể góp phần bù đắp cho những thay đổi vị thế của Mỹ. Chiến lược quân sự mới được nhiều nhà phân tích và nhà nghiên cứu khuyến nghị này dường như ngụ ý sửa đổi các hình thức can thiệp quân sự của Mỹ ở Trung Đông sao cho một số cường quốc khu vực có thể tham gia tích cực hơn vào hợp tác an ninh nhằm hỗ trợ những lợi ích của Mỹ trong khu vực.

Kết luận

Sau 3 thập kỷ bá quyền của Mỹ ở Trung Đông, các chuyên gia Mỹ nhận thấy Mỹ có sự thu mình lại mang tính chiến lược trong khu vực để đầu tư nhiều hơn vào Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, và tập trung vào những lợi ích ưu tiên còn lại: đảm bảo tiếp cận các tuyến hàng hải chiến lược, hưởng lợi từ các mạng lưới kinh tế và tài chính, đấu tranh chống khủng bố và chống lại ảnh hưởng địa chính trị của Iran. Nhiều nhà phân tích Mỹ khuyến nghị một chiến lược ngoại giao mới, nhằm củng cố các quan hệ đối tác với các đồng minh quan trọng của Mỹ trong khu vực (như Israel, Saudi Arabia, Ai Cập) để đối phó với các đối thủ địa chính trị như Nga và Trung Quốc, đồng thời triển khai một chiến lược quân sự ít tốn kém hơn. Điều này đòi hỏi phải xem xét lại chiến lược của Mỹ ở Trung Đông, điều vẫn chưa rõ ràng dưới thời Tổng thống Biden. Hiện tại, Biden đang tự định vị mình như một người bảo vệ hiện trạng và về cơ bản dường như không đoạn tuyệt với chính sách mà Donald Trump đã theo đuổi. Chính quyền Biden dường như đang tiếp tục từ bỏ cam kết với khu vực này và chỉ duy trì sự hiện diện của Mỹ trong các lĩnh vực chiến lược. Trong Hướng dẫn Chiến lược an ninh quốc gia tạm thời (tháng 3/2021), Tổng thống Mỹ dường như quay trở lại với cách tiếp cận truyền thống hơn, ưu tiên ổn định khu vực, các giá trị cơ bản như nhân quyền và duy trì hiện trạng. Ưu tiên của Chính quyền Biden cho đến nay trước hết là xử lý cuộc khủng hoảng COVID-19 cũng như kế hoạch phục hồi, tái tập trung các hành động vào các thách thức trong nước.

Nguồn: www.frstrategie.org

TLTKĐB – 16/04/2022

Tương lai sự can dự của Mỹ ở Trung Đông – Phần II


Trung Đông không còn là ưu tiên trong chiến lược toàn cầu của Mỹ

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính trị và Chiến lược Al-Ahram ở Cairo, Abdel Moneim Saeed, cho biết chính sách quốc tế của Mỹ vẫn hướng tới vai trò lãnh đạo toàn cầu nhưng tập trung ở châu Âu và Thái Bình Dương (và ít hơn ở Trung Đông) nhằm tăng cường liên minh với các nước thành viên khác của NATO, Australia, New Zealand, Nhật Bản và Hàn Quốc. Một số phương tiện truyền thông theo chủ nghĩa tự do của Mỹ cho rằng Mỹ nên từ bỏ giáo điều chủ nghĩa can thiệp đã ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của họ cho đến nay và chỉ dẫn đến những thảm họa trong khu vực (trong đó có cuộc chiến chống khủng bố do George W. Bush khởi xướng). Giám đốc Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) William J. Burns cho rằng Mỹ phải điều chỉnh lại các mối quan hệ của mình trong khu vực để duy trì một hiện trạng nhất định. Với Saudi Arabia và các quốc gia vùng Vịnh khác, điều này đồng nghĩa với một sự hỗ trợ cho an ninh của họ trước các mối đe dọa từ bên ngoài, dù từ Iran hay bất kỳ quốc gia nào khác, và một sự hỗ trợ đáng kể cho quá trình hiện đại hóa chính trị và kinh tế. Liên quan đến Iran, Mỹ có mọi lợi ích trong việc quay trở lại thỏa thuận hạt nhân. Đó không phải là phương thuốc kỳ diệu cho mọi bất đồng giữa Washington và chế độ hiện tại ở Tehran, nhưng nó sẽ là điểm khởi đầu cần thiết để chống lại các mối đe dọa hạt nhân Iran và cuối cùng là giảm thiểu chúng.

Do vậy, Trung Đông không còn là mối quan tâm lớn đối với Mỹ như 30 năm trước, khi nước này gần như nắm quyền bá chủ và phụ thuộc vào Trung Đông về nguồn cung khí đốt. Theo các nhà nghiên cứu Aaron David Miller và Richard Sokolsky thuộc Quỹ Carnegie vì hòa bình quốc tế, khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, sự phát triển của các nguồn năng lượng không hóa thạch và việc phát hiện ra các trữ lượng dầu khí lớn ngoài vùng Vịnh đã làm giảm sự quan tâm của Mỹ đối với Trung Đông. 85% lượng dầu xuất khẩu từ vùng Vịnh hiện nay là sang Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Về sự can thiệp quân sự, không giống như các nhà phân tích khác, Miller và Sokolsky cho rằng thật là ảo tưởng khi tin rằng một chính sách đối ngoại ít quân sự hóa hơn – một chính sách dựa nhiều hơn vào ngoại giao, viện trợ phát triển và các chương trình xây dựng dân chủ hơn là sử dụng vũ lực quân sự – sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp hơn về ổn định, phát triển kinh tế và chuyển đổi dân chủ. Những cạnh tranh sắc tộc, khu vực và bộ tộc, sự thiếu năng lực lãnh đạo và các quyền tự do cơ bản, sự quản trị yếu kém và những thể chế kém hiệu quả, sự thiếu minh bạch, thiếu tôn trọng nhân quyền và tham nhũng lan rộng đã tạo ra một khu vực rạn nứt và rối loạn mà Mỹ không thể cải thiện, càng không thể “sửa chữa”. Theo Miller và Sokolsky, những trách nhiệm này chủ yếu cần được các cường quốc khu vực gánh vác và giải quyết.

Những thách thức kinh tế, an ninh và địa chính trị trong một bối cảnh bất ổn

Đảm bảo tiếp cận các tuyến hàng hải chiến lược và hưởng lợi từ các mạng lưới kinh tế và tài chính

Một trong những lợi ích kinh tế ưu tiên của Mỹ trong khu vực là duy trì sự ổn định tương đối để đảm bảo tiếp cận các tuyến hàng hải chiến lược (đặc biệt là Biển Đỏ và Vịnh Arab) và không làm suy yếu thương mại thế giới. Điều này có thể lý giải tại sao Mỹ hiện diện mạnh mẽ ở Qatar, Kuwait và Bahrain, những quốc gia chiến lược trong nền kinh tế thế giới và cung cấp khí đốt. Căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ là Al-Udeid – nơi đồn trú khoảng 10.000 lính Mỹ cùng với trụ sở CENTCOM (Bộ chỉ huy các chiến dịch quân sự của Mỹ ở Trung Đông, Trung Á và Nam Á). Như vậy, cho dù Mỹ đã trở thành nước xuất khẩu dầu mỏ, quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên dầu mỏ vẫn nằm trong sự cạnh tranh giữa các cường quốc (dầu mỏ vùng Vịnh đã được xuất khẩu sang phương Đông, chứ không chỉ sang phương Tây).

Mỹ phần lớn vẫn là nước hưởng lợi từ các mạng lưới kinh tế và tài chính ở các khu vực mà họ tham gia, và đây vẫn là một lý do quan trọng khiến họ can dự. Theo Ghassan Salamé, học giả và nguyên là nhà ngoại giao, Mỹ đã “tư nhân hóa” phần lớn các hoạt động bên ngoài của mình. Trong cuộc xâm lược Iraq năm 2003, một mạng lưới kinh tế và tái chính thực sự đã được hình thành, trong đó Mỹ là bên hưởng lợi chính. Những người lính trẻ được đưa ra mặt trận, còn các công ty an ninh tư nhân ban đầu chịu trách nhiệm bảo vệ các bệnh viện quân đội, và sau đó tuyển mộ những người lính trẻ này. Quả thực, sự can thiệp của các công ty tư nhân trên chiến trường chủ yếu liên quan đến sự hỗ trợ cho thể chế quân sự: cung cấp lương thực và quần áo cho binh lính, bảo trì và sửa chữa thiết bị, hậu cần, vận tải… Nước đầu tiên sử dụng loại hình công ty tư nhân là Mỹ. Sự thiếu hụt quân số kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc (từ 2,1 triệu người năm 1991 xuống còn 1,4 triệu người hiện nay) đã buộc Chính quyền Washington kêu gọi sự tham gia của các thực thể dân sự. Chẳng hạn, trong lực lượng Mỹ tham gia Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1990 – 1991), cứ 50 binh sĩ thì có một thường dân được tuyển mộ theo  hợp đồng. Ở Iraq, vào năm 2004, tỷ lệ này đã tăng lên 1/10. Cuộc can thiệp vào Afghanistan (2001 – 2021), mặc dù tốn kém (theo ước tính của Lầu Năm Góc là 654 tỷ euro), vẫn mang lại lợi ích cho Mỹ.

Những thách thức địa chính trị và an ninh mới

Trong Chiến tranh Lạnh, những ưu tiên địa chính trị của Mỹ là chống lại ảnh hưởng của Liên Xô và bảo vệ Israel. Ngày nay, cục diện địa chính trị đã thay đổi đáng kể. Trước hết, mặc dù Mỹ vẫn là một đồng minh chính của Israel, nhưng nói đúng hơn quốc gia này đã trở nên tự chủ trong việc đảm bảo an ninh bên ngoài của mình. Cho dù Liên Xô sụp đổ, nhưng Nga đã hiện diện trở lại ở Trung Đông, đặc biệt là ở Syria, nơi các lợi ích của Nga gắn với các lợi ích của Iran để ủng hộ chế độ Bashar al-Assad. Theo nhà khoa học chính trị Matthieu Rey, “Vladimir Putin tìm thấy ở Trung Đông một cơ hội để trả thù cho những điều tủi nhục trong thời kỳ bá quyền của Mỹ”. Chẳng hạn, các sáng kiến của Liên hợp quốc bị ngăn chặn một cách có hệ thống bởi quyền phủ quyết của Nga, và Syria (đặc biệt là ở Aleppo) được Nga sử dụng làm nơi phô trương các loại vũ khí mới và các công ty an ninh tư nhân của họ. Kể từ nhiệm kỳ tổng thống của Obama, người ta đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều cường quốc khu vực thay thế vị trí bá quyền của Mỹ trong khu vực. Các quốc gia như Thổ Nhĩ Kỳ và iran đã tạo thành một thách thức địa chính trị mới đối với Mỹ: một mặt, ảnh hưởng trong khu vực của Iran (thông qua lực lượng dân quân và các trung gian chính trị của nước này) là một thách thức lớn đối với an ninh của Israel; mặt khác, Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù là thành viên của NATO, đã mua hệ thống phòng không S-400 của Nga và làm xáo trộn mối liên minh xuyên Đại Tây Dương. Cuối cùng, sự hiện diện ngày càng rõ rệt của Trung Quốc, thông qua các quan hệ đối tác kinh tế và các dự án phát triển trong khu vực, có thể là mối quan ngại đối với Washington, vì các nước vùng Vịnh là các đối tác thương mại chính của Trung Quốc.

Do đó, bảo vệ các lợi ích địa chính trị và an ninh của Mỹ bao hàm sự đối lập trực diện hơn với các quốc gia thù địch nhất, đặc biệt là ở Vùng Vịnh. Thật vậy, quyết định của Chính quyền Trump rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran và tìm kiếm một cách tiếp cận quyết đoán hơn để đối phó với cách hành xử gây bất ổn của Iran có thể kéo theo những hành động leo thang mà Mỹ sẽ phải sẵn sang đối phó bằng cách phối hợp chặt chẽ với các đồng minh và đối tác. Các nhà nghiên cứu chính trị Mỹ cho rằng sự bất ổn ngày càng gia tang của khu vực và sự thay đổi các hình thức can thiệp của Mỹ đã khiến Quốc hội Mỹ phải yêu cầu Lầu Năm Góc nghĩ đến việc cải cách bộ máy sao cho linh hoạt và hiệu quả để đáp ứng các yêu cầu cảu CENTCOM (thường xuyên tăng cường quân sự để chống Iran – được coi là “mối đe dọa sắp xảy ra”), cũng như trong bối cảnh của các ưu tiên toàn cầu mới của Mỹ.

Theo phân tích của các nhà nghiên cứu chính trị Dalton và Karlin, quân đội Mỹ sẽ không rời khỏi Trung Đông hoàn toàn, nhưng điều quan trọng là chiến lược phòng thủ quốc gia của Mỹ tập trung chủ yếu vào Iran, Nga và Trung Quốc, và do đó sự hiện diện của họ tất nhiên hạn chế hơn nhưng mang tính chiến lược hơn. Theo Matthieu Rey, không hề có chuyện “rút lui” sự hiện diện của Mỹ trong khu vực (và đặc biệt ở Iraq), mà đúng hơn là sự tái triển khai các lực lượng đóng trên thực địa. Từ 10 năm qua, Mỹ tự xác định mình là trọng tài của một không gian mới mà họ chỉ muốn can thiệp máy bay không người lái và đường hàng không, điều này đặc biệt được nhận thấy trong cuộc xung đột ở Libya và Syria. Hơn nữa, một thách thức an ninh lớn đối với Mỹ vẫn là cuộc chiến chống khủng bố trong khu vực, tiếp tục và tăng cường một chính sách tập trung đối phó với các nhóm vũ trang. Việc tiêu diệt Bin Laden và việc sử dụng ồ ạt các máy bay không người lái (cho một cuộc chiến chống khủng bố có mục tiêu) minh họa cho chiến lược này. Như quan chức Lầu Năm Góc James H. Anderson đã phát biểu trước Quốc hội Mỹ vào tháng 5/2020: “Các mục tiêu chiến lược của Mỹ là đảm bảo rằng khu vực này không phải là thiên đường dành cho những kẻ khủng bố, không bị khống chế bởi bất kỳ thế lực nào thù địch với Mỹ, và góp phần vào một thị trường năng lượng toàn cầu ổn định”. Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi Afghanistan, Tổng thống Biden đã dự tính tiếp tục các hoạt động chống khủng bố nếu nhận thấy vẫn còn các mối đe dọa ở nước này. Tuy nhiên, theo một báo cáo của Nhóm Khủng hoảng quốc tế ngày 17/9/2021, vẫn chưa rõ liệu Chính quyền Biden có tiếp tục chính sách chống khủng bố kế thừa từ các chính quyền trước đây hay sẽ đoạn tuyệt với quá khứ. Các nhóm thánh chiến đã trải qua một quá trình phát triển mạnh mẽ trong hai mươi năm qua, hàng ngũ của họ đã phát triển trong thời kỳ này và không còn phân tán như trước. Nhưng Mỹ cũng đã phát triển khả năng phòng thủ mạnh mẽ hơn trước những bất ổn quốc tế. Tuy nhiên, chính sách chống khủng bố của Biden cho đến nay dường như không rõ ràng, thậm chí không nhất quán.

Như vậy, 20 năm sau vụ tấn công ngày 11/09/2001 và 10 năm sau khi các biệt kích Mỹ tiêu diệt Osma Bin Laden, Chính phủ và Quốc hội Mỹ cần tự hỏi liệu lực lượng quân sự Mỹ có còn là công cụ cần thiết chống khủng bố, và trong bối cảnh nào. Theo nhiều nhà phân tích, các nhà lãnh đạo chính trị Mỹ phải xem xét lại khuôn khổ pháp lý đã tạo nền tảng cho cuộc chiến chống khủng bố.

(còn tiếp)

Nguồn: www.frstrategie.org

TLTKĐB – 16/04/2022

Tương lai sự can dự của Mỹ ở Trung Đông – Phần I


Sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/09/2001, Quốc hội Mỹ đã ra một đạo luật Ủy quyền sử dụng lực lượng quân sự (AUMF), cho phép Tổng thống George W. Bush tiến hành các hoạt động quân sự “chống lại các quốc gia, tổ chức hoặc những người lên kế hoạch, ủy quyền, thực hiện hay hỗ trợ” các cuộc tấn công này. Kể từ thời Obama, ảnh hưởng quân sự của Mỹ trong khu vực đã thu hẹp đáng kể, thay vào đó, Washington chuyển hướng sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Do đó, sự hiện diện quân sự của Mỹ (tập trung chủ yếu ở Qatar, Bahrain, Kuwait, Saudia Arabia, Thổ Nhĩ Kỳ, Afghanistan và Iraq) đã giảm dần, từ 70.000 quân vào năm 1990 xuống còn khoảng 30.000 quân trước khi rút khỏi Afghanistan và 16.000 sau khi rút quân. Nhiệm kỳ của Donald Trump, được đánh dấu bằng một chính sách kép gây sức ép tối đa lên Iran và hỗ trợ không giới hạn các đồng minh (Saudi Arabia, đặc biệt là Israel), tái tập trung hành động của Mỹ vào các ưu tiên quan trọng, nhưng không vì thế mà thể hiện quan điểm rõ ràng về các cuộc xung đột khác nhau trong khu vực. Thách thức hiện nay đối với sự can dự của Mỹ là tiếp tục bảo vệ các lợi ích kinh tế, chính trị và ngoại giao của Mỹ trước những bất ổn và cạnh tranh địa chính trị. Quả thực, giá dầu thô giảm, các cuộc nội chiến và chiến tranh giành ảnh hưởng (Syria, Libya, Yemen…), mối đe dọa khủng bố, các cuộc nổi dậy của quần chúng và cuộc khủng hoảng y tế đã đe dọa những lợi ích này. Sự can thiệp của Mỹ ở Trung Đông đã phát triển đáng kể kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, chuyển từ chủ nghĩa can thiệp chính trị-quân sự sang một sự tái định vị phức tạp hơn. Các chuyên gia Mỹ có thể phân tích như thế nào về hành động của Mỹ ở Trung Đông trong 10 năm qua? Bài phân tích này nhằm làm nổi bật các cuộc tranh luận của các chuyên gia Mỹ liên quan đến chiến lược chính trị và quân sự hiện tại của Mỹ ở Trung Đông, cũng như ảnh hưởng thực sự của Mỹ trong khu vực.

Sự kết thúc ảnh hưởng và chủ nghĩa can thiệp của Mỹ?

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và chiến dịch “Bão táp sa mạc” do Mỹ tiến hành dưới sự ủy nhiệm của Liên hợp quốc, nước này lại ở trong một trạng thái ba quyền chưa từng có. Vị thế này đã cho phép Washington áp đặt một vai trò lãnh đạo nhất định trong khu vực và ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa các nhà nước ở Trung Đông (và xa hơn nữa). Nhưng kể từ sau vụ tấn công ngày 11/09/2001, Mỹ tập trung ít hơn vào việc giám sát địa chính trị khu vực, và dành sự quan tâm nhiều hơn tới các lợi ích an ninh trong và ngoài nước. Mục tiêu rất rõ ràng: Tiến hành “cuộc chiến chống khủng bố” và xác định một “trục ma quỷ” bao gồm Iran, Iraq và Triều Tiên. Đối với Iran, một trong những thách thức của Mỹ là chống lại ảnh hưởng của Iran trong khu vực. Đối với Iraq, một mục tiêu vào năm 2003 của Mỹ là loại bỏ chế độ Saddam Hussein (bị cáo buộc – không có bằng chứng xác thực – sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt và hỗ trợ khủng bố) và mang lại mọt nền dân chủ. 20 năm sau, kết quả rất hạn chế.

Những can thiệp của Mỹ đã không đạt được mục tiêu về ổn định, an ninh và phát triển

Ngay từ năm 2008, các nhà ngoại giao Richard N. Haass (dưới nhiệm kỳ của Tổng thống George W. Bush từ 2001 – 2003) và Martin S. Indyk (dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, từ 1997 – 2001) đã khẳng định sự cần thiết phải thay đổi chiến lược ở Iraq sau thất bại của cuộc tấn công nước này vào năm 2003 – một trong những chủ đề gây phân cực nhất trong đời sống chính trị Mỹ đương đại. Thực vậy, các nghị sĩ cả trong đảng Dân chủ lẫn đảng Cộng hòa cũng bất đồng về những lý do dẫn đến cuộc chiến ở Iraq, tác động thực sự của sự hiện diện của Mỹ và những cách thức rút quân khỏi Iraq. Chẳng hạn, theo Haass và Indyk, Mỹ cần phải rút quân hỏi Iraq và chấm dứt sự hiện diện ở nước này nhưng vẫn duy trì mối liên hệ với các nhà ra quyết định của Iraq để tiếp tục đảm bảo những lợi ích Mỹ. Họ đề nghị, để tránh một cuộc nội chiến mới với bối cảnh căng thẳng tôn giáo sắc tộc và để duy trì sự ổn định nhất định trong nước, cần thiết lập một hệ thống ngừng bắn tương tự như hệ thống được áp dụng ở Bosnia và Kosovo. Như vậy, việc rút quân cần diễn ra từ từ, bởi chính người dân Iraq cũng cần một sự hỗ trợ nhất định từ phía Mỹ để đảm bảo an ninh và ổn định của đất nước.

Về vấn đề Syria, chiến lược Mỹ theo đuổi từ những năm 1970 đã thất bại. Thứ nhất, việc Damascus từ chối công nhận Israel đã góp phần làm sứt mẻ mối quan hệ Mỹ – Syria. Thứ hai, vì chế độ này đã đánh đồng các lợi ích của nhà nước Syria với các lợi ích riêng của gia đình Assad, sự tồn vong của chế độ đã nhanh chóng được coi là đối lập với các lợi ích khu vực của Mỹ và Israel. Chính vì vậy, tính hợp pháp và vị thế trong khu vực của chế độ Assad tùy thuộc vào việc nước này từ chối công nhận Israel và do đó, Syria tham gia các liên minh đi ngược lại những lợi ích của Mỹ. Thực vậy, từ nhiều thập kỷ qua, Syria và Iran đã cản trở những lợi ích của Mỹ bằng cách đỡ đầu các nhóm vũ trang chủ yếu (như Hezbollah, Hamas…) chống lại nền hòa bình Arab-Israel.

Theo Tamara Cofman Wittes, nhà nghiên cứu tại Viện Brookings, thách thức thực sự đối với chính sách của Mỹ ở Trung Đông là chấm dứt thời kỳ dài can thiệp ở Iraq và Afghanistan, bằng việc rút quân dần dần, bất chấp những rủi ro và tốn kém. Bởi vì như cuộc can thiệp cho thấy dù Mỹ đầu tư nhiều hơn vẫn không giúp ích gì cho sự ổn định, dân chủ hóa và phát triển của khu vực. Các bài phát biểu của Obama về chính sách của Mỹ ở Trung Đông (2009 – 2016), mà các mục tiêu đã không đạt được, đã minh họa cho sự thất bại này. Bài diễn văn của Obama tại Cairo (2009) đã nhắc lại sự ủng hộ lâu dài của Mỹ đối với nền dân chủ được coi như một chế độ phù hợp nhất để phục vụ ý nguyện của quần chúng và sự ổn định. Với quan điểm này, Chính quyền Obama đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa tân bảo thủ của Bush Quả thực, việc đề cao các giá trị dân chủ bởi một chính quyền vừa mới nhậm chức đã nhằm trước hết tạo ra sự khác biệt với chính quyền tiền nhiệm, để rồi xây dựng một chiến lược thực sự cho khu vực. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát đã giải thích quan điểm của Obama là mong muốn duy trì hiện trạng và không thay đổi. Trên thực tế, việc nhấn mạnh dân chủ trong các bài phát biểu của Obama đã bị dư luận ở nhiều nước trong khu vực coi là mang dấu ấn của một chủ nghĩa tân đế quốc từng dẫn đến các cuộc nổi dậy dân sự, bạo lực và bất ổn.

Những giới hạn ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông có thể được nhận thấy ngay cả trong quan hệ Mỹ – Israel đã không chấm dứt các hoạt động thực dân hóa trong các lãnh thổ Palestine, bất chấp việc uy tín của họ bị giảm sút trong dư luận Mỹ (tỷ lệ ủng hộ từ 62% năm 2017 rơi xuống 58% năm 2021). Một sự kiện đặc biệt làm xáo trộn mối quan hệ Mỹ – Israel – khi Chính quyền Obama bỏ phiếu trắng đối với Nghị quyết 2334 ngày 23/12/2016 lên án các khu định cư của Israel tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Hành động này đã không cho phép nối lại tiến trình hòa bình và giải pháp hai nhà nước cho cuộc xung đột Israel-Palestine, cũng như không khẳng định ảnh hưởng của Mỹ đối với đồng minh Israel. Tuy nhiên, nó đã cho Mỹ thấy những giới hạn ảnh hưởng và quyền lực mềm của họ ở Trung Đông và đặc biệt nhiều rào cản từ lâu đã làm phức tạp các sáng kiến ngoại giao của nước này. Sự suy giảm ảnh hưởng của Mỹ ở Trung Đông đã dẫn đến một lập trường thực tế hơn trong khu vực, Washington bằng lòng với việc duy trì các thể chế đã có, thay vì thúc đẩy nền dân chủ tự do.

Một báo cáo chung hồi tháng 6/2020 của Viện Brookings và Ngân hàng Thế giới (WB) đã nói đến những trở ngại mà Mỹ đã gặp phải trong các dự án hỗ trợ nhân đạo, ổn định và phát triển kinh tế. Thứ nhất, các nỗ lực ổn định, tái thiết và phát triển kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã không đánh giá được các động lực chính trị, kinh tế và xã hội ở mỗi giai đoạn lập kế hoạch, đôi khi có thể dẫn đến xung đột dân sự, như trường hợp ở Iraq. Sự hỗ trợ và phối hợp quốc tế mà Mỹ mang lại sau Mùa Xuân Arab để giải quyết các cuộc xung đột, khôi phục sự ổn định khu vực và trợ giúp những người tị nạn là không đủ. Cấu trúc toàn cầu được tạo ra sau Chiến tranh thế giới thứ hai để hỗ trợ các quốc gia trong những trường hợp như vậy đã không thể ngăn chặn, giảm thiểu hay giải quyết các cuộc xung đột.

Một yếu tố khác là trật tự quốc tế từ nay được thiết lập trong bối cảnh cạnh tranh giữa Washington và Bắc Kinh. Hơn cả một cuộc cạnh tranh kinh tế, đó thực sự là hai tầm nhìn đối lập nhau về trật tự thế giới. Trong khi dư luận các nước Arab nhìn nhận hoài nghi về viện trợ phát triển và nhân đạo của Mỹ (chỉ 18% công dân ở Bắc Phi và Trung Đông tin rằng viện trợ của Mỹ được thúc đẩy bởi mong muốn phát triển kinh tế), Trung Quốc vẫn duy trì tiếng tăm là một nước không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, điều này tạo lợi thế cho mô hình phát triển của Trung Quốc đối với các nền kinh tế mới nổi.

(còn tiếp)

Nguồn: www.frstrategie.org

TLTKĐB – 16/04/2022