Những mùa trong cuộc đời – Phần IV


Sự lão hóa của thế hệ biến nhịp điệu của quá khứ thành nhịp điệu của tương lai. Nó giải thích tại sao mỗi thế hệ không chỉ được lịch sử định hình mà sau đó còn định hình lịch sử. Nó kiểm soát tốc độ thay đổi xã hội. Nó kết nối cuộc sống giữa sự gắn bó mật thiết về tiểu sử với lịch sử trong sự vĩ đại của xã hội hoặc chính trị. Theo tất cả những cách này, thế hệ nằm ở gốc rễ của saeculum.

Nếu kết nối giữa các thế hệ và lịch sử mạnh mẽ như vậy, thì tại sao con người chưa từng biết về nó? Họ biết đấy. Song trong thế giới cổ đại, kết nối bị mờ đi do một sự nhầm lẫn giữa dòng dõi gia đình với các nhóm đồng đẳng. Và trong thời hiện đại, những người ủng hộ sự tiến bộ đã phải miễn cưỡng thừa nhận một sự tác động lực nhịp nhàng sẽ làm suy yếu kế hoạch của họ.

Vào buổi bình minh của lịch sử được ghi chép lại, thế hệ (chứ không phải là ngay hay tháng hay năm) là tiêu chuẩn phổ quát của thời gian xã hội. Khi đưa những huyền thoại của thời tiền sử Aegea vào thơ, các nhà thơ Hy Lạp hồi đầu đã sử dụng những thế hệ tuần tự để đánh dấu sự xuất hiện kế tiếp của Gaea, Uranus, Cronus, và Zeus, Philo, khi viết về huyền thoại ra đời của Phoenicia, đã bắt đầu câu chuyện của mình với Genos, nam thần đầu tiên cầm quyền. Cựu Ước bắt đầu với Genesis, cách vũ trụ được sinh ra, và đo thời gian vĩnh hằng bằng một chuỗi thế hệ, thế hệ này sinh ra và nuôi dưỡng thế hệ tiếp theo. Đồng hồ thế hệ tương tự cũng xuất hiện trong các huyền thoại và truyền thuyết của người Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Celts, Teuton, Slav, và Hindu.

Các xã hội cổ đại thường mập mờ về những gì họ hàm ý trong từ ngữ. Từ gen- trong gốc Ấn – Âu chỉ có nghĩa cụ thể là “đến hoặc sinh ra” hoặc (như một danh từ) bất kỳ thực thể mới nào “được sinh ra”. Áp dụng cho con người, khái niệm rộng này có thể chiếm lấy những nghĩa khác. Một nghĩa là thế hệ gia đình: tất cả những người cùng một cha hay mẹ sinh học sinh ra. Các thế hệ trong gia đình được định ra khi dòng dõi là vấn đề đang được tranh luận, như khi Herodotus nói về “345 thế hệ” của các tu sĩ Ai Cập hoặc bằng những thuật ngữ kiểu như người thừa kế “thế hệ thứ tư”. Một nghĩa khác là thế hệ xã hội: tất cả những người mà tự nhiên hay xã hội sinh ra trong cùng một thời gian. Các thế hệ xã hội được định ra khi toàn bộ một nhóm đồng đẳng là vấn đề đang được quan tâm, như khi Tân Ước nói về “một thế hệ tráo trở” hoặc Hesiod nói về “những thế hệ” của vàng, bạc và đồng.

Một số ít xã hội truyền thống ngại làm rõ các vấn đề do được tổ chức xung quanh những bộ lạc gia đình, nên ít có nhu cầu tìm kiếm một sự khác biệt: Trong giới tinh hoa, mỗi cuộc hôn nhân mới hàm ý về một thế hệ xã hội mới. Bên cạnh đó, những khác biệt lớn về thế hệ thường không nảy sinh trong một bối cảnh truyền thống. Một khi đã phát sinh, chúng chẳng mấy khi quan trọng với hơn hai hoặc ba giai đoạn liên tiếp của cuộc đời. Qua một khoảng thời gian ngắn như vậy chỉ cần nhắc chút ít đến các thế hệ gia đình (cha mẹ của hùng, anh hùng, con của anh hùng) hẳn là đã có vẻ đầy đủ rồi.

Nhưng đến thời hiện đại, điều này đã thay đổi. Người châu Âu bắt đầu tư giác nói về các thế kỷ, đồng thời họ cũng bắt đầu nói rõ về những nhóm đồng đẳng. Trong tâm trạng fin-de-siècle trước Cách mạng Pháp, những lý thuyết về thế hệ xã hội bùng nổ trong bối cảnh đó. Cuộc họp mặt giới văn nghệ sĩ nào ở Paris cũng ồn ào nói (một số liên quan đến Thomas Jefferson) về cách xác định độ dài thời gian và các quyền tự nhiên của mỗi thế hệ.

Hơn 150 năm sau, nhiều bộ óc uyên bác nhất ở phương Tây vẫn gắng sức mở rộng và sàng lọc ý tưởng này. Gần như tất cả họ đồng ý với Auguste Comte rằng trong thế giới hiện đại, các thế hệ đã trở thành những nhà điều hành bậc thầy về nhịp độ thay đổi xã hội. John Stuart Mill chính thức định nghĩa một thế hệ là “một tập hợp mới gồm những người” mà “được giáo dục, trưởng thành từ thời thơ ấu giống nhau, thời thanh thiếu niên giống nhau, và có năm tháng nhiệt huyết nhất trùng nhau phần nào”. Giuseppe Ferrari dựa toàn bộ lý thuyết xã hội của mình vào các phong trào mà ông gọi là “i capi della società, i re del pensiero, i signori della generazione” (những nhà lãnh đạo xã hội, những ông vua tư tưởng, những ông hoàng của mỗi thế hệ). Khi nói về hậu quả trực tiếp của Thế chiến I, Karl Mannheim, José Ortega y Gasset, Franςois Mentré (những người đã đặt ra thuật ngữ thế hệ xã hội trong một cuốn sách cùng tên), và nhiều người khác, có lẽ đã đưa ra nội dung về các thế hệ có sức thuyết phục nhất từng được viết đến.

Cùng với sự ra đời của các lý thuyết mới về tiến bộ, người châu Âu đã trở nên nhận thức sâu sắc về sự khác biệt thế hệ trong đời sống văn hóa và chính trị của mình. Đến cuối thế kỷ 19, tầng lớp ưu tú châu Âu không ngừng huyên thuyên về các thế hệ, mỗi thế hệ được đặt tên theo một năm then chốt được bàn luận đến vốn định hình giới văn sĩ hoặc các nhà hoạt động trẻ, chẳng hạn như các thế hệ (châu Âu) năm 1815 hoặc 1848 hoặc 1870, hay thế hệ (Nga) năm 1820, thế hệ (Pháp) năm 1830, thế hệ (Tây Ban Nha) năm 1898. Thập niên 1920 lần đầu tiên đưa ra khái niệm nghiêm túc về một thế hệ vượt Đại Tây Dương, vì “thế hệ năm 1914” ở châu Âu bị chiến tranh tàn phá và Thế hệ Lạc lõng ở Mỹ bị lẫn vào nhiều quán cà phê Paris giống nhau. Sau Thế chiến I, khi Mỹ đã trở thành một biểu tượng toàn cầu về tiến bộ, thì mối quan tâm của người Mỹ về các thế hệ bắt đầu nhiều hơn hẳn người châu Âu. Kể từ đó, không có nhóm đồng đẳng nào đến tuổi trưởng thành ở Mỹ mà không phải nỗ lực kiên định để đặt tên và mô tả mình.

Kinh nghiệm trên của người Mỹ gốc Âu khẳng định rằng các tiến bộ xã hội càng nhanh thì các vấn đề thế hệ có vẻ càng xuất hiện nhiều hơn. Nhưng đồng thời, một xã hội càng cho mình là hiện đại thì con người trong xã hội đó càng cố kháng cự việc chính thức hóa sự thay đổi thế hệ như một ý tưởng. Trong khi hiện đại là tiến bộ hợp lý hướng tới tương lai, thì các thế hệ giữ vai trò nhắc nhở con người vẫn còn gắn bó nhiều với những dấu tích tiềm thức từ quá khứ của họ. Trong khi hiện đại là kiểm soát xã hội, thì sự thay đổi thế hệ có xu hướng bùng nổ khi đối diện với những người kiểm soát xã hội. Lên đến cùng cực, những cuộc cách mạng chính trị hiện đại đôi khi tìm cách tiêu diệt hoàn toàn các thế hệ bằng cách bêu xấu (hoặc thậm chí là tiêu diệt) những công dân có ký ức do một chế độ “sai” định hình. Hầu hết các nhóm tinh hoa hiện đại chỉ đơn giản là phogn tảo tầm quan trọng lịch sử của các thế hệ bằng một bức tường hoài nghi cao ngất. Bởi không mong chờ thay đổi thế hệ, nên con người có vẻ luôn bất ngờ khi gặp thay đổi này.

Ở Mỹ, cứ khoảng 20 năm lại xảy ra những bất ngờ kiểu này – khoảng thời gian để một thế hệ thanh niên mới đến tuổi trưởng thành (và các thế hệ trước đó bước vào giai đoạn mới của cuộc đời). Khoảng năm 1950, người Mỹ đã ngã ngửa vì thanh niên khi đó không cho thấy sự đoàn kết, tinh thần lạc quan, và tính tích cực chính trị của người lao động CCC [Civilian Conservation Corps] trước chiến tranh. Cuối thập niên 1960, các nhà khoa học xã hội lỗi lạc nhất (từ Margaret Mead đến Kenneth Keniston) đều không lường được cơn giận dữ bất ngờ của những thanh niên được kỳ vọng là vô cùng ngoan ngoãn. Kể từ đầu thập niên 1990, ba sự chuyển đổi giai đoạn trong đời đã diễn ra và được truyền thông ầm ĩ. Hàng loạt hoạt động tưởng niệm Thế chiến II đã khơi dậy chủ đề có tính hoài niệm xem liệu những gì Robert Putnam gọi là “một thế hệ công dân vĩ đại” giờ đây sẽ biến mất hay (như Bob Dole đề xuất) sẽ thực hiện “một sứ mệnh cuối cùng”. Thế hệ Bùng nổ khi bước vào tuổi trung niên đã vượt xa Thế hệ Im lặng trong việc nắm giữ quyền lực quốc gia (Clinton và Gore năm 1992, sau đó là cuộc cách mạng Gingrich và các thành viên mới của Hạ viện năm 1994) trong bối cảnh bàn nhiều đến “những sự thất bại” thay thế cho việc thỏa hiệp. Và khi nhận ra rằng Thế hệ Bùng nổ không còn trẻ, đã sinh ra hàng loạt mối quan tâm (đa số là không phù hợp) dành cho Thế hệ Thứ 13.

Ngày nay, giới chính khách và các nhà tiếp thị đang phát hiện ra những kết quả thành công của việc tiếp thị theo vòng đời. Các tham chiếu thế hệ liên tục xuất hiện trong những quảng cáo truyền hình, bài phát biểu chính trị, phim ảnh, và ngôn ngữ riêng của văn hóa nhạc pop hiện đại. Mặc dù vậy, những hàm ý rộng hơn của khái niệm này tiếp tục bị tầm thường hóa, giống như Bob Dylan, Jim Morrison, hay Kurt Cobain vẫn cho là chẳng có gì để nói về nó cả. Các mối liên hệ của mỗi thế hệ với việc bỏ phiếu và việc mua ô tô được hiểu (và chấp nhận) tốt hơn hẳn so với mối liên hệ sâu sắc hơn của họ với tự nhiên và thời gian. Giới học thuật mới đang dần thấy sự đúng đắn trong đánh giá của sử gia Anthony Esler thuộc Cao đẳng William và Mary rằng “trên thực tế, cách tiếp cận thế hệ có thể là một trong các cách tiếp cận lịch sử toàn diện”.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Những mùa trong cuộc đời – Phần III


Để làm cho minh họa này gần gũi và cụ thể hơn, người Mỹ ngày nay chỉ cần nhớ lại Thế chiến II với những ảnh hưởng sâu sắc đến mọi thế hệ mà nó chạm tới. Hãy nhìn vào bảng sau:

Những thế hệ người Mỹ và Thế chiến II

Thế hệNăm sinhThành viên mẫuMối liên quan của thế hệ với Thế chiến II
CẤP TIẾN1843 – 1859Woodrow WilsonNhững người lớn tuổi trước chiến tranh (những người theo chủ nghĩa đa phương không thành công)
SỨ MỆNH1860 – 1882Franklin RooseveltNhững nhà lãnh đạo lớn tuổi: có tầm nhìn mang tính nguyên tắc
LẠC LÕNG1883 – 1900Dwight EisenhowerNhững tướng lĩnh trung niên: nhà quản lý thực dụng
VĨ ĐẠI NHẤT1901 – 1924John KennedyNhững người lính thanh niên: anh hùng luôn sẵn sàng hành động
IM LẶNG1925 – 1942Michael DukakisNhững đứa trẻ được che chở: người bạn đời đáng kính
BÙNG NỔ1943 – 1960Bill ClintonNhững đứa trẻ sau chiến tranh (đứa trẻ chiến thắng)
THỨ 131961 – 1981Tom CruiseNhững đứa trẻ sau chiến tranh (biểu tượng của đạo đức công dân đã mất)
THIÊN NIÊN KỶ1982 – 2002Lứa 2000Những đứa trẻ sau chiến tranh (mối quan hệ cá nhân cuối cùng)

Thế chiến II đã để lại một ấn tượng lớn đối với vai trò xã hội của mọi người sống vào thời điểm đó. Nó hun đúc người lớn tuổi thuộc Thế hệ Sứ mệnh thành những người có tầm nhìn xa nhất, những tên tuổi đương thời như Henry Stimson, George Marshall, Douglas MacArthur, và Albert Einstein gắn liền với danh hiệu “những người già thông thái” của thời đại, và trong ký ức của người Mỹ, họ hoàn toàn khác với Thế hệ Cấp tiến trước đó. Cuộc chiến giúp Thế hệ Lạc lõng đang ở tuổi trung niên có một việc lớn để hoàn thành, nổi bật là những kỳ tích dũng cảm của một George Patton hay một Harry Truman và làm bén rễ một nhóm đồng đẳng trước đó đã từng sống chậm rãi để ổn định cuộc sống. Chiến thắng cho phép thanh niên Thế hệ Vĩ đại nhất có quyền ngạo mạn như những kẻ chinh phục thế giới, gia tăng danh tiếng để “không yêu cầu” đạo đức công dân và sự chung sức của Đại xã hội, để sau đó thế hệ này có được nhiệm kỳ tổng thống dài nhất trong lịch sử Mỹ. Chiến tranh nuôi dưỡng sự thận trọng và nhạy cảm ở trẻ em Thế hệ Im lặng, cho chúng khoác lên một cá tính mà đã sinh ra mối bận tâm suốt đời gắn với quy trình, công bằng, và thể hiện khéo léo.

Thế chiến II có tác động mạnh mẽ đến xã hội tới mức nó xác định nhiều ranh giới thế hệ. Thế hệ Vĩ đại nhất bao gồm như tất cả những người chứng kiến cuộc chiến này. Ngược lại, Thế hệ Lạc lõng bao gồm những người đủ tư cách tham chiến trong Thế chiến trước đó, và Thế hệ Im lặng là những người nhớ tới chiến tranh với tư cách cá nhân và thậm chí có thể sẵn sàng nhập ngũ nhưng phần lớn là bỏ lỡ hành động tham chiến. Những người đầu tiên thuộc Thế hệ Bùng nổ sinh vào năm 1943, trong đó có “những đứa trẻ chiến thắng” đầu tiên, chúng được nuôi dạy từ đầu với sự lạc quan lớn lao và còn quá nhỏ để nhớ được sự vắng mặt của người cha trong thời chiến.

Trong số các thế hệ sinh ra sau đó, ký ức biểu tượng về cuộc chiến sử thi tiếp tục vang dội, nhưng tiếng vang đã giảm bớt phần nào. Thế hệ Vĩ đại nhất về hưu khi Thế hệ Thứ 13 đến tuổi trưởng thành mà không có anh hùng nào, và bị người lớn phê bình vì đã quên mất cảm giác thời chiến của cộng đồng. Những đứa trẻ Thiên niên kỷ ngày nay sẽ là thế hệ cuối cùng có nhiều liên hệ cá nhân với G.I. Joe và Rosie Thợ tán đinh, mà những giá trị công dân cũ của họ hiện đang được các gia đình, trường học, nhà thờ và phương tiện truyền thông đại chúng nhấn mạnh lại. Vào thời điểm thế hệ tiếp theo xuất hiện, Thế chiến II sẽ chỉ là lịch sự thuần túy, cách xa cuộc sống của họ giống như Nội chiến đối với đứa trẻ của Thế hệ Im lặng.

Điều gì xảy ra khi Sự kiện Lớn và những tiếng vang của nó phai mờ theo dòng chảy thời gian? Trong một xã hội truyền thống, không có gì xảy ra. Không có thêm Sự kiện Lớn nào, những thế hệ dần biến mất. 21 năm sau đó, chỉ có ba thế hệ khác nhau được hình thành nhờ sự kiện này còn tồn tại. Sau 42 năm, chỉ còn hai thế hệ; sau 63 năm, chỉ có những người hồi đó còn trẻ con mới có thể nhớ về nó; và sau 84 năm, chỉ còn một vài tiếng nói khàn khàn còn sót lại để kể lại ký ức cá nhân về những vinh quang trong quá khứ. Sau đó, quán tính xã hội sẽ hích nhẹ con người ở mọi lứa tuổi quay lại vòng đời của thế hệ trước đó. Trong vô số áng sử thi cổ đại, đây là nơi mà bức màn thời gian rủ xuống, đặt dấu chấm hết cho trường thiên tiểu thuyết về chiến công.

Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, những Sự kiện Lớn mới vẫn tiếp tục xảy ra vô cùng đều đặn. Đây là các điểm chí của saeculum: Khủng hoảng và Thức tỉnh. Qua năm thế kỷ trong lịch sử của người Mỹ gốc Anh, không có khảong thời gian nào kéo dài hơn 50 năm (khoảng thời gian bằng hai giai đoạn của cuộc đời) từng trôi qua mà không có sự xuất hiện của một thời kỳ Khủng hoảng hoặc Thức tỉnh. Do đó, mỗi thế hệ đều đã và đang được định hình bằng một thời kỳ Khủng hoảng hay Thức tỉnh ở một trong hai giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, và gặp cả Khủng hoảng lẫn Thức tỉnh vào một số thời điểm trong suốt vòng đời của mình.

Biểu đồ dưới đây cho thấy rõ ràng trường hợp xảy ra với Mỹ trong thế kỷ 20 ra sao:

Từ đỉnh cao của Thế chiến II, hãy chuyển sự chú ý của bạn tới khoảng 40 năm sau đó, vào thời điểm kết thúc Sự kiện Lớn tiếp theo của saeculum, Cách mạng Nhận thức sau chiến tranh. Từ đầu thập niên 1940 đến đầu thập niên 1980, mỗi thế hệ đã già thêm hai giai đoạn cuộc đời. Hai thế hệ (Lạc lõng và Sứ mệnh) trước đó vốn tích cực, giờ đây đã rời khỏi chính trường, và hai thế hệ mới (Bùng nổ và Thứ 13) trước đó chưa sinh ra, giờ đã xuất hiện.

Thời kỳ Thức tỉnh này – nỗi ám ảnh toàn xã hội đối với việc phá vỡ các quy tắc, tôn vinh tinh thần, bỏ rơi kỷ cương xã hội – một lần nữa định nghĩa lại các thế hệ, nhưng theo những cách hoàn toàn không giống như thời kỳ Khủng hoảng trước đó. Quay trở lại Thế chiến II, người 65 tuổi thời đó là nhà đạo đức nhìn xa trông rộng; hiện nay, trong Cách mạng Nhận thức, họ là những người bảo vệ một sự thiết lập duy lý. Trước đây, người 45 tuổi là người theo chủ nghĩa thực dụng ở tuổi trung niên với đồng lương chết đói `và phải lao động cực nhọc; hiện nay, họ là hoa tiêu nhạy cảm của “hành trình” tuổi trung niên. Trước đây, người 25 tuổi là lính mặc đồng phục; hiện nay, họ là người yêu bản thân nhưng thích thuyết giáo. Còn trẻ em? Đã không còn “người hay ra vẻ đạo đức” cho chở; ở vị trí của mình, họ là đứa trẻ tự xoay xở tìm cách trưởng thành.

Cứ khoảng 40 năm, cá tính của từng giai đoạn trong đời trở nên gần như trái ngược với những gì từng được thế hệ trước đó đã đi qua nó thiết lập. Trở lại giai đoạn đầu thời hiện đại, nhịp điệu này lại diễn ra. Trẻ em người Anh sinh ra trong những năm đầu tiên dưới triều đại Nữ hoàng Elizabeth I đã đến tuổi trưởng thành như những nhà xây dựng đế chế đầy tham vọng. Trẻ em sinh ra trong những năm cuối cùng của triều đại này đến tuổi trưởng thành bị ám ảnh với sự linh thiêng. Hai thế hệ sau đó, thanh niên Mỹ thời Cách mạng Vinh quang thích làm việc theo nhóm hơn là thay đổi tôn giáo; thanh niên thời kỳ Đại thức tỉnh lại thích những điều trái ngược. Trong thời kỳ Thức tỉnh Tiên nghiệm, thanh niên đã cố gắng thắp lửa cho những đam mê của tuổi già; trong thời kỳ Khủng hoảng Nội chiến, thanh niên lại dập tắt ngọn lửa của những bậc lão niên. Không đúng khi một số người cho rằng hầu hết các thế hệ đến tuổi trưởng thành đều có thái độ (với cuộc sống, chính trị, văn hóa) tương tự như người lớn tuổi khi còn trẻ. Khi trở lại 500 năm trước, điều này chưa bao giờ xảy ra.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Những mùa trong cuộc đời – Phần II


Tiếp đến là thời trung niên, mùa thu hoạch lớn, được Henry Adams gọi là “Mùa hè Ấn Độ của cuộc đời… một chút nắng và một chút buồn, giống như mùa này”. Thomas Hardy coi thời trung niên là “trung tâm của cuộc đời bạn, chứ không phải là một thời điểm ở bên rìa cuộc đời”. Đó là giai đoạn “thống trị” theo Ortega y Gasset, một độ tuổi khẳng định lối sốn, thực hiện những ý tưởng và ước mơ, hiện thực hóa các dự án và kế hoạch, cố vấn cho thanh niên, thiết lập các tiêu chuẩn cho trẻ em – và như Levinson lưu ý, “nắm giữa lấy quyền lực”. Đây cũng là lúc các cá nhân nhận ra rằng thế hệ của họ không tiếp tục lớn lên nữa. Cảm thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự lão hóa cơ thể, họ nhận ra nhịp sinh học của mình bắt đầu thay đổi. Tuổi trung niên, theo Carl Jung, chính là giai đoạn của “sự cá nhân hóa”, là quãng thời gian khi “các giá trị và kể cả cơ thể của con người có xu hướng thay đổi sang hướng đối lập”.

Thời trung niên bắt đầu lúc nào? Theo nhiều chuyên gia (Browne, Ortega, Jung, Levinson), nó bắt đầu vào khoảng từ 40 đến 45 tuổi. Aristotle viết rằng một người đạt đỉnh cao thể chất ở tuổi 35, đỉnh cao trí tuệ ở tuổi 49; trinh bình ở tuổi 42. Trong hai thế kỷ qua, độ tuổi người Mỹ bước vào giai đoạn trung niên đã giảm dần. Trước Nội chiến, Tổng thống Mỹ mới đắc cử ở độ tuổi trung bình 58; sau đó, độ tuổi này giảm xuống 54. Tổng thống trẻ nhất trong thế kỷ 19 (Ulysses Grant) nhậm chức lúc 46 tuổi. Đến thế kỷ 20, ba Tổng thống (Theodore Roosevelt, John Kennedy, Bill Clinton) đều nhậm chức trong độ tuổi từ 42 đến 46. Các thay đổi lớn xảy ra khi vai trò lãnh đạo được những người mới bước vào độ tuổi 40 đảm nhận: Đầu thập niên 1960, họ có ảnh hưởng hiếm thấy trong chính trị, còn ngày nay họ có nhiều ảnh hưởng hơn về văn hóa.

Đối với hầu hết mọi ngời, cuộc đời kế tthúc vào thời lão niên, mùa đông của cuộc đời, là thời gian để thư nhàn và suy ngẫm, giã từ các nhiệm vụ mệt mỏi trong sự nghiệp và gia đình, trao lại trọng trách cho lực lượng trẻ hơn. Ogden Nash có bài thơ, “Bắt đầu lão hóa/ Hết tuổi trung niên/ Con cháu bây giờ/ Đông hơn bằng hữu”. Song đây cũng là thời gian thiết lập các tiêu chuẩn, truyền đạt lại trí tuệ, phút huy năng lực, và tận dụng những vị trí lãnh đạo cao nhất trong xã hội. Thoát khỏi những gánh nặng mệt nhoài của công việc và gia đình, nhiều người lớn tuổi có thể lui về hậu thuẫn và đóng góp trí tuệ về chiến lược mà xã hội nào cũng cần. Ý tưởng này vẫn hiện diện trong từ senate của chúng ta, bắt nguồn từ senatus trong tiếng La Mã cổ đại với ý nghĩa ban đầu là “một hội đồng người lớn tuổi”.

Ngày nay, tỉ lệ người Mỹ còn sống đến độ tuổi 70 và 80 cao hơn, nhưng các nghi lễ quan trọng đánh dấu sự khởi đầu của tuổi già hiện giờ lại đến sớm hơn hồi quá khứ. Một thế kỷ trước, nghỉ hưu có nghĩa là không còn đủ sức làm việc; bây giờ, nó gợi nên một hình ảnh hoạt động tích cực. 50 năm trước đây, gần hai phần ba nam giới độ tuổi 65 – 69 vẫn đi làm, hiện giờ chỉ còn một phần tư tìm kiếm việc làm. Vai trò xã hội của người lớn tuổi thường thay đổi giữa các thời đại. Từ thập niên 1960 đến thập niên 1990, ảnh hưởng của người lớn tuổi trong chính trị đã tăng lên, nhưng ảnh hưởng của họ trong lĩnh vực văn hóa lại giảm đi tương ứng.

Giống như các mùa, bốn giai đoạn của cuộc đời hòa trộn vào nhau, theo một nhịp điệu cho phép biến đổi. Độ dài của một mùa được xác định bằng quãng thời gian từ điểm chí đến điểm phân, còn độ dài của mỗi giai đoạn trong vòng đời được xác định bằng quãng thời gian từ khi sinh ra đến tuổi vị thành niên bước vào tuổi trưởng thành. Trong xã hội Mỹ ngày nay, sự trưởng thành được ghi nhận lúc 21 tuổi, thời điệm tốt nghiệp đại học và khởi nghiệp. Từ đó trở đi, một người sẽ được coi là người trưởng thành hoàn toàn độc lập. Độ dài của giai đoạn đầu tiên trong đời cũng cố định độ dài của các giai đoạn khác trong đời. Khi lứa trẻ em đến độ tuổi trưởng thành, chíe duy nhất lứa này mới hình thành nên lứa thanh niên của xã hội ngày đó, đẩy lứa nhiều tuổi hơn trước đó vào vai trò xã hội của tuổi trung niên. Ngày nay, điều này xảy ra khi lứa nhiều tuổi hơn đạt tới độ tuổi 42, cũng là độ tuổi tối thiểu của tổng thống được chấp nhận trong lịch sử Mỹ (dù Hiến pháp không quy định). Và đến lượt nhóm bước vào trung niên đẩy nhóm khác vào vai trò của người lớn tuổi, mà hiện bắt đầu từ khoảng 63 tuổi, ngày nay đây là độ tuổi trung bình được nhận khoản trợ cấp tuổi già đầu tiên từ chính phủ.

Do tỉ lệ người có thể sống ở thời lão niên tăng mạnh trong 50 năm qua, nên có lẽ cần xác định thêm một giai đoạn mới của cuộc đời: thời lão niên muộn (84 tuổi trở lên). Vai trò xã hội của người ở thời lão niên muộn chủ yếu là phụ thuộc, tiếp nhận sự an ủi từ người khác. Ngoài việc tiêu thụ tài nguyên, số ít người Mỹ lớn tuổi nhất hiện nay đang làm thay đổi các động lực của bốn giai đoạn trong vòng đời. Nếu số người ở thời lão niên muộn tiếp tục gia tăng, và nếu họ đã từng khẳng định vai trò xã hội tích cực, thì có thể ảnh hưởng của họ lên saeculum (và lịch sử) là đáng kể.

Các giai đoạn và vai trò xã hội trong vòng đời hiện đại của Mỹ có thể được tóm tắt như sau:

+ Thời thơ ấu (pueritia, 0 – 20 tuổi); vai trò xã hội: lớn lên (tiếp nhận sự nuôi dưỡng, tiếp thu các giá trị).

+ Thời thanh niên (iuventus, 21 – 41 tuổi); vai trò xã hội: sống đầy sinh lực (phục vụ cho các tổ chức, thử nghiệm các giá trị).

+ Thời trung niên (virilitas, 42 – 62 tuổi); vai trò xã hội: nắm quyền (quản lý các tổ chức, áp dụng các giá trị).

+ Thời lão niên (senectus, 63 – 83 tuổi); vai trò xã hội: lãnh đạo (lãnh đạo các tổ chức, chuyển giao các giá trị).

+ Thời lão niên muộn (từ 84 tuổi); vai trò xã hội: phụ thuộc (tiếp nhận sự an ủi từ các tổ chức, ghi nhớ các giá trị).

Bốn giai đoạn đầu tiên (từ thời thơ ấu đến tuổi già) tạo thành bốn giai đoạn trong vòng đời con người. Tổng độ dài của bốn chu kỳ này khoảng 84 năm, phù hợp với khoảng thời gian saeculum Mỹ hứa hẹn trở lại với Cách mạng.

Các thế hệ và lịch sử

Quy luật mùa của vòng đời chính là thứ có thể tạo ra các thế hệ. Để hình dung ra điều này, hãy tưởng tượng một xã hội truyền thống trong đó cả bốn giai đoạn cuộc đời được định nghĩa rõ ràng và quy định nghiêm ngặt. Mỗi nhóm vừa bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời đều cố gắng thực hiện vai trò xã hội của mình – lớn lên, sống đầy sinh khí, nắm quyền, và lãnh đạo – đúng như nhóm trước đó vừa thực hiện. Không có thể hệ nào đáng nói đến. Không có kịch bản vòng đời nào độc đáo, và không có quỹ đạo sinh học nào sáng tạo.

Giờ hãy tưởng tượng là xã hội đột nhiên xảy ra một Sự kiện Lớn (theo như Karl Mannheim gọi là một “thời điểm kkết tinh”), kiểu tình trạng khẩn cấp nào đó khiến hậu quả xã hội đầy rẫy, làm biến đổi mọi thành viên của xã hội nhưng theo các cách khác nhau phụ thuộc vào những phản ứng trong giai đoạn cuộc đời của họ.

Đối với trẻ em, phản ứng này có thể cho thấy một sự kính trọng đầy sợ hãi trước người lớn tuổi (và tránh xa họ); đối với thanh niên cầm vũ khí và liều chết với kẻ thù; đối với trung niên, tổ chức quân đội, chỉ đạo hậu phương, và huy động xã hội nỗ lực tối đa; đối với người lớn tuổi, thiết lập chiến lược và làm rõ mục đích lớn hơn. Áp lực của Sự kiện Lớn để lại dấu ấn cảm xúc khác nhau theo từng vai trò xã hội được kêu gọi đảm nhiệm – những khác biệt lại được củng cố qua tương tác xã hội trong mỗi nhóm. Trẻ em phản chiếu nỗi sợ hãi của nhau, thanh niên phản chiến lòng dũng cảm của nhau, trung niên phản chiếu năng lực của nhau, và người già phản chiếu sự thông thái của nhau.

Nếu Sự kiện Lớn được giải quyết thành công, nó sẽ lưu truyền lại dấu ấn trong ký ức của con người ở các giai đoạn cuộc đời một vị trí duy nhất trong lịch sử – và một cá tính thế hệ. Đặc biệt, nó ghi dấu thanh niên như những anh hùng tập thể, mà sau này sẽ có vô số huyền thoại vĩ đại xoay quanh họ. Khi thế hệ anh hùng này đến độ tuổi trung niên, các nhà lãnh đạo của thế hệ này thể hiện sự kiêu căng lớn hơn thế hệ trước đó. Khi về già, họ lại có thêm nhu cầu được công chúng tán thưởng. Trong khi đó, thế hệ nối tiếp họ – những đứa trẻ run rẩy trong Sự kiện Lớn – mang một tính cách khiêm nhường hơn khi bước vào các giai đoạn sau của vòng đời, vai trò xã hội của chúng vì thế cũng thay đổi theo cho phù hợp. Các thế hệ sinh ra ngay sau Sự kiện Lớn có khả năng sẽ được nhìn qua những sắc màu hy vọng như những đứa trẻ thời đại vàng son và chiến thắng đã thu được là dành cho chúng. Và Sự kiện Lớn vẫn tiếp tục gây tiếng vang theo thời gian, lần lượt thế hệ này có thể đánh giá các thế hệ sau cho dù họ có đánh giá theo tiêu chuẩn riêng của mình hay không.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Những mùa trong cuộc đời – Phần I


“Trường đời đã định”, Cicero từng viết lúc gần cuối đời mình.”Tự nhiên chỉ có một con đường duy nhất và con đường đó chỉ được đi qua một lần, và mỗi giai đoạn tồn tại lại có đặc tính phù hợp của nó”. Ở mọi nền văn hóa và thời kỳ, ở mọi giai cấp và sắc tộc, trải nghiệm của tuổi già là mẫu số chung cho thân phận của con người. “Từ quan điểm sinh học”, nhà triết học Trung Hoa Lâm Ngữ Đường nhìn nhận, “đời người gần giống như một bài thơ. Nó có giai điệu và nhịp phách, những chu kỳ nội tại phát triển và suy tàn của nó”.

Người xưa làm cho những giai đoạn của Cicero và giai điệu nhịp phách của Lâm Ngữ Đường dễ hiểu bằng cách mô tả sự lão hóa của con người như một chu kỳ mà tự nhiên và xã hội tách biệt thành bốn phần. Đối với một vài xã hội bản địa Bắc Mỹ, cuộc đời trải qua bốn “ngọn đồi” (thơ ấu, thanh niên, trưởng thành, tuổi già), mỗi ngọn đồi ứng với một cơn gió và một mùa riêng, mỗi ngọn đồi có thách thức, cao trào, và chuyển hóa riêng. Với người Hindu, đó là một hành trình qua bốn ashramas, chính là bốn giai đoạn phát triển xã hội và tâm linh. Pythagoras là một trong những nhà tư tưởng phương Tây đầu tiên giải thích cuộc đời như một chu kỳ gồm bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn dài khoảng 20 năm và gắn với một mùa: mùa xuân thơ ấu, mùa hè thanh niên, mùa thu trung niên, và mùa đông tuổi già. Tương tự, người La Mã cũng chia saeculum sinh học thành bốn giai đoạn: pueritia (thơ ấu), iuventus (thanh niên), virilitas (trung niên), và senectus (lão niên).

Trong thời hiện đại, quy luật mùa tứ phần của vòng đời người vẫn không hề thay đổi trong văn học, triết học, và tâm lý học. Nhà xã hội Daniel Levinson viết: “Theo phép ẩn dụ, mọi người đều hiểu những mối liên kết giữa các mùa trong năm với các mùa trong đời người”. Mỗi mùa đều có vị trí cần thiết và có đóng góp riêng cho toàn bộ. Nó là một phần hữu cơ của toàn bộ vòng đời, kết nối và chứa đựng quá khứ lẫn tương lai trong đó”. Tương tự, Carl Jung cũng mô tả, “vòng cung cuộc đời” như là “có thể chia thành bốn phần”.

Chúng ta kết nối vòng đời các mùa của tự nhiên không chỉ để liên kết quá khứ với tương lai của riêng chúng ta, mà còn để đặt cuộc sống riêng của mỗi cá nhân trong một bối cảnh xã hội rộng lớn hơn. Lịch sử hiện đại cũng có những mùa riêng – mùa mưa, mùa nóng, mùa khô, và mùa lạnh. Bây giờ hãy so sánh những gì sẽ xảy ra giữa một nhóm lớn lên trong mùa mưa và trưởng thành trong mùa lạnh, với một nhóm sinh sau lớn lên trong mùa khô và trưởng thành trong mùa nóng. Vì các màu trong lịch sử định hình các mùa trong đời người, nên kết quả là có các thế hệ khác nhau. Cơ bản hơn, vì các mùa trong lịch sử đến và đi theo mô hình cố định, nên các thế hệ cũng nối tiếp theo một mô hình cố định – một chu kỳ lặp lại của bốn nguyên mẫu. Bắt nguồn từ những nét tính cách cổ xưa và huyền thoại lâu đời, mấy nguyên mẫu này kết nối thời gian cá nhân với thời gian xã hội. Sau khi được các mùa trong lịch sử tôi luyện trong thời trẻ, bốn nguyên mẫu tái tạo các mùa đó, theo chính trật tự này, như những thế hệ kế tiếp nhau trải qua cuộc đời.

Hành trình 80 năm

Ralph Waldo Emerson nhận thấy “Không có lịch sử, chỉ có tiểu sử”, ông là người đã lưu ý rằng phần lớn chúng ta chỉ nhớ được rất ít nội dung về những thời gian và những nơi đã xa, ngoại trừ cách mà từng người đối mặt với các thách thức cá nhân trong cuộc sống. Hầu như mọi người đều bắt đầu một hành trình sống với thời hạn dự kiến giống nhau. Hầu như mọi người đều có thể mong đợi trải qua bốn màu cuộc đời với nhiều thứ vẫn giống nhau, vì Pythagoras đã xác định được bộ tứ này từ gần ba thiên niên kỷ trước. Vòng đời có bốn mùa trong thời đại Hy Lạp, La Mã, mỗi mùa kéo dài từ 20 đến 25 năm. Và đến nay đều vẫn đúng.

Tuổi thọ trung bình hiện nay tăng lên nhưng không hề kéo dài các giai đoạn này của cuộc đời. Tuổi thọ tăng lên chủ yếu là nhờ sự giảm mạnh về tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, trẻ em, và thanh thiếu niên. Đối với nam giới hoặc nữ giới, nếu không bị bệnh tật sớm hoặc dinh dưỡng kém, thì tuổi thọ tự nhiên thay đổi rất ít. Cựu Ước tuyên bố rằng “tuổi của chúng ta” là “70” hoặc “80”. Theo các bảng thống kê bảo hiểm, người Mỹ 50 tuổi điển hình ngày nay vẫn có thể mong đợi sinh nhạt lần cuối cùng vào khoảng giữa hai độ tuổi trên. Hơn nữa, một giai đoạn cuộc đời không nhất thiết phải thay đổi chỉ vì nhiều người xung quanh đã hoặc sắp hoàn thành nó. Jung nhận định hợp lý rằng “con người chắc chắn sẽ không thể sống được đến 70 hay 80 tuổi, nếu tuổi thọ này không có ý nghĩa gì đối với loài người”. Ý nghĩa này sẽ không khác nếu 50% chứ không phải 5% tổng số trẻ sinh ra sẽ sống đến 80 tuổi. Tự nhiên mong muốn ít nhất mỗi bộ lạc có một vài người gia, nhưng tự nhiên chẳng đặc biệt quan tâm là có bao nhiêu người như thế.

Điều chủ yếu quyết định độ dài của mỗi giai đoạn cuộc đời không hẳn là xác định độ dài của tuổi thọ thông thường như động lực xã hội và sinh học của sự sống. Trong hơn hai thế kỷ qua, khi tuổi thọ trung bình tăng lên, động lực này đã thật sự thay đổi theo chièu hướng khác. Nó đã thúc đẩy, khiến ba giai đoạn đầu đời ngắn lại chút ít. Điều này đã xảy ra trong khoảng thời gian tương tự, trong đó saeculum cũng đã rút ngắn từ một thế kỷ trọn vẹn xuống chỉ còn 80 đến 85 năm.

Theo định nghĩa, mỗi giai đoạn cuộc đời mang đến vai trò xã hội và hình ảnh cá nhân hoàn toàn mới cho những người bước vào giai đoạn đó. Chúng ta kêu gọi vai trò và hình ảnh này mỗi khi chúng ta nói với ai đó “Sống đúng với tuổi của mình”. Các nhà đạo đức học thế kỷ 17 thậm chí còn đưa ra một học thuyết mà họ gọi là tempestivitas (đúng lúc) để mô tả cách hành xử lý tưởng theo từng mùa trong đời người. Để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự chuyển tiếp giữa các mùa trong cuộc đời, mọi xã hội đều thiết lập những nghi lễ chuyển giao khác nhau, những sự bắt đầu với những nhiệm vụ và đặc quyền mới đi kèm một bản sắc xã hội mới.

Mùa đầu tiên là thời thơ ấu, mùa xuân của cuộc đời, thời gian lớn lên và học tập, lĩnh hội năng lực, chấp nhận bảo vệ, và tiếp thu truyền thống theo yêu cầu của người lớn. Trong lịch sử Mỹ, các hàng rào bảo vệ giữa thời thơ ấu và trưởng thành đôi khi được gia cố (như trong các thập niên 1850, 1920 và hiện nay) và đôi khi bị suy yếu (như trong các thập niên 1890 và 1970). Những cải tiến gần đây trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng và y học nhi khoa đã làm giảm bớt những rủi ro và chấn thương mà trẻ em phải đối mặt một thời, nhưng về cơ bản vẫn chưa thay đổi được vai trò xã hội của trẻ em.

Thời thơ ấu kết thúc bằng nghi lễ chuyển tiếp phổ biến nhất, lễ trưởng thành, được người La Mã gọi là adulescentia (theo nghĩa đen là “chín muồi” hay “rực sáng”). Nhiều xã hội truyền thống thực hiện nghi lễ cho thời điểm này với một chút thử nghiệm đau đớn, sợ hãi, hay cô lập, tưởng niệm cái chết của một người như một đứa trẻ và tái sinh như một người trưởng thành. Ở Mỹ đương thời, sự chuyển tiếp này kéo dài thành một chuỗi sự kiện, mỗi sự kiện lại có mức độ phù hợp từ vị thành niên đến tuổi trưởng thành (bar mitzvah, sự xác nhận, giấy phép lái xe đầu tiên, công việc đầu tiên, lá phiếu đầu tiên, tốt nghiệp trung học và đại học, tách ra ở riêng, đi nghĩa vụ quân sự). Giai đoạn trưởng thành này cũng là khi vị thành niên học cách thay thế sự chấp thuận của cha mẹ bằng sự chấp thuận của bạn bè – một sự thay thế giúp tạo ra một bản sắc thế hệ. Học giả về vòng đời John Schowalter của Đại học Yale ghi nhận: “Con đường từ trẻ con thành người lớn của mỗi người đều phải đi qua một cây cầu của bạn bè đồng trang lứa”. Mặc dù tuổi adulescentia dao động theo tiến trình của lịch sử Mỹ, nhưng xu hướng chung của nó là giảm dần. Trong hai thế kỷ qua, tuổi vị thành niên sinh học (kinh nguyệt lần đầu tiên ở nữ giới và dậy thì ở nam giới) đã giảm khoảng 3 tuổi. Độ tuổi thông thường mà thanh niên bắt đầu đi bỏ phiếu, ký hợp đồng, vay nợ, và gia nhập nền kinh tế thị trường cũng giảm tương ứng.

Bên kia cây cầu của tuổi dậy thì này là thời thanh niên, mùa hè của cuộc đời. Đây là độ tuổi để biến những ước mơ và ý tưởng thành các dự án và kế hoạch, để khởi nghiệp và lập gia đình, để đi lính, để phụng sự xã hội bằng sức lực và nghị lực. Levinson mô tả đây là một mùa vòng đời “bắt kịp những rắc rối và xung đột cảm xúc của thời thơ ấu” nhưng “phải vất vả đối phó với những yêu cầu của gia đình, công việc và cộng đồng”. Trong một số thời kỳ (các thập niên 1880 và 1950), thanh niên bước vào sự nghiệp và hôn nhân khá thông suốt và nhanh chóng; những thời kỳ khác (các thập niên 1920 và 1990), quá trình này lại khó khăn hơn và dài hơn. Độ tuổi kết hôn trung bình và tách ra ở riêng hiện nay tương đối cao – trong khi đó độ tuổi kết hôn và khởi nghiệp vào cuối thập niên 1950 là trẻ nhất trong lịch sử Mỹ. Qua thời gian dài, ngưỡng bắt đầu của giai đoạn này đã rút ngắn phần nào. Chẳng hạn trong suốt thế kỷ 19, độ tuổi trung bình của sinh viên đại học và lính là 20. Vào cuối thập niên 1960, độ tuổi trung bình của sinh viên đại học và lính tham chiến (tại Việt Nam) đều dưới 20 cho cả hai trường hợp – độ tuổi trẻ nhất trong lịch sử Mỹ.

(còn tiép)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Đối phó với những thách thức “vùng xám” trên biển ở Đông Nam Á – Phần cuối


Cần lưu ý rằng các sáng kiến chính của ASEAN về biển Nam Trung Hoa nằm trong nỗ lực xây dựng Bộ quy tắc ứng xử (COC). Trong khuôn khổ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí về việc hoàn tất COC. Mặc dù những tiến triển đạt được sau đó còn khiêm tốn, nhưng đến năm 2017, ASEAN và Trung Quốc đã thống nhất về khuôn khổ cho COC. Năm 2018, ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí về văn bản đàm phán Dự thảo COC duy nhất. Mặc dù tiến trình đàm phán COC chủ yếu thuộc trách nhiệm của bộ trưởng ngoại giao, nhưng việc thực thi COC sau khi văn kiện này được thông qua sẽ trở thành trách nhiệm chủ yếu của các cơ quan quốc phòng của ASEAN và Trung Quốc. Như vậy, COC cũng có thể tác động đến các hoạt động ngoại giao quốc phòng lớn hơn trong khu vực, chứ không chỉ ADMM và ADMM+. Trong văn kiện đàm phán nói trên, Bắc Kinh đề xuất rằng Trung QUốc và ASEAN không nên tổ chức các cuộc tập trận chung với các nước bên ngoài khu vực, trừ khi các bên liên quan được thông báo trước và không phản đối điều này. Nếu điều khoản này được đưa vào COC cuối cùng, thì Trung Quốc trên thực tế có thể phủ quyết các cuộc tập trận của các nước ASEAN với các cường quốc khác như Mỹ. Philippines chỉ trích điều này với việc người đứng đầu Bộ Ngoại giao Philippines nhấn mạnh: “Một thỏa thuận như vậy sẽ là sự ngấm ngầm thừa nhận bá quyền của Trung Quốc… Nói tóm lại, đó là cẩm nang hướng dẫn cách chung sống với một nước bá quyền hoặc cách chăm sóc một con rồng trong phòng khách nhà bạn”. Khi Philippines kết thúc nhiệm kỳ Nước điều phối quan hệ đối thoại ASEAN-Trung Quốc, Ngoại trưởng Philippines Locsin khi đó đã nhấn mạnh rằng các cuộc đàm phán COC không đi đến đâu và Philippines phản đối việc loại trừ bất kỳ cường quốc bên ngoài nào khỏi biển Nam Trung Hoa. Ông khẳng định: “Điều đó sẽ tạo ra phạm vi ảnh hưởng bán hợp pháp đi ngược lại nguyên tắc duy trì sự hữu hảo và tôn trọng giữa tất cả các nước”.

Những vấn đề chính sách cần cân nhắc

Dựa trên những điều được đề cập ở trên, có thể nói nhiều khả năng những thách thức từ chiến thuật ép buộc “vùng xám” sẽ không nằm trong nghị trình của ASEAN. Sự khác biệt về lợi ích an ninh và quan điểm giữa các nước ASEAN sẽ khiến cho việc đạt được sự đồng thuận trên cơ sở nhất trí là nhiệm vụ đầy thách thức. Vì vậy, trong bối cảnh ASEAN phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình đàm phán COC, vai trò của tổ chức này sẽ bị giới hạn ở việc thực thi và đánh giá an ninh hàng hải liên quan đến những sáng kiến như ADI, GMI và GAME.

Do đó, ngoài các sáng kiến riêng của từng nước, các thách thức “vùng xám” trên biển có thể được giải quyết, hoặc ít nhất là kiểm soát, thông qua các diễn đàn bên ngoài ASEAN. Ở cấp quốc gia, các cơ quan chính phủ có liên quan cần tăng cường hiểu biết về “vùng xám” trên biển. Vì “vùng xám” nằm đâu đó giữa hai trạng thái được gọi chung là “chiến tranh” và “hòa bình”, nên các chiến thuật cưỡng ép dưới ngưỡng xung đột vũ trang được cố ý thiết kế nhằm gieo rắc nỗi hoang mang cho kẻ thù về việc nên phản ứng ra sao, cơ chế/giao thức pháp lý nào sẽ được áp dụng, cơ quan nào nên giữ vai trò dẫn dắt và nhiều vấn đề khác. Vì vậy, điều quan trọng là phải có sự đồng thuận quốc gia về khái niệm “vùng xám” và tác động của nó đối với an ninh quốc gia.

Trên thực tế, việc tiếp tục chương trình hiện đại hóa các Lực lượng vũ trang Philippines (AFP), cũng như việc tăng cường nhận thức về lĩnh vực hàng hải (MDA), có ý nghĩa quan trọng đối với Manila. Do các hoạt động “vùng xám” không chỉ liên quan đến quân đội, nên Manila cũng cần phải đẩy mạnh năng lực của Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines (PCG) và các cơ quan thực thi pháp luật hàng hải dân sự khác. Việc không ngừng giám sát và báo cáo về những diễn biến trên biển cũng là nhiệm vụ then chốt. Xét cho cùng, các hoạt động “vùng xám” gia tăng mạnh mẽ vì khả năng phủ nhận chính đáng của các lực lượng được triển khai (chẳng hạn như dân quân biển thuộc Lực lượng vũ trang nhân dân Trung Quốc). Việc liên tục thu hút sự chú ý của dư luận đến các hoạt động của dân quân biển, lực lượng có liên quan đến Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA), có ý nghĩa quan trọng vì điều này có thể giúp làm suy yếu khả năng phủ nhận chính đáng vốn được xem là lợi thế của họ.

Do việc hợp tác cấp ASEAN để giải quyết các thách thức “vùng xám” trên biển có thể sẽ gặp khó khăn, nên sự hợp tác giữa các nước liên quan trong khu vực có thể là lựa chọn thay thế. Chẳng hạn, trong khuôn khổ Kế hoạch hành động (POA) cho việc triển khai quan hệ đối tác chiến lược giai đoạn 2019 – 2024, Philippines và Việt Nam đã nhất trí hợp tác với nhau trong các hoạt động xây dựng năng lực thông qua việc trao đổi thông tin tình báo, trao đổi nhân sự thuộc lực lượng quân sự và lực lượng thực thi pháp luật vì mục đích huấn luyện và đào tạo, cũng như thiết lập quan hệ hợp tác thiết thực và tăng cường chia sẻ các thông lệ tốt nhất trong việc thực thi pháp luật hàng hải và bảo vệ biển giữa các thể chế liên quan. Kiểm soát/đối phó với các chiến thuật ép buộc “vùng xám” trên biển có thể là một lĩnh vực trong việc thực thi những điều khoản này trong POA. Philippines và Việt Nam có thể cùng nhau thu hút sự chú ý của dư luận vào các hoạt động cưỡng ép “vùng xám” của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa, vì hai nước đã bày tỏ sự ủng hộ lẫn nhau khi cả hai đều phải hứng chịu những hành động quyết đoán của Trung Quốc ở biển.

Tương tự, việc xây dựng năng lực giải quyết/kiểm soát các thách thức “vùng xám” có thể là lĩnh vực để hợp tác với đồng minh của Philippines, Mỹ, và các đối tác an ninh khác như Australia và Nhật Bản. Hợp tác đa phương hẹp giữa các nước chung chí hướng trong khu vực cũng có thể được khai thác trong việc đối phó với các thách thức “vùng xám”.

Kết luận

Bài viết này tìm hiểu các cách thức có thể giúp ASEAN đóng vai trò nhất định trong việc đối phó với các thách thức “vùng xám” trên biển. Tuy nhiên, nhiều khả năng những thách thức này sẽ không nằm trong nghị trình của ASEAN. Sự khác biệt về lợi ích an ninh và quan điểm giữa các nước ASEAN sẽ khiến cho việc đạt được sự đồng thuận trên cơ sở nhất trí là nhiệm vụ đầy thách thức. Do vậy, vai trò của ASEAN sẽ bị giới hạn ở việc thực thi và đánh giá các sáng kiến ngoại giao quốc phòng có liên quan. Theo đó, việc giải quyết/kiểm soát các thách thức “vùng xám” phần lớn sẽ phụ thuộc vào các nước có liên quan, cũng như sự hợp tác song phương/đa phương hẹp giữa các nước bên ngoài phạm vi ảnh hưởng của ASEAN.

Nguồn: www.ndcp.edu.ph TLTKĐB – 06/11/2022           

Đối phó với những thách thức “vùng xám” trên biển ở Đông Nam Á – Phần II


Những thách thức đối với ASEAN

Như đã đề cập ở trên, các thách thức “vùng xám” nằm trong số những vấn đề an ninh lớn mà ASEAN và khu vực Ấn Độ Dương-châu Á-Thái Bình Dương rộng lớn hơn đang phải đối mặt. Với việc tiếp tục thúc đẩy vai trò trung tâm của mình trong cấu trúc an ninh đa phương khu vực, ASEAN phải đối mặt với những thách thức nào khi đối phó – hay ít nhất là kiểm soát – các thách thức “vùng xám” trên biển? Thách thức đầu tiên mà ASEAN phải đối mặt là sự khác biệt về lợi ích quốc gia giữa các nước thành viên. Những hành động cưỡng ép “vùng xám” trên biển – và tranh chấp biển Nam Trung Hoa nói chung – đã phơi bày sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN. Xét cho cùng, trong số 10 nước thành viên ASEAN, chỉ có 4 nước đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển này là Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam. Bốn nước này cũng đưa ra các tuyên bố chủ quyền cạnh tranh nhau. Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với cả Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi nhiều phần của Trường Sa nằm trong tuyên bố chủ quyền của Brunei, Malaysia và Philippines.

Mặc dù hầu hết, nếu không phải là tất cả, các nước thành viên ASEAN đều quan ngại về lối hành xử ngày càng quyết đoán của Trung Quốc trong khu vực, nhưng tính toán chiến lược của họ chủ yếu vẫn do các lợi ích quốc gia tương ứng định hình. Trong số 4 quốc gia Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền, hai nước tiền tuyến là Philippines, giáp biển Nam Trung Hoa ở phía Tây, và Việt Nam, giáp biển Nam Trung Hoa ở phía Đông, là những nước bày tỏ quan điểm mạnh mẽ nhất. Cả Việt Nam và Philippines đều sẽ mất đi phần nhiều Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, cũng như các tuyên bố chủ quyền đối với nhiều cấu trúc địa hình ở biển Nam Trung Hoa nếu Trung Quốc thành công làm chủ vùng biển này. Triển vọng này có thể thay đổi tùy thuộc vào cách nhìn nhận của các nước Đông Nam Á lục địa về môi trường an ninh khu vực. Xét cho cùng, phần lớn các nước Đông Nam Á lục địa có nhiều điểm tương đồng hơn với Trung Quốc về địa chính trị. Trên thực tế, vì tranh chấp biển Nam Trung Hoa, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 45 do Campuchia chủ trì năm 2012 không thể đưa ra tuyên bố chung – hiện tượng xảy ra lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN. Cựu Đại sứ Singapore Bilahari Kausikan thẳng thắn nhận định rằng điều này là do Campuchia, trong vai trò Chủ tịch ASEAN, kiên quyết từ chối xem xét bất kỳ văn kiện nào về biển Nam Trung Hoa mà có thể làm phật lòng Trung Quốc, nhà bảo trợ của họ. Mặc dù trên danh nghĩa các nước thành viên ASEAN đã đạt được sự đồng thuận dưới hình thức nào đó về vấn đề này sau sự việc được đề cập ở Campuchia, nhưng sự khác biệt về lợi ích quốc gia và quan điểm giữa các nước thành viên ASEAN xung quanh vấn đề biển Nam Trung Hoa vẫn luôn là một thách thức an ninh lớn.

Sự khác biệt về lợi ích quốc gia dẫn tới thách thức lớn thứ hai: Các nước thành viên ASEAN khó đạt được sự đồng thuận. Cần lưu ý rằng trong ASEAN, sự đồng thuận trên thực tế được định nghĩa là sự nhất trí về việc thực thi quyền phủ quyết của từng nước. Do đó, trong cơ chế hội nhập được thiết kế nhằm củng cố chủ quyền của mỗi nước thành viên và trong nhận thức về sự khác biệt giữa họ, “Phương thức ASEAN” hướng tới hai mục tiêu chiến lược: (1) ngăn chặn xung đột song phương giữa các nước thành viên ASEAN  mà có thể tác động đến sự ổn định khu vực và hoạt động của tổ chức, và (2) tránh những vấn đề gây tranh cãi giữa các nước thành viên và những nước không phải là thành viên của ASEAN mà có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ bên trong tổ chức. Tuy nhiên, là kết quả của tiến trình ra quyết định dựa trên sự đồng thuận, các sáng kiến của ASEAN phần lớn là về các vấn đề không gây tranh cãi và tập trung vào những kết quả dễ đạt được hay những lĩnh vực hợp tác được ví như là “mẫu số chung nhỏ nhất”. Ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin Jr. đã thẳng thắn phàn nàn về sự tê liệt thể chế của ASEAN: “Chúng ta là một nhóm những kẻ luôn nhất trí với nhau về những vấn đề chẳng có giá trị gì”.

ASEAN và an ninh hàng hải

Mặc dù an ninh hàng hải nằm trong nghị trình của ASEAN – đặc biệt là nghị trình Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) – nhưng các thách thức “vùng xám” trên biển chưa phải là chủ đề nổi bật trong các cuộc thảo luận. Tuy nhiên, bất chấp những điểm yếu về thể chế và những mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN, cũng như những động lực của cuộc cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung, ADMM vẫn thông qua một số sáng kiến mà có thể đóng góp khiêm tốn vào việc quản lý căng thẳng ở biển Nam Trung Hoa, và nhìn rộng ra là hỗ trợ những nỗ lực giải quyết các mối quan ngại an ninh truyền thống. Năm 2014, ADMM đã thông qua Đề án xây dựng Kênh thông tin trực tiếp (DCL) – nay được gọi là Cơ sở hạ tầng thông tin trực tiếp ASEAN (ADI) – nhằm mục đích cung cấp một phương tiện lâu dài, nhanh chóng, đáng tin cậy và bảo mật giúp bộ trưởng quốc phòng hai nước ASEAN có thể trao đổi thông tin với nhau để đi đến những quyết định chung trong việc xử lý khủng hoảng hoặc các tình huống khẩn cấp, nhất là những tình huống liên quan đến an ninh hàng hải. Năm 2019, ADMM đã thông qua một đề án mở rộng, ADI sang các nước đối tác của ASEAN.

Năm 2017, ADMM đã thông qua Hướng dẫn tương tác hàng hải (GMI) nhằm xây dựng các biện pháp quản lý tranh chấp hàng hải một cách toàn diện và hiệu quả trên cơ sở xây dựng lòng tin, thực hiện ngoại giao phòng ngừa và quản lý hòa bình căng thẳng có thể xuất hiện ở biển. GMI lưu ý rằng văn kiện này ủng hộ tất cả các thỏa thuận hàng hải hiện có giữa các nước thành viên ASEAN, cũng như giữa những nước này với các nước và tổ chức khác bao gồm cả, chứ không giới hạn ở, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) và Bộ quy tắc ứng xử về các cuộc đụng độ bất ngờ trên biển (CUES). Mặc dù bản chất là tự nguyện, nhưng GMI khuyến khích đối thoại dân sự-quân sự giữa các lực lượng hải quân, lực lượng bảo vệ bờ biển, lực lượng cảnh sát biển với các ngành công nghiệp tư nhân có can dự vào các hoạt động hàng hải. Một trong những hoạt động có thể được tiến hành trong khuôn khổ GMI là thảo luận về các chiến lược, kế hoạch làm việc, đạo luật, báo cáo, quy tắc can dự hiện hành và những thông tin khác liên quan đến an ninh hàng hải, an ninh cảng biển và quyền quá cảnh bằng đường hàng không, cũng như các dạng thức và thủ tục khác. Hơn nữa, ADMM đã mở ra khả năng áp dụng GMI với cả các nước đối tác của ASEAN.

Năm 2018, ADMM ban hành Hướng dẫn tránh va chạm quân sự trên không (GAME). Văn kiện này về bản chất mang tính tự nguyện và không có tính ràng buộc, nhưng nó giúp ngăn ngừa các cuộc đụng độ vô tình giữa các máy bay quân sự đang di chuyển phía trên các vùng biển khơi và đảm bảo khoảng cách an toàn để tránh tạo ra mối nguy hại đối với an toàn hàng không. Để giữ khoảng cách an toàn, các máy bay quân sự nên xem xét toàn diện các quy tắc riêng của nước họ và hướng dẫn quốc tế thích hợp. GAME có 4 phụ lục về việc tuân thủ các quy ước và quy tắc hàng không hiện hành, thông tin liên lạc an toàn và chuyên nghiệp, thực hiện thủ tục bay tiêu chuẩn và khuyến khích sự tin tưởng lẫn nhau khi ở trên không. Mặc dù còn nhiều việc phải làm, nhưng ADI, GMI và GAME có thể góp phần hoàn thiện các cơ chế quản lý khủng hoảng hiện có nhằm ngăn chặn và/hoặc giảm thiểu căng thẳng.

(còn tiếp)

Nguồn: www.ndcp.edu.ph

TLTKĐB – 06/11/2022

Đối phó với những thách thức “vùng xám” trên biển ở Đông Nam Á – Phần I


Các thách thức “vùng xám” nằm trong số những vấn đề an ninh đáng lo ngại mà khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang phải đối mặt. Hoạt động “vùng xám” được định nghĩa là “một nỗ lực hoặc một loạt nỗ lực ngoài khuôn khổ các biện pháp răn đe và đảm bảo trong trạng thái ổn định nhằm đạt được những mục tiêu an ninh mà không phải trực tiếp sử dụng vũ lực trên quy mô lớn. Khi sử dụng chiến thuật “vùng xám”, chủ thể hành động sẽ tìm cách tránh vượt ngưỡng chiến tranh”. Có nhiều dạng chiến thuật ép buộc “vùng xám” khác nhau, bao gồm tuyên truyền và bóp méo thông tin, cưỡng ép chính trị, cưỡng ép kinh tế, tiến hành các hoạt động mạng và hoạt động không gian, hỗ trợ lực lượng ủy nhiệm, khiêu khích bằng các lực lượng do nhà nước kiểm soát. Những chiến thuật này không loại trừ lẫn nhau. Đóng vai trò là công cụ trong cạnh tranh nước lớn, một số dạng chiến thuật “vùng xám” có thể được kết hợp với nhau.

Tập trung vào lĩnh vực hàng hải và sử dụng Thuyết chuyển giao quyền lực (PTT), phần thứ nhất của Tóm tắt chính sách điều hành (EPB) gồm hai phần đưa ra lập luận rằng việc áp dụng các chiến thuật ép buộc “vùng xám” là một trong những nỗ lực của Trung Quốc nhằm làm thay đổi nguyên trạng theo hướng có lợi cho họ. Để đạt được các mục tiêu chiến lược mà không kích động các hành vi thù địch có vũ trang, Bắc Kinh ưu tiên cách tiếp cận từng bước khi thách thức trật tự quốc tế. Đây chính là bối cảnh khiến những thách thức từ các chiến thuật ép buộc “vùng xám” trở thành điểm đáng chý ý trong môi trường an ninh khu vực.

Phần thứ hai của EPB thảo luận cách thức có thể giúp ASEAN đóng một vai trò nhất định trong việc đối phó với những thách thức “vùng xám” trên biển. Ngoài ra, bài viết đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi sau: (1) Những vấn đề phức tạp về chính sách trong việc giải quyết các thách thức “vùng xám” là gì? (2) ASEAN gặp khó khăn gì trong việc xử lý các thách thức “vùng xám”? (3) Các sáng kiến liên quan đến an ninh hàng hải có thể giúp giải quyết những thách thức đó như thế nào? Bài viết đưa ra lập luận rằng trong bối cảnh các động lực địa chính trị đang diễn ra trong nội bộ ASEAN và trong các mối quan hệ đối ngoại của tổ chức này, vai trò của ASEAN trong việc đối phó các thách thức “vùng xám” sẽ bị hạn chế.

Những vấn đề phức tạp về chính sách trong việc giải quyết các thách thức “vùng xám”

Đúng như tên gọi của nó, ép buộc “vùng xám” là hành vi nằm giữa hai trạng thái được gọi chung là “chiến tranh” và “hòa bình”. Với đặc điểm phi đối xứng, mơ hồ và từng bước, việc giải quyết các thách thức “vùng xám” – kể cả trong lĩnh vực hàng hải – bao hàm một số vấn đề phức tạp về chính sách có liên quan đến nhau. Vấn đề trước tiên là việc giải quyết thách thức cho thấy những điểm mạnh và yếu của trật tự quốc tế hiện tại. Một mặt, trật tự quốc tế hậu Chiến tranh thế giới thứ hai nhìn chung tạo ra các tiêu chuẩn tương đối bền vững để ngăn chặn các hành vi gây hấn trắng trợn và bành trướng lãnh thổ. Điều này khiến một số nước phải sử dụng trước các chiến thuật “vùng xám”. Nhưng mặt khác, việc một số nước có dính líu đến những hành động dưới ngưỡng xung đột vũ trang cho thấy hạn chế của trật tự hiện tại trong việc buộc họ phải trả giá cho những hành động cưỡng ép như vậy. Trên thực tế, Trung Quốc đã mở rộng không gian hàng hải ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) thông qua các hành động cưỡng ép “vùng xám”, chứ không phải bằng việc triển khai một chiến dịch vũ trang.

Khi giải quyết các thách thức “vùng xám”, sự mơ hồ vừa phải được duy trì, vừa phải được loại bỏ. Một mặt, việc đối phó với các chiến thuật “vùng xám” đòi hỏi phải phát triển và đầu tư vào các công cụ tương tự như lực lượng bảo vệ bờ biển và lực lượng bán quân sự. Điều này có thể cho phép những nước phải hứng chịu các hành động ép buộc đối phó với các cường quốc xét lại trong “vùng xám”. Nhưng mặt khác, việc đối phó với các thách thức “vùng xám” cũng đòi hỏi phải xóa bỏ sự mơ hồ nhằm bác bỏ quyền không bị quy kết của các bên tham chiến, phơi bày bản chất và tính phi pháp của các hành động của họ, và làm tăng các loại phí tổn khác nhau – phí tổn chính trị, ngoại giao và kinh tế – mà họ phải chịu vì những hành động như vậy. Vấn đề về sự mơ hồ bắt nguồn từ một vấn đề chính sách phức tạp khác mang tính cố hữu – mặc dù các chiến thuật cưỡng ép “vùng xám” nhằm mục đích kiếm lợi từ chiến tranh, nhưng quân đội chỉ là một phần của phản ứng tổng thể.

Trên thực tế, khó có thể ngăn chặn các hành vi cưỡng ép “vùng xám”. Khó khăn địa chiến lược trong việc đối phó với “vùng xám” được diễn giải như sau: “Các cuộc tấn công từng bước buộc các bên bảo vệ nguyên trạng phải cân nhắc các lựa chọn vốn không hấp dẫn. Họ có thể hành động trước và chịu trách nhiệm vì khiến chiến tranh bùng nổ, vì quá mạo hiểm, vì kích động cường quốc xét lại hay vì làm ảnh hưởng đến hòa bình. Hoặc có thể lui về “án binh bất động” hoặc hành động nửa vời vì không muốn phải gánh chịu những phí tổn như vậy. Hoặc có thể làm gia tăng căng thẳng và bị dán nhãn là “kẻ bắt nạt””. Rõ ràng, những người ra quyết định phải đối mặt với những lựa chọn lớn về chính sách.

(còn tiếp)

Nguồn: www.ndcp.edu.ph

TLTKĐB – 06/11/2022           

Những xung đột chiến lược – Phần cuối


Như chúng ta đã thấy trong các ví dụ khác, những tác động của sự chuyển đổi trong ngành xe hơi sẽ không chỉ giới hạn đối với các hãng chế tạo xe mà thôi. Khi các quân cờ domino số tiếp tục ngã, chúng sẽ “treo” nhiều lĩnh vực có liên quan, bao gồm công ty bảo hiểm, nhà cung cấp dịch vụ sửa chữa và bảo trì, hãng xây dựng và cầu đường, cơ quan thực thi pháp luật, và nhà cung cấp hạ tầng. Thậm chí các chính phủ sẽ bị ảnh hưởng, bởi vì nhiều chính quyền địa phương, tiểu bang, và liên bang đều dựa trên những hình thức thuế xe hơi khác nhau.

Như câu chuyện dài Nokia gợi ý, việc kinh doanh cốt lõi của những hãng xe hơi sẽ ngày càng thông dụng hóa khi một lớp phần mềm được tập trung hơn nổi lên. Doanh thu và biên lợi nhuận sẽ xói mòn khi nhu cầu bão hòa và sự tận dụng xe hơi gia tăng. Khi sự khác biệt di chuyển từ phần cứng tới phần mềm và mạng, giờ đây vượt xa tầm điều khiển của các hãng chế tạo, sự bù giá sẽ lao xuống.

Các hãng xe truyền thống có thể làm gì đây? Như với Nokia, hóa ra họ có hai lựa chọn: hoặc thách thức các công ty kết nối trung tâm như Alphabet và Apple, hoặc bắt tay với họ để trở thành nhà cung cấp được chọn và tốt nhất. Cả hai chiến lược đều có thách thức. Chiến lược thứ nhất đòi hỏi cạnh tranh với những thứ giống như Android và iOS, mà chúng đã ở quy mô lớn rồi, và bao gồm các dịch vụ chủ yếu như các nền tảng bản đồ và quảng cáo. Chiến lược thứ hai bao gồm việc chống lại sự phổ dụng hóa của phần cứng xe hơi và các thành phần của nó khi chức năng và sức mạnh thị trường di chuyển tới lớp phần mềm này.

Khi công việc kinh doanh xe hơi truyền thống có vẻ bắt đầu hướng tới tình trạng tiện nghi, một số hãng xe hơi đang nỗ lực tham gia trong các lớp phần mềm và dịch vụ đang nổi lên của nền tảng kỹ thuật xe hơi. Thực vậy, một số hãng chế tạo xe đang chuẩn bị cho mô hình trả tiền cho m6õi lần sử dụng để dùng xe, và vài nhà sản xuất đã mua lại hoặc làm đối tác với những nhà cung cấp xe-hơi-là-dịch-vụ lớn, như với sự đầu tư của GM trong thương vụ thâu tóm car2go của Lyft hoặc Daimler. Vài hãng chế tạo cũng đầu tư vào việc nghiên cứu xe tự hành của riêng họ hoặc làm đối tác với nhà cung cấp bên ngoài. Vấn đề chính là liệu họ sẽ có khả năng để thu thập đủ lợi thế về quy mô, phạm vi, và học tập để cạnh tranh với những tay nhà nghề đó hay không.

Xa hơn việc đầu tư vào sự chuyển đổi và trải nghiệm số với việc kinh doanh mới mẻ, dựa trên dịch vụ và các mô hình vận hành, những công ty chế tạo xe hơi có thể cần làm theo cách mà các công ty kết nối số làm. Và để đạt tới quy mô cần thiết để cạnh tranh, một khi những hãng xe hơi cạnh tranh khốc liệt sẽ cần tái cấu trúc mô hình vận hành và thậm chí gia nhập các lực lượng để tập hợn đủ quy mô.

HERE, nhà cung cấp dịch vụ bản đồ và vị trí chính xác, là một ví dụ thú vị. HERE có nguồn gốc từ Navteq, một trong những công ty lập bản đồ trực tuyến đầu tiên, được mua lại lần đầu bởi Nokia và gần đây là bởi tổ hợp doanh nghiệp Volkswagen, BMW, và Daimler. Cung cấp một bộ phức tạp các công cụ và API nhằm cho phép những nhà phát triển bên thứ ba để phát triển các quảng cáo dựa trên vị trí và các dịch vụ khác, HERE là một nỗ lực bởi những hãng chế tạo xe truyền thống làm việc với nhau để lắp ráp một nền tảng “liên đoàn”. Khi làm như vậy, HERE vô hiệu hóa một điểm thắt cổ chai cạnh tranh tiềm tàng và làm đối trọng với mối đe dọa rõ ràng từ Google và Apple. Tổ hợp doanh nghiệp này có thể đóng vai trò đáng kể trong việc ngăn sự nắm giữ giá trị về xe hơi khỏi bị lật nghiêng hoàn toàn về phía các hãng kỹ thuật số hiện hữu.

Thập niên kế tiếp sẽ đòi hỏi những thay đổi và chuyển đổi quan trọng đối với lĩnh vực xe hơi. Các hãng chế tạo truyền thống không nên đánh giá thấp kỹ năng cạnh tranh và những lợi thế về quy mô, phạm vi, học tập được bộc lộ bởi các công ty kỹ thuật số đang bước vào không gian này. Họ đã chơi trò chơi này trước và hiển nhiên am hiểu hình dạng mới của sự cạnh tranh.

Nơi chúng ta đang tiến tới

Chúng ta đang chứng kiến một thế hệ mới của các mô hình vận hành số đang chuyển đổi ý nghĩa kinh tế và bản chất của việc chuyển giao dịch vụ. Phần mềm, cùng với các kiến trúc lấy dữ liệu và AI làm trung tâm, đang dỡ bỏ những ràng buộc truyền thống về vận hành và cho phép một thế hệ mới của mô hình kinh doanh đi ngang qua các ngành nghề. Điều này đang chuyển biến sự cạnh tranh, và chúng ta đã thấy chứng cớ của một thế giới kẻ-thắng-đoạt-tất-cả và tập trung hơn đang nổi lên trong một số thị trường truyền thống. Và khi những xung đột tăng gấp bội xuyên suốt nền kinh tế, các ngành khác nhau trở nên ngày càng kết nối với nhau, thông qua cơ cấu số mới mẻ, tồn tại ở khắp nơi. Toàn bộ nền kinh tế của chúng ta đang bắt đầu giống với một mạng khổng lồ được kết nối, ở mức độ cao đang hợp nhất quanh một số nhỏ các siêu năng lực kỹ thuật số.

Một thế hệ công ty kết nối trung tâm đã nổi lên – những thứ giống như Alphabet/Google, Amazon, Baidu, Facebook, Microsoft, Tencent, và Alibaba. Xa hơn việc thách thức một số đối thủ truyền thống, những mô hình vận hành đã làm cho các công ty kết nối trung tâm có thể giữ vị trí ngày càng trung tâm trong nền kinh tế, rồi vươn ra để kết nối và bố trí những ngành khác nhau theo truyền thống. Trong khi tạo lập giá trị thực cho người dùng, những công ty này cũng nắm giữ một phần giá trị phát sinh to lớn và đang mở rộng, chúng đang định hình tương lai chung của chúng ta.

Xa hơn việc chi phối những thị trường riêng biệt, các công ty kết nối trung tâm hiện được đặt trong tư thế sẵn sàng để tạo và điều khiển những kết nối chủ yếu trong các mạng chính. Hệ điều hành Android đang hình thành một điểm thắt cổ chai cạnh tranh vượt xa ngành điện thoại, đang làm chủ sự truy cấp tới hàng tỷ người tiêu dùng mà các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ khác mong muốn vươn tới. Các thị trường của Amazon và Alibaba kết nối số lượng bao la người dùng với số lượng bao la của các hãng bán lẻ và công ty sản xuất. Nền tảng nhắm tin WeChat của Tencent tập hợp một tỷ người dùng trên toàn cầu và cung cấp một nguồn truy cập then chốt của người tiêu dùng cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến, giải trí, vận tải, và những dịch vụ khác. Alibaba đang kết nối các giao dịch thương mại điện tử với việc chấm điểm tín nhiệm, quản trị đầu tư, và những khoản vay, tất cả đều ở quy mô chưa có tiền lệ.

Người dùng càng tham gia những mạng này, thì nó càng trở nên thu hút (và thậm chí mang tính chất bắt buộc) đối với các doanh nghiệp để đưa ra sản phẩm và dịch vụ thông qua chúng. Bằng cách thúc đẩy lợi tức tăng theo quy mô, phạm vi, và học tập, những siêu năng lực số này có thể kiểm soát những điểm thắt cổ chai cạnh tranh chủ yếu, trích xuất giá trị thiếu cân đối, và làm nghiêng cán cân cạnh tranh toàn cầu, như được đề nghị trong hình 7-. Như chúng ta đều đang chứng kiến, các ẩn ý đi xa hơn nền kinh tế.

Hình 7 – 3

Tốc độ các quá trình truyền thống đang bị kỹ thuật số thay thế hiện đang tăng nhanh tới mức người ta bắt đầu cảm nhận được sức ép cực kỳ lớn. Sự giới thiệu các nền tảng phần mềm đã cung cấp xung lực ban đầu, nhưng các công nghệ đang trở nên đủ phức tạp để vượt quá nhanh chóng những ứng dụng phần mềm tương đối đơn giản. Tác động của dữ liệu, phân tích dữ liệu, và AI thì chỉ đang dốc lên và có những cách để đi. Và khi kỹ thuật số xung đột ngày càng tăng với những khía cạnh khác nhau của nền kinh tế, xã hội chúng ta, số phận của Nokia đang đe dọa những ngành khác nhau như truyền thông và ngân hàng, xe hơi và du lịch. Sau một trăm năm lịch sử, những công ty như Marriott và Hilton hiện đang đầu tư để thúc đẩy sự chuyển đổi quan trọng, đang tích hợp những tài sản dữ liệu khác nhau, đang phát triển các năng lực trong việc phân tích dữ liệu và AI, và đang làm việc tận lực để tái cấu trúc các mô hình vận hành kinh doanh truyền thống.

Xa hơn việc định hình số phận của những hãng truyền thống, tác động của những xung đột này đang được cảm nhận qua toàn bộ nền kinh tế cũng như vào hệ thống chính trị và xã hội của chúng ta. Khi những ngành khác nhau ngày càng hợp nhất thành một mạng khổng lồ, sự tập trung của giá trị và thông tin không chỉ tạo cơ hội mà còn phát sinh những vấn đề mới. Từ sự xói mòn tính riêng tư của người dùng tới việc nổi lên ngày càng nhiều mối đe dọa mạng, và từ những chiến dịch thông tin sai lạc tới bất bình đẳng kinh tế, sự lan truyền của các mô hình vận hành số đang gây ra một phạm vi của những mối đe dọa mới.

Khi suy nghĩ về vai trò đang tiến hóa, các quản trị viên sẽ nhờ người ta vạch ra công việc cho họ trong nền kinh tế số ngày càng tăng.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Marco Iansiti & Karim R. Lakhani – Cạnh tranh trong thời đại AI –  NXB TH TPHCM 2021

Những xung đột chiến lược – Phần IV


Bán lẻ

Thành lập năm 1994 với sự nổi lên của mạng thông tin toàn cầu, Amazon nằm trong số những hãng bán lẻ trực tuyến đầu tiên. Các mô hình vận hành “bán lẻ điện tử” ban đầu như của Amazon, drugstore.com, JD.com, hoặc ngay cả Pets.com đã số hóa các giao dịch mua hàng và chuyển chúng trên mạng. Theo thời gian, các hãng bán lẻ trực tuyến đã phát triển thành những nền tảng bán lẻ kỹ thuật số thực sự, với Amazon đang lao vào, tăng quy mô thị trường và kết nối tới hàng ngàn thương nhân bên thứ ba. Điều đó tạo nên quy mô và phạm vi chưa có tiền lệ qua hàng ngàn loại sản phẩm. Như đã mô tả, Amazon đã tái cấu trúc mô hình vận hành của riêng nó để tổng hợp dữ liệu và chia sẻ các thành phần phần mềm – tái thiết kế nền tảng vận hành mạnh mẽ, lấy dữ liệu làm trung tâm và thúc đẩy sự chuyển đổi dữ dội trong trải nghiệm bán lẻ.

Các hãng bán lẻ truyền thống đã đương đầu khá tốt với thế hệ bán lẻ trực tuyến đầu tiên, bởi vì sự chuyển đổi đó là tương đối giới hạn. Thiếu dữ liệu và quá trình phân tích dữ liệu trên phạm vi rộng và bị thắt cổ chai bởi chuỗi cung ứng truyền thống, các hãng bán lẻ trực tuyến đã không phát sinh những hiệu ứng mạng hoặc học tập đáng kể. Cuối cùng thì những hãng giống như Pets.com và drugstore.com đã không phục vụ nhu cầu duy nhất của khách hàng tốt hơn một chút nào so với một cửa hàng truyền thống. Có thể cung cấp trực tuyến đủ loại hàng hóa mà thiếu sự cá nhân hóa thì khó để khách hàng duyệt xem, và riêng nhân viên trong cửa hàng nếu được huấn luyện tốt thì có thể khá hữu hiệu. Và mối đe dọa lớn hơn là mô hình vận hành được tái cấu trúc, lấy dữ liệu và phần mềm làm trung tâm, mà những công ty như like JD.com và Wayfair đã mô phỏng.

Sự chuyển đổi này bao gồm nhiều thứ hơn là chỉ chuyển sang các giao dịch trực tuyến. Nó đòi hỏi cách tiếp cận vận hành khác biệt một cách căn bản dựa trên sự hiểu biết hợp nhất về khách hàng, lấy dữ liệu và AI làm trung tâm, đưa ra một cách thức để cá nhân hóa trải nghiệm bán lẻ không chỉ trực tuyến mà còn ngoại tuyến (chẳng hạn, như chúng ta thấy trong thương vụ mua lại Whole Foods Market của Amazon). Chuỗi cung ứng bán lẻ nên lấy phần mềm làm trung tâm, triển khai nhân công, không phải trong cốt lõi của quá trình mà ra ngoài rìa (chẳng hạn, để họ lấy những sản phẩm bị biến dạng, móp méo ra khỏi kệ hàng), một hành động mà nó đã dỡ bỏ những điểm thắt cổ chai truyền thống và các ràng buộc về quy mô. Khoảng cuối những năm 2010, cơn hủy diệt mang tên bán lẻ với toàn bộ sức mạnh đã san bằng nhiều loại đối thủ truyền thống khác nhau, bao gồm Toys “R” Us, Sports Authority, Nine West, Brookstone và còn nữa.

Sự thấu hiểu rút ra từ ngành bán lẻ chính là đưa hoạt động kinh doanh lên mạng không nhất thiết lật đổ một kẻ khổng lồ truyền thống trong ngành. Sự khác biệt là có một kiến trúc vận hành lấy phần mềm và dữ liệu làm trung tâm. Chính là chỉ sau khi một số hãng bán lẻ trực tuyến hiểu được điều đó, ngành này đã thực sự chuyển hóa.

Giải trí

Tổ chức đầu tiên cạnh tranh bằng chiêu thức sử dụng mô hình vận hành lấy dữ liệu và phần mềm làm trung tâm để xung đột thành công với ngành giải trí lẽ ra đã là Napster. Dịch vụ này đã cho phép người ta số hóa và chia sẻ âm nhạc trực tuyến miễn phí – không có bất cứ khoản thanh toán thông thường nào tới những người chơi khác nhau trong ngành âm nhạc. Khi nổi lên vào cuối những năm 1990, Napster được giới thiệu âm là một dịch vụ. Dù rất phổ biến, Napster bị quấy nhiễu bởi những rắc rối về pháp lý và đóng cửa vào năm 2001. Sau Napster, Apple Music, Spotify và những hãng khác đã khuấy động những xung đột mới với các công ty phân phối âm nhạc truyền thống, chuyển đổi ngành kinh doanh này và các mô hình vận hành về phân phối âm nhạc tại Hoa Kỳ và xa hơn nữa.

Các xung đột trải dài từ nội dung âm nhạc tới video. Khai trương năm 1997, lúc đó RealNetworks là công ty đầu tiên phát video trực tuyến (streaming) trên Internet. Khoảng năm 2000, hầu như tất cả video được phát trên Internet là theo định dạng của RealNetworks. Mô hình kinh doanh của họ xoay xung quanh việc bán phần mềm máy chủ. Tuy nhiên, RealNetworks phải chịu sự cạnh tranh với những nhà cung cấp phần mềm vững chắc như Microsoft với Apple.

Các dịch vụ phát video trực tuyến đã thực sự ăn nên làm ra với YouTube, ra đời năm 2005,  và Netflix, quá độ từ việc kinh doanh DVD sang dịch vụ streaming bắt đầu khoảng năm 2007. YouTube và Netflix đã đưa ra một tuyên bố giá trị hấp dẫn cho khách hàng cũng như các mô hình nắm giữ giá trị có thể mở rộng thông qua quảng cáo và đăng ký, đã làm mẫu ở mức độ lớn trên hoạt động streaming âm nhạc.

Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa mô hình vận hành của Netflix và YouTube, với những ẩn ý quan trọng cho sự cạnh tranh. Bằng cách tập hợp một cộng đồng to lớn gồm những nhà cung cấp nội dung nhỏ, YouTube luôn tích lũy các hiệu ứng mạng quan trọng về bản chất, nó thống trị thị trường. Mặt khác, các loại dịch vụ phát video trực tuyến do Netflix cung cấp tới từ một tập hợp được tập trung hơn nhiều gồm các phòng thu sản xuất nội dung, mà nó thông thường kết nối nhiều mạng và đưa ra nội dung qua những nền tảng chuyển giao khác nhau. Mặc dù các lợi thế về dữ liệu và học tập của Netflix là đều quan trọng, họ không tạo loại lợi thế được YouTube hướng ở quy mô lớn. Điều này cho phép một số công ty duy trì các sản phẩm/dịch vụ cạnh tranh, từ Hulu tới Amazon. Thiếu các hiệu ứng mạng mạnh, mỗi nhà cung cấp dịch vụ trong số này đang nỗ lực tự làm khác biệt bằng cách truy xuất nội dung độc nhất thông qua các mối quan hệ với phòng thu đặc biệt và mối liên kết theo chiều dọc. Các hãng kỹ thuật số giờ đây có ngân quỹ to lớn để sản xuất nội dung và đang thách thức những nhà cung cấp truyền thống trong hầu hết thị trường toàn cầu.

Với tư cách một nhóm, Google, Netflix, Apple và Amazon hiện đang xung đột với các nhà cung cấp chương trình truyền hình cable và vệ tinh truyền thống, cung cấp những nền tảng phân phối nội dung video OTT dựa trên Internet. Các nền tảng này đã gia tăng quy mô nhanh chóng lên tới hàng trăm triệu người dùng trên toàn cầu. Bất chấp những khác biệt trong các hiệu ứng mạng được tích lũy, mỗi hãng cạnh tranh trên mô hình vận hành lấy dữ liệu làm trung tâm, thúc đẩy sự tùy biến và cá nhân hóa trên phạm vi rộng để phục vụ cho mỗi trải nghiệm xem đối với nhu cầu của người dùng riêng lẻ. Trong tình trạng cảnh giác sau khi cơn tàn phá ở lĩnh vực âm nhạc và bán lẻ, các công ty truyền thông truyền thông đang tranh nhau phản ứng, sát nhập với những nhà cung cấp dịch vụ nội dung và Internet để khuấy động sự chuyển đổi và tái cấu trúc hoạt động xung quanh cốt lõi số. Comcast và Disney đã chứng tỏ sự tiến triển quan trọng, từ việc phát triển của nền tảng X1 tới các dịch vụ phát video trực tuyến ESPN.

Sự chuyển đổi trong lĩnh vực giải trí tiết lộ những kiểu thú vị khác. Thứ nhất, hãng sáng tạo đầu tiên trong một ngành nào đó không luôn luôn chiến thắng. Napster đã không còn từ lâu. Triển khai một mô hình vận hành số vẫn là chưa đủ. Đối với một sự xung đột đe dọa những đối thủ đã củng cố, hãng sáng tạo đó cũng cần một mô hình kinh doanh hữu hiệu. Ngoài ra, khi họ cạnh tranh với những công ty truyền thống, các doanh nghiệp số cạnh tranh lẫn nhau. Khi làm như vậy, họ có thể nổi lên thành các đối thủ hội tụ như Netflix, hoặc họ có thể tận dụng sự hiệp lực về của cải, tài sản và những năng lực qua các ngành, như Amazon và Apple. Hãng chiến thắng và mức độ tập trung trong mỗi thị trường sẽ được định hình bởi hiệu quả kinh tế phát sinh theo quy mô, phạm vi và học tập.

Xe hơi

Xe hơi đang trở nên ngày càng được kết nối kỹ thuật số, và sự nối kết cũng như chức năng gia tăng này đang đe dọa những mô hình vận hành truyền thống của các công ty xe hơi. Giá trị khổng lồ của sự kết nối tới khách hàng trong khi di chuyển trên đường hiện có vẻ bấp bênh – chẳng hạn, trong suốt hành trình thường xuyên đi làm và về nhà, trung bình mất khoảng một giờ tại Hoa Kỳ. Và giá trị của một giờ để tiếp cận người tiêu dùng là cao – hàng trăm tỷ USD chỉ riêng tại Hoa Kỳ.

Việc khai thác cơ hội để trích xuất giá trị kinh tế từ một chiếc xe đang di chuyên và được kết nối sẽ đòi hỏi mô hình vận hành số, lấy dữ liệu làm trung tâm. Mô hình này chuyển giao một thị trường của các dịch vụ theo yêu cầu hoặc những quảng cáo nhắm đối tượng mà tự nó sẽ được nhúng trong các chiến xe đó, thông qua những màn hình hoặc máy radio khác nhau để nhắm tới tài xế và hành khách. Các dịch vụ chia sẻ xe như Uber, Lyft, và DiDi đang bắt đầu chỉ ra nên làm những gì, nhưng cơ hội tốt nhất lại nằm trong các hệ thống lái tự động. Khi người tiêu dùng không còn phải chú tâm lái xe, họ sẽ muốn giải trí và tương tác với bạn bè – biến chiếc xe thành một điện thoại thông minh to lớn trên các bánh xe. Lúc đó, không ngạc nhiên gì những công ty mới và cũ đều tham gia trong cuộc chiến giá trị gia tăng được tạo lập và nắm giữ.

Alphabet là hãng đi đầu. Đã ở quy mô lớn từ việc kinh doanh di động, Android hiện sẵn sàng định hình hành vi người dùng xe hơi và nắm giữ giá trị cho công ty mẹ. Google Maps và các mạng quảng cáo cũng đã ở quy mô lớn và sẵn sàng tạo những quảng cáo thích hợp với địa phương được định vị tới vị trí của xe hơi. Bước kế tiếp theo nghĩa đen là thúc đẩy người dùng tới các cơ hội thương mại. Do áp lực từ yêu cầu của người tiêu dùng, những hãng xe hơi đã cho các công ty kết nối trung tâm tiếp cận màn hình điều khiển kỹ thuật số trong nhiều xe, tích hợp trực tiếp dịch vụ vào trải nghiệm lái xe. Bổ sung vào những cơ hội to lớn hiện hữu này, công ty con của Alphabet là Waymo đang phát triển xe tự hành như một hình thức kinh doanh dịch vụ, mà một ngày nào đó, tự nó có thể kiếm doanh thu hàng trăm tỷ USD.

Những thay đổi như vậy sẽ chuyển đổi ngành này. Và khi xu hướng đó tiếp tục, sự vận tải, chuyên chở sẽ trở nên ít về việc sở hữu xe và trải nghiệm lái, và nhiều về tiện nghi, dịch vụ ở trên xe khi nó tự lái đưa hành khách đi nơi này, nơi kia. Chắc chắn rằng một số người vẫn sẽ muốn có những chiếc xe mà mình có thể thực sự lái, nhưng sự khác biệt sẽ giảm bớt, và hầu hết phần cứng của xe có thể trở nên ngày càng nhiều thông dụng hóa, như với hầu hết OEM của Android.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Marco Iansiti & Karim R. Lakhani – Cạnh tranh trong thời đại AI –  NXB TH TPHCM 2021

Những xung đột chiến lược – Phần III


Vượt xa chuyện thay thế những hãng truyền thông đầu ngành, sự xung đột về điện thoại thông minh đã thay đổi một cách ấn tượng cấu trúc của ngành này. Hầu như tất cả lợi nhuận đã dịch chuyển từ lớp phần mềm cạnh tranh cao độ sang lớp phần mềm tập trung cao độ, việc nắm giữ giá trị thông qua những nguồn thu nhập bổ sung như phần cứng đóng gói (bundled hardware), quảng cáo, và phí tải ứng dụng. Cuộc chiến hiện vẫn chưa kết thúc, nhưng có vẻ như thể chiến thắng cuối cùng có khả năng tới Android, hiện đang trợ lực cho hơn 85% điện thoại thông minh trên toàn cầu.

Trớ trêu thay, Nokia đã phát minh và giới thiệu nhiều đặc tính mà ngày nay chúng ta liên tưởng tới điện thoại thông minh – chức năng màn hình cảm ứng, camera tích hợp, công cụ tìm kiếm nhúng, thậm chí các ứng dụng và cửa hàng ứng dụng – đi trước rất nhiều so với việc giới thiệu iPhone vào năm 2007. Thực vậy, trong suốt thời gian “mất đất” vào tay iOS và Android, Nokia vẫn đang đầu tư với mức ấn tượng 8 – 15% doanh thu vào R&D. Nhưng iOS và Android đã được cấu trúc để xây dựng giá trị theo cách hết sức khác biệt. Giống như Airbnb và Booking hiện đang trở thành những khối nam châm hướng dữ liệu đối với những nhà cung cấp trải nghiệm du lịch, thì cả iOS lẫn Android đã trở thành hấp lực đối với các nhà phát triển ứng dụng và đơn vị quảng cáo. Thị trường đã lật nghiêng, và Nokie cũng như bản chất của sự cạnh tranh đã thay đổi. Nói chung, thời gian đã trải qua dưới năm năm. Nokia đã nhận ra rằng một khi mô hình kinh doanh số đạt tới khối lượng tới hạn, nó có thể phát triển nhanh chóng để thống trị thị trường, và chuyển biến nền kinh tế.

Để phản ứng trước mối đe dọa mới, lúc đó Nokia đã có hai chọn lựa. Thứ nhất, lẽ ra họ có thể xây dựng mô hình vận hành số của riêng mình và cạnh tranh trực diễn với Android và iOS. Nhưng để làm điều này, họ lẽ ra phải quá độ từ cấu trúc vận hành tách biệt, dựa trên sản phẩm sang kiến trúc vận hành tối ưu hóa bằng phần mềm – tức là chuẩn hóa trên một nền tảng số nhất quán, duy nhất và làm theo phương pháp chuẩn đối với việc thiết kế thành phần phần mềm, phát triển hệ sinh thái, và tích hợp dữ liệu. Chỉ xây dựng công nghệ Symbian mà thôi là chưa đủ. Điều cần thiết chính là sự chuyển dổi sâu tận gốc rễ.

Chọn lựa thứ hai của Nokia lẽ ra là thừa nhận sự thống trị mới hình thành của những công ty hệ điều hành cho điện thoại thông minh và tập trung để trở thành một phần bổ sung tốt nhất có thể vào đội ngũ “tân binh” dựa trên phần mềm. Về bản chất, đây là điều mà Samsung đã làm, bằng cách thừa nhận cuộc chiến phần mềm, tập trung vào những đặc tính và thành phần cứng. Mặc dù không tiếp cận loại giá trị và khả năng sinh lợi được nắm giữ bởi iOS và Android, Samsung đã tồn tại và phát đạt ở một mức độ nhất định. Tính độc đáo của chiến lược là trở thành một trong rất ít nhà cung cấp chiến lược của ngành này về màn hình chất lượng cao – đây vẫn là một thị trường ngách có khả năng sinh lợi cao (và đáng kể). Về phần còn lại của OEM điện thoại thông minh, đó là một chuyện khác, khi lợi nhuận đã thu hẹp trong thị trường cạnh tranh khốc liệt. Tuy nhiên, dù có bất lợi, nhiều công ty vẫn tồn tại.

Thật thú vị, Nokia đã không tiến hành chọn một trong hai, nên điều đó có thể lý giải cho sự cáo chung nhanh chóng. Lúc đầu, Nokia đơn giản là từ chối thay đổi và đáp lại mối đe dọa bằng cách xây dựng thêm sản phẩm trong kiến trúc vận hành hiện hữu. Nhưng thậm chí khi thất bại cảu phương pháp này đã quá hiển nhiên, Stephen Elop, CEO của hãng, đã từ chối thừa nhận lợi thế rõ ràng của Android và chuyển sang hệ điều hành di động Windows, mà nó đã tụt lại khá xa trong thị phần. Không thu hoạch lợi ích của quy mô, phạm vi, việc học tập số, Nokia đã chìm vào lãng quên.

Khuôn mẫu lập lại

Câu chuyện về điện thoại thông minh đang có nguy cơ lặp lại ở mọi nơi. Chúng ta đã lập luận rằng Airbnb và Booking đang phơi bày sự thách thức tương tự đối với Marriott và Hilton. Và gnay khi các dịch vụ điện toán đám mây từ Amazon và Microsoft đang thay thế những nhà cung cấp phần mềm và phần cứng truyền thống, các nền tảng thị trường như Alibaba và Amazon cũng thay thế những hãng bán lẻ truyền thống. Các dịch vụ chuyển giao nội dung video số, trên cả tuyệt vời (OTT) (hãy nghĩ tới Netflix, Hulu, và Amazon Prime Video) đang đe dọa nhà cung cấp chương trình truyền hình truyền thống có tính phí. Những công ty công nghệ tài chính mới đang cạnh tranh với ngân hàng và hãng bảo hiểm truyền thống bằng cách cung cấp dịch vụ tài chính lấy dữ liệu làm trung tâm trên Internet. Xuyên suốt nền kinh tế, chúng ta thấy những hãng truyền thống đang xung đột với các mô hình vận hành có thể mở rộng cao độ, lấy dữ liệu và phần mềm làm trung tâm, những mang đang tận dụng phương thức đòn bẩy, dữ liệu, và AI để thúc đẩy sự cá nhân hóa và để mở rộng phạm vi dịch vụ bằng cách sử dụng các mạng kỹ thuật số để cắm vào những nhà cung cấp dịch vụ. Sự chuyển đổi tiếp theo trong mỗi ngành này là sâu sắc, và nó cắt ngang sự tạo lập, nắm giữ, và chuyển giao giá trị để thay đổi những động lực cạnh tranh và cấu trúc thị trường.

Chúng ta cùng xem xét thêm vài ví dụ nữa, cả trong quá khứ lẫn ở hiện tại.

Điện toán

Cho tới nay, lĩnh vực điện toán đã chứng kiến một số vụ xung đột khác nhau giữa các cấu trúc vận hành, mỗi khía cạnh mới đang số hóa trong chuỗi giá trị của ngành. Sự chuyển biến có tác động nhất có lẽ đã xảy ra vào những năm 1980, khi các nhà cung cấp hệ thống máy điện toán lớn và máy tính mini đã xung đột với những hãng máy tính cá nhân. Lần đầu tiên, chúng ta đã thấy một cấu trúc nền tảng số có những hệ thống vận hành kiểu module, riêng biệt như CPM, DOS, rồi sau đó là Windows và Mac OS. Dù CPM đã không còn được ưa chuộng, nhưng Mac OS vẫn là một cấu trúc khôg thể thiếu cho hầu hết lịch sử của nó (với Apple đang đóng góp các ứng dụng của riêng mình), và Microsoft đã củng cố Windows – với hàng trăm và sau này là hàng ngày API, và những công cụ lập trình Visual Studio tiện dụng – với tư cách hệ điều hành của sự chọn lựa cho ngành này.

Do đó, Windows đã sử dụng các giao diện số để đơn thể hóa và phân phối sản phẩm về các ứng dụng phần mềm, bằng cách đó xây dựng một hệ sinh thái rộng rãi và mạnh mẽ. Tại cực đỉnh của nó, đã có hơn sáu triệu nhà phát triển có nghề nghiệp hàng ngày là xây dựng phần mềm cho Windows, làm việc cho nhiều nhà cung cấp ứng dụng. Hệ sinh thái nhà phát triển đã phát sinh các hiệu ứng mạng mạnh, và sự thống trị của Windows tiếp tục trong hơn một thập niên, với thị phần của Mircosoft trong các hệ điều hành máy tính cá nhân lên đỉnh điểm với hơn 90%. Xét trên nhiều phương diện, sự thống trị ngày càng tăng của Google trong điện thoại thông minh chỉ là “thăm lại” sách hướng dẫn Windows cũ, với sự bổ sung dữ liệu, AI, và doanh thu đồ sộ được cung cấp bởi các dịch vụ quảng cáo tùy chỉnh.

Trong những năm gần đây, điện toán đám mây đã dẫn tới thêm một cuộc xung đột nữa, về bản chất là số hóa quá trình phân phối phần mềm. Đám mây cung cấp một mô hình kinh doanh và vận hành mới để phân phối nhiều dịch vụ điện toán, bằng sự truy cập dễ dàng, dựa trên mạng tới năng lực điện toán uyển chuyển, linh động và sự định giá dựa trên tiêu dùng đối với việc ítnh toán, lưu trữ, và các ứng dụng cũng như dịch vụ khác. Mô hình vận hành cho những nhà cung ứng điện toán đám mây là hàon toàn khác biệt với những nhà cung cấp hệ điều hành phần mềm truyền thống, khi nó xoay quanh trên sự thiết lập hạ tầng trung tâm dữ liệu có phạm vi rộng để chuyển giao một cách hữu hiệu các dịch vụ thay vì bán phần mềm trong cửa hàng hoặc triển khai phần mềm cài đặt trên máy chủ cho doanh nghiệp.

Sau khi mất lợi thế trước Linux và các giải pháp khác (chủ yếu là nguồn mở), Microsoft hiện đã trở lại cuộc chơi. Đuổi theo Amazon Web Services, Microsoft đã thâm nhập trong việc chuyển đổi mô hình kinh doanh và vận hành để nằm trong số những hãng đầu tiên tung ra dịch vụ đám mây được tối ưu hóa cho các ứng dụng doanh nghiệp. Đã qua rồi thời của những hộp đựng phần mềm bán tại Best Buy và Computer City, và chẳng bao lâu nữa là cũng qua thời triển khai sản phẩm phần mềm đồ sộ, được cài đặt trên máy chủ do doanh nghiệp quản lý như Windows Server và SQL Server. Tất cả phần mềm giờ đây có sẵn để dễ dàng tải xuống bằng kỹ thuật số, theo yêu cầu, từ đám mây. Không ngạc nhiên gì, “vương vị” trong ngành đã chuyên giao một lần nữa, với Amazon (chủ yếu thông qua AWS) và Microsoft (sau khi chuyển đổi) giờ đây thay đổi thành công ty có giá trị nhất thế giới.

Bởi vì ngành này đã và đang giải quyết những xung đột trong thời gian dài, các doanh nghiệp đã trở nên giỏi chuyển đổi. Kinh nghiệm là một yếu tố, song cũng còn một yếu tố nữa: kiến trúc vận hành của các công ty trong ngành này thì ít tách biệt, và phân tán hơn bạn thấy trong những ngành truyền thống. Sau khi một doanh nghiệp được cấu trúc như là công ty nền tảng phần mềm và dữ liệu, thật tương đối dễ dàng để chuyển đổi nó nhằm chấp nhận những thế hệ mới về công nghệ.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Marco Iansiti & Karim R. Lakhani – Cạnh tranh trong thời đại AI –  NXB TH TPHCM 2021