Nghịch lý của sự lựa chọn – Tại sao quyết định có thể gây thất vọng? Đó là vấn đề thuộc về tính thích nghi – Phần cuối


Tính thích nghi và vấn đề chọn lựa

Việc chúng ta có quá nhiều lựa chọn càng làm trầm trọng hơn hiệu ứng của tính thích nghi, bởi điều đó làm chúng ta phải trả giá nhiều hơn về thời gian và nỗ lực mới đi đến quyết định. Thời gian, nỗ lực, những lựa chọn khác, cảm giác nuối tiếc và những điều tương tự chính là những cái giá cố định mà chúng ta phải xem xét trước khi quyết định. Những cái giá như thế sau đó sẽ được “trả dần” khi quyết định đã được đưa ra. Nếu quyết định đó mang lại cho chúng ta sự thỏa mãn trong một thời gian dài thì cái giá chúng ta phải trả cho quyết định đó càng trở nên nhỏ bé. Nhưng nếu quyết định đó chỉ cho chúng ta thỏa mãn trong một thời gian ngắn, thì giá phải trả về những điều nêu trên bỗng trở nên to lớn. Bỏ ra 4 tháng để quyết định mua một dàn âm thanh thì cũng không là nhiều nếu như sau đó 15 năm bạn vẫn còn thích nó. Nhưng nếu chỉ sau sáu tháng mà bạn đã trở nên thích nghi và không còn thấy nó thú vị, thì bạn sẽ tự cảm thấy mình ngốc khi bỏ ra chừng đó nỗ lực và thời gian. Dàn âm thanh đó không đáng như vậy.

Vì vậy, chúng ta càng có nhiều tùy chọn thì chúng ta càng phải bỏ ra nhiều nỗ lực để quyết định chọn cái nào. Và càng bỏ ra nhiều nỗ lực thì chúng ta càng kỳ vọng nhiều hơn về những lợi ích mà quyết định đó mang lại. Tính thích nghi làm giảm đáng kể thời gian kéo dài của những lợi ích trên và đặt chúng ta vào một trạng thái tâm lý khiến ta cảm thấy kết quả đạt được không xứng với nỗ lực của mình. Chúng ta càng đầu tư nhiều vào một quyết định thì chúng ta càng kỳ vọng vào những điều sẽ đạt được từ quyết định đó. Và tính thích nghi làm cho chúng ta cảm thấy khốn khổ, nếu kết quả từ quyết định của chúng ta hóa ra là một sự đầu tư không hiệu quả.

Dĩ nhiên tính thích nghi sẽ để lại những hậu quả sâu sắc đối với những người ban đầu đã kỳ vọng nhiều hơn là đối với những người chỉ đặt mục tiêu vừa phải. Những cơ hội mở rộng thực sự làm cho những người cầu toàn tốn nhiều thời gian và nỗ lực. Cũng chính những người cầu toàn là những người đầu tư nhiều nhất cho mỗi quyết định của họ, và cũng là người suy nghĩ nhiều về sự thỏa hiệp nhất, tức suy nghĩ mình có chấp nhận một điều gì đó mình chưa thấy thỏa mãn hay không. Và vì thế những người kỳ vọng nhiều nhất cũng là những người chịu thất vọng nhiều nhất khi họ thấy niềm hứng khởi từ kết quả của những quyết định của họ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.

Hạnh phúc không phải là tất cả. Hứng thú mang tính chủ quan không phải là lý do duy nhất giúp chúng ta tồn tại. Những quyết định tốn nhiều công sức, nghiên cứu và sự thận trọng có thể tạo ra được kết quả, về mặt khách quan, tốt hơn so với kết quả của những quyết định tức thời. Một thế giới có nhiều sự lựa chọn thường tạo ra nhiều sự lựa chọn, về mặt khách quan, tốt hơn so với một thế giới chỉ có ít sự chọn lựa. Nhưng đồng thời thì hạnh phúc cũng không phải là không có ý nghĩa gì, và trải nghiệm mang tính chủ quan không phải là điều vặt vãnh. Nếu tính thích nghi tạo cho con người một trải nghiệm chủ quan về những lựa chọn của họ, mà những lựa chọn này họ thấy không xứng với những nỗ lực đã bỏ ra, thì con người sẽ bắt đầu thấy rằng chọn lựa nhiều không phải là cứu cánh mà là một gánh nặng.

Nên làm thế nào?

Nếu bạn sống trong một thế giới mà bạn phải chịu nhiều đau khổ hơn hạnh phúc thì tính thích nghi đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Khả năng thích nghi là thứ duy nhất có thể cho bạn sức mạnh và lòng dũng cảm để vượt qua. Nhưng nếu bạn sống trong một thế giới mà niềm vui nhiều hơn bất hạnh, thì khả năng thích nghi lại làm cho bạn không hưởng thụ được sự tốt phước của mình. Hầu hết người Mỹ hiện đại đều được sống trong một thế giới sung túc. Khi chúng ta không nỗ lực để có được điều mình muốn thì chúng ta cũng không thể kiểm soát cuộc sống của mình, kiểm soát được sự dư thừa vật chất và kiểm soát được sự tự do chọn lựa trong một thế giới như thế. Mặc dù tính thích nghi không làm giảm đi những tiến bộ khách quan trong cuộc sống mà sự tự do và dư thừa như trên mang lại, nhưng nó làm giảm đi sự thỏa mãn mà chúng ta có được từ những tiến bộ ấy.

Nếu chúng ta có thể tìm ra cách để loại bỏ tính thích nghi thì chúng ta có thể tiến một bước dài trong việc cải thiện hạnh phúc cuộc sống. Nhưng tính thích nghi lại là một đắc tính phản hồi phổ biến và quan trọng của con người đối với các sự kiện xảy ra – nó được kiểm soát bằng vi mạch điện tử của hệ thần kinh con người – nên hầu như chúng ta không làm được gì để giảm bớt sự hiện diện của nó một cách trực tiếp.

Tuy nhiên, nếu ý thức được tính thích nghi thì chúng ta có thể dự đoán hiệu ứng của nó, và sẽ ít cảm thấy thất vọng hơn khi nó đến. Có nghĩa là khi sắp ra một quyết định nào đó, chúng ta nên đoán trước cảm giác của mình về quyết định đó không chỉ trong ngày mai mà còn sau này. Trước khi đưa ra quyết định, nếu chúng ta tính đến tính thích nghi, thì chúng ta sẽ thấy cảm giác về lựa chọn của mình lúc đầu và sau này chỉ có khác biệt nhỏ. Tính đến tính thích nghi còn có thể giúp chúng ta hài lòng với lựa chọn của mình dù chúng chỉ vừa phải chứ không hẳn là “tốt nhất”. Điều này, ngược lại, cũng sẽ làm giảm thời gian và nỗ lực của chúng ta khi chọn lựa. Cuối cùng, chúng ta có thể tự nhắc mình hãy biết ơn những gì đang có. Điều này nghe có vẻ nhàm bởi chúng ta được nghe từ cha mẹ cho đến linh mục nhắc nhở và chúng ta phớt lờ. Nhưng những người hay biểu lộ sự biết ơn thường là những người khỏe mạnh về thể chất và lạc quan về tương lai hơn những người không như vậy. Người nhận được nhiều sự biết ơn từ người khác thì cũng sáng suốt, nhiệt tình hơn co sơví những ngươi không được nhận. Và họ cũng có khả năng đạt được mục tiêu cao hơn.

Không giống với tính thích nghi, cảm giác về lòng biết ơn là thứ mà chúng ta có thể tác động trực tiếp. Tập luyện sẽ giúp việc nhận và biểu lộ lòng biết ơn dễ dàng hơn. Nếu chúng ta chú tâm và những ưu điểm của cuộc sống hiện nay so với trước đây, thì sự thất vọng mà tính thích nghi mang lại có thể giảm đi rất nhiều.

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Barry Schwartz – Nghịch lý của sự lựa chọn – NXB Trẻ 2008.

Advertisement

Nghịch lý của sự lựa chọn – Tại sao quyết định có thể gây thất vọng? Đó là vấn đề thuộc về tính thích nghi – Phần II


Tính thích nghi và việc chạy theo hứng thú

Đối với câu hỏi ví dụ nào là tiêu biểu nhất cho tính thích nghi đối với hứng thú, những người tham gia cuộc nghiên cứu đã được yêu cầu xếp hạng hạnh phúc của họ trên thang điểm 5. Vài người trong họ đã trúng số từ 50.000 đến 1 triệu đôla trong vòng một năm. Vài người đã bị liệt nửa người hoặc bị liệt tứ chi do bị tai nạn. Dĩ nhiên là những trúng số phải hạnh phúc hơn những người bị tai nạn. Tuy vậy, đáng ngạc nhiên là những người trúng số lại không hạnh phúc hơn những người bình thường bao nhiêu. Và còn đáng ngạc nhiên hơn là những nạn nhân bị tai nạn, mặc dù họ gặp nhiều điều bất hạnh hơn mọi người nói chung, nhưng họ lại tự cảm thấy mình hạnh phúc.

Nếu bạn hỏi những người trúng số họ hạnh phúc như thế nào khi vừa biết kết quả, thì sẽ không lạ gì nếu họ tự đặt mình hạnh phúc trên cả thang điểm đã đặt ra. Và nếu bạn hỏi xem những nạn nhân cảm thấy như thế nào ngay khi họ vừa hết bị liệt, thì họ nói mức độ hạnh phúc của họ ít hơn so với những người mới biết mình trúng số. Nhưng khi những người trúng số và những nạn nhân đều đã quen với tình hình mới, thì nhiệt kế hứng khởi của hai nhóm bắt đầu xích lại gần nhau, dần dần trở nên giống những người khác nói chung.

Ở đây ý tôi không phải là về lâu về dài, đối với những trải nghiệm càng chủ quan thì càng không có sự khác biệt nào giữa người trúng số và người bị tai nạn. Những gì tôi sắp trình bày sẽ cho thấy sự khác biệt về tính thích nghi ở hai nhóm sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với bạn nghĩ, và sẽ càng nhỏ hơn khi có những sự kiện lớn trong cuộc sống xảy ra.

Như tôi đã nói, có hai lý do giải thích cho sự thích nghi về hai cảm giác, một bên thì hứng khởi quá mức và một bên đau buồn quá mức này. Lý do thứ nhất, con người dần sẽ quen với những điều may mắn hoặc xui xẻo. Thứ hai, tiêu chuẩn mới để đánh giá một trải nghiệm gây hứng khởi (ví dụ như trúng số) có thể khiến cho những vui thú thường ngày khác (ví dụ mùi cà phê được pha ngon, những bông hoa mới nở và những làn gió mát lành của một ngày mùa xuân đẹp trời) bỗng trở nên chán ngán vì có sự so sánh. Thực sự khi những người trúng số được yêu cầu xếp hạng sự hứng thú của những hoạt động thường ngày, thì họ cho những hoạt động này ít hứng thú hơn so với những người không trúng số. Vì vậy phản ứng đã thay đổi đối với cùng một sự kiện và quy chuẩn đánh giá cũng đã thay đổi.

Trong trường hợp những người gặp tai nạn thì có thể còn nhiều điều khác diễn ra. Hậu quả sau khi bị nạn thì thật nghiêm trọng bởi những nạn nhân này trước khi bị tai nạn cũng di chuyển được như những người khác và lúc đó họ không có kỹ năng của người bị liệt để thích nghi với hoàn cảnh. Khi dần dần họ có được những kỹ năng này và khám phá ra rằng họ không đến nỗi tàn phế như đã từng nghĩ. Hơn thế nữa, họ có thể bắt đầu chú ý đến những thứ mà họ làm được. Những việc này, tuy dễ dàng với người bình thường, nhưng lại là kỳ công đối với người khuyết tật mà họ chưa từng nghĩ đến trước khi bị nạn.

25 năm trước, nhà kinh tế học Tibor Scitovsky đã nghiên cứu một số kết quả của tính thích nghi trong cuốn sách Nền kinh tế bất hạnh của ông. Scitovsky nói rằng, con người ai cũng muốn trải nghiệm hứng thú. Khi họ mua một thứ gì đó thì tức là họ sẽ có được một hứng thú nào đó, miền thứ họ mua là mới lạ. Nhưng khi con người đã thích nghi, cũng là lúc sự mới lạ đã giảm dần, thì hứng thú lại bị thay thế bởi cảm giác trung lập. Thật tuyệt khi bạn lái chiếc xe mới trong vài tuần đầu, nhưng sau đó thì việc lái chiếc xe chỉ còn cho cảm giác bình thường. Dĩ nhiên là lái xe mới phải tốt hơn hẳn xe cũ, nhưng không còn là một điều gì đó quá hào hứng đối với chủ nhân nữa. Cảm giác dễ chịu bình thường cũng tốt, nhưng người ta lại thích được hứng thú kia. Và dễ chịu thì lại không phải là hứng thú.

Kết quả của việc cảm giác hứng thú chuyển thành cảm giác bình thường là một sự thất vọng. Sự thất vọng này sẽ càng trầm trọng nếu hàng hóa chúng ta mua là những thứ phải xài lâu, như xe hơi, nhà cửa, dàn âm thanh, trang phục dành cho những dịp đặc biệt, trang sức và máy tính. Khi cảm giác hứng thú ngắn ngủi trôi qua, người ta vẫn còn những thứ này quanh mình, chúng như là những vật luôn nhắc nhở ta rằng mua sắm không phải lúc nào cũng mang lại hứng thú, và rằng thực tế không phải lúc nào cũng được như mong đợi. Khi một xã hội càng trở nên giàu có, thì con người sẽ ngày càng mua đồ bền và đắt do sự thất vọng của họ gia tăng. Nếu họ mua đồ mới mà độ bền và đắt cũng giống như những món trước đây thì điều này không tạo được cho họ hứng thú.

Khi phải đối mặt với sự thất võng không thể tránh khỏi này thì con người phải làm gì? Một số người đơn giản chỉ cần từ bỏ cuộc đua và dừng việc tìm vui thú từ những thứ họ có. Nhưng số đông còn lại thì lại có khuynh hướng theo đuổi sự mới lạ, tìm ra những món đồ và trải nghiệm mới có khả năng làm họ hứng thú. Những thứ mới lạ sẽ làm họ hứng thú ở mức độ cao bởi chúng chưa từng xảy ra hoặc lặp đi lặp lại trước đó.

Rốt cuộc thì những thứ mới cũng sẽ không còn hấp dẫn, nhưng con người vẫn bị cuốn vào một cuộc đua, một quá trình mà các nhà tâm lý học như Philip Brickman và Donald Campell gọi là chạy theo hứng thú. Cho dù bạn có chạy nhanh thế nào thì bạn cũng chả đi tới đâu cả. Và do tính thích nghi, cho dù lựa chọn của bạn có tốt đến đâu, kết quả có gây hứng thú đến đâu thì cuối cùng bạn cũng trở lại nơi mình xuất phát sau khi đã trải nghiệm những thứ mới lạ đó.

Thậm chí còn có một điều có thể nghiêm trọng hơn chạy theo hứng thú, đó là điều mà Daniel Kahnman gọi là chạy theo thỏa mãn. Khi bạn thích nghi với một đồ vật hoặc trải nghiệm nào đó, thì bạn cũng thích nghi với một mức độ thỏa mãn nào đó. Nói cách khác, giả sử bạn đã bỏ ra rất nhiều nỗ lực và đầu óc sáng tạo khi quyết định một việc gì đó, bạn cố gắng giữ cho nhiệt kế hứng khởi của mình ở 20 độ để luôn cảm thấy lúc nào cuộc sống cũng tốt. Nhưng liệu 20 độ đã đủ chưa? Ban đầu có thể là đủ nhưng một khi bạn đã thích nghi với mức độ hạnh phúc này rồi thì bạn sẽ không còn cảm thấy 20 độ là đủ nữa. Bấy giờ bạn sẽ cố gắng đạt cho được những thứ có thể mang lại cho bạn hứng thú ở mức 30 độ. Vì vậy cho dù bạn đã khống chế và vượt qua được tính thích nghi đối với những món đồ và trải nghiệm mới, thì bạn vẫn còn phải cố gắng để khống chế những cảm giác chủ quan đối với những thứ này. Đó thực sự là một việc nan giải.

Dự đoán sai mức độ hài lòng

Thích nghi với những trải nghiệm tích cực cũng khá khó khăn dù chúng ta đã biết được nó sẽ đến và tự chuẩn bị cho điều đó. Nhưng cũng thật kỳ lạ, nghiên cứu cho biết chúng ta vẫn có khuynh hướng ngạc nghiên khi sự thích nghi đến (dù đã biết trước). Nói chung, con người thường rất kém trong việc dự đoán cảm giác của họ đối với những trải nghiệm khác nhau. Cho nên nếu những người trúng số biết trước họ sẽ trúng số và việc trúng số đó không cải thiện hạnh phúc của họ được bao nhiêu thì họ có thể sẽ không mua vé nữa.

Nhiều nghiên cứu để đánh giá độ chính xác của những dự đoán của con người về cảm giác của họ trong tương lai có đa dạng như thế này: Một nhóm được yêu cầu tưởng tượng ra một sự kiện nào đó xấu hoặc tốt và được hỏi về sự kiện đó sẽ làm họ cảm thấy thế nào. Nhóm thứ hai gồm những người đã thực sự trải qua sự kiện đó, họ được hỏi sự kiện đó đã thực sự làm họ cảm thấy thế nào. Sau đó thì dự đoán của nhóm thứ nhất sẽ được so sánh với trải nghiệm thật của nhóm hai.

Trong một nghiên cứu thuộc loại này, sinh viên đại học ở Midwest đã được hỏi họ sẽ cảm thấy thế nào nếu sống ở California. Những sinh viên này cho rằng sinh viên sống ở California thì hạnh phúc hơn, vì khí hậu ở đó dễ chịu hơn và sẽ hài lòng với cuộc sống hơn so với sinh viên vùng Midwest. Những dự đoán này đã đúng ở vế thứ nhất nhưng không đúng ở vế thứ hai. Sinh viên ở Cali đúng là rất thích khí hậu ở đó nhưng họ không hạnh phúc hơn sinh viên ở Midwest. Có thể điều làm cho sinh viên Midwest nghĩ sai đó là do họ chỉ chú tâm vào khía cạnh khí hậu ở Cali. Khí hậu luôn nắng ấm ở Cali không có nghĩa sinh viên ở đó ít gặp vấn đề hơn, như lớp học chán, làm việc quá nhiều, không đủ tiền chi tiêu, bất đồng với bạn bè và gia đình, thất vọng chuyện yêu đương, và những vấn đề khác. Thực sự nếu gặp vấn đề ở một nơi có thời tiết ấm áp thì vẫn dễ chịu hơn là ở nơi có thời tiết lạnh cóng hay tuyết rơi, nhưng điều này không đủ để tạo nên khác biệt lớn trong cách bạn nhìn cuộc sống.

Trong một nghiên cứu khác, người tham gia dự đoán cảm giác hạnh phúc của họ sẽ như thế nào trong một thập kỷ tới khi có những thay đổi về môi trường và con người. Họ được hỏi về những thay đổi của ô nhiễm không khí, phá rừng, số lượng gia tăng các quán cà phê và kênh truyền hình, nguy cơ chiến tranh hạt nhân giảm, nguy cơ lây nhiễm AIDS và các bệnh mãn tính tăng, thay đổi về thu nhập và trọng lượng cơ thể tăng. Những người khác thì không được yêu cầu dự đoán họ sẽ cảm thấy thế nào, mà được hỏi về cảm giác của họ đối với cuộc sống ở thập kỷ đã qua khi những thay đổi này đến (ở mức độ áp dụng cho từng trường hợp cá nhân). Kết quả cũng rõ ràng: những người dự đoán về cảm giác của mình về những thay đổi giả định dù tốt hay xấu, thì đều nghĩ rằng những thay đổi này sẽ có tác động lớn hơn đối với họ so với những người hồi tưởng lại dựa trên những trải nghiệm đã qua.

Cũng trong một nghiên cứu khác, các trợ giảng trẻ đã được yêu cầu đoán cảm giác của họ nếu được bổ nhiệm hoặc từ chối nhận làm giảng viên chính thức. Họ được yêu cầu dự đoán cảm giác của họ ngay sau khi được nhận quyết định, và cảm giác của họ trong năm và mười năm sau. Những người tham gia nghiên cứu đã phần nào ý thức được hiệu ứng của tính thích nghi, và vì thế, họ đoán mình sẽ cực kỳ hạnh phúc hoặc buồn khi nhận được quyết định, nhưng niềm vui hay nỗi buồn đó sẽ giảm dần theo thời gian. Tuy nhiên, họ đã đoán sai. Dự đoán của những trợ giảng này đã được so sánh với cảm giác của những người đã thực sự trải qua khi nhận được quyết định vui hoặc buồn, cho dù mới nhận gần đây hay đã năm hoặc mười năm trước. Thật đáng ngạc nhiên, không có sự khác biệt nào về cảm giác hạnh phúc của những người được nhận chính thức hoặc những người đã không được nhận ở những thời điểm khác nhau. Cho dù trong tâm trí những người dự đoán đã có sẵn tính thích nghi, nhưng họ dù sao cũng đã phóng đại về cảm giác hạnh phúc hay thất vọng của mình khi thời gian trôi qua.

Phải thừa nhận rằng việc không khớp nhau giữa dự đoán và cảm giác thực tế xảy ra nhiều hơn so với việc không đoán được tính thích nghi. Chúng ta rất giỏi chữa bệnh tâm lý của mình và tìm ra niềm hy vọng hay an ủi khi mọi việc không suôn sẻ. “Đồng nghiệp của tôi thật đáng chán”, “Các sinh viên này đều thua cuộc cả”, “Công việc này chán chết đi được; tôi phải làm việc suốt và tôi không được tận hưởng cuộc sống”, “Nó đã giải phóng cho tôi, tôi đã trở thành một nhà tư vấn và làm việc đàng hoàng để nhận được mức lương gấp đôi”. Nhưng việc không dự đoán được tính thích nghi chắc chắn là một phần của sự không khớp nhau này.

Mọi người cũng cường điệu về sự sụp đổ của họ khi nhận tin xấu về sức khỏe như xét nghiệm HIV dương tính. Và họ cũng đánh giá thấp khả năng thích nghi của mình khi bị bệnh nặng. Các bệnh nhân lớn tuổi, khi mắc phải những căn bệnh thông thường của tuổi già làm cho họ giảm sút sức khỏe, thường tự đánh giá chất lượng cuộc sống của mình tích cực hơn so với những bác sỹ điều trị cho họ.

Thật dễ thấy được những kết quả như thế này chứng tỏ một sự thật rằng, chúng ta thích nghi được với hầu hết mọi thứ, nhưng lại bỏ qua hoặc đánh giá thấp khả năng thích nghi của mình nếu khi có chuyện. Khi bạn tưởng tượng mỗi năm bạn có thêm được 25,000 đôla, thì bạn dễ cảm thấy như bạn vừa được tăng lương. Nhầm lẫn ở đây là ở chỗ bạn có thể cho rằng cảm giác mình có trong hiện tại sẽ mãi mãi luôn như thế.

Hầu hết mọi quyết định chúng ta đưa ra đều đã tính đến dự đoán về cảm giác của chúng ta trong tương lai. Khi kết hôn, người ta thường dự đoán mình sẽ cảm thấy như thế nào về người bạn đời. Khi có con, họ sẽ dự đoán về những cảm giác khi phải chịu đựng cuộc sống gia đình. Khi bắt tay theo học một chương trình đại học hoặc đào tạo chuyên môn, họ sẽ dự đoán mình sẽ cảm thấy như thế nào về ngôi trường và mình sẽ cảm thấy như thế nào về công việc. Khi họ chuyển từ thành phố về nông thôn sống, họ sẽ dự đoán mình sẽ thấy như thế nào khi phải cắt cỏ và phải gắn liền với xe hơi (do đi lại xa). Và khi mua xe hơi, dàn âm thanh hay bất cứ cái gì khác, họ sẽ dự đoán mình sẽ cảm thấy thế nào khi được làm chủ đồ vật đó nhiều tháng và nhiều năm sau đó.

Nếu một người thường xuyên dự đoán sai cảm giác của mình ở tương lai, thì có thể họ sẽ đưa ra nhiều quyết định làm họ thấy nuối tiếc, dù cho quyết định đó có cho kết quả tốt đi chăng nữa.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Barry Schwartz – Nghịch lý của sự lựa chọn – NXB Trẻ 2008.

Nghịch lý của sự lựa chọn – Tại sao quyết định có thể gây thất vọng? Đó là vấn đề thuộc về tính thích nghi – Phần I


Mặc dù chúng ta cứ có cảm giác nuối tiếc và luôn nhớ đến những lựa chọn mà chúng ta bỏ qua, nhưng chúng ta vẫn còn nhiều đầu óc để bất mãn với những điều mình đã chọn.

Đó là một đặc điểm tâm lý thường gặp ở con người khiến ta cảm thấy rất ít điều trong cuộc sống được như mong đợi. Sau nhiều trăn trở đắn đo, bạn có thể quyết định mua một chiếc xe Lexus, và bạn cố gắng bỏ ra khỏi tâm trí tất cả những chiếc xe hấp dẫn khác. Nhưng đến khi bạn lái chiếc xe mới, bạn lại cảm thấy hết sức bình thường. Bạn bỗng thấy vô cùng hối tiếc vì đã không chọn cái khác và thất vọng với cái mình đã chọn.

Đặc điểm tâm lý thường gặp này là một quá trình được gọi là tính thích nghi. Có nghĩa là chúng ta làm quen với một số thứ, và sau đó chúng ta bắt đầu coi những điều đó là đương nhiên mình phải có. Chiếc máy tính đầu tiên của tôi có bộ nhớ 8K, tải chương trình về bằng băng cát-xét (tải một chương trình đơn giản cần đến 5 phút), và cái máy tính này không chê được chỗ nào, trừ việc nó không dễ sử dụng. Tôi thích nó và tất cả mọi thứ tôi làm được nhờ nó. Năm ngoái tôi đã bán với giá cực rẻ một cái máy tính có tốc độ và dung lượng gấp hàng ngàn lần vì nó không đáp ứng được nhu cầu của tôi. Những công việc tôi làm với máy tính đã không đổi trong nhiều năm. Nhưng những gì tôi muốn nó đáp ứng cho tôi thì có thay đổi. Khi tôi mới tậu truyền hình cáp, tôi vô cùng say mê với các kênh truyền hình và hài lòng với tất cả các chương trình mà nó cung cấp (ít hơn ngày nay nhiều). Và bây giờ thì tôi than vãn khi cáp bị trục trặc và than phiền về việc những chương trình hấp dẫn bị ngắt quãng. Khi lần đầu tiên được ăn rau trái quanh năm, tôi có cảm tưởng mình đang ở trên thiên đàng. Và bây giờ tôi xem việc cây trái có quanh năm là một điều đương nhiên và cảm thấy bực bội khi những quả xuân đào từ Israel hay Peru – mà tôi mua được vào tháng hai không được ngọt và mọng. Tôi đã quen và thích nghi với mỗi nguồn vui thú ở trên và chúng đã trở nên bình thường, không còn hấp đẫn đối với tôi.

Do tính thích nghi, cảm giác hứng thú về các trải nghiệm tích cực tự niên không tồn tại nữa. Và tệ hơn là con người nói chung dường như không thể dự đoán được tính thích nghi này sẽ đến. Dần dần khi niềm vui hay hứng thú không còn như ban đầu, chúng ta sẽ thấy ngạc nhiên một cách khó chịu.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu về tính thích nghi trong nhiều năm, nhưng đa phần họ đều chú trọng đến tính thích nghi về cảm giác – khi con người có một điều gì đó lâu thì họ sẽ bớt hứng thú hơn với nó – đó có thể là trải nghiệm về hình ảnh, âm thanh, mùi vị và cả sở thích. Vấn đề ở đây là con người, như hầu hết các động vật khác, sẽ phản ứng ở mức độ ngày càng thấp hơn đối với bất kỳ sự kiện nào trong môi trường khi sự kiện đó xuất hiện. Một người dân đến từ một thị trấn nhỏ sẽ cảm thấy bị choáng ngợp bởi sự hào nhoáng của vùng Mahattan. Trong khi một người New York – đã hoàn toàn thích nghi được với sự đông đúc náo nhiệt của thành phố này, lại thấy bình thường trước sự hào nhoáng đó.

Giống như bên trong mỗi chúng ta đều có một nhiệt kế ghi nhận cảm giác, đó là “nhiệt kế đo mức độ hào hứng”. Nhiết kế này chuyển từ trạng thái tiêu cực (hay khó chịu) đến trung lập rồi đến tích cực. Khi chúng ta trải nghiệm một điều gì đó tích cực, độ hào hứng của chúng ta đi lên, và khi chúng ta trải nghiệm điều gì tiêu cực, độ hào hứng này đi xuống. Nhưng sau đó chúng ta sẽ thích nghi. Trường hợp này chính là sự thích nghi về hứng thú, hoặc thích nghi đối với cảm giác tích cực. Một trải nghiệm đầu tiên chúng ta gặp có thể làm cho nhiệt kế hào hứng chỉ 20 độ, nhưng ở lần trải nghiệm sau thì chỉ được 15 và còn 10 độ ở lần kế tiếp rồi sau cùng không còn độ nào nữa.

Thử tưởng tượng bạn phải làm việc trong một ngày hè nóng bức và ẩm ướt ngoài trời. Sau vài giờ ướt đẫm mồ hôi dưới sức nóng đó, bạn trở về căn nhà có máy lạnh. Cảm giác không khí khô mát vây lấy bạn thật tuyệt vời. Ban đầu không khí đó làm cho bạn thấy như được hồi sinh, tiếp them sinh lực và sung sướng mê ly. Nhưng khi thời gian trôi qua, cảm giác dễ chịu vô cùng đó mất dần và được thay thế bằng một cảm giác dễ chịu ở mức bình thường. Khi bạn không còn thấy nóng, rít rát trong người hoặc mệt mỏi, thì cảm giác mát mẻ và đầy sinh lực cũng không còn tồn tại khi bạn ở trong căn phòng máy lạnh đó nữa. Thực sự bạn không còn cảm thấy gì đặc biệt. Bạn đã trở nên quá quen với không khí điều hòa đến mức bạn không còn chú ý đến nó. Điều đó cũng có nghĩa là bạn sẽ “quên mất” không khí đó cho đến khi bạn ra ngoài trời nóng trở lại. Sức nóng tỏa vào mặt bạn như một luồng gió thổi từ một cái lò nướng để mở, và bạn nhớ đến không khí mát mẻ của căn phòng đó, mà lúc này bạn không được hưởng nữa.

Vào năm 1973, 13% người Mỹ nghĩ rằng cần phải có điều hòa không khí trong xe hơi. Ngày nay thì con số này đã là 41%. Tôi biết rằng trong 20 năm qua, cho dù trái đất có nóng dần lên thì khí hậu cũng chẳng thay đổi nhiều như những con số đó. Điều đã thay đổi chính là tiêu chuẩn về tiện nghi của chúng ta.

Dù chúng ta không mong nó xảy ra, nhưng việc thích nghi về cảm giác hứng thú là không thể tránh khỏi. Điều này có thể gây nhiều thất vọng hơn trong một thế giới có nhiều chọn lựa so với trong một thế giới chỉ có ít lựa chọn.

Phản ứng thay đổi đối với một sự kiện cố định và quy chuẩn thay đổi

Tính thích nghi về cảm giác hứng thú có thể chỉ đơn giản là vấn đề làm quen mà tôi vừa mô tả, hoặc có thể là kết quả của sự thay đổi về quy chuẩn đánh giá do chúng ta được trải nghiệm những điều mới.

Thử tưởng tượng một người phụ nữ hài lòng với một công việc thú vị với mức lương 40.000 USD/năm. Một cơ hội việc làm khác xuất hiện hứa hẹn một mức lương 60.000 USD/năm. Cô ta chuyển việc nhưng không may sau 6 tháng, công ty mới phá sản. Công ty cũ lại sẵn lòng nhận lại cô ấy, và thật hạnh phúc rằng công ty cũ lại tăng lương cho cô ta lên 45.000 USD/năm. Liệu cô ta có hạnh phúc với việc “tăng lương” đó không? Thậm chí có thể gọi đó là tăng lương được không? Câu trả lời có thể là không. Mức lương 60.000 USD/năm, đã từng sẵn có, có thể tạo cho cô này một cảm giác hứng khởi ở mức bình thường, vì bất cứ cái gì ít hơn đều bị xem là mất mát. Sáu tháng trước đó, việc được tăng lương từ 40.000 USD/năm lên 45.000 USD/năm là tuyệt vời, nhưng bây giờ thì nó giống như một sự cắt giảm từ 60.000 USD xuống 45.000 USD.

CHúng ta thường nghe những câu nói đại loại như, “Tôi chưa từng gnhĩ rằng loại rượu vang này lại ngon đến thế”, hoặc “Tôi chưa từng nghĩ rằng tình dục lại thú vị đến thế này”, hoặc “Tôi chưa từng nghĩ rằng mình lại kiếm được nhiều tiền như vậy”. Sự mới lạ có thể sẽ thay đổi mức độ hứng khởi của một người nào đó, khiến họ cảm thẩy một điều gì đó trước kia là thỏa mãn hoặc hơn thế nữa nhưng nay thì không còn được như thế. Và như chúng ta sẽ thấy, tính thích nghi có thể gây nhiều thất vọng một khi chúng ta đã bỏ ra nhiều thời gian và nỗ lực, để lựa chọn những vật dụng hoặc trải nghiệm từ một đống các lựa chọn khác, để rồi cuối cùng chúng ta trở nên quen thuộc và mất hứng thú với những thứ đó.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Barry Schwartz – Nghịch lý của sự lựa chọn – NXB Trẻ 2008.

Nghịch lý của sự lựa chọn – “Giá mà…”: Vấn đề của sự hối tiếc – Phần cuối


Ngại hối tiếc

Trong một bài trước, hầu hết mọi người đều có xu hướng ngại hiểm nguy khi chiêm nghiệm lựa chọn giữa hai cái lợi: một cái chắc chắn nhưng mang giá trị nhỏ, còn cái kia giá trị lớn hơn nhưng năm ăn năm thua. Ví dụ, nếu chắc chắn có trong tay 100 đôla hoặc cơ hội là 5 – 5 để có được 200 đôla, hầu hết chúng ta sẽ chọn cái chắc chắn. Bởi vì, khách quan mà nói, 200 đôla không hẳn là nhiều gấp đôi 100 đôla, và do vậy không đáng để chịu rủi ro 5 – 5. Nhưng có một lý do khác để người ta ngại rủi ro chính là không muốn phải hối tiếc. Giả như bạn có một lựa chọn giữa cái 100 đôla chắc chắn và 200 đôla rủi ro, và bạn quyết định chọn 100 đôla. Bạn sẽ chẳng bao giờ biết được điều gì sẽ xảy ra nếu như bạn chọn 200 đôla đầy rủi ro kia. Và vì vậy, không có lý do gì khiến bạn phải hối tiếc nếu như chọn cái chắc chắn. Ngược lại , nếu bạn phải chọn cái rủi ro, bạn sẽ không thể nào cưỡng lại được suy nghĩ điều gì xảy ra nếu chọn 100 đôla: đó chính là bạn sẽ có được cảm giác an tâm, chắc chắn. Vì vậy, nếu bạn chọn cái rủi ro và thất bại, chẳng những bạn thành kẻ trắng tay mà còn phải sống trong sự hối tiếc đã để mất 100 đôla. Chọn cái chắc chắn là một cách để đảm bảo rằng bạn sẽ không hối tiếc – không hối tiếc vì bạn không thể nào biết được rằng lựa chọn đó sẽ dẫn đến hệ quả gì.

Nếu suy nghĩ này chính xác, mọi chuyện có lẽ sẽ khác nếu bạn bảo một người chọn 100 đôla chắc chắn, bạn sẽ tung đồng xu và cho người đó biết họ sẽ thắng hay thua xét về khía cạnh may rủi. Trong những điều kiện như vậy, mọi người sẽ không còn né tránh khả năng hối tiếc nữa bất kể họ ưa thích lựa chọn nào. Chúng ta cho thấy sẵn ý to lớn để chấp nhận rủi ro khi chúng ta biết được sự thay thế không được lựa chọn sẽ mang đến hệ quả gì và vì vậy không có cách gì bảo vệ chúng ta khỏi hối tiếc.

Những nghiên cứu như vậy cho thấy không chỉ hối tiếc là một hệ quả quan trọng của nhiều quyết định, nhưng viễn cảnh của hối tiếc là một nguyên nhân quan trọng của nhiều quyết định. Người ta sẽ đưa ra lựa chọn với những tiên đoán chắc nịch về khả năng hối tiếc trong đầu. Nếu bạn đang cố gắng quyết định nên mua một chiếc Toyota Camry hay một chiếc Honda Accord và bạn thân nhất của bạn chọn mua chiếc Accord, bạn có rất nhiều khả năng cũng sẽ mua nó. Điều đó một phần vì cách duy nhất để tránh thông tin cho rằng bạn phạm sai lầm là mua cái bạn của bạn đã mua, và vì vậy có thể tránh luôn khả năng bị so sánh giữa hai chiếc xe. Dĩ nhiên, bạn không thể thực sự né tránh thông tin đó hoàn toàn. Rất nhiều người mua xe Camry và Accord, và báo chí cũng nói nhiều về chúng. Và những thông tin đại loại như thế chẳng sá gì so với việc hàng ngày bạn có điều kiện khẳng định với những lý lẽ sống động và chi tiết bạn của mình đã mua một chiếc xe “ngon cơm” hơn bạn.

Một ảnh hưởng khác của việc né tránh hối tiếc chính là nó làm cho người ta hoàn toàn không hành động gì cả, được gọi là đình trệ hoạt động. Hãy thử tưởng tượng một ngày nọ bạn đi shopping và bắt gặp một bộ trường kỷ mình yêu thích đang được giảm giá 30%. Tuy nhiên, bạn lại cho rằng bạn sẽ còn có nhiều lựa chọn khác có thể tốt hơn. Bạn bỏ qua. Vài tuần sau, bạn không tìm được bộ trường kỷ nào ưng ý hơn bộ đầu tiên và do vậy bạn quyết định mua nó; thế nhưng lúc này nó chỉ còn giảm giá có 10%. Bạn sẽ mua nó chứ? Đối với nhiều khách hàng, câu trả lời là không. Nếu mua, họ chắc chắn không thể nào tránh được sự tiếc rẻ phải chi mình mua nó sớm hơn. Còn nếu như không mua, họ vẫn có thể nuôi hy vọng sẽ tìm được một bộ khác tốt hơn.

Có rất nhiều ví dụ về sự đình trệ hoạt động. Khi chúng ta không đăng ký tham gia chương trình khách hàng bay thường xuyên và sau khi một có một chuyến bay khứ hồi dài 5000 dặm, chúng ta sẽ rất miễn cưỡng khi có cơ hội tham gia lại chương trình đó. Nếu đăng ký, chúng ta sẽ không còn tự nhủ rằng chúng ta bay chưa đủ và nhờ vào việc đăng ký, ta sẽ thấy rằng bay đường dài sẽ chẳng cực nhọc là bao. Thay vào đó, chúng ta chỉ có thể tiếc nuối tại sao mình không đăng ký sớm hơn.

Hối tiếc và “phí tổn chìm”

Tôi muốn nhắc lại trường hợp mua đôi giày nhưng không xài tới ở một bài trước như một minh họa cho “phí tổn chìm”. Mua đôi giày không vừa ý, bạn cất nó trong toilet mặc dù bạn biết mình sẽ chẳng bao giờ xài tới nó, bởi lẽ bỏ đôi giày ra bên ngoài chẳng khác gì công nhận bạn đã nhận phần thiệt. Tương tự vậy, người ta giữ lại những cổ phiếu đang mất giá bởi vì nếu bán chúng đi sẽ cho thấy phi vụ đầu tư này là thất bại. Cái quan trọng trong việc quyết định nên giữ hay bán cổ phiếu chính là đánh giá của bạn về tương lai triển vọng của giá cổ phiếu đó (chưa kể thuế).

Trong một minh họa cổ điển cho sức mạnh của phí tổn chìm, người tham gia được bán vé ở một sân khấu địa phương – vé không giảm giá hoặc có chiết khấu. Sau đó, các nhà nghiên cứu bắt đầu quan sát mật độ đến nhà hát của những người đó. Họ phát hiện ra được rằng những người mua vé không giảm giá đến nhà hát thường xuyên hơn những người mua vé chiết khấu. Lý giải cho việc này, các nhà nghiên cứu cho rằng những người mua vé không giảm giá sẽ cảm thấy thiệt hại nhiều hơn những người mua chiết khấu. Và chính vì cảm thấy thiệt hại hơn, nên hối tiếc nhiều hơn cũng là điều tất yếu.

Theo quan điểm của mô hình ra quyết định lấy tương lai làm định hướng, nhạy cảm với những phí tổn chìm là một sai lầm. Vé mua, tiền trao, thế là xong. Câu hỏi duy nhất người giữ vé nên tự hỏi mình vào đêm diễn là: “Mình sẽ thấy thích thú hơn khi đêm nay xem hát hay ở nhà đọc sách và nghe nhạc?” Tuy thế, không ai làm như vậy.

Ở một nghiên cứu, người trả lời được yêu cầu mường tượng về việc mua vé không hoàn lại cho hai chuyến đi trượt tuyết tới hai nơi khác nhau, và sau đó phát hiện ra rằng hai chuyến đi khởi hành vào cùng một ngày. Với một vé 50 đôla và một vé 25 đôla, có lý do để chọn cái 25 đôla, câu hỏi đặt ra người ta sẽ chọn cái nào? Hầu hết mọi người chọn cái 50 đôla. Và cũng theo tính xác đáng của phí tổn cơ hội, các huấn luyện viên bóng rổ thường tung vào sân các cầu thủ lương cao nhiều lần hơn, tùy thuộc vào phong độ của từng người. Và những ai khởi nghiệp từ chính công ty của mình có xu hướng mở rộng nó hơn những ai mua lại công ty từ người khác. Một lần nữa, trong tất cả những trường hợp này, cái quan trọng là triển vọng của tương lai – của doanh nghiệp hay của cầu thủ. Nhưng cái cũng quan trọng không kém chính là mức độ của sự đầu tư trước đó.

Cái khiến tôi tin rằng những ảnh hưởng của phí tổn chìm bị thôi thúc bởi ước muốn né tránh những hối tiếc hơn là ước muốn né tránh thiệt hại, chính là việc những tác động của phí tổn chìm sẽ lớn hơn nhiều khi một người chịu trách nhiệm về chính quyết định đầu tiên của mình. Nếu tác động của những phí tổn chìm chỉ là việc không muốn thất bại, thì sau đó thất bại đó có do trách nhiệm của bạn hay không sẽ không còn quan trọng.

Bản thân cá nhân tôi cũng tuân theo những tác động phí tổn chìm ở những môi trường khác nhau, cho dù bản thân mình có nhận thức rõ về chúng hay không. Khi thấy quần áo trong toilet hay đĩa CD trong sọt rác, tôi biết rằng mình sẽ không dùng chúng nữa. Nhưng tôi lại không thể bỏ nó. Khi đi ăn nhà hàng, tôi tự thấy mình có nhiệm vụ phải ăn cho hết số thức ăn trong đĩa, cho dù có no thế nào. Tôi cũng tự buộc mình phải đọc hết 200 trang sách khi đã đọc nó, bất kể tôi có học được gì hay cảm thấy thích thú gì từ nó hay không. Và còn nhiều trường hợp nữa.

Nhiều người nhùng nhằng trong những mối quan hệ đang căng thẳng không phải vì tình yêu, không phải vì nghĩa vụ với người kia, không phải vì danh dự của lời thề, mà bởi vì tiếc nuối thời gian và công sức đã bỏ ra. Và còn biết bao nhiêu người nhọc nhằn theo đuổi khóa đào tạo tại trường y dù rằng sau đó họ nhận ra mình không muốn trở thành bác sỹ? Và tại sao Mỹ cứ mải theo đuổi cuộc chiến dai dẳng tại Việt Nam, dù rằng ai cũng nhìn thấy trước một kết cục không hay cho siêu cường này? Câu trả lời là: “Nếu chúng ta rút lui, hàng chục ngàn chiến binh đã bỏ mạng khác sẽ trở thành vô nghĩa”.

Hối tiếc, cầu toàn, và khả năng lựa chọn

Sự hối tiếc rõ ràng có vai trò rất lớn trong quyết định của chúng ta. Nhưng bằng cách nào lựa chọn, đặc biệt trong trường hợp có quá nhiều lựa chọn, ảnh hưởng tới quyết định?

Hai nhân tố ảnh hưởng tới sự hối tiếc là:

  1. Trách nhiệm cá nhân đối với kết quả.
  2. Một cá nhân có thể mường tượng ra một lựa chọn tốt hơn, phản sự thật dễ dàng như thế nào.

Sự hiện hữu của những lựa chọn rõ ràng chỉ làm tồi tệ thêm cả hai yếu tố này. Khi không có lựa chọn, bạn sẽ làm gì? Thất vọng: có thể. Hối tiếc: không. Khi có một vài lựa chọn, bạn cố gắng làm tốt nhất những gì có thể, nhưng cuộc đời nhiều khi lại không cho phép bạn được thỏa mãn ước nguyện của mình. Khi có nhiều lựa chọn, cơ hội tăng lên và bạn cảm thấy rằng mình có thể tìm được cái ưng ý trong số đó. Khi lựa chọn bạn đã quyết định mang lại kết quả đáng thất vọng, bạn hối tiếc đã không lựa chọn khôn ngoan hơn. Khi các lựa chọn ngày một nhân rộng và những lựa chọn đánh giá các khả năng trở nên không thể, bạn lại nghĩ rằng có thể có một lựa chọn khác bên ngoài còn tốt hơn cả những cái này, và bắt đầu tiên đoán về những hối tiếc cho lựa chọn đó. Chính điểm này sẽ hoàn toàn ngăn cản bạn đưa ra quyết định. Và khi những phí tổn cơ hội ngày một gia tăng, hối tiếc cũng sẽ gia tăng.

Rõ ràng là những người cầu toàn sẽ có xu hướng hối tiếc nhiều hơn những người tri túc. Bất kể một lựa chọn có tốt đến mức nào, nếu người cầu toàn khám phá ra được một lựa chọn khác tốt hơn, anh ta sẽ hối tiếc tại sao không chọn nó ngay từ đầu. Đối với người tri túc, rủi ro thấp hơn và sự hoàn hảo là không cần thiết.

Mặt tích cực nào cho sự hối tiếc?

Mặc dù ai cũng biết hối tiếc làm người ta khốn khổ, nhưng nó cũng có một vài chức năng quan trọng.

Thứ nhất, những tiên đoán về một hối tiếc cho một quyết định có thể sẽ dẫn đến việc chúng ta xem xét quyết định đó nghiêm túc hơn và mường tượng ra nhiều tình huống khác nhau theo sau.

Thứ hai, hối tiếc nhấn mạnh đến sai lầm của chúng ta khi đưa ra quyết định, và nhờ vậy tránh lập lại sai lầm nếu tình huống tương tự diễn ra trong tương lai.

Thứ ba, hối tiếc có thể huy động hay thôi thúc hcúng ta có những hành động cần thiết để không thực hiện quyết định đó hoặc khắc phục một vài hệ quả xấu.

Thứ tư, hối tiếc là một tín hiệu cho mọi người thấy bạn quan tâm tới những gì xảy ra, bạn hối tiếc về những gì diễn ra, và sẽ làm những gì để nó không xảy ra nữa.

Vì vậy, đối với một số người vẫn còn bị hối tiếc làm cho chưa nguôi được những quyết định sai lầm trong quá khứ và có những khó khăn to lớn khi phải ra quyết định ở hiện tại, có những bước cần thiết để giảm đi sự hối tiếc có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự bình yên cho họ.

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Barry Schwartz – Nghịcn lý của sự lựa chọn – NXB Trẻ 2008.

Nghịch lý của sự lựa chọn – “Giá mà…”: Vấn đề của sự hối tiếc – Phần II


Hối tiếc và thế giới của Phản hiện thực và Giả định

Cái làm cho sự hối tiếc trầm trọng thêm chính là những suy nghĩ như vậy không bị ràng buộc vào hiện thực khách quan. Sức mạnh của trí tưởng tượng con người cho phép họ nghĩ về những thứ không tồn tại trong thực tế. Khi phải lựa chọn giữa hai công việc mà một có cơ hội thăng tiến cao, một mang lại môi trường làm việc thân thiện, tôi có thể dễ dàng mường tượng về một công việc có cả hai thứ đó. Khả năng liên tưởng về những ngữ cảnh lý tưởng mang tới một nguồn cung cấp không bao giờ cạn của những nguyên liệu thô cho những hối tiếc trải nghiệm.

Suy nghĩ về một thế giới như thể nó là không khí vậy, hoặc đáng lý ra có thể là vậy, được gọi là những suy nghĩ phản hiện thực. Chiếc xe chuyên chở đi đến sân bay đi trên đường Elm Street. Đó là một sự thật. Lẽ ra nó có thể đi trên đường Main Street. Điều đó trái với sự thật. Chúng ta không thể nào trải qua một ngày mà không có những suy nghĩ phản hiện thực đó. Nếu như không có khả năng tưởng tượng về một thế giới khác hẳn với thế giới hiện thực và sau đó cũng không thể hành động để biến thế giới tưởng tượng ấy thành sự thật, con người không bao giờ có thể tồn tại như một thực thể cao cấp nhất qua hàng trăm triệu năm. Thế nhưng, mặt trái của những suy nghĩ phản hiện thực ở chỗ nó là nguồn gốc cho sự hối tiếc, bất kể đó là hối tiếc hậu quyết định hay hối tiếc được dự báo trước.

Các nhà tâm lý học nghiên cứu sâu về suy nghĩ phản hiện thực khám phá ra được rằng hầu hết mỗi người đều không bị cuốn vào quá trình này cùng một lúc. Chúng ta không ngồi vòng tròn, nhấm nháp cà phê sáng và tự hỏi cuộc đời mình sẽ ra sao nếu như chúng ta được sinh ra tại Nam Phi thay vì tại Mỹ; hoặc nếu quỹ đạo trái đất sẽ gần mặt trời thêm một vài ngàn dặm nữa. Thay vào đó, suy nghĩ phản hiện thực chỉ bị kích hoạt bởi những chuyện khiến ta không hài lòng, những chuyện gây ra tình cảm tiêu cực. Suy nghĩ phản hiện thực xuất hiện như để phản ứng lại những trải nghiệm không hay như điểm thi thấp, trục trặc trong chuyện tình cảm, hoặc bệnh tật hay cái chết của người thân. Và khi những suy nghĩ phản hiện thực xuất hiện, chúng gây ra thêm càng nhiều tình cảm tiêu cực, như hối tiếc chẳng hạn – và sau đó chính sự hối tiếc lại tạo ra những suy nghĩ phản hiện thực – rồi cứ thế tiếp tục dẫn đến những tình cảm tiêu cực. Mặc dù hầu hết mọi người có thể xoay xở để dồn nén những suy nghĩ phản hiện thực của mình trước khi bị cuốn, sa vào vòng xoắn ốc cực mạnh này, một số – đặc biệt là những ai bị chứng trầm cảm – lại không thể cưỡng lại được lực đẩy theo chiều đi xuống đó.

Khi xem xét nội dung thực sự của những suy nghĩ phản hiện thực, các nhà nghiên cứu thấy rằng những cá nhân có xu hướng tập trung vào những khía cạnh của một tình huống mà họ nắm quyền kiểm soát. Ví dụ, khi được hồi tưởng về một vụ tai nạn xe hơi liên quan đến việc tài xế lái xe quá tốc độ vào một ngày mưa và bị hạn chế tầm nhìn, những người được phỏng vấn rất khả dĩ sẽ cho rằng tại nạn sẽ không xảy ra nếu như tài xế lái xe cẩn thận hơn thay vì thời tiết hôm đó khô ráo và sáng sủa hơn. Khía cạnh này đã tuân thủ theo một nguyên tắc khác mà tôi đã đề cập trước đó: sự hối tiếc và trách nhiệm luôn đi song hành với nhau. Lẽ dĩ nhiên, mỗi một tình huống mà chúng ta gặp phải luôn có sự hòa trộn của những khía cạnh chúng ta có thể điều khiển được và ngược lại. Khi một sinh viên không thi tốt do học bài không kỹ, có thể sinh viên đó sẽ nhận lãnh trách nhiệm cho việc chuẩn bị thiếu chu đáo của mình. Nhưng kỳ thi đó có thể sẽ dễ dàng hơn hoặc có thể “trúng tủ” sinh viên đó hơn. Việc suy nghĩ phản hiện thực chăm chăm chú trọng vào những khía cạnh có thể điều khiển được của một tình huống chỉ có thể làm tăng cơ hội một người sẽ phải cảm thấy hối tiếc.

Cũng có một phân biệt quan trọng khác giữa phản hiện thực “đi lên” và “đi xuống”. Phản hiện thực “đi lên” mường tượng ra những tình huống tốt hơn những gì thực sự diễn ra, trong khi phản hiện thực “đi xuống” mường tượng về những khả năng ngược lại. Khi một vận động viên đoạt huy chương bạc trước khi thi đấu liên tưởng tới việc mình bị vấp ngã trong quá trình chạy và không thể hoàn tất đường đua, ta nói vận động viên đó đang có những suy nghĩ phản hiện thực theo chiều hướng đi xuống; và chính vì nhờ làm vậy nên cảm xúc đoạt huy chương bạc của cô ta sẽ trở nên thăng hoa hơn. Chỉ khi nào có những suy nghĩ phản hiện thực theo chiều hướng đi lên – đoạt huy chương vàng – mới làm bớt đi cảm giác chiến thắng của vận động viên này. Vì lẽ đó, trang bị trước cho mình những suy nghĩ phản hiện thực theo chiều hướng đi xuống không chỉ làm tăng thêm sự thỏa mãn khi thành công, mà còn mang đến một cảm giác biết ơn khi mọi chuyện diễn ra không như mong đợi. Tuy vậy, những nghiên cứu đã cho rằng mọi người ít chịu có những suy nghĩ phản hiện thực theo chiều hướng đi xuống trừ khi họ được yêu cầu phải làm như thế.

Một bài học quan trọng được rút ra từ nghiên cứu này: suy nghĩ phản hiện thực là một công cụ tri thức đầy sức mạnh. Mỗi người đều được khuyến khích nên có những suy nghĩ phản hiện thực theo chiều hướng đi xuống. Đạt đến trạng thái cân bằng giữa những suy nghĩ phản hiện thực theo chiều hướng đi lên và đi xuống, sẽ cho phép chúng ta không bị rơi vào sự khốn khổ và đồng thời tăng cường năng lực biểu hiện ở mỗi cá nhân.

Hối tiếc và thỏa mãn

Như chúng ta vừa nhận ra, hối tiếc sẽ làm cho chúng ta cảm thấy tồi tệ hơn sau khi đưa ra quyết định, cho dù quyết định đó có hiệu quả đi chăng nữa, đặc biệt là khi ta xem xét kỹ lưỡng các phí tổn cơ hội.

Các phí tổn cơ hội mang lại lợi ích đáng lý ra đến như là kết quả của một lựa chọn khác, và sau khi bạn trở về sau một chuyến đi biển, bạn sẽ có những suy nghĩ mang tính phản biện lại: “Chuyến đi nghỉ vừa rồi thật tuyệt. Giá mà ở đó có thêm những nhà hàng thịnh soạn, mọi chuyện sẽ còn viên mãn hơn nữa. Phải chi ở đó có những cửa hiệu mua sắm, vân vân và vân vân…” Với tôi nghĩ như thế, một ít hối tiếc sẽ len lỏi vào việc đánh giá quyết định. Và như chúng ta thấy ở bài sau nếu số lượng ứng viên tự làm tăng chọn lựa tăng thêm, từng cái có những khía cạnh hấp dẫn riêng biệt mà những ứng viên chọn sẵn không có, phí tổn cơ hội (và những suy nghĩ phản biện cũng một chút hối tiếc) sẽ càng chồng chất ngày một cao hơn.

Những suy nghĩ phản sự thực thường được khơi nguồn từ những sự kiện mang tính tiêu cực, và các sự kiện có thể tiêu cực theo giới hạn hoàn toàn tuyệt đối. Nếu bãi biển dơ dáy, mưa dầm dề, và chỗ ăn nghỉ cáu bẩn, thì có thể cho rằng kỳ nghỉ biển này hoàn toàn chẳng ra gì. Nhưng một sự kiện cũng có thể tiêu cực theo một giới hạn tương đối – tương đối với cả những kỳ vọng và mong đợi. Vì thế, nếu bằng cách thực hiện một quá trình đưa ra quyết định kỹ càng và đánh giá thỏa hiệp tôi đã đưa ra ở bài vừa rồi, bạn sẽ đi nghỉ và trong đầu mường tượng tất cả những thứ tuyệt vời nhưng thực ra lại không như vậy, khi đó ngay cả khi kỳ nghỉ là tuyệt vời, tâm trí chắc chắn phải có chỗ để nghĩ về những điều tiêu cực…

Điều tương tự cũng có thể áp dụng trước khi đưa ra một quyết định. Bằng cách nghĩ về những gì bạn sẽ mất khi đi nghỉ bãi biển, mường tượng ra trước những phí tổn cơ hội, điều tất yếu sẽ xảy ra là những suy nghĩ đại loại như vậy sẽ làm cho một lựa chọn hấp dẫn trở nên kém hấp dẫn hơn. Và chắc chắn một điều là, có khả năng bạn vẫn quyết định đi nghỉ ở  biển, nhưng sự hăm hở nhiệt tình có thể sẽ không còn nguyên vẹn.

Một cách khác để tận dụng điểm này là về phương diện ảnh hưởng tương phản. Nếu một người đi ra khỏi phòng tắm hơi và nhảy ùm xuống hồ bơi, sự tương phản về nhiệt độ hồ bơi và nhiệt độ phòng tắm hơi sẽ làm cho nước hồ bơi trở nên lạnh cóng. Tuy vậy, nhảy xuống hồ bơi từ một môi trường có nhiệt độ dưới không bên ngoài sẽ làm cho bạn cảm thấy ấm áp. Và những suy nghĩ phản sự thực làm thiết lập một sự tương phản giữa trải nghiệm thực sự của một người và với những gì anh ta mường tượng. Bất cứ một kỳ nghỉ ở bãi biển nào cũng phải chịu bị so sánh với một lựa chọn thay thế được tưởng tượng là sẽ viên mãn hơn nhiều. Và khi những suy nghĩ phản hiện thực dẫn đến việc hối tiếc, những người cầu toàn sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn những người tri túc. Chính những người hay cầu toàn sẽ luôn mang trong tâm trí mình những lựa chọn phản hiện thực hoàn hảo, và với so sánh của mình, họ sẽ làm cho bất kỳ thế giới hiện thực nào cũng trở nên ảm đạm hơn.

Hối tiếc sẽ khiến chúng ta làm gì?

Không giống những tình cảm tiêu cực khác như giận dữ, buồn bã, thất vọng hay thậm chí sầu não, điều khó khăn ở sự hối tiếc chính là những vấn đề khiến ta hối tiếc lẽ ra có thể tránh được và chỉ bạn mới là người làm được điều đó bằng cách lựa chọn khác đi.

Trong bài trước chúng ta nhận thấy rằng những cá nhân gặp phải những quyết định liên quan đến thỏa hiệp, và do vậy sẽ có cơ hội để hối tiếc, sẽ né tránh đưa ra các quyết định đó. Và khi không thể hoàn toàn né tránh được việc đưa ra quyết định, họ sẽ tự tìm cách để không thể thỏa hiệp. Chẳng hạn như: “Khi mua một chiếc xe hơi, không gì quan trọng hơn sự an toàn cho gia đình tôi”. “Điều quan trọng duy nhất tôi quan tâm về một ngôi nhà chính là không gian rộng rãi”.

Và vì thế không ngạc nhiên gì khi phải đưa ra quyết định, ta thường nghiêng về lựa chọn giảm thiểu khả năng trải qua hối tiếc.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Barry Schwartz – Nghịcn lý của sự lựa chọn – NXB Trẻ 2008.

Nghịch lý của sự lựa chọn – “Giá mà…”: Vấn đề của sự hối tiếc – Phần I


Bất cứ khi nào bạn đưa ra một quyết định không mang lại hiệu quả như mong muốn hoặc đối với một lựa chọn đáng lý ra còn có thể làm được nhiều hơn thế, bạn sẽ trở thành một nạn nhân của sự hối tiếc.

Cách đây vài tháng, hai vợ chồng tôi đặt mua một chiếc ghế làm việc công nghệ cao qua một cuộc đấu giá trên mạng eBay. Chẳng có chiếc ghế nào được giao và phi vụ mua bán này chỉ là trò lừa đảo. Chúng tôi, cùng một số người khác, mất một khoản tiền. Lần lượt hai vợ chồng tôi hỏi nhau: “Làm sao mình có thể ngốc ngếch đến thế?” Có phải chúng tôi hối tiếc vì đã bị lừa? Chắc chắn là thế.

Đây chính là hối tiếc hậu quyết định. Tức là, hối tiếc xảy ra sau khi chúng ta đã trải nghiệm kết quả từ quyết định của chính mình. Nhưng cũng có cái gọi là hối tiếc được dự báo trước, manh nha chờ gây hậu quả ngay trước khi quyết định được đưa ra.

Hối tiếc hậu quyết định thỉnh thoảng được đề cập tới như “nỗi ăn năn của người mua”. Sau một quyết định mua hàng, chúng ta bắt đầu có những suy nghĩ tiếp theo, tự thuyết phục mình chối bỏ những lựa chọn khác thực ra tốt hơn cái chúng ta chọn, hoặc tưởng tượng rằng vẫn còn những lựa chọn khác tốt hơn mà ta chưa khám phá hết. Cảm giác đắng cay khi hối tiếc làm suy giảm đi sự thỏa mãn chúng ta có được, cho dù sự hối tiếc đó có được biện minh đi chăng nữa. Hối tiếc được dự báo trước chỉ làm cho tình hình tồi tệ thêm, bởi vì nó sẽ mang lại không chỉ sự bất mãn mà còn cả cảm giác trì trệ. Nếu một người nào đó tự yêu cầu mình mua một căn nhà chỉ để khám phá ra một căn khác tốt hơn vào tuần tới, cô ta sẽ không mua nó.

Cả 2 loại hối tiếc – dự báo trước và hậu quyết định – sẽ làm tăng những rủi ro tình cảm của quyết định. Hối tiếc dự báo trước càng làm cho việc đưa ra quyết định khó khăn hơn và hối tiếc hậu quyết định sẽ làm mất cảm hứng tận hưởng thành quả do quyết định đó mang lại.

Không phải cá nhân nào cũng dễ hối tiếc như nhau. Nhớ lại trường hợp tôi và đồng nghiệp đánh giá những khác biệt cá nhân khi hối tiếc, chúng tôi nhận ra rằng những ai có điểm số hối tiếc cao thường ít hạnh phúc, ít hài lòng, ít lạc quan và có xu hướng trầm cảm nhiều hơn những người điểm thấp. Đồng thời, những ai có chỉ số điểm hối tiếc cao có xu hướng trở thành những người cầu toàn. Thực sự, chính những nỗi lo về hối tiếc là nguyên nhân mấu chốt khiến cho một người trở thành cầu toàn. Cách duy nhất để một người không cảm thấy hối tiếc về quyết định của mình chính là phải làm sao tận dụng cho được quyết định tốt nhất có thể. Vì vậy, về phương diện tâm lý, hối tiếc ảnh hưởng xấu đến con người. Vả lại một lần nữa, khi bạn càng có nhiều lựa chọn, càng có nhiều khả năng bạn sẽ phải hối tiếc.

Mặc dù có những khác biệt giữa các cá nhân về mức độ nhạy cảm hối tiếc, một số tình huống sau đây có nhiều khả năng gây ra sự hối tiếc:

Xu hướng bỏ lỡ

Một nghiên cứu trình bày trường hợp sau với những người được phỏng vấn:

Ông Paul có cổ phẩn tại công ty A. Trong năm qua ông này có ý định chuyển sang mua cổ phần ở công ty B, nhưng đã quyết định không làm. Giờ đây, ông Paul nhận ra lẽ ra mình có thể lãi 1200 đôla nếu như chuyển sang mua cổ phần tại công ty B.

Ông George có cổ phần tại công ty B. Trong năm qua ông này chuyển sang mua cổ phần tại công ty A. Giờ đây, ông George nhận ra rằng lẽ ra mình có thể lãi 1200 đôla nếu như giữ cổ phần tại Công ty B.

Giữa 2 người, ai hối tiếc nhiều hơn?

Vì rằng cả hai ông A và B đều có cổ phần tại công ty A và có thể giàu hơn 1200 đôla nếu như sở hữu cổ phần tại công ty B, nên cả hai người có vẻ như ở trong cùng một hoàn cảnh.

Nhưng 92% người được phỏng vấn cho rằng ông George sẽ thất vọng hơn. Điểm khác biệt mấu chốt ở sự hối tiếc giữa hai người là ông George hối tiếc về chuyện mình đã làm (chuyển sang mua cổ phần ở công ty A), trong khi ông Paul chỉ hối tiếc về một chuyện mình không làm (mua cổ phiếu ở công ty B). Hầu hết mọi người trong chúng ta đều có một trực giác rằng chúng ta bị hối tiếc cho những hành động đã làm mà không mang lại hiệu quả như mong muốn, hơn là hối tiếc vì những hành động đáng ra nên làm vì có thể mang lại kết quả tốt hơn. Trường hợp này thỉnh thoảng được đề cập tới như là một xu hướng bỏ lỡ, một xu hướng xem nhẹ việc không hành động khi chúng ta đánh giá các hệ quả từ chính quyết định của mình.

Tuy vậy, những bằng chứng gần đây cho thấy việc tiến hành một hành động không phải lúc nào cũng rõ ràng hơn việc bỏ lỡ nó. Khi được hỏi hối tiếc gì nhất trong vòng 6 tháng trở lại đây, người ta thường đề cập tới những hành động không như mong đợi. Nhưng nếu đem câu hỏi đó áp dụng cho khoảng thời gian cả một đời, con người có xu hướng nói tới những việc không thể làm hơn. Và vì thế, nó cho thấy rằng khía cạnh tâm lý vẫn có ảnh hưởng tới từng quyết định của chúng ta, và khi thời gian trôi qua, sự hối tiếc về những gì không thể làm ngày một lớn hơn.

Ngưỡng gần

Khía cạnh thứ hai ảnh hưởng đến sự hối tiếc chính là việc chúng ta đã đến gần với việc đạt được kết quả mong muốn như thế nào. Hãy xem xét ví dụ sau:

Ông Crane và ông Tees dự tính sẽ đến sân bay cùng lúc để đi những chuyến bay khác nhau. Họ đi trên cùng một chiếc xe chuyên chở và bị kẹt xe. Cả hai cùng đến sân bay trễ hơn 30 phút so với lịch bay. Ông Crane được cho biết chuyến bay của ông xuất phát đúng giờ, trong khi chuyến bay của ông Tees chỉ mới cất cánh cách đây 5 phút.

Trong 2 người ai sẽ thất vọng hơn?

96% người được hỏi cho biết ông Tees sẽ thất vọng hơn. Và bạn cũng có thể đồng cảm với nỗi bực dọc của ông Crane: “Phải chi hành khách đó lên chiếc xe chuyên chở đúng giờ. Phải chi đi đường Main Street thay vì Elm Street. Phải…”. Và nhiều cái phải chi khác nữa. Có rất nhiều cách để mường tượng về kết quả công việc. Khi bạn thất bại vì còn cách mục tiêu quá xa, thật khó có thể hình dung những khác biệt nhỏ có thể dẫn đến một kết quả thành công. Nhưng khi bạn chỉ bỏ lỡ một chút cơ hội, mọi chuyện lại khác.

Liên quan tới ảnh hưởng của “ngưỡng gần”, trong số 2 người sau đây, bạn nghĩ ai sẽ hạnh phúc hơn: người đoạt huy chương bạc (thứ nhì) trong kỳ thế vận hội, hay người đoạt huy chương đồng (thứ 3)? Rõ ràng là thứ hai thì có vẻ tốt hơn thứ 3, vì vậy người đạt huy chương bạc ắt hẳn phải hạnh phúc hơn. Nhưng điều đó hóa ra lại là sai. Người đoạt huy chương đồng là người hạnh phúc hơn. Khi đứng trên bục lãnh huy chương, người đoạt huy chương bạc đang nghiền ngẫm về những gì mình đã bỏ lỡ. Chỉ cần cố gắng thêm một chút nữa thôi, chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về họ. Đối với người đoạt huy chương đồng, suy nghĩ duy nhất của họ lúc đó chỉ là: chỉ một chút nữa thôi, ta đã trở thành kẻ trắng tay. Và do vậy, ngưỡng gần của người đoạt huy chương bạc là chiến thắng, trong khi đối với người huy chương đồng là một thất bại hoàn toàn.

Trách nhiệm cho kết quả

Yếu tố mang tính quyết định cuối cùng của sự hối tiếc là trách nhiệm.

Nếu một người bạn mời bạn đi ăn tối ở một nhà hàng do anh ta chọn và bạn ăn không ngon miệng. Có thể bạn sẽ thất vọng, sẽ không hài lòng. Nhưng bạn có thế hối tiếc không? Cảm giác đó sẽ ngược lại nếu bạn chọn nhà hàng và ăn thấy không ngon. Đây chính là lúc bạn cảm thấy hối tiếc. Một vài nghiên cứu cho thấy những kết quả không như ý đều làm người ta không cảm thấy vui, bất kể họ có chịu trách nhiệm về điều đó hay không. Trong khi đó, người ta chỉ cảm thấy hối tiếc vì những kết quả không như mong đợi khi họ chịu trách nhiệm chính về điều đó.

Nếu chúng ta kết hợp được những yếu tố này lại với nhau, chúng ta sẽ có được một bức tranh hoàn chỉnh của những điều kiện làm cho hối tiếc đặc biệt có sức nặng. Nếu chúng ta chịu trách nhiệm về một hành động mang lại hệ quả xấu mà lẽ ra kết quả của nó có thể tốt hơn, chúng ta sẽ dễ dàng trở thành “con mồi” của sự hối tiếc. Điều cốt lõi là, trải nghiệm của mỗi người càng do những lựa chọn gây ra, chúng càng làm ta cảm thấy hối tiếc nếu như lựa chọn đó không mang lại hiệu quả như mong muốn.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Barry Schwartz – Nghịcn lý của sự lựa chọn – NXB Trẻ 2008.

Nghịch lý của sự lựa chọn – Những cơ hội bỏ lỡ – Phần cuối


Trong một ví dụ cuối cùng, một số các đôi sinh viên yêu nhau đã được mời tham gia một nghiên cứu về hiệu lực của mối quan hệ lãng mãn trong môi trường đại học. Sau nghiên cứu đầu tiên được thực hiện trong phòng thí nghiệm, thì những người tham gia đã được yêu cầu trả lời một bản câu hỏi về mối quan hệ của họ mỗi tuần trong bốn tuần. Ở phần nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, một nửa những người tham gia được yêu cầu điền vào một trang phân tích các lý do tại sao mối quan hệ của họ lại như hiện giờ. Nửa còn lại điền vào một trang giải thích tại sao họ lại chọn người kia. Bạn cũng có thể đoán được rằng việc viết về mối quan hệ của họ đã làm cho họ thay đổi thái độ về chính mối quan hệ đó. Đối với một số người, thái độ của họ trở nên tiêu cực hơn. Dù tích cực hay tiêu cực thì thái độ của họ cũng thay đổi. Một lần nữa, lý do ở đây có thể là những gì có thể giải thích được bằng lời không hẳn là những gì quan trọng nhất. Nhưng một khi mối quan hệ đã được diễn đạt thành lời thì những lời nói này bỗng có trọng lượng hơn đối với người nói.

Một quan điểm tích cực từ kết quả cuối cùng này đó là quá trình phân tích một mối quan hệ thực sự đã khiến người ta nhìn vào bên trong, nhờ đó chúng ta hiểu được bản chất thật của mối quan hệ của mình. Nhưng kết quả lại là ngược lại so với điểm tích cực trên. Khi so sánh các sinh viên được yêu cầu nêu lý do và các sinh viên không được yêu cầu nêu lý do, các nhà nghiên cứu thấy rằng những thái độ không được phân tích lại là điều dự báo tốt hơn cho mối quan hệ nào đó so với thái độ được phân tích. Những người được yêu cầu nêu lý do và biểu hiện thái độ tích cực đối với mối quan hệ của mình thì không chắc vẫn còn duy trì mối quan hệ đó trong 6 tháng tiếp theo. Cũng như trong nghiên cứu với các tấm áp phích, việc đưa ra lý do có thể biến những cân nhắc không quan trọng thành quan trọng tạm thời và cho ra một cách đánh giá ít chính xác hơn về việc họ thực sự cảm thấy như thế nào.

Khi nêu ra những điểm trên tôi không có ý nói rằng, chúng ta đừng nên suy xét các lý do hoặc những khía cạnh khác nhau khi đưa ra quyết định. Những gì tôi muốn nói ở đây đó là luôn có những điều không ngờ tới đối với quyết định của chúng ta, dù cho đã có phân tích. Dựa trên nghiên cứu về sự thỏa hiệp và việc luyến tiếc các tùy chọn đã bỏ qua, vấn đề tôi muốn nói ở đây là khi số lựa chọn tăng thì những đánh giá của chúng ta đối với các lựa chọn đó trước khi quyết định cũng phải tăng. Cho dù chúng ta có cố gắng tìm ra thật nhiều lý do để khiến lựa chọn của chúng ta lúc này là đúng, nhưng những lựa chọn này sẽ không phải lúc nào cũng đúng sau này.

Tôi có may mắn được giảng dạy tại một trường đại học có một số sinh viên tài năng nhất thế giới theo học. Trong khi sinh viên các trường khác thì rất vui khi tìm được một môn học mà các em không chỉ thích học mà còn giúp các em kiếm sống sau này, thì các sinh viên trường tôi lại có nhiều sở thích và khả năng. Những sinh viên phải quyết định mình sẽ tập trung vào thứ nào mà mình thích làm hơn cả. Những sinh viên này không bị giới hạn về vấn đề tài năng hay năng lực trên thế giới mở rộng đối với các em. Nhưng liệu các em có hân hoan với cơ hội này của mình không? Không phải em nào mà tôi nói chuyện cũng cảm thấy như thế. Thay vào đó các em lại trăn trở việc lựa chọn giữa kiếm tiền và làm điều gì đó có lợi ích cho xã hội lâu dài, giữa việc tận dụng những tri thức các em có được hay thực hiện những việc sáng tạo nhất thời. giữa việc chỉ nên chú tâm hoàn toàn cho công việc hay làm việc sao đó để có cuộc sống cân bằng, giữa việc chọn lựa nơi làm việc ở một vùng đồng cỏ đẹp đẽ hay làm việc trong một thành phố xô bồ, giữa việc học tiếp hay đi làm. Đối với những câu hỏi quan trọng như thế này thì các em cố gắng tìm ra lý do để đưa ra một quyết định sáng suốt nhất.

Ngoài ra còn những yếu tố khác mang tính lưu động như gia đình, bạn bè, và người yêu nên sinh viên của tôi cũng không thể áp đặt người khác để giới hạn lại các lựa chọn của mình. Những người thân sống ở đâu và những sinh viên này muốn ở gần họ cỡ nào là những yếu tố mà các phải xét đến khi đưa ra quyết định. Những yếu tố này chính là các thỏa hiệp nằm ngoài bản thân công việc mà các em định chọn. Mọi thứ đều có thể và thứ nào cũng có thể chọn được. Mỗi lựa chọn mà các em cân nhắc đều có những điểm hấp dẫn của nó, vì vậy càng có nhiều cơ hội được tính đến với những lựa chọn hấp dẫn đó, càng làm cho quá trình đưa ra quyết định trở nên khó khăn. Các em tự hỏi các em nên làm điều gì mới đúng? Làm thế nào để biết được điều đó?

Bài này đã cho thấy những quyết định như thế này tạo ra sự khó chịu và khó dứt khoát. Những sinh viên này cứ từ từ, làm những công việc lặt vặt, đi thực tập hy vọng rằng những việc đó sẽ giúp họ tìm được câu trả lời “tôi sẽ như thế nào khi trưởng thành?”. Đối với nhiều sinh viên, câu hỏi “bạn sẽ làm gì khi tốt nghiệp” là một câu hỏi không mấy dễ chịu, nói chi là tìm ra câu trả lời. Khó tránh khỏi kết luận rằng giá mà sinh viên của tôi ít tài năng đi một chút hoặc ít gắn bó với gia đình đi để đừng lúc nào cũng nghĩ rằng phải định cư gần người thân của mình, hoặc thậm chí là một ít tư tưởng cầu an để có thể chọn một công việc an toàn và vui thú với nó. Kh có ít lựa chọn và nhiều giới hạn hơn thì thỏa hiệp sẽ được giảm đi, và con người sẽ ít phải nghi ngờ, ít phải bỏ nỗ lực để xem xét đưa ra quyết định, để cảm thấy hài lòng hơn, không phải suy nghĩ quá nhiều về quyết định mình đưa ra.

Sự mệt mỏi về tinh thần và sự trì trệ do có quá nhiều lựa chọn đã được trình bày trong cuốn sách: Khủng hoảng ở ¼ cuộc đời: những thách thức duy nhất đối với tuổi hai mươi. Thông qua các cuộc phỏng vấn, cuốn sách đã nêu được những nghi ngờ và nuối tiếc mà những thanh niên thành đạt thường hay mắc phải. Không có tính ổn định, không có sự chắc chắn và không dự đoán được tương lai. Ngờ vực bản thân. Những điều này khiến con người khó ổn định cuộc sống hơn.

Số liệu thống kê toàn quốc đã khẳng định những điều nêu trong sách. Cả đàn ông và phụ nữ đều kết hôn muộn hơn 5 năm so với thế hệ trước. Còn điều gì dễ gây đắn đo hơn là việc lựa chọn bạn đời và đánh mất cơ hội được trải nghiệm những điều thú vị từ những người ta tìm hiểu? Cũng so với thế hệ trước, thế hệ bây giờ gắn bó với một chỗ làm ít hơn gần một nửa. Cho dù trì hoãn việc kết hôn và tránh cam kết gắn bó với một chỗ làm nào đó có thể cho con người thêm nhiều cơ hội tự khám phá, nhưng chính sự tự do và tự khám phá này dường như càng làm cho người ta lạc lối hơn là tìm được hướng đi đúng. Một người tham gia nghiên cứu nói rằng “vấn đề của việc có quá nhiều lựa chọn là ở chỗ bạn phải chịu trách nhiệm với những gì xảy đến với mình”.

Tại sao lựa chọn lại khó khăn đến vậy?

Trong lịch sử loài người, con người thường không phải đối mặt với quá nhiều lựa chọn và nhiều cơ hội mở ra. Thay vì hỏi “tôi nên chọn A hay B hay C…?” thì họ lại thường hỏi “tôi có nên chọn nó hay không?” Trong một thế giới có sự khan hiếm, thì cơ hội không tự nó xuất hiện hàng loạt, và những quyết định mà con người phải đối mặt đó là tiến đến hay tránh đi, chấp nhận hay từ chối. Chúng ta có thể thấy rằng khả năng phán đoán tốt vấn đề – cái gì là tốt cái gì là xấu – là một yếu tố sống còn. Nhưng phân biệt giữa tốt và xấu thì dễ hơn rất nhiều so với việc phải chọn được cái nào là tốt, cái nào là tốt hơn và cái nào là tốt nhất. Sau hàng triệu năm sống sót nhờ những phân biệt có tính chất đơn giản, có vẻ như loài người chúng ta chưa được chuẩn bị về mặt sinh học để đối mặt với nhiều lựa chọn trong thế giới hiện đại.

Nhà tâm lý học Susan Sugarman đã chỉ ra rằng lịch sử ở dạng ngắn gọn của loài người chúng ta được thể hiện khi trong thời kỳ phát triển của trẻ nhỏ. Em bé không phải lựa chọn nhiều. Chúng chỉ chấp nhận hoặc từ chối những gì được đưa đến cho chúng. Đối với những đứa bé mới biết đi cũng thế. Cha mẹ hỏi những câu như “Con có muốn uống nước trái cây không?”, “con có thích đi chơi công viên không?”, “con có muốn đi xuống dốc không?” và đứa bé trả lời có hoặc không. Sau đó, khi đứa trẻ đã có được một chút khả năng về ngôn ngữ thì cha mẹ lại bắt đầu hỏi “con thích uống nước táo hay nước cam?”, “con muốn đi công viên hay đi bơi?”, “con muốn trượt xuống cái dốc hay ngồi trên đu quay?”. Lúc này thì đứa trẻ không còn chỉ trả lời có hoặc không. Một người mẹ miêu tả sự “khổ sở” của đứa con 5 tuổi như thế này:

Tôi đã thấy rằng đôi khi con trai tôi gặp khó khăn khi phải ra quyết định loại bỏ bớt cái gì đó. Tôi ý thức được rằng con tôi phải làm điều đó và có cảm giác mất mát. Việc chọn một thứ gì đó trong hai thứ đồng nghĩa với việc thứ kia bị mất đi. Sau cùng thì việc đưa ra quyết định có gì đó giảm bớt niềm vui của chúng ta khi có được thứ gì đó, mặc dù khi đã ra được quyết định cũng là một sự thở phào nhẹ nhõm. Tôi đã chú ý con tôi giống được giải thoát như thế nào, như thể nó đã bị đóng băng khi cứ phải chần chừ không dứt khoát. Thực sự con tôi không thể quyết định được nếu không được gợi ý. Gần đây nhất tôi cũng đã thấy như vậy khi nó phải lựa chọn những cây kem que nhiều màu sắc.

Chúng ta đều ý thức được rằng trưởng thành đồng nghĩa với việc phải đưa ra lựa chọn và bỏ qua những lựa chọn khác. Nhưng lịch sử tiến hóa của chúng ta cho thấy đây là một bài học khó. Học cách lựa chọn đúng là rất khó. Học cách lựa chọn sáng suốt trong một thế giới có vô số lựa chọn thì càng khó, thậm chí là quá khó.

Quyết định có thể thay đổi: một giải pháp ảo tưởng dành cho vấn đề lựa chọn

“Cái này có trả lại được không?”, “tôi có rút tiền cọc lại được không?”, những câu hỏi kiểu này thường giải quyết được nhiều vấn đề bị chọn sai, ít nhất là tạm thời. Khi chúng ta biết rằng mình đã quyết định sai và có thể thay đổi quyết định, thì sự thỏa hiệp sẽ giúp chúng ta ít chịu thiệt hại nhất và những tùy chọn mà chúng bỏ qua trước đó sẽ trở thành cứu cánh. Thực sự là chúng ta sẽ sẵn sàng bỏ qua một khoản phí bảo hiểm đề phòng khi chúng ta thay đổi quyết định. Thường thì chúng ta ra quyết định giống như đi mua đồ vậy (không cho đổi hoặc trả ) và trả tiền cho đồ chúng ta mua ngay lập tức. Có lẽ một trong những lý do khiến việc ra quyết định trở nên khó khăn đến vậy, đó là do chúng ta không thay đổi quyết định đó được. Hôn nhân không đi kèm với bảo đảm hoàn lại tiền, sự nghiệp cũng vậy. Thay đổi quyết định đối với hai việc đó thường khiến chúng ta phải trả giá đắt về thời gian, năng lượng, tình cảm và tiền bạc.

Vì thế có vẻ như nên khuyên mọi người hãy đưa ra những quyết định có thể thay đổi được và sai lầm mà họ gây ra có thể sữa chữa được. Cánh cửa vẫn mở. Tài khoản vẫn sử dụng được. Đưa ra quyết định dù lớn hay nhỏ với thái độ như thế này sẽ giảm bớt căng thẳng và những cảm xúc tiêu cực mà chúng ta đã nghiên cứu.

Đúng, nhưng vẫn phải trả một cái giá nào đó. Một loạt các nghiên cứu gần đây đã đưa ra cho một nhóm người một quyết định có thể thay đổi được và một nhóm khác một quyết định không thay đổi được. Ở trường hợp thứ nhất, người tham gia chọn ra một tấm ảnh từ một bộ ảnh đen trắng gồm từ 8 đến 10 tấm mà họ đã chụp trong một khóa học nhiếp ảnh. Ở nhóm kia, người tham gia được yêu cầu chọn một tấm áp phích nhỏ từ một bộ các áp phích in bản tranh nghệ thuật. Nghiên cứu cho thấy những người tham gia dù được phép thay đổi quyết định nhưng thực sự hầu như không ai làm vậy. Còn những người có ý định sau này sẽ thay đổi quyết định thì lại cảm thấy ít hài lòng hơn với lựa chọn của mìh so với những người được yêu cầu đưa ra quyết định không thay đổi được. Và có lẽ quan trọng nhất là những người tham gia không biết rằng chính ý nghĩa mình được thay đổi quyết định sẽ ảnh hưởng đến sự hài lòng của họ đối với những thứ mà họ chọn.

Vì thế nếu quyết định để rồi sẽ có lúc thay đổi quyết định đó dường như cũng khiến chúng ta phải trả một giá nào đó về tâm lý. Khi chúng ta được thay đổi quyết định thì dĩ nhiên chúng ta sẽ dành ít tâm trí hơn để cân nhắc quyết định của mình. Và có lẽ chúng ta cũng mất ít nỗ lực hơn để không suy nghĩ nhiều về những lựa chọn mà chúng ta đã bỏ qua.

Sau cùng, nếu bạn bỏ một khoản tiền cọc không thể hoàn lại để mua một căn nhà ở vườn nho Martha thì bạn sẽ chú trọng đến vẻ đẹp bãi biển và những cồn cát. Tuy nhiên nếu tiền cọc của bạn có thể được hoàn lại và cánh cửa vẫn đang mở thì bạn có thể còn tiếp tục cân nhắc về việc mua một nơi ẩn náu trong rừng rậm ở Costa Rica. Bãi biển và những cồn cát cũng không đẹp hơn trong mắt bạn, mà ngôi nhà trong rừng rậm cũng không kém hấp dẫn hơn.

Hoặc đối với những trường hợp có “tiền cọc” lớn hơn như hôn nhân chẳng hạn, điểm khác biệt giữa những người xem hôn thú là một điều gì thiêng liêng và không thể phá vỡ và những người xem hôn thú như những sự thỏa hiệp mà có thể thay đổi nếu hai người đồng thuận. Chúng ta có thể nghĩ rằng những người xem hôn nhân là sự cam kết không thể thay đổi được, thường là những người dành nhiều tâm trí hơn cho quyết định của mình để làm sao quyết định đó có thể khiến họ hài lòng hơn là những người xem quyết định hôn nhân thoải mái hơn. Vì vậy, những người có hôn nhân không thể thay đổi có thể hài lòng hơn với cuộc sống hôn nhân của mình so với những người thay đổi. Khi chúng ta thấy những cuộc hôn nhân tan vỡ, chúng ta có thể ngẫm lại mình, và cho rằng thật may khi những cặp vợ chồng đó có một thái độ thoải mái với cam kết hôn nhân, cho dù cam kết đó không hiệu quả. Chúng ta hầu như không cho rằng thái độ linh hoạt là đóng một vai trò nào đó khi hôn nhân thất bại.

Cơ hội, Phí tổn cơ hội, và Người cầu toàn

Không ai thích đưa ra thỏa hiệp. Không ai thích nhìn phí tổn cơ hội gia tăng. Nhưng vấn đề của thỏa hiệp và phí tổn cơ hội sẽ làm ảnh hưởng tới người tri túc. Hãy nhớ rằng loại người này chỉ tìm kiếm một cái gì vừa đủ mà thôi chứ không phải cái tốt nhất. “Vừa đủ” có thể vượt qua được suy nghĩ về phí tổn cơ hội. Thay vào đó, chuẩn “vừa đủ” sẽ làm cho người tri túc bớt tìm tòi, bớt đòi hỏi ở những lựa chọn hơn là người cầu toàn, và do vậy họ sẽ có ít phí tổn cơ hội hơn. Cuối cùng, người tri túc ít có khả năng nghĩ về một thế giới hoàn hảo chỉ có trong giả định.

Với những lý do đó, việc phải tiến hành thỏa hiệp thực sự khó khăn cho người cầu toàn, và cộng với phí tổn cơ hội, tôi tin rằng đây chính là những yếu tố làm cho cuộc sống của những người cầu toàn hạnh phúc, bớt thỏa mãn, và dễ bị trầm cảm hơn người tri túc.

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Barry Schwartz – Nghịch lý của sự lựa chọn – NXB Trẻ 2008.

Nghịch lý của sự lựa chọn – Những cơ hội bỏ lỡ – Phần III


Thỏa hiệp: Sự không thoải mái về tình cảm dẫn đến những quyết định sai lầm

Hầu như ai cũng công nhận rằng suy nghĩa về những thỏa hiệp sẽ dẫn đến những quyết định tốt hơn. Chúng ta muốn bác sỹ của mình cân nhắc những thỏa hiệp trước khi đề nghị phương pháp điều trị. Chúng ta muốn cố vấn đầu tư cẩn trọng xem xét những mặt thỏa hiệp trước khi thống nhất đề xuất đầu tư. Chúng ta muốn các bảng báo cáo người tiêu dùng đánh giá kỹ những mặt thỏa hiệp để giới thiệu mặt hàng cần mua. Chúng ta chỉ không muốn tự mình đánh giá các mặt thỏa hiệp. Và chúng ta không muốn làm điều đó vì một lẽ đó là một quá trình không lấy gì làm dễ chịu khi phải cân nhắc về những phí tổn cơ hội cùng những thiệt hại nó hàm chứa.

Những phí tổn tình cảm của những thỏa hiệp tiềm năng gây ra tác dụng còn lớn hơn cả việc làm nhạt nhòa dẫn sự thỏa mãn của mỗi người đối với từng quyết định. Không những thế, nó còn ảnh hưởng tới chất lượng của các quyết định đó. Có vô vàn bằng chứng cho rằng những trạng thái tình cảm tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự tập trung của mỗi người. Thay vì xem xét mọi khía cạnh của một quyết định, chúng ta chỉ chăm chăm vào một hay hai khía cạnh đó và có thể không đoái hoài tới những mặt quan trọng khác của quyết định. Tình cảm tiêu cực cũng làm ta mất tập trung, và khiến ta tập trung vào tình cảm hơn là bản thân quyết định đó. Khi những rủi ro phải thỏa hiệp liên quan đến việc đưa ra quyết định tăng cao, tình cảm lại càng có sức nặng hơn và ảnh hưởng nghiêm trọng tới tiến trình đưa ra quyết định.

Các nhà nghiên cứu cho rằng tình cảm tích cực sẽ có tác dụng ngược lại, giúp người ta suy nghĩ tốt hơn. Khi đó, ta sẽ xem xét nhiều khả năng hơn và mở rộng hơn với cả những trường hợp thậm chí khó có khả năng xảy ra với bản thân; chúng ta cũng có thể nhận ra được mối liên hệ tinh tế giữa những thông tin mà ta có thể bỏ lỡ. Những món quà nho nhỏ như một viên kẹo cho bệnh nhân, cũng có thể góp phần làm tăng tính chính xác và nhanh chóng của việc chuẩn đoán. Nói gọn lại, tình cảm tích cực cho phép chúng ta mở rộng khả năng hiểu biết đối với những gì gặp phải.

Điều này đã tạo ra sự nghịch lý. Chúng ta có vẻ như có thể suy nghĩ tốt nhất khi tâm trạng thoải mái. Những quyết định phức tạp, liên quan tới nhiều lựa chọn và nhiều khía cạnh (chẳng hạn như tôi nên đảm đương công việc nào?) đòi hỏi khả năng suy luận tốt nhất. Tuy nhiên, chính những quyết định như vậy đã đẩy chúng ta vào những phản ứng tình cảm ảnh hưởng đến khả năng quyết định được đâu là loại suy luận cần thiết.

Phí tổn cơ hội, thỏa hiệp và lựa chọn bùng nổ

Chúng ta thấy rằng khi số quyền chọn lựa được cân nhắc tăng lên và những đặc tính hấp dẫn đi liền với các quyền chọn lựa bị từ chối tích lũy lại, thì sự thỏa mãn có được từ cái được chọn sẽ giảm đi. Đây là một nguyên nhân rất quan trọng cho thấy tại sao việc thêm các quyền chọn có thể làm tổn hại đến tâm trạng thoải mái của chúng ta. Vì không đẩy các quyền chọn bị từ chối ra khỏi tâm trí, nên ta thấy thất vọng khi sự thỏa mãn cùng với các quyết định của mình bị toàn bộ các quyền chọn mà ta đã xem xét nhưng không chọn làm phai mờ đi.

Sau khi cân nhắc những tác dụng tiêu cực và tích lũy này của phí tổn cơ hội, thì chúng ta dễ đi theo lời khuyên là nên bỏ qua toàn bộ các phí tổn cơ hội khi đưa ra quyết định. Nếu phí tổn cơ hội khiến quyết định đó trở nên phức tạp và khiến ta khốn khổ, thì tại sao ta lại suy nghĩ về chúng? Không may là, nếu không biết về sức hập dẫn của những quyền chọn ấy, ta sẽ rất khó phán đoán được xem một sự đầu tư tiềm năng có tốt hay không. Điều này đúng với việc làm, kỳ nghỉ, quy trình y học hoặc gần như bất kỳ điều gì khác. Một khi ta bắt đầu cân nhắc các quyền chọn, thì vấn đề phí tổn cơ hội rất có khả năng sẽ phát sinh. Hiếm khi chỉ có một quyền chọn rõ ràng là tốt hơn về mọi phương diện so với những cái còn lại. Việc chọn lựa hầu như lúc nào cũng liên quan đến việc từ bỏ điều gì đó có giá trị. Vì vậy việc suy nghĩ về phí tổn cơ hội có thể là một phần quan trọng của quá trình đưa ra quyết định. Bí quyết ở đây là hạn chế nhóm các khả năng để phí tổn cơ hội không tăng lên khiến toàn bộ các uyền chọn không còn hấp dẫn nữa.

Việc nhận thức rõ giá trị của gánh nặng tích lũy do phí tổn cơ hội mang lại, có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những gì khám phá được của cuộc nghiên cứu được đề cập ở bài đầu tiên. Trong đó hai nhóm người tham gia hoạt động với nhiều hương vị khác nhau của nhãn hiệu mứt cao cấp tại một bàn để vật mẫu được đặt trong cửa hàng thực phẩm có tiếng. Một số người được giới thiệu 6 loại mẫu mứt trên bàn, trong khi những người khác thấy 24 mẫu. Họ có thể nếm bao nhiêu tùy thích và sau đó được cho một coupon giảm giá 1 đôla cho bất kỳ lọ mứt nào đã mua. Sự trưng bày mẫu lớn hơn thu hút nhiều khách hàng hơn, nhưng những cá nhân này không thử thêm các loại mứt khác nhau. Đáng lưu ý là khách hàng nào thấy sự trưng bày lớn hơn thì thật sự ít có khả năng mua mứt hơn những người nào thấy sự trưng bày nhỏ hơn và ít có khả năng hơn rất nhiều.

Trong một nghiên cứu khác, sinh viên được đề nghị 6 hoặc 30 chủ đề khác nhau để chọn bài luận ngoài tín chỉ. Những sinh viên nào được đề nghị 6 chủ đề thì có nhiều khả năng viết luận hơn và viết tốt hơn so với những sinh viên được đề nghị 30 chủ đề.

Trong một nghiên cứu thứ ba, các sinh viên đánh giá 6 hoặc 30 loại chocolate ngon theo sự hấp dẫn bên ngoài của chúng, rồi chọn một loại để nếm thử và đánh giá. Họ sẽ được cho một hộp nhỏ chocolate đó thay vì nhận tiền công cho việc tham gia nghiên cứu này. Những sinh viên nào thấy được 30 loại chocolate thì đưa ra mức đánh giá thấp hơn cho loại chocolate họ nếm và ít có khả năng lấy được hộp chocolate thay cho tiền hơn sau cuộc thử nghiệm, so với những sinh viên nào chỉ được cho thấy 6 loại.

Các kết quả này ngược lại với trực giá. Chắc chắn là bạn có nhiều khả năng tìm thấy cái bạn thích từ một nhóm hai mươi bốn hay ba mươi quyền chọn hơn là từ một nhóm sáu quyền chọn. Ở mức độ thấp nhất, những quyền chọn bổ sung chẳng thêm được gì cả, nhưng trong trường hợp đó chúng cũng không lấy đi điều gì cả. Nhưng khi có hai mươi bốn lọ mứt cần được xem xét thì chúng ta dễ tưởng tượng ra là nhiều lọ trong số đó sẽ có các đặc tính hấp dẫn: sự mới lạ, sự ngọt ngào, độ mịn, màu sắc và ai biết được là chúng còn có gì nữa. Khi người chọn tiến đến gần một quyết định, thì những đặc tính hấp dẫn khác nhau của lọ mứt không được chọn có thể tăng lên, khiến lọ mứt được ưa thích trong có vẻ ít đặc biệt hơn. Lọ mứt ấy có thể vẫn là người chiến thắng cuộc tranh tài này, nhưng “điểm số hấp dẫn” của nó thì không còn đủ cao để đảm bảo ta mua nó. Tương tự, với đề tài luận văn, một số có thể hấp dẫn vì các sinh viên đã biết nhiều về chúng, số khác hấp dẫn vì chúng khêu gợi sự tò mò, số khác thu hút vì chúng liên quan đến cá nhân và còn số khác thì do liên quan đến những ý kiến mà các sinh viên đang thảo luận trong một khóa học khác nên mới hấp dẫn. Nhưng sự hấp dẫn tiềm ẩn của mỗi đề tài sẽ trừ đi sự hấp dẫn của toàn bộ những đề tài khác. Sau khi làm phép trừ ấy, kết quả tịnh là không có chủ để nào sẽ đủ hấp dẫn để khắc phục được quán tính và khiến sinh viên ngồi xuống máy xử lý văn bản. Nếu anh ta ngồi xuống thì khi cố viết về đề tài đã chọn, anh ta có thể bị làm cho xao lãng bởi chính đề tài hấp dẫn khác đã bị chối bỏ. Nó có thể ngăn anh ta suy nghĩ rõ ràng. Hoặc có thể cảm giác tiêu cực phát sinh từ việc phải cân nhắc thỏa hiệp sẽ làm hạn hẹp suy nghĩ của anh ta. Theo cả hai cách ấy, chất lượng của bài luận sẽ bị ảnh hưởng.

Cách đây vài năm, khi cùng vợ đến Paris để nghỉ cuối tuần dài ngày, tôi đã gặp phải một chuyện mà tôi không thể hiểu được cho đến khi bắt đầu viết bài này. Chúng tôi rời Luân Đôn vào một buổi chiều đầy nắng tuyệt đẹp. Chúng tôi đi bộ thư giãn dọc theo một trong những đại lộ lớn của thành phố này và tìm một nơi để dùng bữa trưa đã được dự tính nhiều. Tại mỗi nhà hàng chúng tôi nghiên cứu thực đơn được dán bên ngoài. Nơi đầu tiên chúng tôi thấy có tất cả những món hấp dẫn, và tôi gần như sẵn sàng dừng lại nơi ấy. Nhưng làm thế nào chúng tôi có thể ở Paris và đi ngay vào nhà hàng đầu tiên chúng tôi gặp? Vì vậy chúng tôi tiếp tục đi và tìm thêm nhà hàng khác. Và nhà hàng khác. Và nhà hàng khác nữa. Gần như mọi nơi chúng tôi thấy đều có vẻ tuyệt vời. Nhưng sau khoảng 1 giờ, và một tá thực đơn tôi thấy mình đang mất đi sự thèm ăn. Các nhà hàng chúng tôi gặp phải dường như ngày càng mất đi sự hấp dẫn. Sau gần một giờ, tôi đáng lẽ phải thật sự hạnh phúc khi hoàn toàn bỏ qua bữa trưa.

Tôi có vẻ như đã khám phá ra một phương pháp ăn kiêng tuyệt vời – thỏa mãn bằng cách giả vờ. Bạn chỉ tưởng tượng bản thân mình đang ăn những món yêu thích và sau khi đã tưởng tượng đủ về chúng, thì bạn bắt đầu thấy no. Cuối cùng, đến lúc ngồi xuống và ăn thì bạn không còn thèm ăn nhiều nữa. Thực tế, điều đang xảy ra chính là sự tích tụ phí tổn cơ hội. Khi gặp phải một quyền chọn hấp dẫn sau cái khác, thì mỗi quyền chọn mới thật sự làm giảm đi sự hứng thú tiềm ẩn mà tôi cảm thấy sau khi lựa chọn. Vào cuối giờ thì không còn sự húng thú nào nữa.

Rõ ràng là phí tổn cơ hội tích tụ của việc thêm quyền chọn vào nhóm quyền chọn của một người có thể làm giảm đi sự thỏa mãn. Nó thậm chí có thể khiến một người trở nên khốn khổ. Nhưng tôi nghĩ có một lý do nữa cho sự tụt giảm này, một lý do mà tôi có thể minh họa bằng ví dụ sau đây: Gần đây tôi sống tại Swarthmore, bang Pennsylvania, một khu vực ngoại ô xinh đẹp có ngôi trường cao đẳng mà tôi đang dạy. Nhiều người muốn có được khu vực này. Nó có màu xanh phủ dày với nhiều cây cổ thụ lớn và vĩ đại. Nó bình yên và tĩnh lặng. Nó an toàn. Trường học lại tốt. Tôi có thể đi bộ đến trường. Tóm lại, đó là một nơi tốt để bạn sinh sống. Nhưng một điều khiến nhiều người quyết định không muốn có khu vực này là do nó không có cửa hàng video tốt. Chỉ có một chi nhánh của chuỗi cửa hàng quốc gia và dù chào bán 1 triệu bản phim ăn khách mới nhất, thì tiền lời khá ít ở các phim ít mang tính thương mại hơn hoặc cũ hơn. Còn tiền lời giữa các phim được làm bằng một ngôn gnữ ngoài tiếng Anh thì gần như không có. Điều này gây ra một khó khăn cho tôi, đặc biệt khi tôi phải là người chọn phim mà gia đình hay bạn bè tôi muốn xem cùng nhau.

Việc chọn phim cho người khác không phải là hoạt động ưa thích của tôi. Việc chọn phim nào khiến mọi người ngạc nhiên và thích thú sẽ chịu áp lực. Trong khu vực của tôi, nó đã trở thành điều gì đó của một trò chơi khi lấy sự lựa chọn không hay và người chịu trách nhiệm về nó làm trò đùa. Mặt khác, những lời bình phẩm ở nhà cũng chỉ là nói đùa. Quan trọng hơn, ngay cả khi nghiêm túc thì họ vẫn nhận thức đầy đủ rằng các lựa chọn tại cửa hàng video địa phương không phong phú lắm. Vì vậy, ở Shwarthmore, không người nào trông chờ nhiều và không người nào bắt lỗi người chọn một cách nghiêm túc về bất kỳ cái gì anh ta mang về nhà.

Sau đó tôi chuyển đến trung tâm khu buôn bán Philadelphia. Ba tầng lầu trong tòa nhà tôi là cửa hàng video có đủ mọi thứ. Các phim thuộc mọi vùng, mọi thể loại, mọi quốc gia. Vậy thì hiện giờ điều gì sẽ mất đi khi tôi đến thuê băng video cho nhóm tôi? Bây giờ ai sẽ là người có ỗi nếu tôi mang về phim gì đó mà mọi người xem là mất thời gian? Bây giờ nó không còn là sự phản ánh chất lượng của cửa hàng đó nữa. Nó là sự phản ánh thị hiếu của tôi. Vì vậy việc có nhiều quyền chọn hấp dẫn có nghĩa là không còn lý do nào cho sự thất bại nữa. Trách nhiệm đối với sự lựa chọn dở sẽ hoàn toàn thuộc về tôi và những gì đặt cược liên quan đến sự lựa chọn video của tôi lại tăng lên.

Ngay cả những quyết định nhỏ nhặt như việc thuê băng video cũng trở nên quan trọng, nếu chúng ta tin rằng những quyết định này đang tiết lộ điều gì đó quan trọng về bản thân chúng ta.

Những sự lựa chọn và các lý do

Khi số đặt cược của các quyết định tăng lên, chúng ta càng cảm thấy cần chứng minh những quyết định ấy. Ta thấy buộc phải nói rõ ràng – ít nhất là với bản thân – tại sao ta đưa ra một sự lựa chọn cụ thể như thế. Nhu cầu tìm kiếm lý do này có vẻ hữu dụng; nó sẽ nâng cao chất lượng cho sự lựa chọn của chúng ta. Nhưng nó không nhất thiết phải làm được điều đó.

Có vẻ như mọi sự chọn lựa đều cần lý do, nhưng vài nghiên cứu gần đây cho rằng kiểu đưa ra quyết định đơn giản và thẳng thắn này không phải lúc nào cũng chính xác. Trong một nghiên cứu ấy, những người tham gia được yêu cầu nếm và xếp hạng 5 loại mức khác nhau. Một nhóm không được hướng dẫn. Nhóm thứ hai được bảo là suy nghĩ lý do khi đang xác định thứ tự xếp hạng cua mình. Sau khi nếm, các nhà nghiên cứu so sánh bảng xếp hạng của những người tham gia với bảng xếp hạng của các chuyên gia đã xuất bản trong Các báo cáo Người tiêu dùng. Điều mà các nhà nghiên cứu tìm ra là những người tham gia nào không được hướng dẫn sẽ cho bảng xếp hạng gần giống với các chuyên gia hơn những người tham gia được hướng dẫn là phải suy nghĩ lý do. Dù kết quả này không nhất thiết cho thấy rằng việc suy nghĩ lý do cho các quyết định khiến chúng tệ hơn, nhưng nó thật sự cho thấy rằng việc suy nghĩ lý do có thể thay đổi quyết định. Điều này ngụ ý rằng con người không phải lúc nào cũng suy nghĩ trước tiên và quyết định thứ hai.

Trong một nghiên cứu khác, sinh viên được yêu cầu đánh giá 5 áp phích thuộc loại như thế thường được dùng để trang trí ký túc xá. Hai bức là tranh mỹ thuật của hai danh họa, một của Monet và một của Van Gogh. Ba bức còn lại là những bức tranh biếm họa hoặc ảnh động vật có kèm chú thích. Kiểm tra trước cho thấy hầu hết các sinh viên đều thích tranh Monet và Van Gogh hơn là những bức tranh hoạt hình động vật rực rỡ những không mấy giá trị. Trong nghiên cứu này, một nửa các sinh viên được yêu cầu viết một bài luận ngắn giải thích tại sao họ thích hoặc không thích một trong số các bức tranh. Họ được đảm bảo rằng không ai khác được đọc bài luận của họ. Những sinh viên còn lại thì không được yêu cầu làm như thế. Sau đó cả nhóm sinh viên sẽ xếp hạng các tấm áp phích. Ngoài ra, khi cuộc nghiên cứu đã xong, họ có quyền đem về nhà một trong số các bức tranh đó. Bản sao của những tấm áp phích đã được cuộn lại, mặt trắng lộn ra ngoài để các sinh viên không phải lo bị người khác đánh giá về gu thẩm mỹ của mình. Vài tuần sau, mỗi sinh viên tham gia nghiên cứu nhận được một cú điện thoại. Họ được hỏi có hài lòng với tấm áp phích không và hài lòng như thế nào. Họ có còn giữ tấm áp phích đó không? Có treo nó trên tường không? Họ có định đem áp phích theo khi về nghỉ hè không? Họ có chịu bán áp phích của mình không?

Điểm thú vị đầu tiên của nghiên cứu này đó là người được yêu cầu viết suy nghĩ của mình về những bức tranh cho biết, họ thích những bức tranh hoạt hình vui nhộn hơn là những bức tranh nghệ thuật. Ngược lại, những người không được yêu cầu viết ra thì lại bảo họ thích tranh nghệ thuật hơn. Khi những người này được yêu cầu nêu lý do thì dường như các lý do của họ lại cho thấy họ thích điều ngược lại. Cũng với hiệu ứng này, những người tham gia nghiên cứu được yêu cầu viết ra lý do thì dường như có vẻ thích chọn bức tranh vui nhộn để đem về nhà hơn là những người không đưa ra lý do. Nhưng quan trọng hơn hết, trong cuộc điện thoại sau đó, những người tham gia đã viết ra lý do thì dường như ít hài lòng hơn với tấm áp phích mà họ đã chọn so với những người không nêu lý do. Những người này cũng ít có khả năng giữ lại tấm áp phích hơn, hoặc treo nó lên, hoặc muốn đem nó về nhà và muốn bán nó hơn.

Nghiên cứu này cho thấy rằng khi mọi người được yêu cầu cho biết lý do về những điều họ thích thì họ khó tìm ra lời diễn đạt. Đôi khi người ta thường dễ diễn đạt những khía cạnh không phải là quyết định nhất đối với cảm giác nói chung của họ. Mọi người ít gặp khó khăn hơn khi phải diễn đạt tại sao tấm áp phích vui nhộn kia hơn các tấm khác, so với việc phải giải thích tại sao tranh Van Gogh lại đẹp hơn tranh Monet. Vì thế họ chộp lấy những gì họ có thể diễn đạt được, và xem điều đó là điều cơ bản quyết định ý thích của mình. Nhưng khi lời nói được nói ra thì những lời nói này càng làm cho người nói ra chúng trở nên quan trọng hơn. Khi đưa ra quyết định thì những lý do rõ ràng, có thể diễn đạt được lại có trọng lượng hơn so với những lý do mơ hồ. Khi thời gian qua đi, những lý do mà con người đã nói ra chỉ trở thành tấm nền, và con người lại có những ý thích không thể giải thích được bằng một bức áp bức khác chứ không phải cái mà họ mang về. Khi sự nổi bật của những lý do được nói bằng lời mờ dần thì con người cũng không còn cảm thấy hài lòng với quyết định mình đã chọn.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Barry Schwartz – Nghịch lý của sự lựa chọn – NXB Trẻ 2008.

Nghịch lý của sự lựa chọn – Những cơ hội bỏ lỡ – Phần II


Tâm lý thỏa hiệp

Khía cạnh tâm lý của việc thỏa hiệp đã được điều tra trong một loạt nghiên cứu, trong đó người tham gia được yêu cầu đưa ra những quyết định giả định công việc nào, dựa trên một loạt các khía cạnh, bao gồm giá cả. Danh sách của những lựa chọn được thiết kế theo hướng sao cho để đạt được quyết định một lựa chọn, người tham gia bắt buộc phải thực hiện thỏa hiệp. Ví dụ, khi chọn mua xe, có thể chiếc này sành điệu hơn, phương diện an toàn lại kém hơn. Thuê một căn hộ, có thể căn này rộng rãi hơn nhưng lại nằm ở vị trí không ưng ý cho lắm.

Trong một nghiên cứu, một người tham gia được cho biết rằng chiếc xe A có giá trị 25.000 đôla và độ an toàn cao (điểm 8 trên 10). Chiếc xe B được chấm điểm 6 về phương diện an toàn. Người tham gia sau đó được hỏi cần phải tốn bao nhiêu cho xe B để nó được bắt mắt như xe A. Trong trường hợp này, bắt buộc người trả lời phải thực hiện thỏa hiệp giữa giá cả và độ an toàn. Nó yêu cầu phải hỏi mỗi một đơn vị an toàn thêm vào sẽ tốn hết bao nhiêu. Ví dụ, nếu một người trả lời xe B chỉ tốn 10.000 đôla, rõ ràng là họ đặt giá trị cao cho mức độ an toàn thêm vào ở xe A. Nhưng, nếu họ cho rằng xe B đáng giá 22.000 đôla, họ chắc hẳn ít chú trong đến giá trị an toàn của xe A hơn. Với câu hỏi này, người tham dự hầu như không gặp phải bất cứ khó khăn gì. Nhưng sau đó, câu hỏi thứ hai có vẻ nặng nề hơn. Họ được yêu cầu chọn lựa giữa xe A, mức độ an toàn 8 điểm và có giá 25.000 đôla và xe B, mức độ an toàn 6 và có giá người tham gia đã thấy cần thiết để có thể làm 2 chiếc xe bắt mắt như nhau. Và, câu hỏi đặt ra là người tham gia sẽ lựa chọn thế nào giữa 2 chiếc?

Do cả 2 lựa chọn đã ngang bằng nhau, có lẽ bạn sẽ dự đoán rằng phân nửa số người sẽ chọn chiếc xe an toàn hơn và đắt đỏ hơn; trong khi đó, phân nửa còn lại sẽ chọn chiếc ít an toàn hơn và rẻ hơn. Nhưng, đó lại không phải là kết quả của cuộc nghiên cứu. Hầu hết những người tham dự đều chọn chiếc xe an toàn và đắt tiền hơn. Khi buộc phải lựa chọn, hầu hết mọi người từ chối thỏa hiệp mức độ an toàn với giá cả. Họ hành xử như thể mức độ an toàn ảnh hưởng sâu sắc đến quyết định của họ và do vậy giá cả trở nên không còn quan trọng nữa. Lựa chọn này rõ ràng đi ngược lại với phương cách mọi người trả lời cho câu hỏi đầu tiên khi họ phải thiết lập giá cả để có thể làm hai chiếc xe bắt mắt như nhau. Nếu như lúc đó nghĩ rằng mức độ an toàn có vai trò tối quan trọng, chắc hẳn những người tham gia cuộc nghiên cứu này phải hạ thấp giá thành của chiếc xe B xuống. Nhưng họ lại không làm vậy, Do vậy, vấn đề ở đây không phải là mọi người từ chối đặt giá lên mức độ an toàn. Mà nói đúng hơn, khi đến thời điểm phải đưa ra lựa chọn, chỉ đơn giản là họ không mặn mà với việc phải bỏ ra cái giá họ đã thiết lập trước đó họ đã thiết lập cho sự an toàn.

Mặc dù việc đưa ra quyết định chỉ thuần túy là giả định, người tham gia cũng trải qua những biến động tâm lý tiêu cực đáng kể khi phải chọn giữa xe A và B. Và nếu quá trình thể nghiệm cho phép, họ sẽ từ chối đưa ra bất kỳ một quyết định nào.

Và do thế, các nhà nghiên cứu kết luận rằng, bị buộc phải thực hiện tự thỏa hiệp khi đưa ra quyết định chỉ làm cho ta không hài lòng và thiếu quyết đoán.

Rất khó để hiểu được mô thức này. Hãy thử tưởng tượng bạn chọn chiếc xe ít an toàn hơn để tiết kiệm 5000 đôla và sau đó bị một tại nạn giao thông nghiêm trọng. Bạn có thể chịu đựng nổi khi cứ bị dằn vặt rằng giá mà mình lái một chiếc xe an toàn hơn, thì giờ đây một trong những người thân của mình đâu phải chịu đựng chấn thương nghiêm trọng? Chắc chắn bạn sẽ rất miễn cưỡng khi phải thỏa hiệp giữa mức độ an toàn và giá cả. Chắc hẳn an toàn có vai trò tối quan trọng. Nhưng đây là trường hợp rất đặc biệt.

Những người tham gia trong các cuộc nghiên cứu này cho thấy mô thức của việc miễn cưỡng thực hiện thỏa hiệp bất kể rủi ro cao hay thấp. Khi phải thực hiện bất kỳ thỏa hiệp nào thì đều có căng thẳng đến không thể tin được. Và một khi những lựa chọn thay thế có sẵn càng tăng, mức độ phải thực hiện thỏa hiệp cũng theo chiều hướng tỉ lệ thuận.

Né tránh quyết định

Và sau đó, mọi người sẽ phải làm gì nếu như hầu hết các quyết định đều liên quan đến thỏa hiệp và mọi người cương quyết không thực hiện điều đó? Một giải pháp đưa ra là trì hoãn hoặc né tránh việc đưa ra quyết định. Hãy thử tưởng tượng bạn đang đi siêu thị tìm mua một dàn máy nghe nhạc mới và nghe thông báo về chương trình bán hàng thanh lý máy CD kéo dài một ngày. Bạn có thể mua máy nghe nhạc Sony chỉ với 99 đôla, thấp hơn nhiều so với giá niêm yết. Bạn sẽ mua nó, hay lại tiếp tục tìm kiếm các nhãn hiệu và mẫu mã khác? Giờ đây hãy tiếp tục giả sử siêu thị chào bán máy Sony 99 đôla và máy Aiwa cao cấp 169 đôla – cũng thấp hơn nhiều so với giá gốc. Bạn sẽ mua cả hai hay sẽ trì hoãn để tiếp tục tìm kiếm?

Những người nghiên cứu thu được một kết quả thú vị khi họ hỏi câu hỏi này. Trong trường hợp đầu tiên, 66% cho rằng họ sẽ mua máy Sony và 34% cho biết sẽ chờ. Trường hợp thứ hai, 27% chọn mua Sony, 27% chọn Aiwa, và số còn lại quyết định chờ. Hãy xem xét điều này có ý nghĩa gì. Khi có trong tay một lựa chọn hấp dẫn, 2/3 quyết định sẽ chọn nó. Nhưng khi có hai lựa chọn hấp dẫn, chỉ quá nửa một chút sẵn lòng mua. Vì vậy, đưa thêm một lựa chọn thứ hai sẽ tạo ra mâu thuẫn và buộc lòng phải thực hiện thỏa hiệp giữa giá cả và chất lượng. Nếu như không có một lý do bức thiết nào để chọn một trong hai, những khách hàng tiềm năng sẽ đồng loạt bỏ qua cả hai. Bằng cách tạo ra mâu thuẫn, lựa chọn thứ hai càng làm cho việc quyết định trở nên khó khăn hơn.

Khách hàng cần hoặc muốn có lý do để biện minh cho lựa chọn, như ta đã thấy trong tình huống giả định thứ 3. Một ngày bán hàng tương tự chào giá cho máy Sony là 99 đôla và máy Aiwa chất lượng thấp hơn với giá 105 đôla. Ở đây, lựa chọn thứ hai không tạo ra mâu thuẫn. Sony tốt hơn Aiwa và nó được bày bán. Không lấy làm ngạc nhiên chính là 73% người chọn mua Sony, cao hơn tỉ lệ 66% chọn mua khi máy Sony được chào bán một mình. Vì vậy, sự hiện diện của một lựa chọn khác có chất lượng thấp hơn giúp khách hàng có những quyết định mạo hiểm dễ dàng hơn. Có thể hiểu ra rằng máy Aiwa chất lượng thấp hơn củng cố niềm tin của khách hàng rằng mua máy Sony là một khôn ngoan, mặc dù trong một siêu thị bày bán hàng tá các thương hiệu và mẫu mã khác nhau, việc đưa ra một lựa chọn thứ hai không nói được gì nhiều. Thậm chí nếu có thua kém trong mọi cách thì lựa chọn thứ hai có vai trò như một chỗ dựa hoặc một sự so sánh làm củng cố thêm niềm tin của khách hàng khi lựa chọn cái đầu tiên. Nó giúp người mua kết luận rằng lựa chọn Sony có chất lượng tốt và giá cả hợp lý. Những thỏa hiệp khó khăn càng làm cho việc biện mịnh cho quyết định khó khăn, và dẫn đến việc trì hoãn; ngược lại, thỏa hiệp dễ dàng thực hiện sẽ đưa đến quyết định dễ dàng. Và những lựa chọn đơn lẻ nằm đâu đó ở khoảng giữa.

Mâu thuẫn khiến ta né tránh quyết định ngay cả khi những rủi ro chỉ là vụn vặt. Trong một nghiên cứu, người tham dự được trả 1.5 đôla để điền những thông tin cần thiết vào phiếu câu hỏi. Sau khi những người tham dự hoàn tất, họ được trả công bằng một cây viết bằng kim loại và được nói rằng cây viết có giá gần 2 đôla. 75% chọn cây viết. Trường hợp thứ hai, những người tham dự được hứa trả 1.5 đôla hoặc lựa chọn giữa cây viết bằng kim loại trên và hai cây viết có nắp đậy cũng có giá khoảng 2 đôla. Giờ đây, chỉ dưới 50% chọn cây viết. Vì thế, mâu thuẫn đưa ra bởi lựa chọn được thêm vào càng làm cho việc lựa chọn cây viết này hoặc cây khác thêm khó khăn, và đa số những người tham dự quyết định không chọn cây nào cả. Thật khó để tưởng tượng tại sao thêm vào một cặp viết rẻ hơn có thể làm gì đó để làm tăng thêm giá trị của cây viết tốt nếu so với 1.5 đôla. Nếu 75% đã quyết định chọn cây viết thay vì 1.5 đôla trong trường hợp đầu tiên, thì trong trường hợp thứ hai 75% cũng phải nghĩ như vậy. Và cũng nên có một vài người nghĩ rằng lấy cả hai cây viết lại là một quyết định tốt hơn. Vì lẽ đó, sẽ có nhiều người, chứ không phải ít hơn, nên chọn cây viết hơn là tiền mặt họ có lựa chọn. Thế nhưng điều ngược lại đã xuất hiện.

Có một ví dụ khác, cấp thiết hơn để minh họa cho việc mâu thuẫn khiến mọi người trì hoãn việc ra quyết định. Trong nghiên cứu này, các bác sỹ được cho xem bệnh án của một bệnh nhân bị chứng OSTEOARTHRITIS và được hỏi liệu rằng họ có nên kê một phương thuốc mới hay chuyển sang cho một chuyên gia. Hầu như 75% đề cập tới phương thuốc điều trị. Các bác sĩ khác được hỏi với một lựa chọn giữa hai phương thuốc điều trị hoặc chuyển sang cho chuyên gia. Và chỉ có 50% trong số họ nghiêng về hướng lựa chọn một trong hai phương thuốc điều trị, có nghĩa phân nửa bác sỹ được hỏi thiên về hướng chuyển sang cho chuyên gia. Và dĩ nhiên, chuyển sang cho chuyên gia là một cách né tránh việc đưa ra quyết định.

Tương tự, trường hợp của một bệnh viện đang nguy khốn được đặt ra với các nhà lập pháp với câu hỏi họ có đề xuất đóng cửa nó không. 2/3 đề nghị đóng cửa bệnh viện. Một nhóm các nhà lập pháp khác gặp phải một trường hợp khác đau đầu hơn nhiều với thêm một khả năng đóng cửa một bệnh viện nữa cũng đang khốn đốn. Khi được hỏi bệnh viện nào trong hai cái trên họ muốn đóng cửa (dĩ nhiên họ cũng có quyền không đưa ra đề xuất nào), chỉ một phần tư đề cập tới giải pháp đóng cửa một trong hai. Dựa vào những nghiên cứu này và những nghiên cứu khác mang tính chất tương tự, các nhà nghiên cứu kết luận rằng khi gặp phải những lựa chọn có liên quan đến thỏa hiệp là nguồn gốc của mâu thuẫn, ta đều cảm nhận những lựa chọn đó không gây hứng thú.

Người ta nhận ra việc đưa ra quyết định liên quan tới thỏa hiệp thật phiền nhiễu và sẽ bấu víu lấy bất cứ cái gì có thể giúp họ quyết định. Hãy xem xét ngữ cảnh sau từ một nghiên cứu khác:

Hãy thử tưởng tượng bạn tham gia xét xử một phiên xử giành quyền nuôi con của một vụ ly dị tương đối rối rắm. Các dữ kiện của vụ xử, lien quan tới tình hình kinh tế, xã hội, và tình cảm, rất phức tạp và mơ hồ. Và bạn quyết định đưa ra quyết định hoàn toàn dựa trên những thông số ít ỏi sau đây.

Phụ huynh  A

Phụ huynh B

Thu nhập trung bình

Sức khỏe trung bình

Giờ làm việc trung bình

Quan hệ chừng mực với con cái

Cuộc sống xã hội tương đối ổn định

Mức thu nhập trên trung bình

Vấn đề sức khỏe không đáng kể

Phải đi rất nhiều do công việc

Quan hệ rất gần gũi với con cái

Cuộc sống xã hội cực kỳ năng động

Bạn sẽ trao quyền nuôi con duy nhất cho phụ huynh nào?

Khi gặp phải tình huống này, 64% người trả lời chọn trao quyền nuôi con cho phụ huynh B. Trong khi phụ huynh A chỉ đạt tới mức độ trung bình trong mọi phương diện, phụ huynh B có hai khía cạnh tích cực và ba khía cạnh tiêu cực, và đối với hầu hết mọi người, mặt tích cực đánh bật mặt tiêu cực.

Hoặc có thực sự vậy không? Một nhóm người được phỏng vấn khác được cung cấp lượng thông tin y hệt như nhóm đầu, nhưng được hỏi một câu tương đối khác một chút: Phụ huynh nào bạn sẽ từ chối quyền nuôi con duy nhất? Với việc phán xét được cấu thành ở thể ngôn ngữ phủ định, tỉ lệ phần trăm số người ủng hộ phụ huynh B rớt từ 64% xuống 55%.

Những lựa chọn khó khăn kiểu này thường khởi nguồn cho một trào lưu trong đó người ta đi tìm lý lẽ cho lựa chọn của chính mình. Loại lý lẽ nào ta thường đi tìm? Ở ví dụ đầu tiên, người ta đi tìm lý lẽ để chấp nhận một phụ huynh. Và phụ huynh B đã đáp ứng được yêu cầu này: thu nhập cao và quan hệ tốt. Ở ví dụ thứ hai, người ta lại đi tìm kiếm lý do để từ chối một phụ huynh. Và phụ huynh B cũng có những lý do để khiến bị từ chối: vấn đề về sức khỏe, đi công tác, và quá nhiều các mối giao du xã hội. Những người được phỏng vấn sẽ bám vào dạng câu hỏi đưa ra (chấp nhận hay từ chối) để làm cơ sở cho những lý lẽ chọn lựa của mình. Đó là một cách để giảm nhẹ hoặc né tránh mâu thuẫn. Nếu bạn chỉ đơn thuần nhìn vào mặt tiêu cực, bạn sẽ không phải lo lắng gì về thỏa hiệp với mặt tích cực.

Mâu thuẫn quyết định là một nhân tố quan trọng trong những ví dụ về mặt né tránh quyết định tôi vừa miêu tả, nhưng đó không phải là nhân tố duy nhất. Hãy thử nghĩ về việc cố gắng quyết định có nên mua một máy quay phim kỹ thuật với số tiền thưởng cuối năm. Với một máy quay phim kỹ thuật số, bạn có thể điều chỉnh hình ảnh quay được và dễ dàng gửi chúng cho gia đình và bạn bè, cả 2 mặt trên mặt nào cũng hấp dẫn cả. Và nó có đáng bỏ tiền ra để mua không? Bạn nghĩ về điều đó một chút và rồi quyết định. Còn bây giờ, hãy thử tưởng tượng về việc dùng tiền thưởng mua một chiếc xe đạp leo núi. Bạn thích chạy xe để tập thể dục, đặc biệt là ở những ngọn đồi bên ngoài thị trấn bạn đang sinh sống. Và nó có phải đáng bỏ tiền ra để mua không? Bạn nghĩ về điều đó một chút và rồi quyết định. Tiếp đến, hãy nghĩ về trường hợp bạn sẽ phải quyết định là sẽ mua máy quay phim kỹ thuật số hay xe đạp leo núi. Mỗi một lựa chọn đều chứa đựng phần lợi (những khía cạnh tích cực mà cái còn lại không có) và phần thiệt (những khía cạnh tích cực lựa chọn này không có nhưng cái kia lại có). Người ta có xu hướng cho thấy thể hiện ác cảm đối với phần thiệt. Bị thiệt hại 100 đôla thì cảm nhận rõ hơn thu lợi cùng số tiền. Điều đó có nghĩa là khi đem so sánh giữa xe đạp leo núi và máy quay phim kỹ thuật số, mỗi cái sẽ phải chịu đựng sự so sánh. Nếu bạn chọn máy quay phim kỹ thuật số, bạn sẽ được phần lợi là chất lượng và sự tiện lợi của việc ghi hình kỹ thuật số nhưng thiệt thòi là sẽ không được tập thể dục tại những vùng xung quanh. Bởi vốn dĩ phần thiệt luôn có ảnh hưởng to lớn hơn phần lợi, phần lợi của chiếc máy quay phim sẽ phần nào giảm đi nếu bạn đem so sánh với chiếc xe đạp leo núi, thay vì chỉ đánh giá riêng một mình chiếc máy quay phim mà thôi. Trường hợp này cũng có thể áp dụng tương tự cho chiếc xe đạp leo núi. Một lần nữa, ví dụ trên lại cho thấy rằng khi phải đưa ra quyết định liên quan tới thỏa hiệp, chúng ta sẽ cảm thấy ít thỏa mãn hơn khi có một lựa chọn khác được đưa vào.

Luận điểm này được xác nhận bởi một nghiên cứu, trong đó người ta được hỏi họ sẽ sẵn lòng đến mức nào để đăng ký mua tạp chí nổi tiếng hoặc các cuộn phim nổi tiếng. Một số khác cũng được hỏi cùng một câu hỏi về những tạp chí hoặc cuộn phim thuộc cùng một nhóm. Trong hầu hết mọi trường hợp, những tạp chí hoặc cuốn phim được đánh giá riêng lẻ, luôn được đánh giá cao hơn so với khi chúng được lắp đặt trong một tổ hợp hay một nhóm. Khi các tạp chí được đặt ra trong một nhóm, từng tờ tạp chí đều sẽ bị phơi bày từng mặt lợi và mặt thiệt khi bị đem ra so sánh. Và bởi vì mặt thiệt sẽ gây ra ảnh hưởng lớn hơn mặt lợi, kết quả sau cùng của sự so sánh sẽ mang tính tiêu cực. Nói tóm lại – những lựa chọn chúng ta cân nhắc với các lựa chọn khác thông thường đều phải chịu bị so sánh với các lựa chọn khác.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Barry Schwartz – Nghịch lý của sự lựa chọn – NXB Trẻ 2008.

Nghịch lý của sự lựa chọn – Những cơ hội bỏ lỡ – Phần I


Tháng 2, trờ lạnh cóng. Tuyết bám đầy bồ hóng trải dài đường phố. Đi làm rồi lại lặng lẽ trở về trong đêm tối, chỉ bằng cách suy nghĩ về kỳ nghỉ hè sắp tới của mình mới giúp Angela vượt qua được mùa đông dài đằng đẵng này.

Angela đang xem xét hai khả năng rất khác nhau: du lịch đến bắc California hoặc nghỉ ngơi một tuần tại một ngôi nhà trên biển ở mũi Cod. Cô ta sẽ quyết định như thế nào? Có thể Angela sẽ bắt đầu bằng cách xem xét điều gì quan trọng nhất đối với mình khi đi nghỉ. Vốn yêu vẻ đẹp lộng lẫy của thiên nhiên, ắt hẳn điểm dừng chân của Angela phải đáp ứng được yêu cầu đó. Angela thích tiêu khiển ngoài trời nhưng đồng thời ghét khí trời nóng và ẩm, vì thế thời tiết cũng phải ôn hòa. Yêu những bãi biển vắng người trải dài, nhưng Angela cũng thích ăn ngon, hứng thú với nhịp sống về đêm sôi động, quan sát mọi người và ngắm nhìn hàng hóa bày bán. Thêm vào đó, Angela không thích đám đông. Là một phụ nữ năng động, nhưng thỉnh thoảng Angela cũng thích có một buổi chiều được nằm ườn trên ghế chỉ để đọc sách.

Thế thì sao nào. Angela còn hai chuyện cần làm. Trước tiên, cần đánh giá tầm quan trọng của những khía cạnh đa dạng ở những điểm đến Angela đang cân nhắc. Ví dụ, liệu thời tiết dễ chịu có quan trọng hơn hiẹp sống sôi động về đêm không? Tiếp theo, Angela cần biết được bắc California và mũi Cod bổ trợ nhau như thế nào. Nếu một trong hai điểm đến trội hơn điểm còn lại trong mọi lĩnh vực Angela quan tâm, việc đưa ra quyết định thật dễ dàng. Nhưng khả năng dễ xảy ra nhất là Angela sẽ khám phá ra mỗi điểm dừng chân sẽ có những điểm mạnh mà điểm còn lại không có. Và vì thế, Agnela cuối cùng phải tự thỏa hiệp. Tuy vậy, Angela có thể đưa ra được lựa chọn cho mình nếu cô làm một danh sách những tiêu chí quan trọng ảnh hưởng đến việc chọn điểm đi du lịch, quyết định chúng quan trọng đến mức nào, và đánh giá từng trường hợp đủ khả năng đáp ứng mong ước của cô ra sao.

Bây giờ, bỗng nhiên có một người bạn của Angela chen vào và làm cho mọi chuyện thêm rắc rối. Người bạn đó đề nghị Angela đi nghỉ ở một ngôi nhà tranh nhỏ xinh tại Vermont. Ở đó, Angela có thể leo núi, đi bơi dưới hồ, tham gia vào các lễ hội nghệ thuật, đi ăn ở những nhà hàng ngon, cũng như tận hưởng thời tiếp ấm áp, khô thoáng vào ban ngày và mát mẻ, dễ chịu vào ban đêm. Ngoài ra, thị trấn đó còn nằm gần Burlington, nơi có nhịp sống về đêm đầy năng động. Và cuối cùng, người bạn chỉ ra rằng do Angela có thể nghỉ mát cùng một vài người bạn của cô do họ sở hữu những căn nhà nghỉ tại khu vực này. Thế nhưng, đi nghỉ hè với bạn là một trường hợp Angela chưa từng nhĩ đến khi cô cân nhắc giữa bắc California và mũi Cod. Và bây giờ điều Angela cần làm là thêm tiêu chí đó vào danh sách những khía cạnh hấp dẫn khi quyết định điểm du lịch. Thêm vào đó, Angela cần phải đánh giá lại một vài thang điểm cô dành cho hai điểm đến đầu tiên. Có thể Angela sẽ trừ một hay hai điểm cho mũi Cod khi thấy thời tiết nơi này trái ngược với khí hậu thật mát mẻ và thông thoáng tại Vermont.

Nhưng khả năng được vui với bạn bè làm Angela đắn đo. Các con của Angela sống ở rất xa, và cô nhớ chúng. Sẽ là tuyệt nếu được gặp gỡ bạn bè, nhưng được ở bên gia đình sẽ còn tuyệt hơn. Biết đâu được có một nơi xinh đẹp nào đó gần chỗ các con Angela đang sống có những quán ăn ngon, thời tiết dễ chịu, và nhiều thứ để làm về đêm. Hoặc giả biết đâu có được một nơi nào đó bọn trẻ sẽ hứng thú đi chơi với Angela. Hàng loạt khả năng được Angela tự tán thành và một khía cạnh khác – ở bên các con – được Angela đưa vào danh sách.

Có một điều rõ ràng là không lựa chọn nào đáp ứng trọn vẹn mong ước của Angela. Cô chỉ cần chuẩn bị thực hiện một vài thỏa hiệp.

Micheal, một sinh viên năm cuối đầy tài năng, đang cố gắng lựa chọn giữa hai công việc. Một có mức lương khởi điểm hấp dẫn, cơ hội thăng tiến khiêm tốn, mức độ an ninh tuyệt vời, và môi trường làm việc hòa nhã, sinh động. Công việc còn lại có mức lương khởi điểm không cao, cô hội thăng tiến đầy xán lạn, mức độ an ninh tạm được, và một cơ cấu tổ chức khá chỉnh chu, theo tôn ti trật tự.

Khi Micheal còn đang đắn đo giữa hai công việc A và B, công việc C lại xuất hiện. Với nó, Micheal sẽ có cơ hội làm việc tại một thành phố đầy thú vị. Bất thình lình, sự hấp dẫn của vị trí tọa lạc lại liên quan đến lựa chọn của Micheal, một điều chưa từng được anh suy nghĩ đến. Tại sao địa điểm của công việc A và B không thể sánh với C? Và Micheal sẽ phải đánh đổi bao nhiều về tiền lương, an ninh và nhiều thứ khác nữa để có thể làm việc trong thành phố thú vị này?

Việc đưa ra quyết định càng trở nên rối rắm hơn khi một triển vọng công việc khác xuất hiện ở một địa điểm rất gần gia đình của Micheal và những người bạn cũ, và đây cũng lại là một yếu tố anh chưa hề nghĩ tới. Điều đó quan trọng đến mức nào? Và sau đó, bạn gái của Micheal tìm được một công việc rất tốt, tương tự như công việc A, trong cùng thành phố. Câu hỏi đặt ra cho Micheal lúc này là: anh sẽ dành bao nhiêu trọng lượng cho yếu tố này? Và tầm quan trọng trong mối quan hệ giữa Micheal và bạn gái đến mức nào?

Để có thể quyết định một lựa chọn nghề nghiệp, Micheal sẽ phải tự trả lời vài câu hỏi khó. Anh có sẵn lòng tự thỏa hiệp giữa mức lương và cơ hội thăng tiến, giữa chất lượng công việc và chất lượng của thành phố anh làm việc? Micheal liệu có thể thỏa hiệp cả hai để được gần gia đình? Và anh có đủ dũng cảm từ bỏ tất cả để được ở bên bạn gái?

Một phần mặt trái của sự dư thừa lựa chọn nằm ở chỗ, mỗi một lựa chọn mới lại làm dài thêm danh sách những thỏa hiệp – bắt nguồn của những hệ quả tâm lý. Sự cần thiết phải tiến hành thỏa hiệp thay đổi cách chúng ta cảm nhận về những quyết định gặp phải. Và quan trọng hơn, nó ảnh hưởng đến mức độ thỏa mãn mỗi người trải nghiệm được từ quyết định cuối cùng của mình.

Phí tổn cơ hội

Các nhà kinh tế học cho rằng chất lượng của bất cứ lựa chọn cho sẵn nào cũng không thể được đánh giá tách rời với các phương án thay thế của nó. Một trong những “cái giá” của một lựa chọn chính là việc bỏ qua các cơ hội mà một lựa chọn khác có thể mang lại. Và đây được đề cập tới như là một phí tổn cơ hội. Phí tổn cơ hội của việc đi nghỉ tại bãi biển ở mũi Cod chính là việc bỏ qua những nhà hàng thịnh soạn ở California. Tương tự, phí tổn cơ hội khi chọn công việc ở gần người yêu của bạn sẽ phải đánh đổi bằng việc sống xa gia đình. Mỗi một lựa chọn đều hàm chứa những phí tổn cơ hội liên quan tới nó.

Ta có thể bị lạc lối nếu không thể nhgĩ về những phí tổn cơ hội. Tôi thường nghe mọi người biện minh cho quyết định mua hẳn một căn nhà thay vì tiếp tục thuê mướn, bằng cách cho rằng họ đã mệt mỏi với việc cứ mãi tiếp tục làm đầy hầu bao cho chủ thuê nhà. Họ cho rằng vay tiền ngân hàng để mua nhà là một thương vụ đầu tư, trong khi việc thuê nhà chẳng khác gì ném tiền qua cửa sổ. Dòng suy nghĩ này thoạt nghe tưởng chừng như có vẻhợp lý nhưng lại chưa đủ thấu đáo. Và sau đây là quan điểm chung của hầu hết những người mua nhà: “Chúng tôi phải đặt cọc 50000 đôla, Chi phí sinh hoạt hàng tháng, bao gồm tiền vay ngân hàng, thuế, bảo hiểm và điện nước tính tổng lại cũng bằng chi phí thuê nhà. Vì vậy, trên thực tế, với một khoản đầu tư 50.000 đôla, tôi phải xoay xở làm sao để được hưởng lợi từ chi phí nhà cửa hàng tháng, làm đầy thêm hầu bao của mình thay vì của chủ cho thuê nhà. Và tôi cũng chắc chắn rằng mình sẽ thu lợi hơn 50.000 đôla đó sau khi bán ngôi nhà”.

Không còn nghi ngờ gì nữa, sở hữu một ngôi nhà thường là một phi vụ đầu tư khôn ngoan. Nhưng cái mà những người mua nhà chưa suy tính tới chính là phí tổn cơ hội của việc bỏ ra 50000 đôla vào trong ngôi nhà. Với số tiền đó, bạn còn có thể làm gì với nó? Đầu tư vào thị trường chứng khoán, hoặc học trọn khóa Đại học Luật để tăng thêm thu nhập, hoặc cũng có thể đi du lịch vòng quanh thế giới và viết một cuốn tiểu thuyết bạn kỳ vọng sẽ hoàn toàn thay đổi cuộc đời mình. Một số lựa chọn mang tính thực tiễn hơn, và sự khôn ngoan của từng lựa chọn tùy thuộc vào mục tiêu cuộc đời bạn cũng như thời gian bạn có. Khi tôi viết cuốn sách này, thị trường bất động sản có vẻ là một lựa chọn khả dĩ hơn thị trường chứng khoán. Thế nhưng, khi thị trường bắt đầu tăng vọt vào năm 1996, đầu tư 50.000 đôla vào thị trường chứng khoán có thể trúng quả đậm. Điều quan trọng là, ngay cả những quyết định được xem là dễ dàng nhất cũng hàm chứa những giá trị tiềm ẩn của những lựa chọn bị từ chối. Suy nghĩ về những phí tổn cơ hội có thể sẽ không làm thay đổi quyết định của bạn, nhưng chí ít cũng giúp bạn có được một đánh giá mang tính thực tiễn hơn về tính toàn diện của quyết định.

Theo các giả định kinh tế chuẩn, phí tổn cơ hội duy nhất có ý nghĩa quan trọng đối với một quyết định, chính là những phí tổn có liên quan đến những phương án thay thế liền kề với phương án tốt nhất. Vì vậy, hãy thử cho biết lựa chọn của bạn cho tối thứ 7 trong danh sách liệt kê dưới đây:

  1. Ăn tối tại một nhà hàng dễ thương.
  2. Ăn tối nhanh và sau đó đi xem phim.
  3. Đi nghe nhạc jazz
  4. Đi khiêu vũ
  5. Nấu bữa tối cho một vài người bạn.
  6. Đi xem bóng chày

Nếu bạn đi ăn tối, “cái giá” của nó chính là việc phải trả tiền cho bữa tối cộng với việc mất cơ hội xem phim. Hãy chú ý đến cái bạn sẽ bỏ lỡ ở lựa chọn thay thế thứ hai và chỉ thế mà thôi. Đừng phí sức tiếc rẻ khi vuột mất những lựa chọn tiếp theo trong danh sách mà bạn không thể thực hiện được.

Tuy vậy, cực kỳ khó khăn để thực hiện lời khuyên trên, và đây là lý do: những lựa chọn được xem xét thường có những khía cạnh đa phương diện. Nếu ta xem xét các lựa chọn theo phương diện từng khía cạnh của chúng thay vì tổng thể, thì những lựa chọn khác nhau sẽ được xếp hạng ở vị trí thứ 2 (hay thậm chí thứ nhất) trong danh sách. Vì vậy, đi xem phim có thể là cách tốt nhất để kích thích đầu óc. Nghe nhạc jazz có thể là lựa chọn tối ưu để thư giãn. Có lẽ không biện pháp tập thể dục nào tốt hơn là đi khiêu vũ. Đi xem bóng chày khả dĩ là một cách để giải tỏa ức chế. Và ăn tối với bạn bè cũng có thể là cách tốt nhất để tình bạn ngày một thân thiết hơn. Mặc dù nhìn chung có thể chỉ có một lựa chọn tốt thứ hai duy nhất, mỗi một lựa chọn bạn bỏ qua phải có một vài khía cạnh đáng mơ ước nào đó đã đưa chúng vào danh sách. Vì vậy, đi ăn tối bên ngoài đồng nghĩa với việc bỏ qua các cơ hội được kích thích đầu óc, thư giãn, tập thể dục, giải tỏa ức chế, và thắt chặt tình bạn. Đứng về phương diện tâm lý mà nói, mỗi một phương án bạn lựa chọn vẫn có thể đưa ra những cơ hội bạn sẽ bỏ qua.

Nếu chúng ta giả định những phí tổn cơ hội phá hỏng khía cạnh mong ước tổng thể của lựa chọn ưu việt nhất, và chúng ta cảm nhận được rằng phí tổn cơ hội có liên quan đến rất nhiều lựa chọn bị bỏ qua khác, thì khi càng có nhiều lựa chọn, ta càng trải nghiệm được nhiều về phí tổn cơ hội. Và khi đó, ta lại càng cảm thấy ít thỏa mãn hơn từ hcính lựa chọn của mình.

Tại sao lại không thể là một công việc lương cao, cơ hội thăng tiến, môi trường làm việc thân thiện, và ở một nơi thú vị có luôn việc làm cho người yêu và gần gia đình? Tại sao không thể là một kỳ nghỉ mà tôi có thể tận hưởng bãi biển tuyệt vời cùng những nhà hàng thịnh soạn và những cửa hiệu, điểm du lịch hấp dẫn? Tại sao tôi lại không thể được kích thích đầu óc, thư giãn, giải tỏa ức chế, và gặp gỡ bạn bè? Sự tồn tại của những lựa chọn đa phương diện giúp chúng ta mường tượng dễ dàng hơn về những lựa chọn không tồn tại khác – đó chính là những lựa chọn kết hợp những khía cạnh hấp dẫn của những lựa chọn không tồn tại. Và khi chúng ta hình dung theo cách này, chúng ta sẽ càng ít thỏa mãn hơn với lựa chọn cuối cùng của mình. Vì vậy, một lần nữa, sự đa dạng về chọn lựa chỉ làm cho tình hình tồi tệ hơn.

Khách quan mà nói, nếu có một cách nào đó để nói đâu là kỳ nghỉ tốt nhất, công việc tốt nhất, hoặc phương án tốt nhất cho một tối thứ Bảy, và sau đó nhữn glựa chọn thêm vào chỉ có thể làm ta cảm thấy hạnh phúc hơn. Bất cứ một lựa chọn mới nào cũng có thể trở thành phương án tối ưu. Nhưng khách quan thì thực sự không có kỳ nghỉ nào hoặc một tối thứ Bảy nào là tuyệt nhất. Cuối cùng, chất lượng lựa chọn có ý nghĩa đối với mọi người chính là những trải nghiệm chủ quan những lựa chọn khác mang lại. Và đi xa hơn, nếu bất cứ lựa chọn thêm vào nào phá hỏng trải nghiệm chủ quan của chúng ta, chúng ta lại càng cảm thấy tình hình tồi tệ hơn.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Barry Schwartz – Nghịch lý của sự lựa chọn – NXB Trẻ 2008.