Về “Kế hoạch 12 điểm” của Trung Quốc giải quyết khủng hoảng Ukraine


Để thể hiện mình là một bên trung lập có thể giúp chấm dứt cuộc xung đột Nga-Ukraine kéo dài một năm qua, Trung Quốc đã đưa ra lời kêu gọi ngừng bắn ở Ukraine. Kế hoạch 12 điểm do Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố tại Bắc Kinh ngày 24/02 kêu gọi chấm dứt chiến sự, bảo vệ các nhà máy hạt nhân, nối lại các cuộc đàm phán hòa bình và loại bỏ các biện pháp trừng phạt.

Kế hoạch này là một nỗ lực nhằm định hình kết quả của cuộc chiến theo hướng có lợi cho Bắc Kinh và đưa nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình trở thành một chính khách toàn cầu. Điều này dường như có rất ít cơ hội thành công do Ukraine đã tuyên bố sẽ chiến đấu cho đến khi Nga rời khỏi biên giới và bởi Moskva không có dấu hiệu dừng các cuộc tấn công.

Kế hoạch 12 điểm của Trung Quốc về giải pháp chính trị cho cuộc khủng hoảng Ukraine:

1/ Tôn trọng chủ quyền của tất cả các nước. Chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia cần phải được duy trì. Tất cả các bên nên cùng nhau duy trì các chuẩn mực cơ bản chi phí quan hệ quốc tế và bảo vệ sự công bằng và công lý quốc tế. Cần thúc đẩy việc áp dụng bình đẳng và thống nhất luật pháp quốc tế, đồng thời bác bỏ các tiêu chuẩn kép.

2/ Từ bỏ tâm lý Chiến tranh Lạnh. An ninh của một quốc gia không thể dựa vào việc gây tổn hại cho quốc gia khác. Việc đảm bảo an ninh của một khu vực không thể dựa vào việc củng cố hoặc mở rộng các khối quân sự. Các lợi ích và mối quan tâm an ninh hợp pháp của tất cả các quốc gia cần phải được coi trọng và giải quyết thỏa đáng. Tất cả các bên nên phản đối việc theo đuổi an ninh của một quốc gia với cái giá phải trả là an ninh của quốc gia khác, ngăn chặn đối đầu giữa các khối và cùng nhau hợp tác vì hòa bình và ổn định trên Lục địa Á-Âu.

3/ Chấm dứt sự thù địch. Tất cả các bên phải duy trì lý trí và kiềm chế, tránh thổi bùng ngọn lửa chiến tranh và làm trầm trọng thêm căng thẳng, đồng thời ngăn chặn cuộc khủng hoảng ngày càng xấu đi hoặc thậm chí vượt khỏi tầm kiểm soát. Tất cả các bên nên ủng hộ Nga và Ukraine làm việc theo cùng một hướng và nối lại đối thoại trực tiếp càng nhanh càng tốt, để dần dần hạ nhiệt tình hình và cuối cùng đạt được một lệnh ngừng bắn toàn diện.

4/ Nối lại hòa đàm. Đối thoại và đàm phán là giải pháp khả thi duy nhất cho cuộc khủng hoảng Ukraine. Cộng đồng quốc tế nên cam kết thực hiện cách tiếp cận đúng đắn trong việc thúc đẩy đàm phán vì hòa bình, giúp đỡ các bên xung đột mở ra cánh cửa cho một giải pháp chính trị càng sớm càng tốt, đồng thời tạo điều kiện và nền tảng cho việc nối lại đàm phán. Trung Quốc sẽ tiếp tục đóng vai trò mang tính xây dựng trong vấn đề này.

5/ Giải quyết khủng hoảng nhân đạo. Các hoạt động nhân đạo phải tuân theo các nguyên tắc trung lập và không thiên vị, và các vấn đề nhân đạo không nên bị chính trị hóa. Sự an toàn của dân thường phải được bảo vệ một cách hiệu quả và các hành lang nhân đạo phải được thiết lập để sơ tán dân thường khỏi các vùng xung đột. Liên hợp quốc cần được hỗ trợ trong việc đóng vai trò điều phối trong công tác chuyển viện trợ nhân đạo tới các khu vực xung đột.

6/ Bảo vệ dân thường và tù binh chiến tranh (POW). Trung Quốc ủng hộ việc trao đổi tù binh giữa Nga và Ukraine, đồng thời kêu gọi tất cả các bên tạo điều kiện thuận lợi hơn cho mục đích này.

7/ Bảo đảm an toàn cho các nhà máy điện hạt nhân. Trung Quốc phản đối các cuộc tấn công vũ trang nhằm vào các nhà máy điện hạt nhân hoặc các cơ sở hạt nhân hòa bình khác, đồng thời kêu gọi tất cả các bên tuân thủ luật pháp quốc tế bao gồm Công ước về An toàn Hạt nhân (CNS) và kiên quyết tránh các tai nạn hạt nhân do con người gây ra. Trung Quốc ủng hộ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) đóng vai trò xây dựng trong việc thúc đẩy sự an toàn và an ninh của các cơ sở hạt nhân vì mục đích hòa bình.

8/ Giảm thiểu rủi ro chiến lược. Các bên không được phép sử dụng vũ khí hạt nhân và không được tiến hành chiến tranh hạt nhân. Cần phản đối việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân. Cần ngăn chặn phổ biến hạt nhân và tránh khủng hoảng hạt nhân. Trung Quốc phản đối việc nghiên cứu, phát triển và sử dụng vũ khí hóa học và sinh học của mọi quốc gia trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

9/ Tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu ngũ cốc. Tất cả các bên cần thực hiện Sáng kiến Ngũ cốc Biển Đen do Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraine và Liên hợp quốc ký kết một cách đầy đủ, hiệu quả và cân bằng, đồng thời ủng hộ Liên hợp quốc đóng vai trò quan trọng trong vấn đề này. Sáng kiến hợp tác về an ninh lương thực toàn cầu do Trung Quốc đề xuất cung cấp một giải pháp khả thi cho cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu.

10/ Chấm dứt các biện pháp trừng phạt đơn phương. Trung Quốc phản đối các biện pháp trừng phạt đơn phương chưa được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc phê chuẩn chấp thuận. Các quốc gia hữu quan cần ngừng lạm dụng các biện pháp trừng phạt đơn phương và “quyền tài phán trị ngoại” (thẩm quyền được áp dụng với bị cáo là người ngoại quốc) nhằm vào các quốc gia khác, để góp phần làm dịu cuộc khủng hoảng Ukraine và tạo điều kiện cho các nước đang phát triển phát triển kinh tế và cải thiện cuộc sống của người dân.

11/ Giữ ổn định chuỗi cung ứng và công nghiệp. Cần có những nỗ lực chung để giảm thiểu tác động lan tỏa của cuộc khủng hoảng  và ngăn chặn nó làm gián đoạn hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực năng lượng, tài chính, thương mại lương thực và vận tải cũng như làm tổn hại sự phục hồi kinh tế toàn cầu.

12/ Thúc đẩy tái thiết sau xung đột. Cộng đồng quốc tế cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ tái thiết sau xung đột tại các khu vực xung đột. Trung Quốc sẵn sàng hỗ trợ và đóng vai trò xây dựng trong nỗ lực này.

Nguồn: TKNB – 27/02/2023

Công nghiệp quốc phòng – công cụ xây dựng quyền lực và quan hệ địa chính trị của Ấn Độ – Phần cuối


Israel

Israel là tác nhân mới trong cuộc chạy đua vũ trang của Ấn Độ. Sự hội tụ các yếu tố khiến Ấn Độ trở nên hấp dẫn đối với Isreal, điều này giải thích cho các hợp đồng mà các công ty Israel thực hiện với Bộ Quốc phòng Ấn Độ. Ngày 2/6/2022, trong chuyến thăm New Delhi của Bộ trưởng Quốc phòng Israel Benjamin Gantz, hai nước đã ký kết Tầm nhìn Hợp tác quốc phòng Ấn Độ – Israel. Trong lịch sử, Ấn Độ và Israel cùng đấu tranh chống Đế quốc Anh và hiện đều đối mặt với những mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo. Bên cạnh đó, hai nước còn có chung những giá trị dân chủ ở châu Á. Đại sứ Israel tại Ấn Độ Ron Malka từng phát biểu: “Nhìn về phía Đông của Israel, Ấn Độ là quốc gia dân chủ đầu tiên và duy nhất. Tương tự, quốc gia dân chủ nhất mà Ấn Độ tìm thấy ở phía Tây của họ là Israel. Bên cạnh những nền văn minh giàu có và lâu đời, hai nước cũng phải đối mặt với những thách thức và mối đe dọa như nhau, điều này khiến Ấn Độ và Israel trở thành những đồng minh tự nhiên, chứ không chỉ là những đối tác chiến lược. Israel nhỏ hơn 150 lần so với Ấn Độ nhưng quy mô hợp tác giữa hai nước là rất lớn”. Tiếp đó, ông liệt kê những yếu tố thúc đẩy Ấn Độ trở thành đồng minh đặc biệt của Israel: lực lượng lao động dồi dào, gồm cả lành nghề và không lành nghề, khả năng của Ấn Độ trong việc tháo gỡ hoặc giảm thiểu xung đột với các quốc gia láng giềng, cùng chung cuộc chiến chống khủng bố, cùng tìm cách bảo vệ biên giới bằng những bức tường hay chướng ngại vật không thể vượt qua, cùng nghiên cứu trong những lĩnh vực hiện đại nhất như phòng thủ mạng, viễn thông và không gian vũ trụ. Bán vũ khí cho Ấn Độ không chỉ mang lại sự hấp dẫn về kinh tế, mà trên hết, về mặt chiến lược, đó là một sự đầu tư dài hạn bằng cách tạo ra đồng minh trước những mối đe dọa của Iran đối với sự tồn vong của Israel. Cũng như Nga, Israel không ngần ngại bán công nghệ mới nhất của mình cho Ấn Độ, khách hàng quan trọng nhất cho ngành công nghiệp quốc phòng Israel.

Năm 2017, Tập đoàn Hàng không Vũ trụ Israel (IAI) đã bán hệ thống phòng không Barak 8 cho Ấn Độ với giá 630 triệu USD, và một hợp đồng bổ sung đã được hai bên ký kết năm 2018 trị giá 777 triệu USD. Tháng 8/2019, một nhà máy đã được khánh thành ở thành phố Hyderabad (Ấn Độ) để sản xuất tên lửa chống tăng với sự hợp tác giữa công ty quốc phòng Rafael Advanced Defense Systems của Israel và công ty Astra Microwaves của Ấn Độ. Có thể nhận thấy, liên minh Israel-Ấn Độ hứa hẹn tương lai tươi sáng vì các công ty quốc phòng Israel chấp thuận chuyển nhượng một phần hoạt động sản xuất của họ cho Ấn Độ, và trên hết Israel đã thử nghiệm vũ khí của họ trong chiến đấu và không ngần ngại bán vũ khí đó cho Ấn Độ khi nước này muốn sử dụng chúng để chống lại Pakistan!

Anh

Anh chiếm vị trí đặc biệt trong nhóm các quốc gia xuất khẩu vũ khí cho Ấn Độ. Vào đầu những năm 2020, Anh cung cấp 3% vũ khí nhập khẩu của Ấn Độ và trong triển lãm quốc phòng DefExpo 2020, 13 công ty Anh đã giới thiệu sản phẩm của họ cho quân đội Ấn Độ. Chính phủ Anh tìm cách phát triển việc bán hàng sang Ấn Độ vì những lý do chính trị: hai nước cùng chia sẻ các giá trị dân chủ, cùng chống khủng bố. Ngoài ra còn có những lý do địa chiến lược và kinh tế: phát triển ảnh hưởng của Anh trên quy mô toàn cầu thông qua Ấn Độ, chủ yếu ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Cộng đồng đông đảo người Ấn Độ ở Anh cũng là yếu tố thúc đẩy sự phát triển troa đổi thương mại giữa hai nước.

Tháng 4/2019, hai nước đã ký kết biên bản ghi nhớ nhằm tăng cường sự hợp tác công nghiệp trong dài hạn. Biên bản ghi nhớ này sẽ mang lại lợi ích cho quân đội Anh và Ấn Độ. Ngày 30/4/2019, khi được hỏi tại Hạ viện về chủ đề này, Bộ trưởng Quốc phòng Anh Stuart Andrews đã trả lời: “Biên bản ghi nhớ nhấn mạnh mong muốn của Anh và Ấn Độ trong việc tăng cường mối quan hệ quốc phòng song phương. Nó sẽ giúp chúng tôi xác định những nhu cầu chung về năng lực quốc phòng và an ninh và từ đó cho phép các ngành công nghiệp quốc phòng và an ninh của chúng tôi tập trung và hợp tác hiệu quả hơn vào các cơ hội sở hữu vũ khí cả ở Anh và ở Ấn Độ. Những cải tiến công nghệ và năng lực công nghiệp có được từ sự hợp tác này sẽ tăng cường an ninh chung và sự thịnh vượng của chúng tôi trong dài hạn”. Biên bản ghi nhớ này cho thấy Anh coi Ấn Độ là một thị trường ưu tiên cần phát triển, và điều này đã được chứng minh vào tháng 4/2022 trong chuyến thăm của Thủ tướng Boris Johnson tới New Delhi khi ông và người đồng cấp Ấn Độ Narendra Modi đã khẳng định sẽ đưa quan hệ hợp tác giữa hai nhà nước lên tầm đối tác chiến lược toàn diện với lộ trình đến năm 2030, trong đ1o hai bên sẽ cùng nhau hợp tác nghiên cứu và sản xuất.

Bản đồ các quốc gia cung cấp vũ khí cho thị trường quốc phòng Ấn Độ cho thấy thị trường này rất hạn chế và chỉ các quốc gia có cùng mục tiêu địa chính trị với Ấn Độ mới lọt vào danh sách các nhà cung cấp. Một số quốc gia, có mặt tại triển lãm quốc phòng DefExpo 2020 nhưng không được Ấn Độ đặt hàng, đang tìm cách khẳng định thâm nhập thị trường nước này, và điều thú vị là trong số những ngước này có Australia và Nhật Bản, các đồng minh của Ấn Độ và Mỹ trong khuôn khổ Đối thoại An ninh Bốn bên (Bộ tứ). Đơn đặt hàng quân sự củng cố quan hệ chiến lược giữa các đồng minh, nhưng cũng kéo theo hoạt động đầu tư vào Ấn Độ vì luật pháp Ấn Độ quy định nhà cung cấp có nghĩa vụ bù đắp công nghiệp khi các hợp đồng vượt quá mức tiền nhất định (296 triệu USD theo Thủ tục Mua sắm Quốc phòng 2016). Công ty bán vũ khí trên thị trường Ấn Độ phải mua các linh kiện ở Ấn Độ, hoặc trực tiếp sản xuất ở nước này thông qua liên doanh bằng cách đầu tư vốn vào một công ty Ấn Độ hay chuyển giao công nghệ. Do vậy, có một nghịch lý là Ấn Độ càng nhập khẩu nhiều thì nước này càng sử dụng sự phụ thuộc này để buộc các nhà cung cấp chuyển giao bí quyết và công nghệ. Tuy nhiên, phương pháp này không thuyết phục lắm đối với sự phát triển công nghiệp của Ấn Độ, bởi những người bán thường đưa ra nhiều cam kết để đủ điều kiện ký hợp đồng bán vũ khí nhưng sau đó dường như họ ít sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ của mình.

So với nhập khẩu, lượng xuất khẩu vũ khí của Ấn Độ không đáng kể, với mức thâm hụt hơn 3 tỷ USD trong năm 2017. Tờ rơi dành cho khách tham quan tại triển lãm quốc phòng DefExpo 2020 trích dẫn 84 quốc gia nhập khẩu sản phẩm quốc phòng của Ấn Độ. Tuy nhiên, số liệu về xuất khẩu của Ấn Độ hoàn toàn không giống với số liệu của SIPRI và đều cao hơn đáng kể.

Người ta nhận thấy rằng ngoài các mặt hàng bảo hộ, mũ bảo hiểm, áo chống đạn, thậm chí xe cộ, các sản phẩm của Ấn Độ thể hiện một trình độ công nghệ ở mức bình thường. Không quốc gia nào sản xuất máy bay, tàu chiến hay tên lửa đặt hàng từ Ấn Độ. Điểm đến các sản phẩm quốc phòng của Ấn Độ thường là những thị trường bị phong tỏa (như Afghanistan và Nepal) – hầu như buộc phải mua sản phẩm của Ấn Độ vì lý do an ninh, các nước láng giềng (như Myanmar, Sri Lanka), các thị trường đảo quốc được tài trợ (Seychelles, Muritius nhận tàu tuần duyên cho lực lượng bảo vệ bờ biển của họ) – giúp mở rộng ảnh hưởng của Ấn Độ ở Ấn Độ Dương, và cuối cùng là các nước châu Phi (Mozambique, Namibia) đánh dấu bước mở cửa mới của Ấn Độ đối với thị trường này.

Nguồn: www.diploweb.com

TLTKĐB – 07/11/2022

Công nghiệp quốc phòng – công cụ xây dựng quyền lực và quan hệ địa chính trị của Ấn Độ – Phần đầu


Cuộc chiến mà Nga phát động ở Ukraine thu hút lại sự chú ý vào tầm quan trọng của việc có một ngành công nghiệp quốc phòng. Vậy Ấn Độ, một trong hai gã khổng lồ châu Á thì sao? Ấn Độ nhập khẩu số lượng lớn hàng quốc phòng, vừa để trang bị quân đội quốc gia, vừa để tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với Nga, Mỹ, Israel, Pháp và Anh. Qua đó, Ấn Độ tìm cách buộc các cường quốc này đầu tư vào Ấn Độ để phát triển sản xuất quốc gia và có được bí quyết và công nghệ. Đồng thời, Ấn Độ đang cố gắng chinh phục các thị trường quốc tế và thành công một cách khiêm tốn theo hai cách. Đầu tiên, bằng cách xuất khẩu linh kiện cho các nhà cung cấp hoặc các quốc gia khách hàng của họ. Sau đó, bằng cách xuất khẩu các sản phẩm quốc gia đã được quân đội Ấn Độ kiểm chứng và sử dụng. Chiến lược khôn ngoan này cho phép Ấn Độ khẳng định được vị thế trong một thị trường rất khắt khe và tự định vị như một cường quốc cung cấp cho các nước thuộc khu vực xung quanh Ấn Độ Dương và đặc biệt là các nước châu Phi.

Kể từ năm 2014, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã không ngừng đặt mục tiêu tự chủ chiến lược trong lĩnh vực sản xuất quốc phòng. Năm 2015, tại Triển lãm hàng không vũ trụ quốc tế Aero India, trước các tập đoàn sản xuất vũ khí trên toàn cầu, ông phát biểu: “Đối với nhiều người trong số các bạn, Ấn Độ là một cơ hội kinh doanh lớn. Chúng tôi nổi tiếng là nhà nhập khẩu thiết bị quốc phòng lớn nhất trên thế giới. Nhưng đó là lĩnh vực mà chúng tôi không muốn trở thành số một”. Năm 2020, trong lễ khánh thành triển lãm Defexpo, ông nhấn mạnh vào sức mạnh tổng hợp có thể được tạo ra giữa Ấn Độ và các nhà cung cấp vũ khí với khẩu hiệu “sản xuất ở Ấn Độ, cho Ấn Độ, cho thế giới”. Ngày 18/7/2022, ông nhắc lại những lợi ích của việc tự chủ về sản xuất quốc phòng: “Không phải là khôn ngoan khi trang bị cho binh sĩ của chúng ta cùng một loại vũ khí được trang bị cho binh sĩ của 10 nước khác. Họ có thể tài năng hơn, họ được đào tạo tốt hơn, họ sử dụng vũ khí tốt hơn. Nhưng tôi còn phải chấp nhận rủi ro này cho đến khi nào đây? Tại sao binh sĩ của tôi phải mang vũ khí giống như những binh sĩ của các nước khác?”, và “phụ thuộc vào nước ngoài cho mọi nhu cầu nhỏ của quốc phòng không chỉ là một sự đe dọa nghiêm trọng đến lòng tự trọng của đất nước chúng ta, mà hơn thế còn là một tổn thất kinh tế mang tính chiến lược”. Do vậy, ông coi sản xuất vũ khí là một nhu cầu thiết yếu: “Nếu chúng ta không tôn trọng vũ khí được sản xuất ở Ấn Độ, thì làm sao chúng ta có thể mong đợi thế giới coi trọng chúng? Điều đó là không thể. Chúng ta phải tự bắt đầu và tên lửa Brahmos là một ví dụ về công nghệ bản địa của chúng ta. Các bạn của tôi, Ấn Độ đã phát triển Brahmos và ngay nay cả thế giới đang xếp hàng để mua được nó. Chúng ta nên tự hào về những gì chúng ta phát triển”. Việc tìm kiếm độc lập và xây dựng quyền lực thông qua sự phát triển Cơ sở Công nghiệp và công nghệ quốc phòng Ấn Độ (BITD) đã trở thành mục tiêu khi giành độc lập vào năm 1947.

Để đạt được mục tiêu này, trước tiên Ấn Độ củng cố các liên minh chiến lược thông qua việc nhập khẩu vũ khí có mục tiêu và yêu cầu sản xuất một phần vũ khí ở trong nước, sau đó phát triển sản xuất quốc gia theo mọi hướng và thông qua các đơn đặt hàng quân sự, đưa các công ty sản xuất của Ấn Độ ra thị trường quốc tế.

Số liệu của Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) đưa  ra đánh giá về nhập khẩu vũ khí của Ấn Độ, và các nước cung cấp có thể được chia thành 4 nhóm: 1 nhà cung cấp chính (Nga với 62%); 2 nhà cung cấp quan trọng (Mỹ và Israel với lần lượt 15% và 11%), 2 nhà cung cấp phụ (Pháp và Vương quốc Anh với lần lượt 4,5% và 3,2%), và nhóm các nhà cung cấp nhỏ (dưới 1,2%). Chỉ riêng 4 nhóm nhà cung cấp vũ khí lớn nhất đã góp phần tới 95,7% vào hoạt động nhập khẩu của Ấn Độ.

Sở dĩ Ấn Độ tập trung vào Nga, Mỹ, Israel và Anh, đó là vì họ đều cung cấp các vũ khí hữu ích cho quân đội Ấn Độ, nhưng trên hết vì họ có các mối quan hệ lâu đời và cùng chung những lợi ích với Ấn Độ.

Nga

Nga là đối tác lịch sử của Quốc phòng Ấn Độ. Kể từ năm 1962 và thất bại trước Trung Quốc, Ấn Độ có niềm tin vững chắc vào Nga, bởi nước này đã luôn sát cánh cùng Ấn Độ khi xảy ra khủng hoảng trong kỷ nguyên Xô viết. Do đó, kho vũ khí của Ấn Độ gồm những vũ khí được nhập trực tiếp từ Liên Xô, sau đó từ Nga. Một trong những vũ khí gần đây nhất mà Ấn Độ mua của Nga có thể kể đến hệ thống phòng thủ tên lửa S-400. Hệ thống này được Ấn Độ đặt hàng nhân Hội nghị thượng đỉnh song phương Ấn Độ-Nga thường niên lần thứ 19 được tổ chức tại New Delhi vào ngày 5/10/2018. Hệ thống này, được đưa vào sử dụng ở Nga trong năm 2007, có thể tấn công các mục tiêu cách xa 400 km và đạt tới độ cao 30 km. Do đó, nó thể tiêu diệt một máy bay, một tên lửa và thậm chí cả các cơ sở trên mặt đất. Như Vladimir Putin phát biểu tại Vladivostok nhân hội nghị thượng đỉnh song phương năm 2019, nước Nga là “một người bạn toàn diện và một đối tác tin cậy” của Ấn Độ, và quả thực với 14,5 tỷ USD đơn đặt hàng trong năm 2019, Ấn Độ không thể bị coi nhẹ. Đổi lại, năm 2019 Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Rajnath Singh đã kêu gọi các nhà sản xuất Nga chuyển một phần hoạt động sản xuất sang Ấn Độ những vũ khí mà nước này mua của Nga. Tháng 11/2019, một vài doanh nghiệp nhà nước và tư nhân Ấn Độ đã tháp tùng Bộ trưởng Bộ quốc phòng nước này đến Nga tham dự hội nghị về hợp tác quân sự và kỹ thuật giữa hai nước. Ấn Độ đã không thoát khỏi sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp của Nga và chính Nga đã dành những khoản đầu tư lớn cho ngành công nghiệp Ấn Độ. Ấn Độ cũng gợi ý với đối tác Nga rằng các doanh nghiệp Ấn Độ có thể sản xuất linh kiện, hay thậm chí toàn bộ hệ thống vũ khí của Nga cho một nước thứ ba. Tại Hội nghị thượng đỉnh Ấn Độ-Nga lần thứ 21 tại New Delhi vào ngày 6/12/2021, hiệp ước hợp tác quân sự song phương đã được ký kết cho đến năm 2031.

Mỹ

Kể từ khi bức tường Berlin bị dỡ bỏ (năm 1989) và khối Liên Xô sụp đổ, Mỹ đã giành được một số lợi thế so sánh nhất định, khiến cho các sản phẩm của Mỹ được bán ngày càng nhiều cho Ấn Độ. Trước hết, sự gián đoạn nguồn cung các phụ kiện tháo rời của Liên Xô đã ảnh hưởng đến quân đội Ấn Độ trong suốt những năm 1990. Sau đó, ở cấp độ địa chính trị, kể từ năm 2001 và sau vụ khủng bố ngày 11/9, Ấn Độ đã trở thành một đồng minh khách quan của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, do vậy, việc bán vũ khí cho Ấn Độ trở nên dễ dàng.

Trong các nhiệm kỳ tổng thống của Obama và Trump, vai trò của Ấn Độ không ngừng được cải thiện trong liên minh chiến lược Mỹ – Ấn và do vậy cả trong quan hệ thương mại và lĩnh vực xuất khẩu vũ khí hay các hệ thống tinh vi phục vụ quốc phòng Ấn Độ. Mục tiêu chiến lược của Mỹ trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trùng khớp với mục tiêu của Ấn Độ trong không gian Ấn Độ Dương. Tháng 12/2019, trong cuộc đối thoại 2+2 cấp bộ trưởng Mỹ – Ấn, danh sách lợi ích chung của hai nước đã được Ngoại trưởng Michael R. Pompeo và Bộ trưởng Quốc phòng Mark T. Esper cùng những người đồng cấp Ấn Độ, Bộ trưởng Quốc phòng Rajnath Singh và Bộ trưởng Ngoại giao S. Jaishankar, đồng khẳng định. Hai nước mong muốn hòa bình và thịnh vượng cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và hợp tác trong lĩnh vực này cùng với Nhật Bản và Australia. Hai nước cũng có mục tiêu ở cấp khu vực đối với Ấn Độ Dương, cụ thể là biến nơi đây thành khu vực lưu thông tự do trên biển, và bảo vệ các vùng đánh bắt cá, chống ô nhiễm và thực hiện thăm dò khoa học biển ở khu vực này. Về mặt chính trị, cả hia nước đều đấu tranh cho hòa bình và tự do, do đó Mỹ ủng hộ Ấn Độ ứng cử vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Cả hai nước cũng đang chiến đấu chống lại chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo dưới mọi hình thức.

Các công nghệ liên quan đến hàng không vũ trụ và vũ khí hạt nhân cũng được quan tâm. Điều này cho phép các hoạt động đầu tư của Mỹ để xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ấn Độ trở nên dễ dàng hơn. Trên thực tế, Ấn Độ đang trở thành đồng minh lớn và khách hàng không thể thiếu của Mỹ. Những công nghệ hiện đại nhất đã được Mỹ bán cho Ấn Độ, do vậy, có thể khẳng định rằng các công ty Ấn Độ sẽ hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia Mỹ.

(còn tiếp)

Nguồn: www.diploweb.com

TLTKĐB – 07/11/2022

Quan hệ Trung Quốc – Philippines và bài học với các quốc gia Đông Nam Á


Trang mạng aspistrategist.org.au của Viện Chính sách Chiến lược Australia ngày 13/2 đăng bài viết đánh giá về những thay đổi trong quan hệ Trung Quốc và Philippines thời gian gần đây và một số bài học cho các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á trong quan hệ với Bắc Kinh.

Gần 4 năm sau, việc Trung Quốc không ngừng bắt nạt và áp dụng chính sách “bên miệng hố chiến tranh” đối với Philippines và các quốc gia Đông Nam Á khác liên quan tới những yêu sách mâu thuẫn nhau và những đặc quyền trên Biển Đông đã phá hỏng thời kỳ “đầy thiện ý” của ông Duterte dành cho Bắc Kinh và kéo Manila lại gần hơn với Washington. Trước khi đặt chân đến Bắc Kinh, ông Marcos Jr. thừa nhận rằng “các vấn đề hàng hải… không phải là tất cả mối quan hệ giữa hai nước” nhưng nhấn mạnh rằng xung đột ở Biển Đông vẫn là một “mối quan ngại đáng kể”.

Áp dụng nghệ thuật “xoay trục” địa chính trị, Chủ tịch Tập Cận Bình chủ yếu tránh né xung đột Biển Đông trong cuộc gặp với ông Marcos Jr. và tiếp tục đưa ra những hứa hẹn như trước đây về việc hai nước tăng cường phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Một loạt sáng kiến được đưa ra trong cuộc gặp, bao gồm các dự án phát triển dầu khí chung, đầu tư năng lượng tái tạo, tăng cường thương mại và một đường dây nóng giải quyết khủng hoảng để giải quyết các tranh chấp hàng hải.

Hành trình điều chỉnh hướng tới hòa bình trên biển là cơ sở thúc đẩy Bắc Kinh quyết định khôi phục quan hệ với Manila và các nước láng giềng khác bằng cách quay trở lại câu chuyện cũ về không can thiệp và “hợp tác” liên châu Á. Các hành động và tuyên bố gần đây, như cam kết rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ sử dụng sức mạnh quân sự để “bắt nạt” các quốc gia nhỏ hơn, cho thấy Trung Quốc thừa nhận chiến dịch kéo dài hàng thập kỷ của họ nhằm thống trị Biển Đông đã gây hại nhiều hơn là có lợi. Bằng cách chấp nhận “các kết quả hòa bình”, Bắc Kinh tìm cách biến mình thành một lực lượng tốt trong khu vực, một cường quốc có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo các vấn đề châu Á được giải quyết bởi các nước châu Á – chứ không phải những nước ngoài khu vực “hung hăng” như Mỹ. Khi làm như vậy, Trung Quốc “tử tế và ôn hòa hơn” này cam kết hợp tác chứ không phải đối đầu, hài hòa chứ không hiếu chiến, để theo đuổi “kết quả đôi bên cùng có lợi”. Theo tờ Thời báo Hoàn Cầu, những kết quả này sẽ mở ra một “thời kỳ hoàng kim mới” trong quan hệ Trung Quốc – Philippines. Nhưng như người ta vẫn nói, “không phải tất cả những thứ lấp lánh đều là vàng”. Nếu chính quyền của ông Marcos Jr. kiên quyết duy trì các yêu sách của mình trên Biển Đông bất chấp chủ nghĩa trả đũa của Trung Quốc, Manila không thể quá thoải mái với cách tiếp cận “hợp tác” của Bắc Kinh.

Việc kiểm soát “các vùng biển gần” mang lại nhiều lợi ích cho phép Trung Quốc hiện thực hóa khái niệm chống tiếp cận/chống xâm nhập, củng cố triển khai sức mạnh trên khắp chuỗi đảo thứ nhất và nâng cao khả năng chống can thiệp đối với Washington và các đồng minh, đồng thời mở rộng vùng đệm an ninh để bảo vệ Trung Quốc. Ngoài ra, quyền kiểm soát “các vùng biển gần” (hay Biển Đông) hợp pháp hóa việc tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và chưa được khai thác, đồng thời bảo vệ các tuyến đường biển quan trọng mà giới lãnh đạo Trung Quốc tin rằng có thể bị đe dọa trong một cuộc xung đột với phương Tây.

Tuy nhiên, sau một thập kỷ cải tạo các rạn san hô đang tranh chấp thành các căn cứ quân sự, các màn phô diễn thể hiện chủ quyền, đánh chìm tàu các tàu cá, quấy rối các tàu khảo sát và tiếp tế, rùm beng tuyên truyền các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với 9/10 Biển Đông, chiến dịch “kiểm soát biển” của Trung Quốc đã phải trả giá đắt về địa chiến lược.

Theo báo cáo khảo sát Tình hình Đông Nam Á năm 2022, đánh giá quan điểm của các nhà lãnh đạo Đông Nam Á về một loạt vấn đề chính sách khu vực, chỉ 26,8% số người được hỏi tin tưởng Trung Quốc “làm điều đúng đắn”. Trong số những người được hỏi không tin tưởng Trung Quốc, có một nửa cho rằng Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự của mình để đe dọa lợi ích và chủ quyền của quốc gia họ”. Đồng thời, một số nước ASEAN đã tự tách mình khỏi Bắc Kinh bằng cách tăng cường quan hệ đối tác trong ASEAN và với “Nhóm Bộ tứ”. Các quốc gia khác, như Malaysia đã tăng ngân sách quốc phòng để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông.

Sự kiểm soát của Trung Quốc đối với Biển Đông không phải là một kết luận có thể đoán trước. Bắc Kinh đã điều chỉnh tính toán rủi ro khi cái giá phải trả của việc bị quốc tế lên án lớn hơn lợi ích của hành động hiếu chiến trên biển. Philippines, các quốc gia ASEAN và Nhóm “Bộ tứ” có thể tiếp tục áp đặt và báo hiệu cái giá mà Trung Quốc sẽ phải trả đó. Và điều nay sẽ cần tới việc triển khai sức mạnh cứng, bao gồm: máy bay phản lực, tàu hộ tống, tàu tuần tra, tàu tuần duyên và tên lửa.

Các đối tác Nhóm “Bộ tứ” nên bắt đầu đưa Philippines (và các quốc gia sẵn sàng khác) tham gia Sáng kiến Đối tác Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương về nhận thức trong lĩnh vực hàng hải để cùng đưa ra các nhận thức chung, chia sẻ thông tin và các giải pháp có mục tiêu. Các nhà lãnh đạo Nhóm “Bộ tứ” cũng nên đưa ra các chương trình kinh tế để đối phó với các đề xuất của Trung Quốc.

Hiện tại, quyết định của ông Marcos Jr. trong tháng này về việc cho phép Mỹ tạm thời và luân phiên tiếp cận 4 căn cứ quân sự và nối lại các cuộc tuần tra chung trên biển ở Biển Đông là một quyết định khôn ngoan vì điều này sẽ giúp tăng cường khả năng phòng thủ của Philippines, khả năng tương tác với các đồng minh và cam kết chống lại hành vi hung hăng trên biển của Bắc Kinh. Cần phải có nhiều sự hợp tác và phối hợp hơn nữa, mặc dù Marcos Jr. đã nói rõ rằng mối quan hệ quân sự đang phát triển giữa Mỹ và Philippines không gây ra mối đe dọa trực tiếp nào đối với Trung Quốc, cho dù đó rõ ràng là một phản ứng trực tiếp đối với hoạt động quân sự hóa và hủy hoại Biển Đông của Trung Quốc.

Nguồn: TKNB – 17/02/2023

Ý nghĩa quan trọng của việc kết nối đường sắt Trung Quốc – Việt Nam – Phần cuối


Bước nhảy vọng thương mại Trung – Việt và sự hòa nhập vào mạng lưới sản xuất

Động lực cơ bản hơn để thúc đẩy Việt Nam nhanh chóng kết nối đường sắt là mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam ngày càng giống với các vùng ven biển Trung Quốc trước đây. Sau va chạm thương mại Trung-Mỹ, tam giác thương mại mới Trung Quốc-Việt Nam-Mỹ dần hình thành và hội nhập sâu vào mạng lưới sản xuất châu Á.

Tỷ trọng ngành công nghiệp chế tạo của Việt Nam trong GDP đã tăng từ 13% cách đây 10 năm lên hơn 17% hiện nay, hàng năm kim ngạch bình quân đầu tư nước ngoài được Việt Nam thu hút chiếm 5% GDP, là tỷ lệ cao nhất trong khu vực Đông Á từ trước đến nay. Một số tổ chức xếp hạng tín dụng cũng nâng hạng Việt Nam lên BB, gọi là “ngôi sao mới nổi”. Tính đến tháng 10/2022, vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đạt gần 270 tỷ USD. Thậm chí, Ngân hàng thế giới (WB) dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm nay sẽ đạt 7,2%, cao nhất khu vực Đông Á.

Tăng cường hợp tác kinh tế thương mại với Trung Quốc là yếu tố bên ngoài quan trọng nhất mang lại thành tựu nổi bật của Việt Nam trong những năm qua. Ví dụ, dữ liệu của Trung Quốc cho thấy năm 2021, kim ngạch thương mại song phương đạt 230,2 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2020. Tính đến năm 2021, tổng vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam là 15,9 tỷ USD. Tính đến hết tháng 2/2022, giá trị hợp đồng dự án lũy kế của doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam là 71,7 tỷ USD.

Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, năm 2021, kim ngạch thương mại song phương là 165,8 tỷ USD, tăng 24,6% so với cùng kỳ năm 2020. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam. Xuất khẩu sang Trung Quốc năm 2021 đạt 55,9 tỷ USD, gấp 37 lần so với năm 2002.

Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là điện thoại di động và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, thiết bị cơ khí và linh kiện khác, máy ảnh, máy quay video và linh kiện, các loại sợi dệt; các mặt hàng nhập khẩu chính từ Trung Quốc là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, thiết bị cơ khí và những linh kiện khác, vải các loại, điện thoại di động và linh kiện, sản phẩm nhựa.

Nhìn nhận từ tác động của đại dịch COVID-19 và kinh tế thế giới suy thoái, tốc độ tăng trưởng cao của thương mại Trung-Việt là điều rất hiếm. Cục diện đó cũng phản ánh chiều sâu và bề rộng của sự hợp tác song phương. Cục diện đó không những do chuyển dịch ngành sản xuất vì cạnh tranh Trung-Mỹ, mà còn được hưởng lợi từ thương mại chuỗi giá trị ở châu Á đã vận hành trong nhiều năm.

Đối với Việt Nam, tham gia thương mại chuỗi giá trị mang lại lợi ích to lớn, không những thúc đẩy lực lượng lao động trình độ thấp và trung bình tham gia ngành cần nhiều lao động, mà còn có thể tiến vào thị trường quốc tế cho dù không cần thương hiệu riêng, thậm chí sản xuất những linh kiện của một số nhãn hiệu nổi tiếng.

Trên thị trường thế giới, 10 tháng đầu năm nay, xuất khẩu 6 mặt hàng của Việt Nam vượt 10 tỷ USD, mặt hàng đứng thứ nhất là điện thoại và linh kiện đạt 50 tỷ USD; thứ hai là sản phẩm điện tử, máy vi tính và linh kiện máy tính khoảng 47 tỷ USD; thứ ba là công cụ thiết bị cơ khí và phụ kiện, khoảng 38 tỷ USD; thứ tư là hàng dệt may khoảng 32 tỷ USD; thứ năm là giày dép khoảng 20 tỷ USD; đứng thứ sáu là gỗ và sản phẩm gỗ, khoảng 13,4 tỷ USD.

So sánh những sản phẩm của thương mại Trung-Việt, có thể thấy các mặt hàng thương mại Trung-Việt chiếm ưu thế trong cơ cấu thương mại của Việt Nam với thế giới. Xung đột Nga-Ukraine càng nâng cao địa vị thương mại của Việt Nam.

Ngày 01/8/2020, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU có hiệu lực. Từ tháng 8/2020 đến tháng 7/2022, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Liên minh châu Âu (EU) đạt 83,4 tỷ USD, tăng 24% so với giai đoạn 2016 – 2019. Năng lực cạnh tranh và thị phần của hàng hóa Việt Nam tại thị trường EU tăng lên rõ rệt, Việt Nam cũng trỗi dậy trở thành đối tác thươn gmại hàng hóa lớn nhất của EU trong khu vực ASEAN.

Ngoài ra, điều đáng chú ý là Việt Nam ngày càng trở thành thị trường thứ ba của nhiều công ty quốc tế nhằm tránh sự cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ. Ví dụ, tháng 6/2022, Công ty Apple đã chuyển dây chuyền sản xuất máy tính bảng từ Trung Quốc sang Việt Nam. Việt Nam là nước xuất khẩu sản phẩm điện tử, từ vị trí thứ 47 trong năm 2001 tăng lên thứ 10 năm 2020, giá trị xuất khẩu chiếm 1,8% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm điện tử của thế giới.

Trong bối cảnh đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm Bắc Kinh, hay Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tham dự Hội nghị cấp cao Đông Á tại Campuchia, khi hội đàm với các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều mong muốn Trung Quốc và Việt Nam tăng cường kết nối đường sắt, gia tăng số lượng hàng hóa Việt Nam đến nước thứ ba bằng đường sắt, mong muốn Trung Quốc sớm phê chuẩn dự án kết nối giao thông và cửa khẩu biên giới để mở cửa và nâng cấp khu vực biên giới.

Xét từ góc độ của Trung Quốc, Việt Nam gia nhập mạng lưới đường sắt xuyên Á sẽ càng mang lại hiệu ứng rộng lớn hơn. Việt Nam là quốc gia tích cực tham gia những hiệp định thương mại tự do, không chỉ là thành viên của Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), mà còn là bên đàm phán của Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (IPEF), đồng thời đã ký kết hiệp định thương mại tự do với EU. Dân số Việt Nam sắp vượt ngưỡng 100 triệu người, những nhà lãnh đạo Việt Nam linh hoạt, địa vị của Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài và ngoại thương toàn cầu dần tăng lên sẽ là quốc gia quan trọng ủng hộ thúc đẩy mở cửa thế giới và phát triển chung toàn cầu. Cục diện đó cũng rất quan trọng đối với sự phát triển và mở cửa đối ngoại của Trung Quốc trong tương lai.

Nguồn: www.comment.cfisnet.com

TLTKĐB – 08/01/2023

Ý nghĩa quan trọng của việc kết nối đường sắt Trung Quốc – Việt Nam – Phần II


Các tuyến Bắc Nam và Đông Tây khi kết nối đường sắt Việt Nam

Tăng cường kết nối, mở cửa ở cửa khẩu là sáng kiến do Việt Nam chủ động đề xuất. Theo Thông tấn xã Việt Nam, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định mong muốn duy trì chuỗi cung ứng thông suốt và tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa hai nước thông quan thuận lợi; tăng hạn ngạch hàng hóa Việt Nam đi qua Trung Quốc để đến một nước thứ ba bằng đường sắt; tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác vận tải đường không, đường bộ và đường sắt.

Khoản 1 phần 7 của Tuyên bố chung Trung-Việt được ký vào ngày 1/11 có nội dung: Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển hai nước, nhanh chóng trao đổi, ký kết Kế hoạch hợp tác giữa Chính phủ hai nước về thúc đẩy kết nối giữa Khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với Sáng kiến “Vành đai và Con đường”, triển khai hợp tác năng lực sản xấut, hợp tác xây dựng kết cấu hạ tầng và kết nối giao thông, sớm hoàn thiện đánh giá Quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng.

Điều 8 phần 7 nêu rõ: Tiếp tục đẩy mạnh mở cửa cửa khẩu/lối mở biên giới, thúc đẩy xây dựng kết cấu hạ tầng qua biên giới, trong đó tập trung trao đổi, thống nhất phương án kết nối đoạn đường sắt giữa ga Lào Cai (Việt Nam) với ga Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc).

Sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam đã đề xuất một kế hoạch táo bạo hơn. Theo “Chương trình nâng cao năng lực phục vụ liên vận đường sắt quốc tế đến năm 2030” do Bộ này trình chính phủ, Việt Nam sẽ tăng mạnh khối lượng xuất khẩu hàng hóa đường sắt từ 1,1 triệu tấn năm 2021 lên 4 – 5 triệu tấn vào năm 2030.

Chương trình này nối Hà Nội với Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn nhất ở phía Nam, về ý tưởng giống với tuyến đường sắt Bắc Kinh-Thượng Hải của Trung Quốc. Trong đó, kế hoạch xây dựng đường sắt cao tốc Bắc-Nam dự kiến đầu tư 56 tỷ USD, được chính phủ Nhật Bản lên kế hoạch phát triển, tuyến đường sắt sẽ tiếp tục kéo dài về phía Bắc và kết nối với Bằng Tường, Sùng Tá và Nam Ninh của Quảng Tây thông qua Đồng Đăng.

Hiện nay tuyến đường sắt từ Nam Ninh đến Sùng Tả đã đi vào hoạt động và tuyến đường sắt Sùng Tả-Bằng Tường dự kiến sẽ khai trương vào năm 2024. Trong tương lai, tuyến đường sắt cũng sẽ kết nối với các cảng lớn trong Hành lang đất liền-biển phía Tây như cảng Phòng Thành, sau đó hình thành logistics có phạm vi lớn hơn với liên vận đường sắt – đường biển của cảng thương mại tự do Hải Nam.

Một tuyến đường sắt khác là tuyến Đông Tây với trung tâm là Hà Nội, hướng Đông đến cảng Hải Phòng, kết nối Lào Cai với Hà Khẩu của Vân Nam về phía Tây Bắc, tiếp đó kết nối với Côn Minh, có thể kết nối với tuyến đường sắt Trung Quốc-Lào bắt đầu từ Côn Minh. Trên thực tế, tháng 3/2019, tuyến đường sắt Vân Nam-Việt Nam đã khai trương tuyến liên vận đường biển-đường sắt.

Việt Nam hội nhập sâu hơn vào mạng lưới đường sắt xuyên Á đang hình thành

Với chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, quan hệ Trung-Việt cũng bước sang một giai đoạn phát triển mới. Theo tuyên bố của Việt Nam, quan hệ với Trung Quốc được coi là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay bất ổn và khó lường gia tăng, từ cân nhắc chính trị, Việt Nam cũng cần tăng cường hợp tác với Trung Quốc.

Trung Quốc nhiều năm giữ vững vị thế đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và là đối tác thương mại lớn thứ 6 thế giới của Trung Quốc, năm 2021 kim ngạch thương mại song phương lên tới 230 tỷ USD.

Tuy Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng, nhà cung cấp viện trợ phát triển chính thức lớn nhất và là đối tác xuất khẩu lao động lớn thứ hai của Việt Nam, nhưng tiềm năng phát triển của Nhật Bản còn kém xa Trung Quốc. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đạt 123 tỷ USD vào năm 2021 và là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam nhưng chỉ là nước đầu tư đứng thứ 11 vào Việt Nam. Năm 2022, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ thấp hơn so với xuất khẩu sang Trung Quốc và Mexico.

Việt Nam là hình mẫu của mô hình phát triển kinh tế hướng ngoại, do tác động của lạm phát toàn cầu gia tăng và biến động tỷ giá hối đoái nên tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2023 sẽ thấp hơn năm 2022. Để ổn định tình hình kinh tế vĩ mô, Việt Nam mong muốn đẩy nhanh đầu tư vào các cơ sở công cộng trong nước, tất nhiên bao gồm cả xây dựng cơ sở hạ tầng.

Về mục tiêu trung và dài hạn, Việt Nam sẽ hội nhập sâu hơn vào mạng lưới tuyến đường sắt xuyên Á đang hình thành và tận dụng tốt cơ hội do sự phát triển của Trung Quốc mang lại. Việt Nam đồng ý đi sâu thảo luận kết nối đường sắt, một trong những cân nhắc là Việt Nam kết nối thương mại với Trung Á và châu Âu thông qua tuyến đường của Trung Quốc

Tháng 3/2019, hành lang vận tải đường sắt Việt Nam-Trung Quốc-Kazakhstan-châu Âu chính thức được đưa vào hoạt động, có thể gọi đây là tuyến đường liên vận Việt Nam-châu Âu phiên bản Việt Nam. Lô hàng đầu tiên là sản phẩm điện tử do công ty Hàn Quốc vận chuyển đến Duisburg, Đức, mất 22 ngày. Tháng 10/2021, Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam nghiên cứu dự án đường sắt Lào Cai-Hà Khẩu, có kế hoạch kết nối với công trình cải tạo đường ray của Trung Quốc.

Việc xây dựng đường sắt trong lãnh thổ Trung Quốc và vận tải xuyên biên giới tiến triển nhanh chóng. Một mặt, ngoài tuyến Ngọc Khê, Trung Quốc đã bắt đầu xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Di Lặc-Mông Tự thuộc châu tự trị dân tộc Cáp Nê-Di Hồng Hà từ năm 2015, dự báo sẽ được đưa vào khai thác trong năm nay, điều này sẽ giúp tăng đáng kể năng lực vận chuyển hành khách của mạng lưới đường sắt Vân Nam đến Đông Nam Á.

Đồng thời, tuyến đường sắt Trung Quốc-Việt Nam ngày càng mở rộng đến các khu vực miền Trung và miền Tây của Trung Quốc. Ví dụ, đầu tháng 6/2022, phương thức “Đường sắt tốc hành” của khu vực hải quan xuyên quốc gia từ Trùng Khánh đến Việt Nam đã được triển khai, đánh dấu tuyến đường sắt liên vận Trung Quốc – Việt Nam bước vào thời kỳ mới. Cửa ngõ đường sắt vào Việt Nam là Bằng Tường của Quảng Tây. Tính đến cuối tháng 10, tổng cộng có 238 chuyến tàu liên vận xuyên biên giới Trung Quốc-Việt Nam đã được khai thác trong năm 2022, tăng hơn 178% so với cùng kỳ năm 2021. Điều đáng chú ý là tiến triển của việc xây dựng tuyến đường sắt cao tốc từ cảng Phòng Thành của Quảng Tây đến Phòng Đông thuộc Đông Hưng, thành phố biên giới Trung-Việt đang tiến triển nhanh chóng, dự kiến hoàn thành và đưa vào khai thác năm 2023.

(còn tiếp)

Nguồn: www.comment.cfisnet.com

TLTKĐB – 08/01/2023

Ý nghĩa quan trọng của việc kết nối đường sắt Trung Quốc – Việt Nam – Phần I


Nhìn lại lịch sử, tuyến đường sắt liên vận Trung Quốc-Việt Nam được đi vào khai thác phản ánh diễn biến nhanh chóng của một thế kỷ với nhiều thay đổi lớn. Triển vọng tương lai, việc kết nối đường sắt Trung Quốc-Việt Nam sẽ trở thành dấu mốc quan trọng cho sự trỗi dậy của nền kinh tế châu Á với Trung Quốc là trung tâm.

Gần đây, việc xây dựng mạng lưới đường sắt được sự chỉ đạo cấp cao giữa Trung Quốc và Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của quốc tế.

Ngày 01/11, khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sang thăm Trung Quốc, Trung Quốc và Việt Nam đã ra Tuyên bố chung về tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung-Việt, đã đề cập đến việc tăng cường hơn nữa kết nối song phương, đặc biệt là để giải quyết các vấn đề khác nhau về khổ đường sắt giữa hai nước.

Nội dung này ngay lập tức thu hút sự chú ý quốc tế, trong một bài báo giữa tháng 11, tờ “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng” (SCMP) dẫn lời ông Lampton – chuyên gia nổi tiếng người Mỹ về Trung Quốc: Việt Nam lo ngại bỏ lỡ cơ hội vào mạng lưới đường sắt xuyên Á do Trung Quốc xây dựng, còn Trung Quốc sẽ tăng cường hơn nữa địa vị trung tâm trong hệ thống kinh tế của Đông Á và Đông Nam Á.

Nhìn lại lịch sử, sự kiện kết nối đường sắt Trung-Việt đã phản ánh quá trình thay đổi nhanh chóng trong 100 năm qua; nhìn về tương lai, sự kết nối đường sắt Trung-Việt sẽ trở thành tiêu chí quan trọng về sự trỗi dậy của kinh tế châu Á với Trung Quốc là trung tâm.

Sự thay đổi lớn 100 năm qua của tuyến đường sắt quốc tế Trung-Việt

Việc xây dựng tuyến đường sắt xuyên biên giới giữa Trung Quốc và Việt Năm bắt nguồn từ đầu thế kỷ 20, đó là thời kỳ thay đổi lớn khi đường sắt bắt đầu ra khỏi lục địa châu Âu và lan rộng sang 4 châu lục.

Sau Chiến tranh Giáp Ngọ (Trung-Nhật 1894-1895), quyền xây dựng đường sắt của Trung Quốc dần dần bị các nước đế quốc thâu tóm. Năm 1903, chính quyền nhà Thanh và Pháp ký hiệp định xây dựng tuyến đường sắt Vân Nam-Việt Nam, cho phép Pháp xây dựng tuyến đường sắt Vân Năm-Việt Nam tại Vân Nam với quyền khai thác 80 năm.

Có nguồn tin cho biết, tuyến đường sắt từ Hải Phòng Việt Nam đến Côn Minh Trung Quốc tiêu tốn 95 triệu franc vào thời điểm đó và là dự án ở thuộc địa tham vọng nhất trong lịch sử nước Pháp, với tổng chiều dài gần 900 km, trong đó có khoảng 500 km ở Trung Quốc. Đây cũng là tuyến đường sắt duy nhất ở Trung Quốc sử dụng khổ 1000 mm, được đưa vào sử dụng từ tháng 4/1910.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tuyến đường sắt Vân Nam – Việt Nam từng bị quân đội Nhật Bản kiểm soát. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Trung Hoa dân quốc và Chính phủ Pháp đã ký một thỏa thuận bãi bỏ Hiệp định đường sắt Vân Nam – Việt Nam năm 1903.

Sau khi thành lập nước Trung Quốc mới, Chính phủ Trung Quốc bắt đầu sửa chữa tuyến đường sắt bị phá hoại trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đồng thời năm 1955, tuyến đường sắt từ Bằng Tường Quảng Tây đến Hà Nội được khai trương. Tháng 4/1961, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã đi tuyến đường sắt Bằng Tường – Hà Nội và gặp nhà lãnh đạo Hồ Chí Minh tại Bằng Tường.

Bước sang thế kỷ 21, do các tuyến đường cũ kỹ và các vấn đề quản lý vận hành, tuyến đường sắt này đã ngừng vận chuyển hành khách. Cùng thời điểm đó, Trung Quốc và ASEAN đã ký hiệp định khu vực thương mại tự do, vì vậy Cục Đường sắt Nam Ninh đã bổ sung tà vẹt mềm cho đường sắt ở Nam Ninh và Hà Nội. Đây là tiền thân của vận tải hành khách xuyên biên giới Trung Quốc – Việt Nam trong thời kỳ mới.

Tuyến vận tải hàng hóa đường sắt quốc tế điện khí hóa mới giữa Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu khai thác vào tháng 12/2014. Việc khai trương tuyến đường sắt từ thành phố Mông Tự, thủ phủ của châu tự trị dân tộc Cáp Nê, Di Hồng Hà, đến Hồng Hà, thủ phủ của huyện tự trị dân tộc Dao Hà Khẩu đã được khai trương và kết nối với thành phố Lào Cai. Trước đó, tuyến đường sắt Ngọc Khê – Mông Tự đã đi vào khai thác đầu năm 2013, việc cải tạo mở rộng tuyến đường sắt Côn Minh – Ngọc Khê đã hoàn thành vào năm 2016. Tuyến đường sắt Trung – Việt Bắt đầu gia nhập tuyến đường sắt xuyên Á.

Tuy nhiên, hàng hóa Việt Nam vẫn sử dụng phương thức truyền thống khi quá cảnh qua Trung Quốc sang châu Âu, do khổ đường ray của hai nước khác nhau, đến biên giới hàng hóa cần chuyển sang đường ray khác. Đường sắt Việt Nam sử dụng khổ hẹp 1000 mm do người Pháp thiết kế, còn tuyến đường sắt Trung Quốc sử dụng khổ đường sắt quốc tế 1435 mm. Hậu quả của việc chuyển tuyến là khối lượng hàng hóa vận chuyển đường sắt giữa Trung Quốc và Việt Nam không lớn.

Tháng 11/2015, Trung Quốc và Việt Nam đã ký “Văn bản troa đổi nghiên cứu tính khả thi Dự án quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải PHòng” của Việt Nam, tổng chiều dài tuyến đường sắt khoảng 390 km, khi đó dự báo tổng số vốn đầu tư để cải tạo là 4,4 tỷ USD.

Tuy nhiên, sau nhiều năm kể từ đó, Trung Quốc và Việt Nam không ngừng đàm phán về phương án nối khổ đường sắt và các thế lực bên thứ ba cũng can thiệp, họ không muốn Trung Quốc và Việt Nam nhanh chóng xúc tiến kế hoạch kết nối khổ đường sắt. Ví dụ, trong một báo cáo đánh giá năm 2017, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đã nhận định tiêu cực đối với kế hoạch đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai- Hà Nội – Hải Phòng do Trung Quốc đề xuất. Do đó, mặc dù Việt Nam chính thức tham gia dự án “Vành đai và Con đường” vào tháng 11/2017, nhưng phải đến tháng 7/2021 mới chính thức tham gia dự án tuyến đường sắt liên vận Trung Quốc – châu Âu.

(còn tiếp)

Nguồn: www.comment.cfisnet.com

TLTKĐB – 08/01/2023

Cuộc chiến Ukraine làm biến đổi cục diện thế giới như thế nào?


Ngày 24/02/2023 là tròn một năm ngày Nga mở màn cuộc tấn công Ukraine. Cuộc can thiệp quân sự mà Chính quyền Putin dự kiến tiến hành chớp nhoáng, rút cục đã kéo dài và chưa có dấu hiệu sớm chấm dứt. Sự hậu thuẫn mạnh mẽ của phương Tây đã giúp Ukraine khắng cự, nhưng các hệ quả của chiến tranh tại Ukraine vượt xa cuộc xung đột vũ trang giữa hai nước láng giềng.

Theo nhiều nhà quan sát, cuộc chiến Nga-Ukraine đã và đang “thay đổi cục diện địa chính trị toàn cầu”. Hãng tin AFP (Pháp) có bài tổng hợp đáng chú ý về chủ đề này, nhấn mạnh đến cuộc chiến tại châu Âu một mặt đã làm gia tăng xung đột ở nhiều nơi, mặt khác “củng cố thế đối đầu giữa hai khối lớn”, một bên với trung tâm là Mỹ, bên kia là Trung Quốc.

Đẩy nhanh thế giới đến thế lưỡng cực Mỹ-Trung

Tháng 12/2022, Đại diện cấp cao Liên minh châu Âu (EU) về chính sách an ninh và đối ngoại Joseph Borrell thừa nhận, thế giới đang bước vào cục diện “đa cực trong hỗn loạn”, nơi “mọi thứ đều có thể trở thành vũ khí”, từ năng lượng, dữ liệu, cho đến cơ sở hạ tầng, di dân… Tất cả đều có thể biến thành vấn đề địa chính trị, hay nói cách khác là sự cạnh tranh, đối đầu giữa các khối, các nhóm và các liên minh.

Gần như tất cả các khu vực trên thế giới đã trở thành các địa bàn đọ sức, tranh giành ảnh hưởng giữa Trung Quốc, EU, Mỹ, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ (trên các phương diện đầu tư cho cơ sở hạ tầng, thỏa thuận thương mại, quân sự hay ngoại giao). Cuộc tấn công Ukraine của Nga làm lung lay thế cân bằng vốn đã mong manh nói trên của các quan hệ quốc tế, và đặc biệt làm suy yếu vị thế của Nga tại khu vực ảnh hưởng truyền thống tại các nước cộng hòa Liên Xô cũ ở Trung Á, mang lại cho cường quốc khu vực Thổ Nhĩ Kỳ một vị thế quan trọng hơn.

Tuy nhiên, đối với một số chuyên gia, tình trạng “tái phối trí trong hỗn loạn” hiện nay chỉ mang tính chất quá độ. Cuộc chiến tại Ukraine rút cuộc sẽ dẫn đến “sự suy yếu của Nga và châu Âu” và “hai bên hưởng lợi chủ yếu từ cục diện này có thể chính là Mỹ và Trung Quốc”.

Chiến lược “bắt cá hai tay” của Bắc Kinh giai đoạn quá độ

Chiến lược bắt cá hai tay của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh tại Ukraine hiện là điểm nổi bật của cục diện quốc tế, đang dẫn đến việc củng cố thế lưỡng cực của thế giới. Bắc Kinh một mặt ủng hộ Moskva, nhưng mặt khác cố gắng “làm sao cho việc ủng hộ Nga ở mức độ chấp nhận được với phương Tây”, để hai bên không trở thành thù địch. Quan hệ Trung-Nga đa chiều và phức tạp. Chuyên gia về châu Á Alice Ekman thuộc Viện Nghiên cứu an ninh EU (EUISS) vạch rõ việc Trung Quốc siết chặt quan hệ với Nga. Trao đổi mậu dịch Trung-Nga trong năm qua tăng hơn 30%, đạt mức kỷ lục 190 tỷ USD.

Tuy siết chặt quan hệ kinh tế với Nga nhưng Trung Quốc cũng chú ý giữ một khoảng cách đủ lớn để không tự biến thành địch thủ của phương Tây. Bắc Kinh không hậu thuẫn Moskva giống như các nước đồng minh và đối tác ủng hộ Kiev trong cuộc chiến với Nga. Bắc Kinh không cung cấp cho Moskva nhiều vũ khí và trang thiết bị quân sự.

Nga vùng vẫy, tránh rơi xuống vị thế “chư hầu”

Theo chuyên gia Agathe Demarais, Giám đốc Trung tâm phân tích rủi ro kinh tế EUI của tập đoàn truyền thông Anh The Economist, Trung Quốc ở “thế thượng phong” trong quan hệ với Nga. Bắc Kinh có thể nhận được những gì mình cần, nhưng Moskva thì không. Cái giá phải trả với Nga là, để đánh đổi lấy sự đồng thuận “về ý thức hệ” với Trung Quốc, Nga bị trói buộc phải chấp nhận thua thiệt về kinh tế.

Tuy nhiên, theo ghi nhận của chuyên gia chính trị quốc tế Pierre Razoux, thế yếu tương đối của Nga trong quan hệ với Trung Quốc cũng được Moskva điều chỉnh với nỗ lực mở rộng phạm vi ảnh hưởng trong các quan hệ kinh tế, chiến lược với Thổ Nhĩ Kỳ, khu vực Trung Đông, Iran, châu Phi, để tránh bị biến thành chư hầu của Trung Quốc “về mặt kinh tế và chiến lược”.

Xét về nhiều mặt, cuộc tấn công Ukraine của Nga đẩy nhanh thế giới đến thế lưỡng cực, với một bên có trung tâm là Mỹ, bên kia là Trung Quốc. Trong xu thế này, vị thế của EU đang còn là một dấu hỏi lớn. Bài tổng hợp của AFP đặt câu hỏi: “Cuộc chiến này liệu có cho phép EU khẳng định vai trò là một tác nhân chủ chốt hay đẩy EU xuống hàng nhân vật phụ”, một trợ thủ của Washington.

Vị thế của EU – câu hỏi để ngỏ

Theo một quan chức cao cấp của EU từng tham gia các quyết định lớn của EU ngay từ đầu chiến tranh, EU đã chứng tỏ “khả năng kháng cự, khả năng phản ứng rất nhanh chóng” trong việc hậu thuẫn Ukraine về quân sự, tiếp đón người tị nạn, giảm phụ thuộc vào năng lượng của Nga… EU đã đáp ứng được các đòi hỏi của tình thế trong hiện tại, nhưng việc EU có chuẩn bị cho tương lai và vị trí trên bàn cờ thế giới hay không vẫn là câu hỏi lớn để ngỏ. Chuyên gia Agathe Demarais đặt câu hỏi: Liệu EU có trở thành “một khối thứ ba” hay đi theo Mỹ?

Hiện EU đang dồn lực cùng với Mỹ và các đồng minh đối tác khác, ủng hộ mạnh mẽ Ukraine trong cuộc chiến, nhưng rõ ràng, quan hệ mật thiết với Mỹ sẽ không thể tiếp tục như với Chính quyền Biden hiện nay. EU buộc phải chuẩn bị cho kịch bản phe cực đoan trong đảng Cộng hòa có quan điểm “Nước Mỹ trên hết” như kiểu Donald Trump lên nắm quyền, thay đổi lớn có thể sẽ sớm xảy ra trong một hoặc hai nhiệm kỳ tổng thống Mỹ.

Cuộc chiến tại Ukraine – bước đệm cho chiến tranh khốc liệt hơn ở châu Á

Nếu như châu Âu là tâm điểm của xung đột toàn cầu trong thời điểm hiện tại, thế đối đầu chủ yếu của thế giới trong thời gian tới sẽ là khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Cuộc chiến tại Ukraine được xem như một bước chuẩn bị cho cuộc chiến tương lai hứa hẹn sẽ khốc liệt hơn.

Trong một phát biểu trên tờ Financial Times (Anh) mới đây, Tướng James Bierman – Tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Nhật Bản cho biết, cuộc chiến chống Nga của người Ukraine hiện cho phép chuẩn bị cho một cuộc xung đột với Trung Quốc liên quan đến Đài Loan. Ngay từ năm 2014, Mỹ đã chuẩn bị cho xung đột tương lai, huấn luyện quân đội Ukraine, dự trữ các phương tiện… Và đây là điều người Mỹ đang làm cùng với Nhật Bản, Philippines hay các đồng minh, đối tác khác.

Tóm lại, cuộc chiến chống Nga tại Ukraine được Mỹ và các đồng minh coi như một bước đệm quan trọng để chuẩn bị cho cuộc đối đầu với Trung Quốc tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, với tâm điểm là Đài Loan, hòn đảo mà Bắc Kinh khẳng định nếu cần sẽ dùng sức mạnh để “thu hồi”.

Khởi đầu cho “sự cáo chung” của thị trường toàn cầu

Ngoài phương diện quân sự, các trừng phạt kinh tế quyết liệt của phương Tây chống Nga do cuộc chiến tại Ukraine cũng đang giúp định hình một tình thế quốc tế hoàn toàn khác trước. Lãnh đạo tập đoàn năng lượng Pháp Total Energies Patrick Pouyanné nói đến “sự cáo chung của thị trường toàn cầu”. Việc khối G7 áp giá trần đối với dầu mỏ để siết chặt trừng phạt Nga là một trong những biện pháp không thể có trước đó đối với nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa dựa trên luật pháp quốc tế.

Theo chuyên gia Agathe Demarais, đại dịch COVID-19 và cuộc chiến tại Ukraine đã đẩy nhanh xu thế thị trường toàn cầu bị “xé nhỏ” vốn đã bắt đầu trước chiến tranh Ukraine.

Nghèo đói gia tăng – hậu quả địa chính trị khó lường

Hậu quả trực tiếp của chiến tranh Ukraine là giá cả thực phẩm, năng lượng và các nhu cầu căn bản của con người tăng vọt. Sự tác động của thực trạng này đến các khối quốc gia khác nhau rất khác biệt. Đây cũng là một hệ quả lớn và khó lường về địa chính trị của cuộc chiến tại Ukraine.

Nguồn: TKNB – 17/02/2023

Đánh giá Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ 2022 – Phần cuối


Ảo tượng tai hại về việc “có tất cả”

Năm 2015, Anne-Marie Slaughter đã đáp lại Sandberg bằng một bài viết với tựa đề hấp dẫn “Tại sao phụ nữ vẫn không thể có tất cả?”. Trong bài viết này, Slaughter cho rằng lập luận về việc dấn thân gây ảo tưởng tai hại. Trước vô vàn rào cản cấu trúc và văn hóa gây khó khăn hơn cho việc kết hợp sự thành công trong công việc với sự hòa hợp trong gia đình, những phụ nữ ủng hộ lập luận của Sandberg cuối cùng sẽ đi đến chỗ tự trách mình vì không đạt được tất cả. Những trải nghiệm riêng của Slaughter khi cố gắng vừa làm tròn vai trò một quan chức cấp cao trong Chính quyền Obama vừa thực hiện trách nhiệm với gia đình cuối cùng cũng khiến bà tin rằng ai rồi cũng sẽ buộc phải đưa ra những lựa chọn khó khăn về việc phải ưu tiên điều gì.

Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ 2022 không ưu tiên bất cứ điều gì. Hay nói đúng hơn, mặc dù văn kiện chứa đựng mộ vài dấu hiệu ngầm của sự ưu tiên – chẳng hạn như phần nói về Trung Đông được đặt sau phần nói về một vài khu vực khác – nhưng những dấu hiệu này mâu thuẫn với nội dung văn kiện. Ví dụ, văn kiện khẳng định Trung Quốc là thách thức địa chính trị lớn nhất của Mỹ. Tuy nhiên, nếu so sánh phần nói về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương với phần nói về châu Âu, bạn sẽ khó có thể nhận ra rằng có sự khác biệt về mức độ ưu tiên.

Quả thực, đối với từng khu vực địa lý hoặc lĩnh vực chức năng được thảo luận trong văn kiện, danh sách những thách thức cần được giải quyết tiếp tục dài thêm: di cư, phát triển kinh tế, hợp tác công nghệ, tăng cường các thể chế toàn cầu, quản lý hệ thống răn đe về an ninh ở Trung Đông, khí hậu, năng lượng và an ninh lương thực. Không có phần thảo luận về việc phải đánh đổi thứ này lấy thứ kia hay tranh cãi về vấn đề liệu việc chú trọng đến châu Âu có làm giảm giá trị của châu Á hay không, mà chỉ có sự khẳng định rằng việc mở rộng can dự vào từng khu vực sẽ mang lại những lợi ích toàn cầu thông qua một quá trình nào đó chưa rõ ràng.

Chỉ có một thay đổi duy nhất về nội dung chính sách. Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ 2022 cuối cùng cũng thừa nhận điều mà nhiều người ở Washington đã nhận ra từ lâu: Kỷ nguyên thay đổi chế độ và xây dựng quốc gia đã kết thúc. Đây là lựa chọn được chào đó, theo đó chính quyền cuối cùng cũng công khai thừa nhận điều mà những người chỉ trích Cuộc chiến chống khủng bố đề cập đến trong nhiều thập kỷ: Việc sử dụng vũ lực để tái tạo xã hội gần như là không thể.

Trên thực tế, văn kiện còn đi xa hơn với lập luận rằng việc chính quyền những nhiệm kỳ gần đây chú trọng truyền bá dân chủ là hành động sai lầm. Văn kiện viết: “Chúng tôi không cho rằng cần phải tái tạo các chính phủ và xã hội ở mọi nơi theo hình ảnh của Mỹ để được an toàn”. Tu nhiên, Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ 2022 tiếp tục ủng hộ nguyên trạng trong hầu hết các lĩnh vực của chính sách an ninh quốc gia trong khi bổ sung thêm những trách nhiệm mới. Văn kiện có thể không sử dụng cụm từ “cạnh tranh nước lớn” từ thời Trump, nhưng lại hoàn toàn ủng hộ chính sách đầy tham vọng này.

Có lẽ cách tiếp cận được lựa chọn này có thể phát huy hiệu quả: Việc tái khẳng định sức mạnh của Mỹ trên trường quốc tế có thể mang lại lợi ích, cho phép Mỹ đạt được một vài trong số các mục tiêu đầy tham vọng của họ. Tuy nhiên, thực tế không hẳn như vậy. Sức mạnh của Mỹ hiện đã giảm tương đối so với năm 1992; Mỹ phải đối mặt nhiều đối thủ đáng gờm hơn về tài ch1inh và quân sự, và nền tảng trong nước của họ đã suy yếu. Lợi thế quân sự của Mỹ so với các nước khác đã giảm cả về chất lượng. Thế giới đang trở nên đa cực hơn. Mặc dù cuộc chiến ở Ukraine đã làm nổi rõ hơn nhiều thế mạnh của Mỹ, nhưng nó cũng phơi bày một số hạn chế đối với sức mạnh của họ.

Tuy nhiên, nghị trình này xét cho cùng không kém tham vọng so với Nghị trình tự do thời đơn cực, mà Tổng thống Geroge W. Bush (con) từng mô tả trong bài phát biểu nhậm chức lần thứ hai là không khác gì “mục tiêu tối thượng chấm dứt chế độ chuyên chế trên thế giới”. Chính quyền Biden không chỉ đưa ra chiến lược an ninh quốc gia – chiến lược tập trung vào an ninh và nhu cầu của người dân Mỹ – mà còn đưa ra cam kết xây dựng một thế giới công bằng hơn cho tất cả các nước, bất kể tầm vóc hay sức mạnh ra sao, trong việc thực thi quyền tự do lựa chọn để phục vụ lợi ích của họ.

Như tất cả những phụ nữ từng nỗ lực làm theo lời khuyên của Sandberg cuối cùng đã nhận ra, việc có tất cả thực sự là không thể. Người ta luôn phải đánh đối điều gì đó, cho dù nó liên quan đến việc ngôi nhà của bạn sạch đến đâu, bạn dành bao nhiêu thời gian cho công việc hay con cái bạn dành bao nhiều thời gian cho các thiết bị điện tử. Phần lớn các bậc phụ huynh còn đi làm đều ngầm xây dựng chiến lược để giải quyết vấn đề này, chấp nhận đánh đổi và lựa chọn các ưu tiên tương ứng. Những người không làm vậy sẽ rơi vào tình trạng kiệt sức.

Quả thực, dấu hiệu của một chiến lược tốt là việc nó phát huy hiệu quả các nguồn lực khan hiếm để đạt được mục tiêu. Như những người chú ý đến các cuộc tranh luận chính trị ở Mỹ đều biết, các nguồn lực của nước này là có hạn. Chi tiêu quốc phòng đã chiếm gần một nửa chi tiêu tùy nghi. Giới chuyên gia lo sợ rằng ngân sách quốc phòng trước năm 2023 có thể vượt quá 1000 tỷ USD/năm. Không chỉ có hạn chế về tài chính, năng lực quản lý và quân sự của Mỹ cũng có hạn. Việc chú ý đến một cuộc khủng hoảng hay một khuv ực nào đó hẳn sẽ khiến họ sao nhãng những vấn đề khác.

Tuy nhiên, Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ 2022 là một kế hoạch không có giới hạn hay lo ngại về nguồn lực khan hiếm. Trong khi tìm cách để có tất cả, Chính quyền Biden bác bỏ quan điểm, về việc phải  đưa ra những lựa chọn khó khăn để làm cho phương tiện phù hợp với mục tiêu. Theo đó, kế hoạch này hoàn toàn không có tính chiến lược.

Nguồn: Just Security – 14/10/2022

TLTKĐB – 02/11/2022

Đánh giá Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ 2022 – Phần đầu


Sheryl Sandberg, một trong những nữ lãnh đạo nổi tiếng nhất trong giới doanh nghiệp, đã xuất bản một cuốn sách mà sau này trở nên tai tiếng vào năm 2013, thời điểm bà vẫn là giám đốc điều hành của Facebook. Tiêu đề của cuốn sách, “Dấn thân”, làm rõ lập luận cơ bản của bà: Nếu phụ nữ tự tin hơn và thể hiện nó bằng cách tiến tới, thì họ có thể vượt qua những rào cản giới tính và văn hóa để thành công trong công việc. Sandberg viết: “Chúng ta kiềm chế chính mình theo những cách lớn lao cũng như nhỏ nhặt: thiếu tự tin, không dám giơ tay và lùi bước vào những thời điểm lẽ ra chúng ta nên dấn thân”.

Điều này cũng đúng với Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ 2022 của Tổng thống Joe Biden. Văn kiện tránh đưa ra những tuyên bố rầm rộ về việc nước Mỹ trở lại, vốn là đặc trưng trong năm đầu của kỷ nguyên hậu Trump, nhưng thông điệp mà văn kiện đưa ra thì vẫn vậy. Trong phần thư ngỏ giới thiệu chiến lược này, Biden viết: “Nhu cầu về vai trò lãnh đạo của Mỹ trên toàn thế giới chưa bao giờ lớn như lúc này. Chẳng có việc gì nằm ngoài khả năng của chúng ta”. Văn kiện ẩn ý rằng nếu Mỹ vẫn tự tin vào năng lực của mình, thì họ có thể giải quyết những vấn đề cấp bách nhất của thế giới. Đây là điều nguy hiểm vì nó có nguy cơ khiến Mỹ trở nên quá ôm đồm và quá sức trong giai đoạn có nhiều thay đổi đáng kể đối với cán cân sức mạnh toàn cầu.

Quả thực, văn kiện này là một danh sách dài những vấn đề và mối quan ngại cần phải giải quyết. Nó chính thức trói buộc chính quyền đương nhiệm vào khuôn khổ cạnh tranh nước lớn của Chính quyền Trump, cho dù theo cách tinh vi hơn và theo hướng cân nhắc nhiều hơn đến những khác biệt giữa Trung Quốc, Nga và các nước khác. Để làm điều đó, văn kiện này tập trung cả vào những vấn đề xuyên quốc gia có từ thời Obama – như biến đổi khí hậu và phòng dịch – coi đó là những vấn đề toàn cầu phải được giải quyết bên cạnh mối đe dọa chủ yếu từ Trung Quốc. Văn kiện đã bổ sung Bắc Cực và không gian vào phần nói về chiến lược theo khu vực, thậm chí còn đưa ra cam kết rằng Mỹ sẽ sử dụng thương mại vừa như một công cụ để cạnh tranh với Trung Quốc, vừa như một phương tiện để nâng cao phúc lợi cho người dân trong nước.

Ở mức độ nào đó, mọi chiến lược an ninh quốc gia đều gặp phải vấn đề này. Trong quá trình lấy ý kiến liên ngành, dự thảo văn kiện được bổ sung thêm nhiều vấn đề ưu tiên để làm hài lòng các khu vực bầu cử hành chính khác nhau. Tuy nhiên, chắc chắn là có tiền lệ cho việc làm rõ những lựa chọn để tránh ưu tiên một số khu vực hay chính sách tới mức gây tổn hại đến các khu vực hay chính sách khác trong văn kiện. Quả thực, đây hoàn toàn là lối nói ẩn dụng về chính sách “xoay trục sang châu Á” của Chính quyền Obama vốn được nhiều người tranh luận. Thế nhưng, trong văn kiện này, ảo tưởng “có tất cả” nghiêm trọng hơn là việc đó chỉ là một danh sách dài các mục tiêu của Mỹ, có cảm giác chân thực rằng nếu Mỹ thực sự nỗ lực, thì họ có thể có tất cả.

Văn kiện đưa ra cam kết nửa vời đối với khuôn khổ “dân chủ chống lại chuyên quyền” của chính quyền, trước khi thừa nhận rằng Mỹ phải hợp tác với các đồng minh dân chủ  và những nước không ủng hộ các thể chế dân chủ. Ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, văn kiện đưa ra lập luận rằng Mỹ từ lâu đã là nhà lãnh đạo thương mại và đầu tư khu vực, đồng thời còn khẳng định chính sách của Mỹ phải vượt ra ngoài khuôn khổ các thỏa thuận thương mại tự do truyền thống khi thúc đẩy các lợi ích của người lao động Mỹ.

Căng thẳng giữa các mục tiêu đầy tham vọng với các giới hạn thực tế có lẽ là điều đáng chú ý nhất trong việc xóa bỏ mọi tranh luận về vấn đề chuyển gánh nặng sang các đồng minh có năng lực ở châu Âu hoặc châu Á. Mặc dù ngày càng có nhiều người ở Washington – và ở một số thủ đô châu Âu – cho rằng Mỹ chưa phát huy đầy đủ tiềm năng của các đồng minh, nhưng văn kiện hầu như không đề cập đến vấn đề này. Văn kiện có đoạn viết: “Khi Mỹ thúc đẩy những đóng góp to lớn của mình vào việc nâng cao năng lực và khả năng sẵn sàng của NATO, Mỹ sẽ dựa vào các đồn gminh để tiếp tục đảm nhận trách nhiệm lớn hơn thông qua việc tăng cường chi tiêu, năng lực và đóng góp của họ”. Các sáng kiến cụ thể hay các khu vực đáng chú ý, nơi các nước châu Âu có thể chịu một phần gánh nặng của Mỹ, không được thảo luận.

(còn tiếp)

Nguồn: Just Security – 14/10/2022

TLTKĐB – 02/11/2022