Thế giới trải qua một năm nhiều biến động – Phần XV


XIV/ Châu Âu đối mặt với nhiều thách thức do khủng hoảng Ukraine gây ra

(Phùng Trọng Bình, Viện trưởng Viện nghiên cứu châu Âu, Viện khoa học xã hội Trung Quốc)

Năm 2022, cuộc khủng hoảng Ukraine khiến châu Âu trở thành tiêu điểm toàn cầu. Cuộc khủng hoảng này đã làm nổi bật những bế tắc an ninh cố hữu ở châu Âu, gây ra khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng, dẫn đến rủi ro kinh tế châu Âu suy thoái tăng lên rõ rệt. Đồng thời, do tác động của cuộc khủng hoảng Ukraine, quan hệ giữa các nước châu Âu với Nga, Mỹ, Trung Quốc đã có sự thay đổi và điều chỉnh mới.

“Bước ngoặt thời đại” mà châu Âu phải đối mặt

Ở châu Âu, nơi đang xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng, nhiều quốc gia coi năm 2022 là một “bước ngoặt lịch sử”. Ngày 27/2, tại Hội nghị đặc biệt của Quốc hội Đức, Thủ tướng Scholz cho rằng nước Đức và thế giới đang ở “bước ngoặt của thời đại”.

Năm 2022, châu Âu đã trải qua những thay đổi mạnh mẽ và sâu sắc nhất trong 30 năm kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Sự thay đổi này trước hết thể hiện ở trật tự an ninh. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, cục diện an ninh châu Âu đã do Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) đóng vai trò chủ đạo, mâu thuẫn giữa Liên minh châu Âu (EU) và Nga vẫn chưa được giải quyết căn bản, ngược lại ngày càng trầm trọng hơn do NATO tiếp tục mở rộng sang phía Đông. Bề ngoài, cuộc khủng hoảng Ukraine là xung đột vũ trang giữa Nga với Ukraine, nhưng thực chất đó là sự leo thang tranh chấp quyền chủ đạo an ninh giữa Nga với châu Âu và Mỹ.

Khủng hoảng Ukraine dẫn đến cuộc đối đầu mới giữa NATO và Nga. Tháng 6/2022, tại Hội nghị thượng đỉnh NATO ở Madrid, Nga được xác định lại là mối đe dọa trực tiếp nhất đối với an ninh châu Âu. Để tăng cường khả năng răn đe với Nga và ứng phó với xung đột giữa Nga và các nước thành viên NATO, NATO đã tăng cường triển khai quân đội ở Đông Âu, quân số của lực lượng phản ứng nhanh của NATO tăng từ 40.000 lên 300.000. NATO coi Nga là đối tượng răn đe và ngăn chặn toàn diện, tuyên bố chấm dứt thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh của châu Âu. Tháng 11/2022, Ba Lan tuyên bố sẽ xây dựng một bức tường ở biên giới vùng đất Kaliningrad của Nga, phải chăng sự kiện này mang ý nghĩa một bức màn sắt mới đang thiết lập ở châu Âu?

Châu Âu không chỉ bị bao phủ trong bóng tối của một cuộc Chiến tranh Lạnh mới mà suy thoái kinh tế cũng đang có nguy cơ xuất hiện. Gần đây, tạp chí The Economist của Anh đã đăng bài viết nhận định “mọi đèn cảnh báo đều nhấp nháy đỏ” trong nền kinh tế châu Âu. Báoc cáo dự báo kinh tế mùa Thu năm 2022 của Ủy ban châu Âu cho biết kinh tế của EU, Khu vực đồng tiền chung châu Âu (eurozone) và đa số các quốc gia thành viên dự kiến sẽ rơi vào suy thoái trong quý 4/2022 và tiếp tục suy thoái trong quý 1/2023. Ngày 22/11/2022, Báo cáo triển vọng kinh tế do Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) nêu rõ tốc độ tăng trưởng của 19 quốc gia thuộc khu vực đồng euro năm 2023 chỉ là 0,5%. Kinh tế Đức sẽ suy giảm 0,3% vào năm 2023 do phụ thuộc nhiều vào năng lượng của Nga. Kinh tế Anh sẽ tăng trưởng âm 0,4% vào năm 2023, chỉ tăng trưởng 0,2% vào năm 2024. Năm 2023, tuy kinh tế Pháp và Italy không rơi vào suy thoái nhưng cũng chỉ có thể duy trì mức tăng trưởng 0,6% và 0,2%.

Tình hình kinh tế nghiêm trọng mà châu Âu phải đối mặt chủ yếu do tình trạng thiếu năng lượng. Từ khi khủng hoảng Ukraine bùng nổ đến nay, EU đã áp đặt tổng cộng 8 đợt trừng phạt kinh tế đối với Nga, trừng phạt năng lượng là ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, cùng với các biện pháp trừng phạt leo thang, EU cũng rơi vào khốn quẫn vì thiếu năng lượng. Cuối tháng 9/2022, sau khi đường ống dẫn khí đốt tự nhiên Dòng chảy phương Bắc – 1 và Dòng chảy phương Bắc – 2 bị phá hoại, hầu hết các đường ống năng lượng nối liền châu Âu và Nga hoàn toàn bị cắt đứt, khiến khủng hoảng năng lượng châu Âu trở nên tồi tệ hơn. Cùng với giá năng lượng cao, chi phí sinh hoạt của người dân và chi phí sản xuất của doanh nghiệp các nước châu Âu tăng vọt. Số liệu của Cơ quan thống kê EU (Eurostat) cho thấy tỷ lệ lạm phát ở Eurozone lên tới 10,7% vào tháng 10/2022, mức cao kỷ lục. Trong số 19 quốc gia thành viên Eurozone, 11 nước có tỷ lệ lạm phát hai con số. Ngoài việc tiết kiệm năng lượng, tăng cường nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, các nước châu Âu hiện đang tích cực tìm kiếm nguồn năng lượng mới từ Mỹ, Trung Á, Bắc Phi và Trung Đông… Để đối phó với giá khí đốt tăng cao, Bộ trưởng Năng lượng của các quốc gia thành viên EU đã đạt được sự đồng thuận về việc mua chung khí đốt sau nhiều tháng đàm phán liên tục nhưng chưa đạt được thỏa hiệp về phương án áp giá trần khí đốt. Những nước như Đức, Hà Lan… lo ngại áp giá trần khí đốt sẽ khiến nguồn cung cho châu Âu giảm hơn nữa. Tháng 9/2022, trong Thông điệp Liên minh hàng năm của Ủy ban châu Âu (EC), Chủ tịch EC Von der Leyen thẳng thắn thừa nhận những ngày sắp tới sẽ không dễ dàng.

Lý tưởng “tự chủ chiến lược” vẫn tồn tại

Cuộc khủng hoảng Ukraine đã phủ bóng đen lên nỗ lực tự chủ chiến lược mà châu Âu theo đuổi. Những hành động gây thiệt hại do Tổng thống Mỹ Donald Trump tạo ra trong 4 năm ở Nhà Trắng khiến châu Âu nghi ngờ về độ tin cậy của Mỹ. Đại dịch COVID-19 bộc lộ tính mỏng yếu của chuỗi cung ứng và chuỗi sản xuất toàn cầu. Trong bối cảnh đó, những nước EU như Pháp đã yêu cầu giữ chủ quyền của châu Âu, thực hiện tự chủ về chiến lược, kinh tế và công nghệ. Tuy nhiên, đối mặt với cuộc khủng hoảng Ukraine, châu Âu phải có thái độ thực tế hơn đối với quyền tự chủ quốc phòng và quan hệ với Mỹ. Tháng 3/2022, EU công bố Định hướng chiến lược an ninh và quốc phòng, cam kết các quốc gia thành viên sẽ tăng mạnh chi tiêu quốc phòng, đến năm 2025 thành lập Lực lượng phản ứng nhanh châu Âu gồm 5000 người. Đồng thời các nước châu Âu cố gắng duy trì liên minh Âu – Mỹ, phấn đấu hình thành quan hệ hợp tác phân công rõ ràng giữa EU và NATO trong tương lai, đó là EU có năng lực tự xử lý khủng hoảng khu vực khi Mỹ không muốn can thiệp trực tiếp.

Điều cần coi trọng là cùng với việc thúc đẩy quá trình loại bỏ năng lượng của Nga, thì sự phụ thuộc kinh tế giữa châu Âu với Trung Quốc cũng bị hoài nghi. Những luận điệu như tách rời Trung Quốc, giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc, đa dạng hóa chuỗi cung ứng… liên tục xuất hiện. Mặc dù Thủ tướng Scholz phản đối rõ ràng việc tách rời Trung Quốc về kinh tế, nhưng việc giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc đã trở thành sự đồng thuận cơ bản của các tầng lớp khác nhau ở Đức. Bộ trưởng kinh tế Đức Habeck cho rằng trước đây Đức quá ngây thơ đối với Trung Quốc, giờ đây nước này cần đa dạng hóa thị trường và nguồn nguyên liệu.

(còn tiếp)

Nguồn: Tạp chí Tri thức thế giới (TQ) – số 24/2022

TLTKĐB 3-11/01/2023

Advertisement

Thách thức và cơ hội trong hợp tác an ninh Mỹ – Việt – Phần II


Khi mô tả sự phối hợp đầy thận trọng giữa Mỹ với Việt Nam vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, học giả Lewis Stern cho biết Việt Nam ban đầu do dự không muốn tham gia cuộc xét duyệt bắt buộc theo luật Leahy để nhận được hỗ trợ huấn luyện quân sự từ Mỹ. Cuối cùng, Việt Nam đã đồng ý để những người tham gia huấn luyện trải qua quá trình kiểm tra nhân quyền này – một minh chứng cho thấy cách tiếp cận thực dụng để tiếp nhận các điều khoản đi kèm hợp tác an ninh với Mỹ, cũng là bằng chứng cho thấy Việt Nam coi trọng hỗ trợ huấn luyện và trang bị quân sự của Mỹ. Sau đó, năm 2017, với cuộc chuyển giao tàu tuần duyên lớp Hamilton của USCG, Việt Nam đã chấp thuận các yêu cầu của Mỹ để tiếp nhận các trang thiết bị quốc phòng dư thừa trong chương trình bán trang thiết bị quốc phòng (EDA).

Tóm lại, bất chấp những lo ngại về nhân quyền trong quan hệ Việt – Mỹ, hai nước dường như đã nhất trí với một thỏa hiệp không mấy dễ dàng cho phép tăng cường hợp tác an ninh. Mỹ đã có thái độ thoải mái hơn trong những năm qua trong khi Việt Nam ngày càng chấp nhận các biện pháp kiểm soát và cân bằng đi kèm trong hợp tác an ninh với Mỹ. Cuối cùng, có lẽ vẫn còn những vấn đề đáng bận tâm khác mà hai nước cho là còn gây tổn hại hơn tới hợp tác an ninh. Từ quan điểm của Mỹ, mối quan hệ của Hà Nội với Bắc Kinh và Bình Nhưỡng hoặc cách tiếp cận của Hà Nội đối với an ninh mạng đều có vấn đề. Về phía Việt Nam, nước này lo ngại hợp tác quân sự công khai vượt ra ngoài ranh giới vốn có trong quan hệ Việt – Mỹ có thể tác động đến mối quan hệ Việt – Trung, do đó điều này đảm bảo Việt Nam vẫn duy trì nhất quán lập trường trung lập.

Quan hệ Việt – Trung

Việt Nam có mối quan hệ đầy sóng gió với Trung Quốc. Cả hai nước đều được Đảng Cộng sản lãnh đạo, có thế giới quan tương đồng và có mối quan hệ gần gũi từ trong lịch sử. Trung Quốc là đối tác thương mại, láng giềng địa lý lớn nhất và “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” duy nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, căng thẳng trong mối quan hệ bùng phát theo định kỳ. Trong những năm 1980, Trung Quốc nã pháo vào Việt Nam trên đường biên giới chung giữa hai nước, cô lập Việt Nam về mặt ngoại giao và hỗ trợ Khmer Đỏ trong cuộc chiến kéo dài với Việt Nam. Gần đây hơn, việc Trung Quốc theo đuổi vị thế bá chủ khu vực dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình đã làm phức tạp thêm thái độ nhường nhịn từ trong lịch sử của Việt Nam đối với Trung Quốc.

Tuyên bố “đường 9 đoạn” của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa đã xâm phạm Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Bắc Kinh củng cố tuyên bố này thông qua các hành động gây hấn đe dọa chủ quyền và quyền hàng hải của Việt Nam, đặc biệt nhắm vào lĩnh vực dầu khí ngoài khơi của nước này. Trong năm 2009 và 2012, Bắc Kinh đã gây sức ép thành công với BP và ConocoPhiliips – các công ty dầu mỏ có đầu tư lớn vào Trung Quốc – buộc các công ty này phải từ bỏ các hoạt động trong EEZ của Việt Nam. Năm 2012, Tập đoàn Dầu khí Ngoài khơi quốc gia của Trung Quốc (CNOOC) đã mời các công ty nước ngoài đấu thầu quyền khai thác vùng lãnh thổ chồng lấn với EEZ của Việt Nam. Tháng 5/2014, Trung Quốc đã triển khai một giàn khoan dầu vào EEZ của Việt Nam, hành động này khiến Hà Nội phản đối thông qua các cuộc đàm phán ngoại giao và thúc đẩy các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam. Năm 2017, Trung Quốc lại gây sức ép buộc Việt Nam phải thu hồi quyền khai thác của các công ty dầu khí lớn trong EEZ của Việt Nam – khiến Việt Nam thiệt hại ước tính hàng tỷ USD. Năm 2020, Trung Quốc đã đánh chìm một tàu cá Việt Nam trong khu vực tranh chấp trên biển quần đảo Hoàng Sa. Ngay sau sự cố này, các tàu hải cảnh Trung Quốc đã hộ tống một tàu khảo sát địa chất vào EEZ của Việt Nam và Trung Quốc tuyên bố kiểm soát hành chính đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đang tranh chấp.

Bất chấp những hành động gây hấn này, Việt Nam vẫn tiếp tục chính sách “hợp tác và đấu tranh”, đối phó với căng thẳng đồng thời duy trì tình hữu nghị trên các khía cạnh khác của mối quan hệ song phương với Trung Quốc. Ngày 21/4/2020, bất chấp một loạt xung đột trên biển Nam Trung Hoa chỉ vài ngày trước đó, Việt Nam đã tiến hành tuần tra bảo vệ bờ biển chung với Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ. Trong khi Việt Nam đã thực hiện các bước pháp lý để chống lại các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, chẳng hạn như đệ trình một công hàm lên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc phản đối các tuyên bố của Trung Quốc, nhưng Việt Nam đã không có hành động trực tiếp để răn đe Trung Quốc và cho đến nay đã kiềm chế khởi xướng một vụ kiện ra tòa trọng tài.

Mối quan hệ thất thường giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng ảnh hưởng đến chính trị trong nước Việt Nam. Phe bảo thủ Việt Nam, hay còn gọi là nhóm chống đế quốc, muốn đảm bảo rằng Trung Quốc vẫn là một đồng minh chiến lược. Đây cũng có thể là những người nghi ngờ các nỗ lực của Mỹ. Tuy nhiên, những người ủng hộ hội nhập cải cách lại thiên về coi Trung Quốc là một mối đe dọa vì quy mô, vị trí địa lý liền kề và sự hung hăng của nước này trong các tranh chấp lãnh thổ. Một bộ phận đáng kể dân chúng, bị thúc đẩy bởi sự thận trọng từ trong lịch sử và sự gây hấn gần đây của Trung Quốc, vẫn duy trì tâm lý chống Trung Quốc. Điều này tạo ra một ranh giới mong manh cho lãnh đạo Việt Nam khi tìm cách duy trì mối quan hệ với Bắc Kinh trong khi vẫn thận trọng với dư luận ở Việt Nam.

Nỗi lo sợ của Việt Nam về một cuộc Chiến tranh Trung – Việt tái diễn đã tạo ra sức ép lớn với những tính toán chiến lược về cách giải quyết các tranh chấp nảy sinh giữa hai nước. Một mối quan hệ hòa bình và ổn định với Trung Quốc sẽ thúc đẩy ổn định khu vực và giúp Việt Nam không xao nhãng sự chú ý khỏi sự phát triển và tăng trưởng trong nước. Mặc dù các hành động của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa đã khiến Việt Nam tăng cường hợp tác với Mỹ, Hà Nội vẫn thường là một yếu tố cần tính đến trong nhận thức của Trung Quốc trước khi tiến hành bất kỳ động thái chính sách đối ngoại công khai nào, đặc biệt là những động thái liên quan đến Mỹ. Năm 2012, chuyên gia Lê Thu Hương dự đoán rằng “Việt Nam sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách cân bằng giữa Trung Quốc với Mỹ. Việt Nam sẽ coi mối quan hệ với hai cường quốc là một phần trong chiến lược tổng thể “đa dạng hóa và đa phương hóa” các mối quan hệ đối ngoại vì lợi ích phát triển trong nước”. Cho đến nay, có thể coi đó là một đánh giá chính xác về vị thế của Việt Nam.

Có thể cho rằng Việt Nam có khả năng tiến hành một số động thái nhằm buộc Trung Quốc phải trả giá vì hành vi gây hấn của nước này ở biển Nam Trung Hoa. Theo nhận định củ Derek Grossman, nhà phân tích thuộc Tập đoàn RAND – tổ chức tư vấn chính sách toàn cầu của Mỹ, những động thái này bao gồm cả việc đưa vấn đề ra một tòa án quốc tế, hạ cấp mối quan hệ đối tác với Trung Quốc, đáp trả quân sự như Indonesia đã làm ở quần đảo Natuna vào tháng 12/2019, sử dụng tư cách thành viên và ảnh hưởng của mình trong ASEAN để hình thành Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông, tăng cường hợp tác an ninh với Mỹ hoặc tham gia các cuộc tập trận đa phương ở biển Nam Trung Hoa với các nước trong Đối thoại an ninh bốn bên (Bộ tứ) hoặc các đối tác khác. Tuy nhiên, nhiều hành động trong số này đi ngược lại với xu hướng của Việt Nam về việc đảm bảo quyền tự chủ và sự phát triển ổn định trong nước bằng cách duy trì ổn định khu vực bằng mọi giá. Việc Việt Nam từ chối thực hiện những động thái buộc Trung Quốc trả giá là phù hợp với chính sách quốc phòng được nêu trong Sách trắng Quốc phòng năm 2019 của nước này:

“Chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Việt Nam kiên quyết giải quyết mọi tranh chấp và khác biệt bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, tích cực và chủ động phòng ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ xa, sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh xâm lược. Việt Nam nhất quán chủ trương không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, đứng về phía nước này chống lại nước khác, cho phép nước khác lập căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để thực hiện các hoạt động quân sự chống lại nước khác, cũng như không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.

(còn tiếp)

Nguồn: Diễn đàn Thái Bình Dương

CĐ số 01/2023

Cái bẫy Trung Quốc – Phần III


Mọi chuyện sẽ kết thúc ra sao?

Điểm cuối của quỹ đạo hiện tại đã rõ ràng: Đó là một thế giới nhiều hiểm họa và ít sự sống hơn, được xác định bởi nguy cơ đối đầu và khủng hoảng luôn hiện hữu, với việc chuẩn bị cho xung đột được ưu tiên hơn là giải quyết thách thức chung.

Hầu hết các nhà hoạch định chính sách, ít nhất là ở Washington, đều không mong muốn chứng kiến một cuộc khủng hoảng giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người thừa nhận rằng khủng hoảng là điều khó tránh khỏi và hậu quả của nó là rất lớn. Ngay cả khi hai bên đều muốn tránh chiến tranh, thì họ cũng khó có thời gian để ngăn chặn các cuộc khủng hoảng trước sự giám sát chặt chẽ của công chúng, khiến việc tìm ra cách để giảm leo thang trở nên khó khăn. Ngay cả việc áp dụng vũ lực hoặc cưỡng ép có giới hạn cũng có thể tạo ra một loạt phản ứng khó lường trước trên nhiều lĩnh vực – quân sự, kinh tế, ngoài giao và thông tin. Khi các nhà lãnh đạo thể hiện quyết tâm bảo vệ tiếng tăm của họ ở trong nước, thì khủng hoảng là điều khó kiểm soát.

Đài Loan có lẽ là điểm dễ bùng phát nhất vì những thay đổi ở cả Đài Bắc và Bắc Kinh ngày càng khiến hòn đảo này trở thành trung tâm của căng thẳng Mỹ – Trung. Sự thay đổi về nhân khẩu học và thế hệ ở Đài Loan, kết hợp với cuộc đàn áp của Trung Quốc ở Hong Kong, đã khiến Đài Loan tăng cường phản kháng trước ý định kiểm soát của Bắc Kinh và khiến mục tiêu thống nhất hòa bình ngày càng trở nên xa vời. Sau khi đảng Dân Tiến (DPP), vốn có truyền thống ủng hộ Đài Loan độc lập, thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016, Bắc Kinh đã thể hiện quan điểm cứng rắn đối với Tổng thống Thái Anh Văn, bất chấp những nỗ lực thận trọng của bà nhằm tránh động thái hướng tới mục tiêu giành độc lập chính thức. Các kênh liên lạc qua eo biển bị ngăn chặn và Bắc Kinh dựa vào các biện pháp cưỡng chế để trừng phạt và răn đe những động thái mà họ cho là làm gia tăng khả năng Đài Loan vĩnh viễn tách khỏi Đại lục.

Về phần mình, Mỹ tăng cường tuần tra quân sự xung quanh eo biển Đài Loan, nới lỏng hướng dẫn để tăng cường tương tác với các quan chức Đài Loan, mở rộng chính sách thông qua tuyên bố để nhấn mạnh sự ủng hộ của họ đối với hòn đảo này và tiếp tục vận động Đài Loan tham gia các tổ chức quốc tế, bao gồm cả Liên hợp quốc. Tuy nhiên, các nỗ lực của Mỹ nhằm hỗ trợ hòn đảo và ngăn chặn Trung Quốc lại thúc đẩy Bắc Kinh tìm cách cản trở mối quan hệ Mỹ-Đài đang ngày càng phát triển.

Ngay cả khi Mỹ vẫn tiếp tục chính sách “mơ hồ chiến lược” về cách thức phản ứng trong trường hợp Đài Loan bị tấn công, thì các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc vẫn cho rằng Mỹ sẽ can dự. Quả thật, khó khăn được tiên lượng trong việc ngăn chặn Trung Quốc xâm chiếm Đài Loan và kìm chân Mỹ từ lâu đã thúc đẩy việc tăng cường khả năng răn đe ở eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, nhiều hành động của Mỹ nhằm tăng cường khả năng chống chịu cưỡng ép của Đài Loan mang tính hình thức hơn là thực chất, nhằm mục đích khiêu khích hơn là răn đe Trung Quốc. Ví dụ, Chính quyền Trump đã nỗ lực tăng cườgn các chuẩn mực liên quan tới việc Mỹ can dự với Đài Loan. Tháng 8/2020, Bộ trưởng Y tế và dịch vụ nhân sinh Alex Azar trở thành thành viên nội các cấp cao nhất của Mỹ đến thăm Đài Loan kể từ khi Mỹ và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ vòa năm 1979. Trung Quốc đã điều máy bay chiến đấu vượt qua đường trung tuyến của eo biển Đài Loan, bỏ qua hành lang bảo vệ không chính thức để tạo điều kiện cho các hoạt động  an toàn đường thủy. Việc xâm nhập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Đài Loan đã trở thành động thái thường xuyên của Trung Quốc nhằm bày tỏ thái độ không hài lòng trước việc Mỹ tăng cưỡng hỗ trợ hòn đảo này. Tháng 10/2021, Trung Quốc đã gia tăng tần suất xâm nhập ADIZ của Đài Loan lên mức cao mới – 93 máy bay trong vòng 3 ngày – để đáp trả các cuộc tập trận do Mỹ đứng đầu.

Chu kỳ hành động-phản ứng, được thúc đẩy bởi các hành động kèn cựa lẫn nhau ở Bắc Kinh, Đài Bắc và Washington, đang nhanh chóng phá hoại hòa bình và sự ổn định ở eo biển Đài Loan. Trong những tháng gần đây, luận điệu của Trung Quốc ngày càng mang tính đe dọa, với những cụm từ báo hiệu ý định gia tăng căng thẳng. “Ai chới với lửa sẽ bị bỏng” là câu nói mà Tập Cận Bình đã lặp lại nhiều lần với Tổng thống Mỹ Joe Biden. Tháng 5/2022, sau khi Biden ngụ ý cam kết bảo vệ Đài Loan vô điều kiện, thay vì chỉ thực hiện nghĩa vụ lâu dài của Mỹ là cung cấp cho hòn đảo này phương tiện quân sự để tự vệ và duy trì khả năng của Mỹ để chống lại bất kỳ hành vi sử dụng vũ lực nào, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng Bắc Kinh sẽ thực hiện các hành động cứng rắn để bảo vệ chủ quyền và lợi ích an ninh của họ.

Mặc dù Bắc Kinh tiếp tục ưu tiên thống nhất hòa bình, nhưng nhiều người cho rằng cần có các biện pháp cưỡng chế nhằm ngăn chặn các động thái của Đài Loan hướng tới việc vĩnh viễn tách khỏi Đại lục và buộc hòn đảo này phải tiến tới thống nhất, đặc biệt là khi Trung Quốc cho rằng sự ủng hộ của Mỹ đối với Đài Loan là công cụ để kiềm chế Trung Quốc. Ngay cả khi sự tin tưởng vào quỹ đạo kinh tế và quân sự của Trung Quốc khiến Bắc Kinh cho rằng thời gian và động lực vẫn đứng về phía họ, thì các xu hướng chính trị ở Đài Loan và Mỹ vẫn khiến các quan chức ngày càng bi quan về triển vọng thống nhất hòa bình. Bắc Kinh đã không đặt ra thời gian biểu cụ thể cho việc chiếm lại Đài Loan và dường như không tìm được cớ để làm vậy. Tuy nhiên, như nhà khoa học chính trị Taylor Fravel chỉ ra, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực khi cho rằng các tuyên bố chủ quyền của họ đang bị thách thức. Những cử chỉ cho thấy sự ủng hộ của Mỹ đối với Đài Loan có thể bị Trung Quốc hiểu là sự sỉ nhục và do đó cần có hành động đáp trả. (Theo tác giả bài viết này, sau khi tin tức về chuyến thăm Đài Loan của Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi, chuyến đi đầu tiên của bà kể từ năm 1997, được đưa ra, Trung Quốc đã cảnh báo rằng quân đội nước này sẽ không bỏ qua điều này, và động thái tiếp theo của họ là tiến hành các cuộc tập trận và thử tên lửa xung quanh Đài Loan).

Khi cả Mỹ và Đài Loan cùng tiến hành bầu cử tổng thống vào năm 2024, chính trị đảng phái có thể thúc đẩy nỗ lực khẳng định vị thế chính trị và nền độc lập của Đài Loan. Không rõ liệu nhân vật kế nhiệm Thái Anh Văn có kiên định như bà trong việc chống lại sức ép từ những người kiên quyết ủng hộ độc lập hay không. Ngay cả dưới thời Thái Anh Văn, đã có những dấu hiệu đáng lo ngại về việc các nhà lãnh đạo đảng DPP không bằng lòng với hiện trạng. Các nhà lãnh đạo DPP đã vận động Washington không đưa ra tuyên bố rằng Mỹ không ủng hộ Đài Loan độc lập. Tháng 3/2022, văn phòng đại diện của Đài Bắc tại Washington đã trao cho cựu Ngoại trưởng Mike Pompeo vinh dự lớn khi ông đến thăm Đài Loan, nơi ông kêu gọi Mỹ công nhận về mặt ngoại giao Đài Loan là một quốc gia tự do và có chủ quyền.

Nguy cơ xảy ra các vụ va chạm chết người trên không hoặc trên biển cũng đang tăng lên ở khu vực bên ngoài eo biển Đài Loan. Với việc quân đội Trung Quốc và Mỹ hoạt động gần nhau ở biển Nam Trung Hoa và biển Hoa Đông, hai bên đều tỏ ý sẵn sàng chiến đấu; các chỉ huy và phi công đều đang áp dụng chiến thuật nguy hiểm làm tăng nguy cơ xảy ra đụng độ. Năm 2001, máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã va chạm với máy bay do thám của Mỹ trên biển Nam Trung Hoa, khiến phi công Trung Quốc thiệt mạng và phi hành đoàn Mỹ bị giam giữ trong 11 ngày. Sau thành công ban đầu, Trung Quốc đã nỗ lực vượt qua một cuộc khủng hoảng toàn diện.

(còn tiếp)

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/china/china-trap-us-foreign-policy-zero-sum-competition

TLTKĐB – 02 & 03, 04/11/2022

Thách thức và cơ hội trong hợp tác an ninh Mỹ – Việt – Phần I


Giới thiệu

Quan hệ Việt – Mỹ đã được cải thiện trong 27 năm qua với việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, tăng cường các chuyến thăm ngoại giao giữa Hà Nội và Washington và mở rộng hỗ trợ hàng hải song phương. Trong khi đó, quan hệ Trung – Việt ngày càng căng thẳng trước các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Đây cũng là quan ngại an ninh của Mỹ. Trong những thập kỷ tới, Mỹ và Việt Nam có tiềm năng mở rộng hợp tác chiến lược, tuy nhiên, quan hệ đối tác an ninh mở rộng có ba trở ngại chính cần được giải quyết.

Thứ nhất, bất chấp sự gắn kết lợi ích hiện tại, Mỹ và Việt Nam không nhất thiết phải là “đồng minh tự nhiên”. Việt Nam là nhà nước một đảng, yếu tố có khả năng tạo thành một rào cản khiến Quốc hội Mỹ do dự chưa chấp thuận mở rộng đáng kể hỗ trợ an ninh. Thứ hai, trong khi Hà Nội nỗ lực bảo vệ các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và hàng hải của mình ở biển Nam Trung Hoa, tính toán nội bộ của Việt Nam về phản ứng với Trung Quốc chắc chắn phải kể đến sự gần gũi về mặt địa lý và sự phụ thuộc kinh tế của Việt Nam vào nước này. Điều này có thể hạn chế nghiêm trọng quyết tâm của Việt Nam chống lại Trung Quốc. Thứ ba, Việt Nam vẫn duy trì chính sách an ninh “ba không”: không tham gia liên minh quân sự, không cho phép nước khác đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không liên kết với nước này chống lại nước kia. Tuy nhiên, trong Sách trắng Quốc phòng năm 2019, Việt Nam cũng bày tỏ sẵn sàng tham gia các cơ chế an ninh và quốc phòng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Lập trường không liên kết và sự nhấn mạnh vào truyền thống tự cường của Việt Nam đã làm dấy lên những nghi ngờ về khả năng tăng cường quan hệ đối tác với Mỹ. Để thúc đẩy chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở (FOIP), Washington phải đánh giá xem họ định thúc đẩy mối quan hệ an ninh với Hà Nội bằng cách nào trong bối cảnh những lo ngại về nhân quyền, mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và chính sách không liên kết của Việt Nam.

Bài viết phân tích ba trở ngại đối với việc mở rộng hợp tác an ninh Việt – Mỹ và tìm hiểu quan điểm của Việt Nam về từng chủ đề. Đối với mỗi hạn chế từ phía Mỹ, sẽ có một hạn chế tương ứng từ phía Việt Nam cản trở quan hệ quốc phòng song phương phát triển nhanh chóng. Bài viết kết luận với một số khuyến nghị nhằm tăng cường quan hệ an ninh Việt – Mỹ bằng cách thúc đẩy các lợi ích an ninh chung và đảm bảo một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở.

Bài toán nhân quyền

Báo cáo Nhân quyền năm 2019 của Bộ Ngoại giao Mỹ về Việt Nam nêu lên một danhs ách mà phía Mỹ gọi là các hành vi “không thể chấp nhận được” liên quan đến nhân quyền. Báo cáo này khiến Quốc hội Mỹ phải cân nhắc lại việc mở rộng bán vũ khí cho Việt Nam. Một số thành viên Quốc hội Mỹ thậm chí đã yêu cầu phải có các biện pháp trừng phạt. Chẳng hạn như Đạo luật trừng phạt các vi phạm nhân quyền của Việt Nam được đề xuất vào năm 2019 viết: “Quan hệ Việt – Mỹ không thể tiến triển khi hồ sơ nhân quyền và pháp quyền ở Việt Nam tiếp tục xấu đi”.

Tuy vậy, Mỹ vẫn ưu tiên tăng cường hợp tác an ninh với Việt Nam. Điều này được thể hiện qua quyết định của Chính quyền Obama vào năm 2016 về việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam và tăng cường các sáng kiến xây dựng năng lực do M4y tài trợ đến nay. Điều này đánh dấu sự thay đổi rõ ràng trong chính sách. Năm 2014, việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương vẫn còn là một vấn đề gây tranh luận trong nước Mỹ. Nó đòi hỏi phải cân bằng lợi ích an ninh quốc gia trong bối cảnh các hành động ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa cùng với những lo ngại về việc tăng viện trợ cho Việt Nam mà không có tiến triển về tự do chính trị và nhân quyền. Quyết định dỡ bỏ lệnh cấm năm 2016 được đưa ra vào thời điểm Chính quyền Obama đang cố gắng tái cân bằng chính sách đối ngoại đối với châu Á. Việt Nam là một đối tác chiến lược trong khu vực cần được cải thiện an ninh hàng hải.

Tuy nhiên, Việt Nam rất nhạy cảm trước các cuộc thảo luận về vấn đề nhân quyền. Trang web của Đại sứ quán Việt Nam nêu rõ Việt Nam sẵn sàng “chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì nhân quyền” cũng như quyết tâm “ngăn chặn các âm mưu, hành vi xuyên tạc, lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc và tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, ổn định chính trị của Việt Nam”. Bộ Chính trị Việt Nam dường như lo ngại ý định thực sự của Mỹ là lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua tiến trình “diễn biến hòa bình”. Mối quan ngại đó không hoàn toàn vô căn cứ khi chính sách đối ngoại của Mỹ luôn nhấn mạnh việc truyền bá dân chủ và truyền thống thúc đẩy thay đổi chế độ.

Việc Mỹ quan tâm tới hồ sơ nhân quyền của Việt Nam cũng như sự thận trọng của Việt Nam khi tham gia đối thoại về vấn đề này với Mỹ không phải là những diễn biến mới. Những rào cản này từ lâu đã trở thành yếu tố cần phải tính đến trong mối quan hệ nhưng không ngăn được hợp tác an ninh giữa hai nước tiến triển mạnh trong những năm qua.

Khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1995, quân đội hai nước ban đầu đã tiếp cận mối quan hệ một cách thận trọng, tập trung vào những sáng kiến hợp tác quân sự dễ giải trình và không mang tính nhạy cảm, chẳng hạn như các chuyến thăm chính thức, các hội nghị đa phương và các hoạt động như rà phá bom mìn, quân y và tìm kiếm cứu nạn. Sau 8 năm, quan hệ đã được cải thiện đủ để Mỹ tiến hành một chuyến thăm tới cảng Việt Nam vào năm 2003. Đến năm 2017, mối quan hệ song phương gần gũi được thể hiện qua việc Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ (USCG) bàn giao một con tàu tuần duyên lớp Hamilton cho Việt Nam. Trong suốt thời gian qua, Mỹ và Việt Nam đã tăng cường quan hệ song phương, ngoại giao và quân sự một cách từ từ và nhất quán. Điều này đòi hỏi nhiều hoạt động xây dựng lòng tin, từng bước mở rộng để xây dựng sự tin tưởng và sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước.

Cách tiếp cận của Mỹ đối với Việt Nam đã có sự tiến triển rõ ràng. Việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí năm 2016 là một tín hiệu cho thấy Quốc hội Mỹ đang giảm bớt lo ngại về nhân quyền và các vấn đề về quản lý ở Việt Nam khi các hành động của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa trở nên ngày càng đáng báo động và Mỹ phải tập trung trở lại vào việc đảm bảo một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở. Ngya cả những ý kiến trong nước phản đối Mỹ mở rộng hỗ trợ cho Việt Nam cũng công nhận rằng xây dựng năng lực an ninh hàng hải của Việt Nam là nhiệm vụ có tầm quan trọng địa chính trị chiến lược. Một dự luật được đưa ra tại Hạ viện vào năm 2019 đã khuyến nghị Mỹ không bán vũ khí gây sát thương cho Việt Nam trừ phi nước này cải thiện hồ sơ nhân quyền của mình. Tuy nhiên, trường hợp ngoại lệ được chấp thuận khi “việc bán các khí tài hoặc dịch vụ như vậy được Tổng thống xác định là đảm bảo lợi ích của Mỹ trong việc thực thi quyền hàng hải tự do và cởi mở ở biển Nam Trung Hoa”.

Tuy nhiên, Mỹ đã không từ bỏ hẳn vấn đề nhân quyền. Hợp tác an ninh của Mỹ đi kèm với nhiều ràng buộc nhằm đảm bảo việc đào tạo và chuyển giao thiết bị quân sự sẽ thúc đẩy một môi trường quân sự tập trung vào quản trị tốt và bảo vệ nhân quyền. Chẳng hạn, mặc dù Chính quyền Obama đã dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, bất kỳ đơn xin xuất khẩu trang thiết bị quốc phòng, dù gây sát thương hay không gây sát thương, vẫn phải có sự chấp thuận của Cục Quản lý thương mại quốc phòng thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ đối với từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, tùy thuộc vào loại trang thiết bị quân sự, Việt Nam sẽ phải tuân thủ sự giám sát mục đích sử dụng được Mỹ tiến hành đều đặn. Hơn nữa, các sinh viên và đơn vị quân sự nước ngoài nhận sự huấn luyện cũng như hỗ trợ vật chất từ Mỹ sẽ bị kiểm tra nghiêm ngặt về hồ sơ nhân quyền.

(còn tiếp)

Nguồn: Diễn đàn Thái Bình Dương

CĐ số 01/2023

Nga và Trung Quốc trong hệ thống quản trị toàn cầu – Phần II


“Đại chiến lược” của Trung Quốc được xác định bởi sự kết hợp giữa lý luận hiện đại phát triển quốc gia với những giáo điều cổ xưa về chế độ nhà nước. Trung Quốc từ lâu đã phải đối với phó với những thách thức địa chính trị đòi hỏi phải duy trì quyền kiểm soát phần “trung tâm” của Trung Quốc và những hợp phần cơ bản “bên trong châu Á”. Ngoài ra, Trung Quốc còn cố gắng bảo vệ an toàn cho vùng ngoại vi rộng lớn gồm những đường biên giới trên biển và trên đất liền. Một thuộc tính bất biến trong chiến lược của Trung Quốc, đó là cố gắng tranh thủ thời gian để hiện thực hóa những mục tiêu đặt ra. Về mặt này người ta thường viện dẫn lời phát ngôn của Đặng Tiểu Bình gồm 24 chữ được ghi lại vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước: “Lặng lẽ quan sát; giữ vững trận địa; bình tĩnh ứng phó; giấu mình chờ thời; giỏi về phòng thủ; quyết không đi đầu”.

Ở đây, “giấu mình” không có nghĩa là âm thầm có ý muốn phục thù hay bá quyền, mà chỉ là nhằm mục đích thông qua việc xây dựng kinh tế để đạt tới sự chấn hưng đất nước Trung Quốc, và trong chính sách đối ngoại là “thống nhất trong đa dạng” và “cùng nhau thịnh vượng”. Đường lối này không ngụ ý là không hành động gì đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như với những vấn đề quốc tế quan trọng. Nếu như sự việc đi đến giới hạn nghiêm trọng, thì Trung Quốc phải sẵn sàng chống lại bất kỳ bước chuyển biến sự kiện nào.

Do đó, các đại biểu trong giới chuyên gia Trung Quốc nhấn mạnh rằng cần tránh kiếu giấu mình quá mức có thể dẫn tới trạng thái thụ động, bàng quan hay biến thành đối tượng lợi dụng trong tay kẻ khác, cũng như chủ động quá mức có thể chuyển thành ý muốn hành động mà không biết tự lượng sức mình. Xuất phát từ quan điểm này, tùy theo sức mạnh dân tộc tổng hợp của Trung Quốc mạnh lên bao nhiêu thì tính chủ động của nước này sẽ tăng lên bấy nhiêu. Thế nhưng, nếu chủ động quá mức, có ý định tiếp cận giải quyết các vấn đề quốc tế trên vị thế của nước lớn, mưu toan đóng vai trò “dẫn đầu” hay “lãnh đạo” trên trường quốc tế, trở thành thành viên “câu lạc bộ nhà giảu” thì có thể sẽ gây ra những hành động chống đối không mong muốn.

Tuy nhiên, thời gian gần đây xuất hiện ngày càng nhiều dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đã rời xa phương châm “giấu mình” và chiếm giữ vị thế ngày càng tích cực hơn, thậm chí mang tính tiến công hơn trong việc giải quyết những nhiệm vụ kinh tế đối ngoại và chính trị đối ngoại quan trọng sống còn đối với họ. Quan điểm mới này chứng tỏ rằng trong giới tinh hoa Trung Quốc đã chín muồi nhận thức rằng, bước nhảy vọt về kinh tế và văn hóa – xã hội mạnh mẽ của Trung Quốc đã cho phép nước này có tham vọng đóng vai trò mới – vai trò của một cường quốc lớn hiện đại đứng vị trí thứ hai trên thế giới về sức mạnh kinh tế tổng thể. Việc này khiến ban lãnh đạo Trung Quốc có đủ cơ sở để bắt đầu có một hiệu chỉnh nhỏ lời di chúc nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình, đó là “không quá lộ liễu”.

Còn về khía cạnh địa kinh tế của “chiến lược trỗi dậy” của Trung Quốc, thì chiến lược “vượt biên giới” được tuyên bố cách đây mấy năm, nghĩa là chủ trương mở rộng, bành trướng cho vốn của Trung Quốc ra nước ngoài bắt đầu phát huy sức mạnh. Hiện nay chủ trương này theo đuổi ba mục tiêu: Thứ nhất, bảo đảm cung cấp những dạng năng lượng và nguyên liệu đang thiếu hụt nặng nề trong nước cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc. Thứ hai, trên cơ sở những công ty tốt nhất của mình, thành lập vài chục công ty xuyên quốc gia thuộc sở hữu của mình để có thể cạnh tranh thành công trên trường quốc tế với những gã khổng lồ tương tự của Hoa Kỳ và các nước hàng đầu khác trên thế giới. Và cuối cùng, thứ ba, bằng cách “hợp nhất và thu hút” mua lại những nhãn hiệu nổi tiếng trên khắp thế giới, để rồi thông qua chúng mở rộng hơn nữa xuất khẩu của Trung Quốc mà không có việc đó thì khối lượng đã đạt tới mức độ hết sức đáng kể, hầu như sánh ngang với khối lượng GDP của Trung Quốc. Cả ba nhiệm vụ này gắn bó chặt chẽ với nhau, và việc giải quyết chúng thành công sẽ cho phép Trung Quốc phát huy ảnh hưởng nhiều hơn trong nền kinh tế thế giới.

Trung quốc đang tìm cách thiết lập một trật tự chính trị và kinh tế thế giới mới có lợi cho sự phát triển của bản thân và của các nước không thuộc về con số “một tỷ vàng”. Trong quá trình giải quyết nhiệm vụ này, ổn định quan hệ hợp tác toàn diện với Nga là hết sức quan trọng đối với Trung Quốc, cả ở cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu. Trung Quốc và Nga đều có những lợi ích và mục tiêu giống nhau. Sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc mở ra cho Nga những khả năng mới, đồng thời cũng mang đến những thách thức mới trong quan hệ song phương Nga – Trung Quốc, trong quá trình hội nhập khu vực cũng như trong lĩnh vực chính trị thế giới.

Những phương hướng có thể của hợp tác toàn cầu Nga – Trung Quốc được xác định bởi những đặc điểm khách quan của tình hình quốc tế hiện tại, bởi những lợi ích trùng lặp của cả hai bên và bởi ý muốn phối hợp hành động giữa hai nước với nhau ở mức độ này hay mức độ khác theo phương hướng này.

Do đó, một trong những nền tảng của hợp tác toàn cầu giữa Trung Quốc và Nga có thể trở thành niềm tin được hai nước chia sẻ, đó là cần phải bảo đảm hòa bình với tư cách là điều kiện chủ yếu cho sự phục hồi kinh tế của hai nước, nâng cao sức mạnh tổng hợp của mỗi nước và tạo điều kiện cần thiết cho hai nước cùng phát triển. Trong trường hợp này thì lợi ích của Nga và Trung Quốc trùng lặp nhau, bởi trên thế giới vẫn tiếp tục mối quan ngại về hành vi có thể của cả Nga lẫn Trung Quốc sau khi họ trở nên mạnh hơn so với bây giờ.

Điều này, đến lượt nó lại gây lo ngại và tạo ra sự chống đối từ phía một số nước thành viên của nền chính trị thế giới, do đó thúc đẩy Nga và Trung Quốc phải phối hợp hành động với nhau để mỗi bên có thể bảo vệ lợi ích quốc gia của mình cùng những lợi ích trùng lặp của cả hai bên.

Việc Nga và Trung Quốc tham gia vào quá trình quản trị toàn cầu, đi đôi với hợp tác tích cực, là nhân tố quan trọng của chính trị thế giới và là bộ phận cấu thành không thể tách rời của hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại. Với mục đích phân tích so sánh những kinh nghiệm về sự tham gia như vậy vào quản trị toàn cầu, theo cách diễn đạt được đề xuất ở cấp quốc tế, ở đây nó được định nghĩa là “quá trình cùng nhau quản lý, tập hợp các chính phủ quốc gia, các tổ chức đa phương quốc gia và xã hội dân sự nhằm đạt được mục tiêu chung. Nó cung cấp phương hướng chiến lược và hướng dẫn mọi nỗ lực tập thể vào giải quyết những nhiệm vụ toàn cầu”.

Hiểu theo nghĩa rộng hơn, hệ thống quản trị toàn cầu bao gồm tất cả những thiết chế, chế độ, quá trình, quan hệ đối tác và cơ cấu tham gia vào hành động tập thể và giải quyết vấn đề ở cấp độ quốc tế.

Ở cấp độ khái niệm và lý thuyết, cả Liên bang Nga và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đều công nhận tầm quan trọng của các thiết chế quản trị toàn cầu trong việc giải quyết những nhiệm vụ then chốt của an ninh và phát triển quốc tế. Như trong khái niệm chính sách đối ngoại, Liên bang Nga đã nhận định rằng những thách thức và đe dọa toàn cầu đòi hỏi phải có câu trả lời thích đáng từ phía cộng đồng quốc tế, những nỗ lực hiệp đồng của cộng đồng cộng với vai trò điều phối trung tâm của Liên hợp quốc và có tính đến mối quan hệ qua lại khách quan giữa những vấn đề an ninh, bảo đảm phát triển ổn định và bảo vệ quyền con người.

Trong công trình nghiên cứu khoa học tập thể “Quản trị toàn cầu: những khả năng và rủi ro” hoàn thành với sự tham gia của các học giả Viện Viễn Đông, Viện Hàn lâm khoa học Nga, đã cung cấp luận chứng khoa học đầy đủ cho luận điểm khái niệm này, đã phân tích những thực tế mới của quản trị toàn cầu trong khung cảnh khu vực và đất nước (bao gồm phân tích chính sách của Trung Quốc).

Đặc biệt là trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhấn mạnh ý nghĩa của việc xúc tiến cải tổ những thiết chế quản trị toàn cầu, khuyến khích hòa bình và phát triển kinh tế trên toàn thế giới trong bối cảnh kiến tạo “thế giới hài hòa”.

Các học giả và chuyên gia Trung Quốc cũng nhận định rằng, xu hướng chiến lược tất yếu trong tương lai của Trung Quốc trong quan hệ với các nước lớn, đó là tham gia kiến tạo “thế giới hòa bình” và quản trị toàn cầu. Ở đây, khi so sánh khái niệm quản trị toàn cầu và thế giới hài hòa, các nhà nghiên cứu đã làm nổi bật những điểm ưu việt sau đây của khái niệm thứ hai:

Thứ nhất, chiến lược kiến tạo “thế giới hài hòa” nhấn mạnh thái độ tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng thực hiện dân chủ trong quan hệ quốc tế.

Thứ hai, chiến lược kiến tạo “thế giới hài hòa” ủng hộ “hợp tác với nhau, dùng những lợi thế của mình bổ sung cho nhau, cùng nhau tiến tới toàn cầu hóa nền kinh tế để đón đầu bước phát triển ổn định chung trong lĩnh vực kinh tế”.

Thứ ba, chiến lược kiến tạo “thế giới hài hòa” khuyến khích “trao đổi với nhau, tìm kiếm những điểm chung, tôn trọng sự khác biệt của thế giới, cùng nhau góp phần vào quá trình thịnh vượng văn hóa của nhân loại trong nền văn hóa của mình”.

Thứ tư, chiến lược kiến tạo “thế giới hài hòa’ kêu gọi tiến tới “tin cậy lẫn nhau, tăng cường hợp tác, chỉ sử dụng những phương cách hòa bình và không cho phép dùng phương tiện quân sự khi giải quyết các cuộc tranh chấp quốc tế, duy trì hòa bình ổn định trong lĩnh vực an ninh”.

Thứ năm, chiến lược kiến tạo “thế giới hài hòa” ủng hộ việc “tương trợ lẫn nhau, hợp tác, cùng nhau chăm sóc ngôi  nhà chung Trái Đất – cho sự tồn tại của nhân loại đi đôi với gìn giữ môi trường”.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: m.L. Titarenko, V.E. Petrovski – Nga, Trung Quốc và trật tự thế giới: Lý luận và thực tiễn – NXB CTQG 2017

Thế giới trải qua một năm nhiều biến động – Phần XIV


XIII/ Cục diện sức mạnh và xu hướng chính sách ở khu vực Á – Âu có sự phân hóa mạnh mẽ

(Tôn Tráng Chí, Viện trưởng Viện nghiên cứu Nga, Đông Âu, Trung Á, Viện khoa học xã hội Trung Quốc)

Trong bối cảnh khủng hoảng Ukraine, cục diện sức mạnh và xu hướng chính sách ở khu vực Á – Âu có sự phân hóa rõ rệt, chịu nhiều áp lực bên trong và bên ngoài, nhiệm vụ duy trì ổn định và an ninh của chính mình càng nặng nề phức tạp hơn, khiến mâu thuẫn vốn có càng thêm gay gắt trong bối cảnh đặc biệt.

Nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính quyền nặng nề phức tạp hơn

Năm 2022, về chính trị, các nước Á – Âu về cơ bản duy trì ổn định, nhưng tính mỏng yếu của chính quyền một số nước sẽ trở nên nổi bật hơn và lực lượng chống chính phủ lại càng sôi động hơn, sự phổ cập mạng Internet khiến phương thức động viên thay đổi, chính quyền hiện tại chịu sức ép cầm quyền lớn hơn. Để duy trì sự ổn định lâu dài, những quốc gia này đã thực hiện các biện pháp nhằm củng cố địa vị lãnh đạo hiện tại hoặc sắp xếp bộ máy quyền lực mới.

Đầu tháng 01/2022, Kazakhstan xảy ra bạo loạn. Nhờ sự giúp đỡ của Tổ chức hiệp ước an ninh tập thể do Nga đứng đầu, Tổng thống Tokayev đã ổn định tình hình, chấm dứt tình trạng “chính trị hai phe” kéo dài hơn hai năm. Từ khi tiếp quản toàn bộ quyền lực từ Tổng thống đầu tiên Nazarbayev, Tokayev đã thúc đẩy cải cách với quy mô lớn. Ngày 20/11, Kazakhstan đã tổ chức cuộc bầu cử tổng thống bất thường và Tokayev tái đắc cử. Tháng 3/2022, Turkmenistan bất ngờ tổ chức bầu cử tổng thống sớm, Phó Thủ tướng Serdar Berdymukhamedov giành chiến thắng và kế nhiệm cha mình, Tổng thống Gurbanguly Berdymukhamedov đã lùi lại phía sau để hoàn thành một phần quá trình chuyển giao quyền lực. Tháng 5/2022, các cuộc biểu tình quy mô lớn đã nổ ra ở khu tự trị Gormo-Badakhshan của Tajikistan và chính quyền đã điều động quân đội để ổn định tình hình. Tháng 6/2022, Uzbekistan đã công bố dự thảo sửa đổi hiến pháp. Đầu tháng 7/2022, thành phố Nukus của nước này đã diễn ra các cuộc biểu tình quy mô lớn do vấn đề sắc tộc. Tình hình chính trị tại Armenia, khu vực Kavkaz, tiếp tục bất ổn, phe đối lập đã nhiều lần tổ chức biểu tình đòi Chính quyền Pashinyan từ chức.

Bị ảnh hưởng từ lệnh trừng phạt nặng nề của phương Tây đối với Nga, nền kinh tế của các nước Á – Âu đối mặt với nhiều khó khăn, đa số hạ thấp dự báo tăng trưởng, nhưng tình hình đã được cải thiện trong nửa cuối năm 2022, chủ yếu hưởng lợi do: giá hàng hóa tăng lên, có lợi cho nước xuất khẩu tài nguyên và năng lượng; thúc đẩy cải cách kinh tế trong nước, giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; mở rộng không gian hợp tác kinh tế với nước ngoài, mang lại hiệu quả tốt. Tốc độ tăng trưởng GDP của hầu hết các nước Á – Âu trong ba quý đầu năm 2022 là từ 5 – 7%, thậm chí một số quốc gia tăng trưởng hai con số. Tình hình ngoại thương tốt, chủ yếu hưởng lợi do thu nhập từ xuất khẩu năng lượng và nguyên liệu thô tăng lên, cũng vì Nga buộc phải điều chỉnh phương hướng hợp tác kinh tế, mở rộng quan hệ thương mại với các nước Trung Á. Từ tháng 1 – 8/2022, kim ngạch ngoại thương của Uzbekistan là 32,1 tỷ USD, tăng 27,7% so với cùng kỳ năm 2021; kim ngạch ngoại thương của Azerbaijan là 35,1 tỷ USD, tăng 70% so với cùng kỳ năm 2021; trong 8 tháng đầu năm 2022, kim ngạch ngoại thương của Gruzia, quốc gia thiếu năng lượng, cũng tăng 36,6% so với cùng kỳ năm 2021. Nguồn thu kiều hối của các nước Á – Âu tăng lên, cải thiện tình hình tài chính. Tuy nhiên, đa số các nước đều rơi vào vòng tuần hoàn ác tính lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp cao, đồng thời phải đối mặt với khó khăn đầu tư giảm nhiều từ phương Tây. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), tỷ lệ lạm phát của một số nước Á – Âu có thể lên tới 15% đến 25% vào năm 2022.

Duy trì sự cân bằng mong manh dựa vào ngoại giao năng động

Các nước Á – Âu đã bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau bởi cuộc khủng hoảng Ukraine, đặc biệt là Belarus, quốc gia bị Mỹ và phương Tây trừng phạt vì liên minh với Nga. Về ngoại giao, các nước Á – Âu tiếp tục duy trì thế cân bằng mong manh, không chọn bên rõ ràng, từ chối tham gia trừng phạt Nga, đồng thời tổ chức hàng loạt sự kiện quốc tế lớn, thể hiện lập trường ngoại giao tích cực. Uzbekistan đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh của Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), đây là hội nghị thượng đỉnh trực tiếp đầu tiên của SCO kể từ sau đại dịch COVID-19. Kazakhstan đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh về phối hợp hành động và xây dựng niềm tin ở châu Á (CICA) lần thứ 6.

Nga vẫn coi trọng ảnh hưởng và quyền chủ đạo của họ ở khu vực Á – Âu, tận dụng những cơ chế như Hội nghị thượng đỉnh Tổ chức Hiệp ước an ninh tập thể (CSTO), Hội đồng hợp tác kinh tế Á – Âu, Hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG)…, nhấn mạnh cùng duy trì ổn định khu vực, thiết lập cơ chế bào đảm tăng trưởng kinh tế, tăng cường hợp tác ngành sản xuất, đồng thời lần đầu tổ chức cuộc họp thượng đỉnh “Nga + Trung Á”. Tuy nhiên, ngoại giao của các nước Á – Âu cũng đã có sự phân hóa rõ rệt. Một số nước ngày càng đi xa hơn trên con đường chống Nga (như Gruzia, Moldova và Ukraine, các thành viên của nhóm “GUAM”), có một số nước cũng xa rời Nga trong quá trình “dân tộc hóa chủ thể”, cũng có nước gắn chặt với Nga. Các nước phương Tây như Mỹ, châu Âu tiếp tục tăng cường thâm nhập vào các nước Á – Âu. Mỹ và các nước Trung Á đã tổ chức cuộc tập trận chung Hợp tác khu vực 2022. Liên minh châu Âu (EU) tổ chức hội nghị thượng đỉnh với 5 nước Trung Á. Nước lớn tầm khu vực đã triển khai tấn công ngoại giao đối với Trung Á, đặc biệt là Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ. Tóm lại, mối đe dọa an ninh truyền thống tiếp tục tăng, căng thẳng quân sự như xung đột khu vực, tranh chấp biên giới và tranh chấp lãnh thổ đã phá hoại ổn định khu vực.

Cùng kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc

Năm 2022 đánh dấu kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc với nhiều nước Á – Âu, nhiều hoạt động song phương và đa phương quan trọng đã được tổ chức, tổng kết những thành tựu hợp tác kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong quá trình đó, quan hệ song phương được nâng lên tầm cao mới, chuẩn bị khởi đầu “30 năm hoàng kim” mới. Từ tháng 1/2022, lãnh đạo Trung Quốc và 5 nước Trung Á đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh trực tuyến nhân kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao; tháng 2/2022, nguyên thủ quốc gia 5 nước Trung Á sang Trung Quốc dự lễ khai mạc Olympic mùa đông Bắc Kinh; tháng 6/2022, Hội nghị Ngoại trưởng lần thứ ba “Trung Quốc+5 nước Trung Á” đã quyết định nâng cấp thành cơ chế hội nghị nguyên thủ quốc gia. Đến tháng 9/2022, lãnh đạo Trung Quốc đã lựa chọn Kazakhstan và Uzbekistan cho chuyến thăm nước ngoài đầu tiên sau dịch COVID-19. Ngoại giao láng giềng của Trung Quốc năm 2022 có thể được gọi là “Năm Trung Á”. Trong Hội nghị thượng đỉnh SCO, Trung QUốc và Belarus đã tuyên bố thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.

Trung Quốc và các nước Á – Âu đã tích cực thúc đẩy hợp tác kết nối trong khuôn khổ sáng kiến “Vành đai và Con đường”, dự án cơ sở hạ tầng do Trung Quốc đầu tư sẽ giúp phục hồi và phát triển kinh tế các nước Á – Âu. Trung Quốc đã trở thành một trong những đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất của các nước Á – Âu.

Trung Quốc cùng đa số các nước Á – Âu thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, cũng như quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, tiếp tục là phương hướng ưu tiên ngoại giao. Hai bên ủng hộ lẫn nhau về lợi ích cốt lõi trên trường quốc tế. Đa số các nước Á – Âu có quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, hai bên không có sự trở ngại về ý thức hệ, đang chung tay xây dựng cộng đồng chung vận mệnh của các quốc gia trong khu vực.

(còn tiếp)

Nguồn: Tạp chí Tri thức thế giới (TQ) – số 24/2022

TLTKĐB 3-11/01/2023

Nhìn lại 20 năm DOC – Phần cuối


Thời kỳ mới, thách thức mới đòi hỏi phải có DOC phiên bản mới

Trong những năm gần đây, do khu vực Nam Hải xuất hiện những tình hình mới, vấn đề mới và thách thức mới, nên việc xây dựng các quy tắc mới trên cơ sở thực hiện DOC là rất cần thiết, và DOC phiên bản nâng cấp hoặc tăng cường cũng chính là COC. Tham vấn COC là nhiệm vụ chung giữa Trung Quốc và 10 nước ASEAN, nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển lâu dài của quan hệ Trung Quốc-ASEAN, làm cho tất cả các bên liên quan ở Nam Hải đều được hưởng lợi.

Sự phát triển của quan hệ Trung Quốc-ASEAN sau khi được nâng cấp cần có sự thúc đẩy của COC. Từ khi thiết lập quan hệ đối tác đối thoại hơn 30 năm trước đến khởi động quan hệ đối tác chiến lược toàn diện năm 2022, quan hệ Trung Quốc-ASEAN đang trải qua quá trình thay đổi từ “lượng” sang “chất”. Đặc biệt kể từ khi thiết lập Khu vực thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN vào năm 2010, Trung Quốc luôn là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN và ASEAN cũng trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc kể từ năm 2020. Ngay cả trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, vốn là một điểm yếu trong quan hệ song phương, sự hợp tác giữa hai bên cũng đang bắt đầu chuyển sang cấp độ cao hơn. Vấn đề Nam Hải không bao trùm toàn bộ quan hệ Trung Quốc-ASEAN, nhưng không thể phủ nhận nó là rào cản không thể bỏ qua trong quá trình phát triển của quan hệ song phương, sự phát triển và ổn định của quan hệ chính trị và quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa hai bên không thể tách rời khỏi tinh thần do DOC khởi xướng và cũng không thể tách rời sự “hộ tống” của cơ chế đối thoại mà DOC đã xác lập.

Sự ổn định lâu dài ở Nam Hải cần có sự bảo vệ của COC. Từ năm 2012 đến nay, tình hình Nam Hải ngày càng trở nên phức tạp hơn. Một số nước ngoài khu vực như Mỹ dùng các biện pháp như ngoại giao, quân sự, luật pháp để can dự vào tranh chấp ở Nam Hải, không ngừng mở rộng lợi ích địa chiến lược ở Nam Hải, khiến vùng biển này dần trở thành chiến trường của cuộc đọ sức nước lớn. Đặc biệt, Mỹ đã lấy kiềm chế Trung Quốc và duy trì quyền chủ đạo của mình trong trật tự quốc tế làm mục đích, dựa vào các cơ chế như Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, liên minh an ninh AUKUS giữa Mỹ, Anh và Australia. Quan hệ đối tác Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương về nhận thức hàng hải (IPMDA)… để đẩy cạnh tranh Trung-Mỹ xoay quanh các lĩnh vực quân sự, ngoại giao, pháp luật trở nên gay gắt hơn. Tương tự, chịu sự xúi giục và hậu thuẫn của Mỹ và sự khích lệ từ vụ kiện ra Tòa trọng tài Biển Đông của Philippines, một số nước có yêu sách ở Nam Hải không ngừng có các hành động đơn phương như thăm dò, khai thác dầu khí, mở rộng các đảo/bãi đá ngầm đang chiếm đóng nhằm củng cố lợi ích và yêu sách chủ quyền trên biển. Trong bối cảnh tình hình phức tạp hiện nay, việc duy trì hòa bình và ổn định ở Nam Hải càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, chỉ có COC mới có thể đóng vai trò duy trì ổn định tình hình ở Nam Hải.

Nếu các cuộc tham vấn COC bị đình trệ hoặc bị bỏ dở giữa chừng, thì sự tin cậy lẫn nhau về chính trị giữa Trung Quốc và các nước ASEAN cũng sẽ bị ảnh hưởng và mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước có tranh chấp khác cũng sẽ bị ảnh hưởng do các bên có hành động khác nhau trong vấn đề Nam Hải, từ đó khiến Nam Hải càng trở thành bàn cờ trong cuộc đọ sức nước lớn. Để tránh làm cho những vấn đề này trở nên phức tạp hơn, lựa chọn duy nhất lúc này là sử dụng các cuộc tham vấn COC để đẩy nhanh tiến trình xây dựng các quy tắc và cơ chế an ninh ở Nam Hải, từ đó thúc đẩy sự ổn định lâu dài ở khu vực Nam Hải.

Tận dụng thời gian và nắm bắt cơ hội đàm phán COC

Hiện tại, Trung Quốc và các nước ASEAN đang ở ngã tư đường trong tiến trình tham vấn COC và đối mặt với tình huống thuyền đi ngược dòng, không tiến thì lùi. Do đó, làm thế nào để thúc đẩy tham vấn COC? “Tăng cường sự tin cậy lẫn nhau, hội tụ nhận thức chung, tìm kiếm điểm chung gác lại bất đồng và thực hiện từng bước một” có lẽ sẽ là con đường hiệu quả.

Trước tiên, sự tin cậy lẫn nhau là cơ sở quan trọng để tiến hành các cuộc tham vấn COC. Tham vấn COC là thực tiễn và phép thử để Trung Quốc và 10 nước ASEAN thiết lập các quy tắc nhằm quản lý khủng hoảng, tăng thêm lòng tin và xây dựng trật tự trên biển. Đặc biệt là dựa trên nguyên tắc do DOC xác lập, dựa trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, tiến trình tham vấn COC đã đạt được mục tiêu chung thông qua việc tìm kiếm ước số chung lớn nhất. Nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và chú ý đến các mối quan tâm của nhau đã quyết định các cuộc tham vấn COC cần có sự tin tưởng lẫn nhau.

Thứ hai, tham vấn COC là quá trình không ngừng tích lũy nhận thức chung. Trung Quốc và các nước ASEAN cần đạt được nhận thức chung trong 2 vấn đề: Thứ nhất, không ngừng có các hành động tích cực hướng đến mục tiêu xây dựng và đạt được COC. Thứ hai, cố gắng đạt được COC có nội dung phù hợp với lợi ích và chú ý đến mối quan tâm của tất cả các bên. Điều cần lưu ý là xuất phát từ cân nhắc tối đa hóa lợi ích của riêng mình, một số nước có yêu sách chủ quyền tìm cách tận dụng giai đoạn trước khi đạt được văn bản COC để củng cố và mở rộng lợi ích đã có thông qua các hoạt động khai thác dầu khí và mở rộng các đảo/bãi đá ngầm ở khu vực có tranh chấp. Những hành động như vậy không những không có lợi cho tiến trình tham vấn COC mà còn ảnh hưởng đến môi trường thuận lợi cần thiết cho các cuộc tham vấn này, đi ngược lại tinh thần hợp tác đã được thiết lập trong quá trình thực hiện DOC, cũng như tôn chỉ và mục đích được xác định trong quá trình tham vấn COC.

Thứ ba, nguyên tắc “tìm kiếm điểm chung, gác lại bất đồng” phải được sử dụng trong suốt quá trình tham vấn COC. Trung Quốc và các nước ASEAN, đặc biệt là các bên tranh chấp, có những toan tính chiến lược và nhu cầu lợi ích của riêng họ trong vấn đề Nam Hải, nên khó tránh khỏi có chủ trương khác biệt hoặc xung đột lợi ích trong quá trình tham vấn COC. Các bên cần đạt được sự nhất trí cơ bản xoay quanh các vấn đề như mục tiêu, nguyên tắc, sức ràng buộc và cơ chế thực hiện của COC, đồng thời trên tinh thần “tìm kiếm điểm chung, gác lại bất đồng”, phát huy nghệ thuật đàm phán ngoại giao để giải quyết những bất đồng.

Thứ tư, chia tách vấn đề để thực hiện từng bước một. Sớm đạt được COC là nhận thức chung quan trọng của nhà lãnh đạo Trung Quốc và các nước ASEAN. Cùng với việc đàm phán COC đang xúc tiến bước vào giai đoạn thứ hai và thứ ba, sự bất đồng giữa các bên liên quan xoay quanh những vấn đề lớn và phức tạp như tính chất của COC, phạm vi địa lý liên quan và quan hệ với DOC có thể sẽ dần xuất hiện. Từ khi bắt đầu tham vấn COC vào năm 2013 đến khi hình thành văn bản duy nhất và kết thúc giai đoạn đầu tiên vào năm 2019, tiến triển không thể nói là không nhanh, nhưng tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình tham vấn COC và sự can thiệp của các yếu tố bên ngoài sẽ là những thách thức mà các cuộc tham vấn phải đối mặt trong tương lai. Trung Quốc và các nước ASEAN nên nắm bắt cơ hội để hàn gắn bất đồng, loại bỏ sự can thiệp và đẩy nhanh quá trình tham vấn COC, hoàn thành từng bước một và đưa ra giải pháp hiệu quả cho những khác biệt nhằm sớm đạt được COC và biến nó thành van an toàn và ổn định cho tình hình Nam Hải và quan hệ Trung Quốc-ASEAN.

Vấn đề Nam Hải là tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp về quyền tài phán trên biển giữa Trung Quốc với một số nước ASEAN ở ven Nam Hải, xoay quanh một số đảo và bãi đá ngầm thuộc quần đảo Nam Sa (Trường Sa), cũng là vấn đề phức tạp và nhạy cảm nếu giải quyết không thỏa đáng thì sẽ ảnh hưởng đến quan hệ song phương. Điểm đáng chú ý là vấn đề Nam Hải hiện đã trở thành biện pháp hoặc đòn bẩy để các lực lượng bên ngoài gây chia rẽ quan hệ Trung Quốc-ASEAN. Làm thế nào để giảm bớt sự nhạy cảm của vấn đề Nam Hải trong quan hệ Trung QUốc-ASEAN và làm thế nào để xóa bỏ vấn đề Nam Hải trong quan hệ Trung-Mỹ là những vấn đề chính mà Trung Quốc phải đối mặt trong chính sách ngoại giao đối với Nam Hải hiện nay. Chỉ khi Trung Quốc và các nước ASEAN đoàn kết một lòng, tiếp tục kiềm chế các hành động đơn phương có thể ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định ở Nam Hải, cần kiên trì thái độ cởi mở và thực chất trong quá trình thự chiện DOC, cần tích cực chủ động và quan tâm tới đại cục trong quá trình tham vấn COC thì mới có thể thực hiện ổn định lâu dài ở khu vực Nam Hải, đảm bảo phát triển ổn định và lâu dài quan hệ Trung Quốc-ASEAN.

Nguồn: Tạp chí Tri thức thế giới (TQ) số 16/2022

TLTKĐB – 04/11/2022

Cái bẫy Trung Quốc – Phần II


Khi giải thích về tình trạng căng thẳng Mỹ – Trung ngày càng tăng, một số học giả đã chỉ ra sự thay đổi về cấu trúc trong cán cân quyền lực. Graham Allison đã viết về “cái bẫy Thucydides” với quan điểm cho rằng khi một quốc gia đang trỗi dậy thách thức cường quốc đã tồn tại từ lâu, thì cuộc chiến giành quyền bá chủ thường xảy ra. Tuy nhiên, việc chỉ tập trung vào năng lực sẽ gặp trở ngại khi tính đến những khúc quanh trong quan hệ Mỹ-Trung, vốn cũng bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhận thức về mối đe dọa, cơ hội và mục đích. Sau chuyến thăm của Tổng thống Richard Nixon tới Bắc Kinh vào năm 1972, Mỹ đã coi Trung Quốc là đối tác chiến lược trong việc kiềm chế Liên Xô. Và khi thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh bắt đầu, các nhà hoạch định chính sách Mỹ bắt đầu triển khai chiến lược phòng ngừa trước sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc, cho dù họ đang tìm cách khuyến khích nước này tự do hóa kinh tế và chính trị thông qua tiến trình hội nhập sâu rộng hơn.

Trong suốt thời kỳ này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã nhìn thấy cơ hội chiến lược để ưu tiên phát triển đấn ước trong môi trường quốc tế ổn định. Nước này mở cửa cho đầu tư nước ngoài và các hoạt động tư bản, nỗ lực học hỏi từ kinh nghiệm chuyên môn của nước ngoài trong khi vẫn tích cực chống lại tình trạng “ô nhiễm tư tưởng” và “tự do hóa tư sản”. Bất chấp mọi nỗ lực giải quyết căng thẳng, kể cả trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan 1995 – 1996 và sau vụ NATO ném bom Đại sứ quán Trung Quốc tại Nam Tư năm 1999, các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhìn chung vẫn tuân thủ chiến lược “giấu mình chờ thời” của cựu lãnh đạo Đặng Tiểu Bình để tránh gây ra cảm giác bị đe dọa, có thể thúc đẩy các nỗ lực nhằm bóp nghẹt sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Nếu phải chỉ ra thời điểm được coi là bước ngoặt trong cách tiếp cận thế giới của Trung Quốc, thì đó là năm 2008 chứ không phải là năm 2021, khi Tập Cận Bình lên nắm quyền. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã khiến Bắc Kinh từ bỏ quan điểm rằng Trung Quốc là học trò và Mỹ là giáo viên khi nói đến quản trị kinh tế. Thế vận hội mùa Hè năm đó tại Bắc Kinh được cho là nhằm đánh dấu sự xuất hiện của Trung Quốc trên vũ đài quốc tế, nhưng phần lớn thế giới lại tập trung vào các cuộc bạo loạn ở Tây Tạng, nơi quan chức Trung Quốc nỗ lực ngăn cản sự can thiệp từ bên ngoài vào cuộc đàn áp sau đó của chính quyền nước này. Đảng Cộng sản Trung Quốc mặc định rằng các lực lượng nước ngoài có ý định cản trở sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Trong những năm sau đó, phong trào tự do hóa đã phát triển theo chiều ngược lại: Đảng Cộng sản Trung Quốc cản trở việc truyền bá tư tưởng tự do và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, đè bẹp các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ ở Hong Kong, xây dựng hệ thống giám sát của nhà nước trên diện rộng và thiết lập các trại giam ở Tân Cương. Tất cả những động thái này là biểu hiện của quan niệm rộng hơn về an ninh quốc gia, được khắc họa bởi những lo ngại về tình trạng bất ổn. Trên bình diện quốc tế, Trung Quốc từ bỏ mọi chiến lược thể hiện sự khiêm tốn. Nước này trở nên quyết đoán hơn trong việc bảo vệ các yêu sách lãnh thổ và lãnh hải của mình (cụ thể là yêu sách chủ quyền đối với khu vực dọc biên giới Ấn Độ, biển Nam Trung Hoa, biển Hoa Đông và Đài Loan). Sau khi vượt qua Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vào năm 2010, Trung Quốc bắt đầu sử dụng sức mạnh kinh tế để buộc các bên phải tôn trọng lợi ích của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nước này không ngừng phát triển năng lực quân sự, kể cả việc mở rộng kho vũ khí hạt nhân, để ngăn chặn Mỹ can thiệp vào khu vực. Quyết định phát triển năng lực này đã có trước thời Tập Cận Bình nhưng dưới sự lãnh đạo của ông, Bắc Kinh đã áp dụng cách tiếp cận mang tính cưỡng ép và cứng rắn hơn.

Trước việc năng lực của Trung Quốc ngày càng tăng và nước này sẵn sàng sử dụng chúng, Washington đã tăng cường chính sách phòng ngừa rủi ro. Chính quyền Obama tuyên bố sẽ “xoay trục” sang châu Á. Và trong khi Washington đang tìm kiếm một vai trò mang tính xây dựng cho Trung Quốc trong hệ thống quốc tế, thì tốc độ trỗi dậy của Trung Quốc lại vượt quá sự sẵn sàng của Mỹ. Sau khi Donald Trump đắc cử tổng thống, đánh giá của Washington trở nên cực đoan: Theo lời Trump, một chế độ theo chủ nghĩa Marx-Lenin đang “bắt nạt” Mỹ, thống trị thế giới và lật đổ nền dân chủ. Đáp lại, Chính quyền Trump đã khơi mào một cuộc chiến thương mại và bắt đầu nói về việc tách rời nền kinh tế Mỹ khỏi nền kinh tế Trung Quốc, đồng thời đưa ra một loạt sáng kiến nhằm chống lại ảnh hưởng của cường quốc châu Á này và làm suy yếu Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong phát biểu của mình, các quan chức cấp cao Mỹ ám chỉ đến việc thay đổi chế độ, kêu gọi thực hiện các bước nhằm trao quyền cho người dân Trung Quốc và tìm kiếm hình thức chính phủ khác, đồng thời nhấn mạnh rằng lịch sử Trung Quốc chứa đựng một con đường khác cho người dân nước này.

Chính quyền Biden đã ngừng mọi phát ngôn về việc thay đổi chế độ ở Trung Quốc và phối hợp chặt chẽ cách tiếp cận của họ với các đồng minh và đối tác, tương phản với chủ nghĩa đơn phương của Trump, nhưng vẫn tiếp tục nhiều chính sách của người tiền nhiệm và ủng hộ ý kiến rằng cần phải đánh giá ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc. Một số nỗ lực, chẳng hạn như Sáng kiến Trung Quốc của Bộ Tư pháp, nhằm truy tố hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và gián điệp kinh tế đã được điều chỉnh. Tuy nhiên, các biện pháp khác vnẫ được duy trì, trong đó có việc áp đặt thuế quan, kiểm soát xuất khẩu, hạn chế thị thực và mở rộng các lệnh trừng phạt đối với quan chức và công ty Trung Quốc. Trong khi đó, sự phản đối kịch liệt hơn bao giờ hết đối Trung Quốc có lẽ là điều duy nhất có thể thấy ở cả đảng Dân chủ lẫn đảng Cộng hòa tại Quốc hội, cho dù mối quan tâm chung này chỉ dẫn tới một thỏa thuận hạn chế (chẳng hạn như đạo luật gần đây về đầu tư chất bán dẫn trong nước) về cách thức ganh đua mà Mỹ nên áp dụng.

Trong hơn 5 thập kỷ qua, Mỹ đã cố gắng kết hợp giữa can dự và răn đe để đưa Trung Quốc gia nhập hệ thống quốc tế giúp duy trì lợi ích và giá trị của Mỹ. Cho dù các nhà hoạch định chính sách Mỹ biết rõ đối tác Trung Quốc cam kết bảo vệ vị trí cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, song họ vẫn cho rằng thế giới sẽ an toàn hơn khi Trung Quốc ở bên trong hệ thống quốc tế. Quan điểm này được cho là đúng. Tuy nhiên, nhiều người ở Washington vẫn hy vọng tìm cách thúc đẩy sự phát triển tự do của Trung Quốc. Do đó, chủ nghĩa độc đoán ngày càng tăng của Trung Quốc đã dẫn tới câu chuyện về thất bại toàn diện trong chính sách của Mỹ. Việc tập trung khắc phục thất bại đó đã khiến Bắc Kinh trở nên bất an và tin rằng Mỹ và các đồng minh sẽ không chấp nhận việc Trung Quốc trở thành siêu cường.

Giờ đây, cả hai nước đều tỏ ý sẵn sàng làm mọi việc cần thiết để chứng minh rằng bất kỳ yêu cầu nào của bên còn lại cũng đều sẽ không được đáp ứng. Cả Mỹ và Trung Quốc đều tin rằng đối phương chỉ lùi bước trước sức mạnh và coi sự kiềm chế là điểm yếu. Một ngày sau cuộc gặp với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore hồi tháng 6 vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, tướng Ngụy Phượng Hòa, đã cam kết “chiến đấu đến cùng” với Đài Loan.

(còn tiếp)

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/china/china-trap-us-foreign-policy-zero-sum-competition

TLTKĐB – 02 & 03, 04/11/2022

Nhìn lại 20 năm DOC – Phần đầu


Tháng 11/2002, Trung Quốc và 10 nước ASEAN ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) tại thủ đô Phnom Penh của Campuchia. Sự ra đời của DOC là sự kiện ngoại giao có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử quan hệ Trung Quốc-ASEAN và lịch sử quan hệ quốc tế, thể hiện trí tuệ tập thể và tinh thần hợp tác của Trung Quốc và các nước ASEAN. Trong 20 năm qua, Trung Quốc và các nước ASEAN đã tích cực thực hiện tôn chỉ, nguyên tắc và các thỏa thuận hợp tác thực chất trên biển được khởi xướng trong DOC, đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, đóng vai trò dẫn dắt và thúc đẩy tình hình Nam Hải (Biển Đông) dần ổn định và được cộng đồng quốc tế công nhận. Đồng thời, việc DOC được ký kết cũng là thử nghiệm ban đầu của các nước ven Nam Hải nhằm thiết lập các quy tắc cho trật tự ở vùng biển này. Trung Quốc và các nước ASEAN đều hy vọng có thể cùng hướng tới tương lai, tìm kiếm điểm chung và gác lại bất đồng, loại bỏ sự can thiệtp từ bên ngoài, nhanh chóng hoàn thành tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), hình thành văn bản cuối cùng phù hợp với mong đợi của tất cả các bên.

Ý nghĩa thời đại của DOC

Mặc dù DOC chỉ có hơn 1000 từ, là văn kiện mang tính chính trị nhằm quản lý khủng hoảng và thúc đẩy hợp tác, không có sức ràng buộc tương tự như các hiệp ước quốc tế, nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hòa bình và ổn định ở Nam Hải, cũng như đối với việc thiết lập các quy tắc hàng hải mang tính khu vực và thực tiễn về chủ nghĩa đa phương ở khu vực này. Trong một thời gian dài kể từ khi ký kết DOC đến khi Mỹ thực hiện chiến lược “tái cân bằng châu Á-Thái Bình Dương”, DOC đã đóng vai trò không thể thay thế đối với sự ổn định tương đối ở Nam Hải.

DOC là một thực tiễn thành công của Trung Quốc và 10 nước ASEAN về việc quản lý và kiểm soát các tranh chấp ở Nam Hải thông qua các thể chế, quy tắc và chuẩn mực trong bối cảnh không có sự can thiệp của các lực lượng bên ngoài. Tranh chấp giữa Trung Quốc với một số nước Đông Nam Á như Việt Nam, Philippines, Malaysia xoay quanh chủ quyền lãnh thổ của một số đảo/đá ngầm ở quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và yêu sách về quyền tài phán vùng biển thuộc các đảo/đá này bắt đầu từ cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970. Trước khi DOC được ký kết, cũng thường xuyên xảy ra các vụ đối đầu và xung đột trên biển giữa các nước có yêu sách ở Nam Hải liên quan đến các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí, bắt giữ ngư dân. DOC là thử nghiệm để Trung Quốc và các nước ASEAN tìm cách ổn định tình hình ở Nam Hải bằng các quy tắc, thiết lập một bộ quy tắc hành vi và hoạt động để các bên có tranh chấp ở Nam Hải hiểu được nên làm gì và không nên làm gì, có thể làm gì và không thể làm gì.

DOC đã trở thành văn kiện mang tính cương lĩnh và tính định hướng cho các nước ven Nam hải xây dựng lòng tin, quản lý xung đột, thúc đẩy hợp tác và cùng thúc đẩy hòa bình và ổn định ở Nam Hải. Từ việc xác định rõ “các nước có liên quan trực tiếp sẽ giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình thông qua tham vấn và hiệp thương hữu nghị”, đến cam kết “duy trì sự kiềm chế, không có các hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp, cũng như ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định”, ngừng chiếm đóng các đảo và bãi đá ngầm không có người ở, triển khai đối thoại giữa các quan chức quốc phòng và quân đội, tự nguyện thông báo cho nhau về tình hình các cuộc tập trận chung, khởi xướng hợp tác trên các lĩnh vực như bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, an toàn giao thông đường thủy, tìm kiếm cứu nạn, chống tội phạm xuyên quốc gia. DOC đã cung cấp hướng dẫn hành động và khuôn khổ cơ chế để quản lý bất đồng, ngăn chặn các cuộc khủng hoảng tiềm tàng và thúc đẩy hợp tác thực chất trên biển.

DOC là xuất phát điểm và nền tảng vững chắc để đàm phán COC. Về bản chất, COC và DOC là một thể thống nhất không thể tách rời và có sự kế thừa. Là thành quả mang tính giai đoạn và sớm đạt được so với kỳ vọng của Trung Quốc và ASEAN trong việc xây dựng các quy tắc khu vực ở Nam Hải, DOC nêu rõ các bên nên lấy việc xây dựng COC làm mục tiêu cuối cùng và bản thân DOC cũng nghiễm nhiên trở thành hệ quy chiếu và khung đàm phán của COC. Đặc biệt là các nguyên tắc và quy tắc hành vi, cơ chế đối thoại và trao đổi, sáng kiến hợp tác trên biển quan trọng mà DOC đưa ra đã đặt cơ sở cho Trung Quốc và ASEAN xây dựng COC.

DOC cho thấy điều gì?

Việc DOC được ký kết và thực thi đã cho thấy các quốc gia trong khu vực hoàn toàn có khả năng giải quyết các tranh chấp về yêu sách biển và quyền tài phán với nhau. Trong thời gian gần đây, xuất phát từ những toan tính chiến lược và nhu cầu lợi ích của mình, một số nước có yêu sách chủ quyền và một số nước bên ngoài khu vực tỏ ra hoài nghi về việc liệu Trung Quốc và ASEAN có đủ năng lực để giải quyết tranh chấp phức tạp ở Nam Hải, một số nước thậm chí còn cho rằng “cơ chế bên thứ ba” mới là lựa chọn ưu tiên để giải quyết tranh chấp ở Nam Hải. Trong 20 năm qua, Trung Quốc và các nước ASEAN đã thiết lập các cơ chế như Hội nghị quan chức cấp cao và Hội nghị nhóm công tác chung về thực hiện DOC, cũng tìm tòi và hình thành các diễn đàn như đường dây nóng giữa các bộ trưởng ngoại giao hai bên về các tình huống khẩn cấp trên biển, đường dây nóng về tìm kiếm và cứu nạn hàng hải…, góp phần quan trọng vào việc duy trì tình hình ổn định chung ở Nam Hải. Những điều này cũng cho thấy Trung Quốc và các nước ASEAN hoàn toàn có đủ năng lực quản lý bất đồng, phòng ngừa xung đột và thúc đẩy hợp tác thông qua việc xây dựng các cơ chế.

DOC cũng là sự tìm tòi có lợi cho chủ nghĩa đa phương, xây dựng một trật tự hàng hải khu vực theo định hướng hòa bình và ổn định. Vấn đề tranh chấp ở Nam Hải là tranh chấp hiếm gặp trên thế giới, liên quan đến nhiều nước, nhiều đảo/bãi đá ngầm và vùng biển rộng lớn, và do nó có lịch sử phức tạp và thực tế nhạy cảm, nên DOC không phải và cũng không thể là cơ chế để giải quyết tranh chấp. Trung Quốc và các nước ASEAN tăng cường chủ nghĩa đa phương ở khu vực, thông qua quá trình đàm phán công bằng, bình đẳng và mang tính sáng tạo đã đạt được DOC, vạch rõ phương hướng cho việc làm thế nào để xử lý và giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển ở khu vực bằng phương thức đạt được nhận thức chung chính trị, xác lập nguyên tắc “thông qua tham vấn và đàm phán hữu nghị giữa các quốc gia có liên quan trực tiếp”. Điều quan trọng hơn là DOC thiết lập cơ chế thúc đẩy bình thường hóa để quản lý khủng hoảng và hợp tác trên biển trước khi giải quyết các tranh chấp. Từ những ý nghĩa này cho thấy việc DOC được ký kết và thực hiện là một ví dụ thành công của chủ nghãi đa phương trong việc giải quyết các tranh chấp biển ở khu vực.

Thực tiễn của DOC trong 20 năm qua đã cho thấy nhận thức chung và tin cậy lẫn nhau là điều kiện tiên quyết để các nước trong khu vực ứng phó với các thách thức và tăng cường hợp tác. 10 năm đầu sau khi ký kết DOC, trên cơ sở nhận thức chung và tin cậy lẫn nhau đạt được, Trung Quốc và các nước ASEAN đã xây dựng các biện pháp ngoại giao mang tính phòng ngừa nhằm tránh mở rộng và leo thang mâu thuẫn và xung đột do các hành động bắt giữ ngư dân và các tranh chấp ngoại giao liên quan, cũng nhưt hăm dò khai thác tài nguyên dầu khí gây ra. Đồng thời, hai bên còn đưa ra các yêu cầu trao đổi và kiềm chế tự nguyện đối với các hành động đơn phương có thể khiến tình hình khu vực trở nên căng thẳng như tập trận. Ở một mức độ nhất định, những nguyên tắc, quy tắc và biện pháp này đã mang đến hòa bình và ổn định cho Nam Hải. Nhưng điều đáng tiếc là kể từ năm 2012, nhận thức chung và tin cậy lẫn nhau được thiết lập trong DOC đã bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp của Mỹ – lực lượng bên ngoài khu vực và hành động đơn phương của một số quốc gia có yêu sách chủ quyền. Xuất phát từ lợi ích cá nhân, một số nước có yêu sách chủ quyền đã vi phạm nguyên tắc “đồng thuận quốc gia”, cố tình khởi xướng cơ chế Tòa Trọng tài, phối hợp với các nước bên ngoài khu vực tiến hành các cuộc tập trận chung ở các vùng biển nhạy cảm, dùng các hành động đơn phương để thay thế cho hợp tác thực chất và cùng phát triển, đi ngược lại mong muốn ban đầu của các bên ký kết DOC và nhận thức chung đã đạt được xoay quanh DOC, làm suy yếu nền tảng tin cậy lẫn nhau.

(còn tiếp)

Nguồn: Tạp chí Tri thức thế giới (TQ) số 16/2022

TLTKĐB – 04/11/2022

Nga và Trung Quốc trong hệ thống quản trị toàn cầu – Phần I


I/ Phân tích so sánh về vai trò và sự tham gia của Nga và Trung Quốc vào quá trình cải tổ những cơ chế quản trị toàn cầu

Nhân tố quan trọng nhất thu hút sự chú ý của cả cộng đồng thế giới, đó là sự “trỗi dậy” mạnh mẽ của Trung Quốc diễn ra trong vòng vài thập kỷ gần đây, trên cơ sở phát triển hòa bình, góp phần cùng nhau phát triển và cùng nhau giành phần thắng. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không ngừng nhấn mạnh những mục tiêu phát triển hết sức hòa bình của mình. Bắt đầu từ những cải cách kinh tế sâu sắc, đưa đất nước lên địa vị của một trong những cường quốc hàng đầu của thế giới, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày nay đang tác động một cách đáng kể lên cả những quá trình chính trị trên thế giới. Khu vực đang chứng kiến một cách rõ nét nhất trọng lượng và ảnh hưởng của Trung Quốc là châu Á – Thái Bình Dương.

Những phương hướng đề ra tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 11/2012) và phiên họp thứ nhất Đại hội đại biểu nhân dân toàn Trung Quốc (Quốc hội) khóa XII (tháng 3/2013) đã chứng minh tham vọng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa muốn thúc đẩy vai trò của mình trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Trong báo cáo của Chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào tại Đại hội đã chỉ ra rõ ràng, Trung Quốc dự định tham gia tích cực vào các công việc quốc tế “nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển một cách hợp lý và công bằng của hệ thống quốc tế”, “đóng vai trò của một nước lớn và có trách nhiệm, trên cơ sở phối hợp nhằm đáp lại những thách thức mang tính toàn cầu”. Trong tuyên bố của vị lãnh đạo mới của Trung Quốc, Tập Cận Bình (tháng 11/2012) đã đặt mục tiêu phải đạt tới “sự hồi sinh vĩ đại của dân tộc Trung Hoa”, thực hiện “giấc mơ Trung Quốc” từ bao thế kỷ.

Ban lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc trên cơ sở Nghị quyết Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đặt mục tiêu toàn dân tộc là phải đạt tới “sự hồi sinh vĩ đại của dân tộc Trung Hoa”, thực hiện “giấc mơ Trung Quốc”. Để thực hiện những nhiệm vụ này, đất nước Trung Quốc đang tích cực đẩy mạnh không chỉ ngoại giao đa phương, mà cả quan hệ song phương, được phân công theo ba hướng chính – với các nước lớn, các nước láng giềng và các nước đang phát triển; cố gắng xếp đặt cuộc đối thoại xây dựng và không cho phép trực tiếp đối đầu, cụ thể là thông qua việc phát triển mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và cùng nhau giành phần thắng.

Sức mạnh tổng hợp và ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc đang tăng lên là một trong những đặc điểm của quan hệ quốc tế hiện đại. Trong khi cố gắng củng cố vị thế của mình trên trường quốc tế, nước Nga không thể không chấp nhận thực tế mới trong cán cân lực lượng hiện tại, bao gồm nhân tố “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc.

Dưới dạng tổng quát nhất, có thể hiểu “sự trỗi dậy hòa bình” ở Trung Quốc như một quá trình tích cực xác định lại vị thế đất nước với tư cách là một quốc gia đã đạt tới quy chế toàn cầu không thông qua những phương pháp bạo lực (mà qua sự phát triển kinh tế hiệu quả và chính sách đối ngoại năng động). Sự “trỗi dậy hòa bình” của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng ngụ ý rằng Trung Quốc đã đạt được thế tái hợp nhất và trở nên ngang bằng với Hoa Kỳ trên những phương hướng cơ bản của những vấn đề trước mắt của thế giới, trên cơ sở nguyên tắc tính đa cực của quan hệ quốc tế.

Khái niệm trên cũng bao gồm trong nó luận đề về việc Trung Quốc nhận trách nhiệm lớn hơn đối với số phận hòa bình và phát triển, được thể hiện trong việc Trung Quốc sẵns àng đóng vai trò tích cực hơn trong những quá trình toàn cầu hóa kinh tế và hình thành thế giới đa cực. “Trỗi dậy hòa bình” cũng ngụ ý như một sự thay đổi về chất của ngoại giao Trung Quốc, thay cho mô hình phản ứng “thách thức – đáp trả” trước đây cần phải xây dựng mô hình theo nguyên tắc “hành động – kết quả”.

Khái niệm “trỗi dậy hòa bình” đã được phản ánh trong công trình của học giả Trung Quốc Môn Hồng Hoa, được đưa vào cuốn sách Chiến lược lớn của Trung Quốc. Tác giả khẳng định rằng những nét xác định của văn hóa chiến lược truyền thống của Trung Quốc, với toàn bộ tầm quan trọng của tiềm năng quân sự, đó là tính chất phòng thủ, mong muốn giành chiến thắng mà không cần chiến tranh hay chấm dứt thứ chiến tranh sử dụng vũ lực. Khái niệm “trỗi dậy hòa bình” trở thành biểu hiện tập trung trong văn hóa chiến lược của Trung Quốc dựa trên chủ nghĩa hiện thực, đạo lý và ý nguyện hợp tác. Chủ nghĩa hiện thực đặt lợi ích dân tộc cao hơn tất cả, còn quan điểm đạo lý hướng tới nền dân chủ trong quan hệ quốc tế, thiết lập trật tự kinh tế và chính trị mới trên thế giới, thái độ mới đối với vấn đề an ninh luôn luôn đề cao đường lối hướng tới hợp tác.

Khái niệm “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc được chính thức nêu ra tại Đại hội lần thứ XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 11/2002) và được trình bày một cách hệ thống trong những văn kiện của Hội nghị toàn thể thứ ba Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XVI 9tháng 10/2003). Luận đề về Trung Quốc mạnh lên và trỗi dậy với chiến lược lâu dài xuất hiện trong bài phát biểu của các nhà lãnh đạo Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các nhà phân tích hàng đầu như là những phản đề cho định đề “về mối đe dọa Trung Quốc” và “sự sụp đổ của Trung Quốc”.

Tại Diễn đàn châu Á ở Bác Ngao (đảo Hải Nam) họp vào tháng 4/2003, luận đề này lần đầu tiên được khai thác một cách khoa học toàn diện hơn trong các báo cáo của đoàn đại biểu Trung Quốc. Cũng vào năm đó, trong thời gian Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Ôn Gia Bảo sang thăm Hoa Kỳ, luận điểm này lần đầu tiên được nêu ra tại cấp nhà nước cao nhất. Sau đó, được Tổng bí thư Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đưa vào bài phát biểu của mình. Ông tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ kiên trì đi theo đường lối trỗi dậy hòa bình, đường lối độc lập, tự chủ trong chính sách đối nogại. Tháng 4/2004, tại Diễn đàn thường kỳ ở Hải Nam, Hồ Cẩm Đào một lần nữa đề cập vấn đề “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc, nhấn mạnh rằng Trung Quốc sẽ kiên trì theo đuổi con đường phát triển hòa bình.

Các nhà lãnh đạo và học giả Trung Quốc luôn luôn nhấn mạnh rằng quá trình tăng cường vai trò toàn cầu của Trung Quốc trên thế giới phải diễn ra một cách hòa bình, có tính đến lợi ích của các nước khác, trên cơ sở hợp tác và cùng phát triển, tôn trọng những nền văn minh khác và đối thoại hòa bình với họ. Trong điều kiện hiện nay, phải làm thế nào để việc đưa ra ý tưởng Trung Quốc mạnh lên không khiến cho đất nước và nền văn hóa Trung Quốc đối đầu với những đất nước và nền văn minh khác.

Về những thay đổi trong quan điểm đối với chính sách đối ngoại, ban lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn và không ngừng nhấn mạnh rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ không có mưu đồ giành bá quyền, sẽ thi hành chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và sẽ không trở thành chư hầu của ai cả. Trung Quốc nhắm tới việc tận dụng tối đa những khả năng của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, học tập và khai thác những lợi ích từ việc đạt tới nền văn minh nhân loại, vứt bỏ những định kiến và khuôn mẫu hệ tư tưởng.

Trong chiến lược phát triển đất nước một cách hòa bình của Trung Quốc một trong những mục tiêu chính trị quan trọng là “bằng công việc thực tế bác bỏ luận điệu phổ biến rộng rãi ở phương Tây về “mối đe dọa Trung Quốc” đang tăng lên”. Điều này thể hiện ở chỗ Bắc Kinh coi sự tiến bộ của bản thân như sự khuếch trương và mở cửa thị trường của mình cho các quốc gia khác, trước tiên là các nước phương Tây. Vì vậy, như các chuyên gia Trung Quốc bày tỏ, ở đây không phải nói đến sự bành trướng của Trung Quốc, mà là “sự bành trướng chung” và phát triển hòa bình của Trung Quốc, điều mà đối với châu Á và toàn thế giới có nghĩa là thêm những khả năng mới để phát triển. Lẽ đương nhiên, ở đây không loại trừ những yếu tố cạnh tranh và đấu tranh giành thị trường  và đầu tư.

Ban lãnh đạo Trung Quốc tiến hành mọi công việc theo hướng khiến cho việc Trung Quốc trở thành cường quốc hiện đại hùng mạnh không bị thế giới, nhất là các nước láng giềng, cảm nhận như một mối đe dọa tiềm tàng đến an ninh của họ. Bằng con đường ngoại giao thận trọng và mang tính chuyên nghiệp cao, hợp tác, tăng ucờng hiểu biết lẫn nhau giữa Trung Quốc và các đối tác, thu xếp những cuộc tiếp xúc nhân văn quy mô lớn, không hạn chế hoạt động của các quan chức nhà nước ở mọi chức vụ cấp bậc, Bắc Kinh đã củng cố lòng tin cậy và hiểu biết lẫn nhau với các dân tộc khác.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: M.L. Titarenko & V.E. Petrovski – Nga, Trung Quốc và trật tự thế giới mới: Lý luận và thực tiễn – NXB CTQG 2017