Luận điểm ban đầu của tôi như thế vẫn còn giá trị và rõ hơn khi được phát biểu lại và đặt trong một khung cảnh rộng hơn. Đồng thời, nó cũng được khẳng định bởi những phát triển gần đây trong các ngành khoa học, đáng kể nhất trong sinh vật và tâm lý học, và bây giờ tôi thấy mình đứng trên một cơ sở vững chắc hơn nhiều. Thậm chí bây giờ còn rõ hơn trước là đạo học hay triết học vĩnh cửu, có người gọi như thế, cung cấp những cơ sở triết học nhất quán cho các mẫu hình khoa học mới.
Sự thừa nhận này chưa phải là nhận thức chung của mọi người, nhưng nó đang mở rộng một cách vững chắc, bên trong và bên ngoài khoa học. Theo vết của Đạo của vật lý có khoảng ít nhất cả chục cuốn sách thành công nói về mối liên hệ giữa khoa học hiện đại và truyền thống đạo học, và cũng có nhiều hội nghị quốc tế lớn về đề tài này thu hút nhiều nhà khoa học xuất sắc, kể cả vài vị đoạt giải Nobel, cũng đại diện cao cấp của các tổ chức truyền thống tâm linh. Thông điệp ban đầu của tôi đa được nhân lên rộng rãi trong các biến cố đó.
Ảnh hưởng của Heisenberg và Chew
Bây giờ tôi xin trở lại những mẫu hình mới trong khoa học và thảo luận về những đặc trưng chính của chúng. Gần đây tôi đã thử tìm một nhóm những tiêu chuẩn cho tư duy về mẫu hình mới trong khoa học. Tôi đề xuất sáu tiêu chuẩn; hai cái đầu nói về cách nhìn về thiên nhiên, bốn cái sau về nhận thức luận của chúng ta. Tôi nghĩ rằng bốn tiêu chuẩn này là đặc trưng cho tư duy theo mẫu hình mới trong tất cả mọi khoa học, nhưng như đã nói trong lời cuối của Đạo của vật lý, tôi sẽ minh họa chúng với các thí dụ của ngành vật lý, và tôi sẽ nhắc lại ngắn gọn chúng được phản ánh trong các truyền thống đạo học phương Đông như thế nào.
Trước khi đi vào thảo luận sáu tiêu chuẩn, tôi xin nhắc lại với lòng biết ơn sâu xa món nợ của tôi đối với hai nhà vật lý xuất chúng, hai vị đó để lại nơi tôi nguồn cảm hứng chủ yếu và đã ảnh hưởng quyết định lên tư duy khoa học của tôi: Werner Heisenberg và Geoffrey Chew. Tác phẩm của Heisenberg Physics and Philosophy (Vật lý và Triết học), thành tựu cổ điển của ông về lịch sử và triết học của vật lý lượng tử, đã tạo ảnh hưởng to lớn khi tôi còn là sinh viên bắt đầu đọc cuốn đó. Cuốn sách này trở thành bạn đồng hành của tôi suốt thời gian học tập và công tác với tư cách nhà vật lý, và hôm nay tôi thấy chính Heisenberg đã gieo những hạt giống cho Đạo của vật lý. Tôi có may mắn được gặp Heisenberg trong đầu những năm 70. Tôi đã có những cuộc thảo luận dài với ông và khi tôi hoàn tất Đạo của vật lý, tôi cùng ông dò suốt lại bản thảo, từng chương. Chính sự hỗ trợ và cảm hứng của cá nhân Heisenberg đã cùng tôi đi hết những năm tháng khó khăn; những lúc cô đơn không ai ủng hộ khi tôi phát triển và trình bày một ý niệm hoàn toàn mới.
Geoffrey Chew thuộc về một thế hệ khác với Heisenberg và với các nhà sáng lập lớn khác của ngành vật lý lượng tử, và tôi không nghi ngờ gì các nhà lịch sử tương lai của khoa học sẽ đánh giá sự cống hiến của ông cho nền vật lý của thế kỷ 20 cũng xuất sắc như các vị kia. Nếu Einstein làm cuộc cách mạng cho tư tưởng khoa học với thuyết tương đối, còn Bohr và Heisenberg với giải thích về cơ học lượng tử đã mang lại những thay đổi đảo lộn mà bản thân Einstein cũng từ chối không chấp nhận, thì Chew đã làm bước cách mạng thứ ba trong nền vật lý thế kỷ 20. Thuyết Bootstrap (Dung thông) của ông về hạt đã thống nhất cơ học lượng tử và thuyết tương đối trong một thuyết, thuyết này tiêu biểu sự từ bỏ quyết liệt cách tiếp cận của phương Tây về khoa học cơ bản.
Tôi bị lý thuyết và triết học của Chew thu hút mãnh liệt kể từ ngày tôi gặp ông cách đây 20 năm và tôi có hân hạnh được cộng tác chặt chẽ và liên tục trao đổi tư tưởng với ông. Những cuộc thảo luận thường xuyên này là suối nguồn của sự cảm hứng liên tục và đã hình thành một cách quyết định toàn bộ quan điểm khoa học của tôi.
Những mẫu hình mới trong tư duy khoa học
Bây giờ tôi xin phép trở lại sáu tiêu chuẩn về những mẫu hình tư duy mới trong tư duy khoa học.
Tiêu chuẩn thứ nhất nói đến mối quan hệ giữa cái riêng biệt và cái toàn thể. Trong mẫu hình khoa học có tính cơ khí cổ điển, người ta tin rằng sự vận động của mỗi hệ thống phức tạp có thể được hiểu thông qua tính chất của từng thành phần riêng biệt. Một khi ta biết các thành phần riêng biệt – tính chất cơ bản của chúng và cơ chế tương tác của chúng – ta có thể suy ra, ít nhất về mặt nguyên lý, sự vận động của cái toàn thể. Vì thế nguyên tắc là nhằm tìm hiểu mọi hệ thống phức tạp, ta phá vỡ nó ra từng mảnh nhỏ. Bản thân các mảnh này không được dùng để giải thích gì thêm, trừ phi ta lại bẻ nhỏ chúng ra những mảnh nhỏ hơn. Cứ tiếp tục mãi trong quá trình này, ta luôn luôn sẽ đến một chỗ dừng, đó là tại một nơi mà ta có những hạt cơ bản xây dựng nên hệ thống: những yếu tố, những chất liệu, những hạt, và vân vân – với những tính chất mà ta không giải thích được nữa. Từ những đơn vị cơ bản này với những quy luật căn bản hay sự tương tác của chúng, ta sẽ xây dựng lại một toàn thể to lớn và tìm cách giải thích sự vận động của nó bằng tính chất của các thành phần riêng biệt. Cách này đã khởi đầu với Demokritus trong thời thượng cổ Hy Lạp; đó là tiền trình đã được thành hình với Descartes và Newton, và đó là cách nhìn khoa học được thừa nhận đến thế kỷ 20.
Trong mẫu hình mới, mối liên hệ giữa cái toàn thể và cái riêng biệt đối xứng hơn hiều. Ta tin rằng, trong lúc tính chất của cái riêng biệt dĩ nhiên giúp cho sự hiểu biết về cái toàn thể, đồng thời tính chất của cái riêng biệt cũng chỉ có thể được hiểu hết thông qua sự vận động của cái toàn thể. Cái toàn thể là chủ đạo, và một khi ta hiểu sự vận hành của cái toàn thể thì ta có thể suy ra, ít nhất trên mặt nguyên tắc, tính chất và cấu trúc tương tác của các thành phần riêng biệt. Sự thay đổi này trong mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái riêng biệt xảy ra trong khoa học trước hết trong ngành vật lý, khi thuyết lượng tử được phát triển. Trong những năm đó, nhà vật lý phát hiện ra với sự kinh ngạc lớn lao rằng họ không sử dụng khái niệm của một thành phần – thí dụ một nguyên tử hay một hạt – trong nghĩa cổ điển. Thành phần riêng biệt không còn được định nghĩa rõ ràng được nữa. Chúng cho thấy nhiều tính chất khác nhau, tùy theo khuôn khổ thí nghiệm khác nhau.
Dần dần nhà vật lý nhận ra rằng, thiên nhiên, trong lĩnh vực nguyên tử, không xuất hiện như một vũ trụ cơ học gồm có các đơn vị xây dựng cơ bản, mà như một mạng lưới của các mối liên hệ và rằng, cuối cùng, chẳng có thành phần riêng tư nào cả trong mang lưới liên hệ chằng chịt đó. Cái mà ta gọi là thành phần chỉ là cấu trúc có một sự ổn định nhất định và gây nơi ta sự chú ý. Heisenberg là người bị ấn tượng hết sức mạnh về mối quan hệ mới của cái toàn thể và cái riêng biệt, đến nỗi ông đặt tên cho tác phẩm tự thuật đời mình là Der Teil und das Ganze (Cái riêng biệt và cái toàn thể).
Sự thừa nhận của tính thống nhất và mối liên hệ qua lại của mọi sự vật và biến cố, sự chứng thực rằng mọi hiện tượng đều là dạng xuất hiện của một cái nhất thể cơ bản, đó cũng là đặc trưng chung quan trọng nhất của thế giới quan phương Đông. Người ta có thể nói đó là cái cốt tủy của mọi quan niệm đó, của mọi truyền thống đạo học đó. Tất cả mọi sự vật được xem là liên hệ chằng chịt với nhau, không tách rời nhau, và chúng đều là cấu trúc của một thể thực tại cuối cùng.
Tiêu chuẩn thứ hai của mẫu hình tư duy mới trong hoa học liên hệ tới sự thay đổi, thay quan niệm về cơ cấu bằng quan niệm về tiến trình. Trong mẫu hình cũ, người ta nghĩ rằng có những cấu trúc cơ bản, và rồi có lực và cơ chế thông qua đó mà lực tác động, rồi vì thế mà sinh ra tiến trình. Trong mẫu hình mới, ta nghĩ tiến trình là chủ đạo, mỗi một cấu trúc mà ta quan sát được đều là dạng xuất hiện của một tiến trình cơ bản.
Tư duy tiến trình này đi vào vật lý với thuyết tương đối của Einstein. Sự nhận thức khối lượng là một dạng của năng lượng đã loại bỏ khái niệm của một chất liệu vật chất ra khỏi khoa học, và với sự loại bỏ này, nó không còn là một cấu trúc cơ bản nữa. Các hạt hạ nguyên tử không phải do bất cứ vật chất nào tạo thành; tất cả chúng đều là cấu trúc của năng lượng. Thế nhưng, năng lượng luôn luôn được kết hợp với hoạt động, với tiến trình, và điều này dẫn đến thực tế là các hạt hạ nguyên tử đều tự nó là động. Khi quan sát chúng, không bao giờ ta thấy chất liệu nào cả, cũng không cấu trúc cơ bản nào cả. Điều ta thấy chỉ là cấu trúc động của sự biến hóa liên tục từ cái khác – một điệu vũ liên tục của năng lượng.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Fritjof Capra – Đạo của vật lý – NXB THTPHCM 2015.