Cách Tập Cận Bình định hình lại thị trường vốn Trung Quốc – Phần cuối


Phản hồi của thị trường và hoạt động kém hiệu quả của các quỹ

Các thị trường đã chứng minh rằng sự phê duyệt chính thức không đảm bảo thành công cho các đợt IPO, ngay cả trên thị trường khoa học và công nghệ STAR của Thượng Hải, một hội đồng chuyên môn của sàn giao dịch chứng khoán thành phố được ra mắt vào năm 2019. Kể từ năm 2020, chỉ số STAR 50 của các cổ phiếu lớn nhất và có tính thanh khoản cao nhất đã giảm 1/4 giá trị, tụt hậu trầm trọng so với thị trường rộng lớn hơn. Theo số liệu từ công ty cung cấp dữ liệu tài chính Wind, năm 2022, giá trị của 40% trong số 66 công ty niêm yết trên STAR đã giảm trong ngày giao dịch đầu tiên.

Theo truyền thông Trung Quốc, điều này đã thúc đẩy các nhà quản lý đặt câu hỏi về việc liệu có cần yêu cầu các ngân hàng đầu tư cam kết không giảm ngay một số lượng IPO nhất định hay không. Trong một bài phát biểu gần đây, Fang Xinghai, Phó Chủ tịch Ủy ban quản lý chứng khoán Trung Quốc, đã kêu gọi các chủ ngân hàng “giảm giá chút ít” nếu họ nghĩ rằng cổ phiếu sẽ giảm vào ngày đầu tiên.

Các nhà phân tích lập luận rằng quy trình niêm yết ở Trung Quốc vốn bị ràng buộc bởi các quy định tới mức các ngân hàng đầu tư ít ảnh hưởng đến cách định giá các đợt IPO. Và STAR là một dự án quan trọngtới mức các quan chức đã bắt đầu xem xét kỹ lưỡng các hồ sơ đăng ký niêm yết để đảm bảo chúng phù hợp với kỳ vọng của nhà nước về những tiêu chuẩn của một đợt IPO hợp thức.

Điều này đã tạo ra tình trạng tồn đọng hồ sơ đăng ký niêm yết lâu đến mức nhiều công ty đã từ bỏ và nhiều công ty trong số đó đã tìm cách niêm yết trên STAR để tránh sự quản lý quan liêu như vậy. Kết quả là gần 160 hồ sơ đăng ký chính thức bị hủy kể từ khi hội đồng quản trị ra mắt năm 2019 và vẫn còn nhiều hồ sơ bị rút hoặc bị đình chỉ.

Douglass Amer, giáo sư luật và chuyên gia về quy định tài chính thuộc Đại học Hong Kong, cho biết mặc dù Tập Cận Bình đã bắt đầu nhiệm kỳ bằng việc đẩy mạnh cải cách theo hướng thị trường, nhưng các động thái tiếp theo của chính quyền đã làm giảm hoặc xóa bỏ hoàn toàn những thay đổi đó nhằm đưa nhà nước trở lại vị trí kiểm soát chặt chẽ. Amer nói: “Bạn thường xuyên phải đối mặt tình trạng bất ổn. Kết quả là có rất nhiều điều không chắc chắn và nhiều hệ thống không vận hành trơn tru”.

Điều đó được phản ánh qua các quỹ chỉ đạo của chính phủ – mặc dù các quỹ này có quy mô ấn tượng, nhưng chúng mang lại kết quả tốt xấu lẫn lộn. Một báo cáo phân tích được Trung tâm an ninh và công nghệ mới nổi thuộc Đại học Georgetown công bố năm 2020 cho thấy nhiều quỹ như vậy đã được hình thành và triển khai một cách kém hiệu quả, và toàn bộ cơ chế thường không hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, các tác giả của nghiên cứu nói thêm rằng các quỹ này chắc chắn đã giúp huy động tiền và các nguồn lực khác cho các doanh nghiệp mới và công nghệ mới nổi, đồng thời kết luận rằng không nên tùy tiện loại bỏ những quỹ như vậy.

Hành động tự vệ

Các tỉnh của Trung Quốc từ lâu đã trở thành cơ sở thử nghiệm cho các chính sách thúc đẩy kinh doanh, thương mại và đổi mới. Tuy nhiên, các nhà phân tích lo lắng rằng Chính quyền Tập Cận Bình đang phá hoại chính sách của các nhà lãnh đạo tiền nhiệm, vốn đã cho phép quyền tự do đó. Quốc vụ viên (Chính phủ) nhiều quyền lực của Trung Quốc đã hệ thống hóa tầm nhìn từ trên xuống như vậy cho sự phát triển của đất nước vào cuối tháng 3 với một tuyên bố chính sách sâu rộng có tiêu đề “Đẩy nhanh việc xây dựng một thị trường quốc gia rộng lớn và thống nhất”. Được xây dựng theo Tư tưởng Tập Cận Bình, tài liệu hứa hẹn hỗ trợ cho sự hình thành hệ thống thị trường chất lượng cao và nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa trình độ cao, đồng thời cam kết đảm bảo đó là một tiến trình lịch sử bền vững.

Bruce Pang, trưởng bộ phận nghiên cứu của ngân hàng đầu tư China Renaissance, cho biết những ngôn từ của đảng chứng tỏ Trung Quốc ngày càng mong muốn các tỉnh của nước này vận hành thống nhất với Bắc Kinh. Ông nói rằng mong muốn này phần lớn bắt nguồn từ quan điểm rằng Bắc Kinh sẽ sớm tự chủ hơn nếu thái độ hiếu chiến đối với nước này trở nên rõ ràng ở London và Brussels, giống như ở Washington. Bruce Pang nói: “Bắc Kinh đang hối thúc quan chức ở tất cả các cấp tập trung vào thị trường nội địa. Họ không nói rằng họ đang đóng cửa đối với các nhà đầu tư toàn cầu. Họ nói rằng nếu có ai khác khép lại cánh cửa đối với họ, thì họ sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với việc này”.

Nếu Tập Cận Bình thành công trong việc định hình lại kênh IPO của Trung Quốc sao cho phù hợp với tầm nhìn chiến lược trên, thì điều này sẽ khiến các công ty niêm yết của Trung Quốc – và cả thị trường chứng khoán nói chung – bị ràng buộc với các mục tiêu của đảng đến mức các chính phủ phương Tây cuối cùng có thể quyết định cắt đứng dòng vốn đầu tư.

Trưởng đại diện châu Á của một công ty quản lý tài sản của Anh dự đoán các tổ chức tài chính Mỹ sẽ vận động hành lang chống lại bất kỳ hạn chế mới nào ở Washington đối với việc nắm giữ cổ phiếu của Trung Quốc, nhưng lại đặt câu hỏi: “Liệu tình hình có thể xoay chuyển theo hướng này không?” Ông nói thêm rằng những hạn chế như vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến những nhà đầu tư châu Âu muốn giữ chân khách hàng Mỹ của họ và cho biết: “Chúng tôi thích các nhà đầu tư Mỹ hơn”. Nếu Washington hạn chế dòng vốn đầu tư của Mỹ vào các lĩnh vực quan trọng trong kế hoạch giành ưu thế trong lĩnh vực công nghệ của Bắc Kinh, thì điều đó có thể khiến các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc phải thu hút các nhà đầu tư toàn cầu vào các thị trường nội địa đang dần mở cửa của nước này trong nhiều thập kỷ. Trích dẫn số cổ phiếu Trung Quốc đại lục trị giá 3000 tỷ NDT trong tay các nhà đầu tư nước ngoài theo như ước tính của ngân hàng trung ương, chuyên gia Howie nói: “Câu hỏi về khả năng tiếp cận “LIệu tôi có thể mua cổ phiếu Trung Quốc hay không?” đã được giải đáp. Nhưng nó được giải đáp vào thời điểm mà rất có thể sẽ có một làn sóng chuyển dịch vốn quốc tế khỏi thị trường chứng khoán Trung Quốc, bởi vì việc đầu tư vào Trung Quốc gần như bị coi là phi đạo đức”.

Nguồn: https://www.ft.com/content/d5b81ea0-5955-414c-b2eb-886dfed4dffe

TLTKĐB – 20/09/2022

Cách Tập Cận Bình định hình lại thị trường vốn Trung Quốc – Phần II


Các nhà đầu tư bị đối xử lạnh nhạt

Lần can thiệp IPO lớn đầu tiên của Tập Cận Bình là vào tháng 11/2020, khi các cơ quan quản lý loại bỏ thương vụ IPO, mà hẳn sẽ được xem là kỷ lục, trị giá 37 tỷ USD của Ant, tập đoàn công nghệ đang phát triển nhanh thuộc sở hữu của tỷ phú Jack Ma, người sáng lập Alibaba. Thế nhưng, cuộc thanh trừng trên quy mô lớn hơn trong lĩnh vực công nghệ đã bắt đầu gần 12 tháng trước, ngay sau khi ứng dụng gọi xe Didi Chuxing niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán New York, bất chấp cảnh báo từ các nhà quản lý Trung Quốc trước những lo ngại về vấn đề bảo mật dữ liệu.

Hành động can thiệp đó đã khiến gần như tất cả các đợt IPO ở nước ngoài phải tạm dừng để chờ các cơ quan quản lý hoàn thiện các quy tắc mới về niêm yết ở nước ngoài đối với các công ty có lượng lớn dữ liệu người dùng. Đồng thời, căng thẳng đã bùng phát sau khi Bắc Kinh từ chối trao cho các nhà quản lý Mỹ toàn quyền tiếp cận báo cáo kiểm toán của các công ty Trung Quốc có giao dịch trên Phố Wall, làm dấy lên lo ngại về nguy cơ bị loại khỏi thị trường cổ phiếu và khiến người ta đặt câu hỏi liệu việc bán cổ phiếu ở New York có đáng để họ chấp nhận rắc rối hay không.

Trưởng bộ phận phụ trách thị trường vốn cổ phần châu Á tại một ngân hàng đầu tư ở Phố Wall cho biết: “Mỹ đang tỏ ra khó khăn”. Người này nói rằng chắc chắn sẽ có thêm nhiều đợt IPO của Trung Quốc trên thị trường chứng khoán Hong Kong nếu Bắc Kinh cho phép các công ty tiếp tục niêm yết ở nước ngoài, nhưng các loại hình công ty khác nhau sẽ chi phối luồng giao dịch. Người này nói thêm: “Những doanh nghiệp có tên tuổi trong lĩnh vực công nghệ, nền tảng, nhạy cảm về dữ liệu là những đối tượng khó đầu tư. Trong khi đó, nếu bạn đưa một công ty trong lĩnh vực năng lượng tái tạo ở Trung Quốc tiếp cận thị trường, thì mọi người sẽ hiểu rằng đó là mô hình kinh doanh mà chính phủ sẽ khuyến khích”.

Không ai biết khi nào các đợt IPO ở nước ngoài sẽ bắt đầu trở lại. Dữ liệu từ nền tảng dịch vụ tài chính Dealogic cho thấy 95% tổng số vốn trị giá 35 tỷ USD được huy động bởi các công ty Trung Quốc trong các đợt IPO năm 2022 được tích lũy trên thị trường nội địa, nơi các ngân hàng đầu tư nhà nước như Quỹ đầu tư quốc gia Trung Quốc (CICC) và ngân hàng đầu tư Trung Quốc Citic Securities chiếm đa số các giao dịch và việc mua bán cổ phiếu mới đòi hỏi phải được các nhà chức trách thông qua.

Do đó, hầu hết các đợt niêm yết hiện được chuyển đến Thượng Hải hoặc Thâm Quyến, và không mấy ai cho rằng điều này sẽ sớm thay đổi. Một luật sư kỳ cựu về IPO của một tập đoàn quốc tế có trụ sở tại Hong Kong cho biết: “Những gì diễn ra trong quý I mang lại cho bạn cơ sở để đưa ra dự báo về tình hình trong khoảng thời gian còn lại của năm”. Điều đó sẽ ngăn cản các nhà đầu tư nước ngoài tham gia các đợt IPO của Trung Quốc, trong khi các ngân hàng hàng đầu ở Phố Wall như Goldman Sachs và Morgan Stanley sẽ bỏ lỡ cơ hội niêm yết ở Hong Kong và New York, vốn thu về hàng tỷ USD phí thường niên trong những năm gần đây.

Ngoài việc quyền tiếp cận các thị trường chứng khoán toàn cầu bị hạn chế, trong 12 tháng qua, những thay đổi đã đẩy nhanh quá trình giao dịch, mà trong đó hoạt động quản lý và đầu tư được nhà nước hậu thuẫn đã tác động đến việc lựa chọn các công ty được tiếp nhận nguồn vốn từ các nhóm đầu tư mạo hiểm và cổ phần tư nhân cần thiết để mở rộng quy mô cho một đợt IPO. Nhà phân tích Yang thuộc Công ty tư vấn quản lý Bain nói: “Mọi người đều biết năm nay khó khăn như thế nào”. Bà ước tính mức quỹ chưa được triển khai do các nhà đầu tư tập trung vào thị trường châu Á nắm giữ đã tăng lên mức kỷ lục 650 tỷ USD vào năm 2021 do hoạt động giao dịch ở Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi những lo ngại của các nhà đầu tư về căng thẳng về địa chính trị Trung-Mỹ và việc thắt chặt các quy định.

Thế nhưng, bà cũng nói thêm rằng trong khi nguồn tiền cho một số phân khúc công nghệ vốn thu hút nhiều vốn sở hữu tư nhân giảm mạnh trong nửa cuối năm 2021, nguồn tiền cho những phân khúc khác như chất bán dẫn lại tăng cao một phần nhờ vào các quỹ do chính phủ lãnh đạo.

Vốn sẽ bị lãng phí một cách đáng kể

Phạm vi và tham vọng của các quỹ chỉ đạo của chính phủ cũng đã tăng đáng kể trong nhiệm kỳ của Tập Cận Bình. Được thành lập bởi các cơ quan chính phủ hoặc vì các cơ quan này, các quỹ đầu tư công-tư nói trên thực hiện nhiệm vụ kép là thúc đẩy hơn nữa các mục tiêu chính sách của Bắc Kinh và mang lại lợi nhuận tài chính.

Theo ước tính từ nhóm nghiên cứu độc lập Zero2IPO, kể từ đầu năm 2013, khoảng 1800 quỹ chỉ đạo của chính phủ đã huy động được hơn 900 tỷ USD để đầu tư vào các lĩnh vực chiến lược và đã được các cơ quan quản lý cho phép tăng gấp đôi con số đó. Số liệu từ công ty cung cấp dữ liệu đầu tư Preqin cho thấy tỷ lệ vốn đầu tư tư nhân tập trung vào Trung Quốc và vốn đầu tư mạo hiểm gây quỹ cho các quỹ do nhà nước lãnh đạo đã tăng từ khoảng 2-3% trước khi Tập Cận Bình lên nắm quyền lên hơn 30% trong những năm gần đây. Bain ước tính khoảng 40% trong số hơn 86 tỷ USD được huy động bởi các quỹ trong và ngoài nước tập trung vào Trung Quốc trong năm 2021 đã được chuyển đến các quỹ do nhà nước hậu thuẫn.

William Bao Bean, một đối tác lớn của công ty đầu tư mạo hiểm toàn cầu SOSV, cho biết: “Phần lớn nguồn tài trợ cho các vốn đầu tư mạo hiểm của Trung Quốc là từ chính phủ”. Ông cho biết mặc dù nguồn vốn được kiểm soát bởi các nhà đầu tư giàu kinh nghiệm trên thị trường ở Trung Quốc thường là vốn toàn cầu”, nhưng việc đầu tư đã trở nên khó khăn hơn nhiều trong 4 năm qua do chính phủ ngày càng thắt chặt các biện pháp kiểm soát.

Kết quả là sự thay đổi về nguồn vốn đã tạo ra nhiều đợt IPO cho các công ty thuộc lĩnh vực mà theo kế hoạch của Bắc Kinh sẽ trở thành các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi như ngành sản xuất xe điện, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, trí tuệ nhân tạo, chất bán dẫn và ngành sản xuất các thiết bị cấp cao khác. Theo Gavekal Dragonomics, công ty tư vấn có trụ sở tại Bắc Kinh, những đợt niêm yết như vậy lần đầu tiên chiếm hơn một nửa giá trị huy động vốn cổ phần ở Trung Quốc vào năm 2020 và tăng giá trị lên mức kỷ lục 735 tỷ NDT vào năm 2021.

Thomas Gatley, chuyên gia phân tích của công ty nghiên cứu tài chính Gavekal, cho biết thị trường vốn cổ phần của Trung Quốc đã bước sang một giai đoạn mới, trong đó tầm nhìn của Bắc Kinh quy định mục tiêu đầu tư của vốn trong nước và vốn quốc tế.

Cơ hội đầu tư vào chứng khoán Trung Quốc sẽ tập trung nhiều hơn ở các nhà sản xuất hàng cao cấp và các công ty AI mà Trung Quốc đang cần để thoát khỏi tác động của các biện pháp trừng phạt của Mỹ hoặc các công ty năng lượng tái tạo và xe điện mà giới lãnh đạo nước này xem là trọng tâm của nền kinh tế toàn cầu trong tương lai. Gatley nói: “Đó là vụ cá cược mà bạn đang thực hiện với tư cách là một nhà đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc”.

Tuy nhiên, một số nhà quan sát đã đặt câu hỏi liệu tầm nhìn táo bạo, có mục đích dành cho thị trường vốn cổ phần của Trung Quốc có hiệu quả hay không. Một trong những lý do dẫn tới sự xuất hiện của câu hỏi này là việc đảng tăng cường kiểm soát tiến trình lập kế hoạch từ trên xuống mà phớt lờ các tín hiệu thị trường. Gatley nói: “Vốn sẽ bị lãng phí một cách đáng kể do các công ty hoạt động không tốt hoặc do sự xuất hiện của một số hình thức gian lận”.

(còn tiếp)

Nguồn: https://www.ft.com/content/d5b81ea0-5955-414c-b2eb-886dfed4dffe

TLTKĐB – 20/09/2022

Cách Tập Cận Bình định hình lại thị trường vốn Trung Quốc – Phần I


Hudson Lockett

Kênh phát hành trái phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) ngày càng cho thấy rõ sự cạnh tranh công nghệ giữa Trung Quốc và phương Tây cũng như ảnh hưởng nặng nề của nhà nước.

Khi Tập Cận Bình tiết lộ chủ trương chính sách lớn đầu tiên của mình sau khi nắm quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông đã khiến thế giới tài chính toàn cầu “dậy sóng” với lời kêu gọi các doanh nghiệp nhà nước lùi bước và để thị trường đóng vai trò quyết định đối với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Các nhà phân tích tại Goldman Sachs ca ngợi loạt ưu tiên chính sách của Tập Cận Bình được công bố cuối năm 2013, là chương trình nghị sự cải cách kinh tế táo bạo với lập trường ửng hộ thị trường nhằm hạn chế sự can thiệp của chính phủ và kiềm chế các doanh nghiệp nhà nước.

Tuy nhiên, trong những năm sau đó, các biến động trên thị trường chứng khoán và tiền tệ Trung Quốc, mối đe dọa gây gián đoạn thị trường tài chính từ các ông trùm công nghệ mới nổi và mối lo ngại rằng việc niêm yết cổ phiếu ở nước ngoài có thể vi phạm quy định về bảo mật dữ liệu chỉ khiến giới hoạch định chính sách càng tin rằng nếu thị trường đóng vai trò quyết định, thì đảng phải đóng vai trò quyết định hơn.

Tại một hội nghị trực tuyến có sự tham dự của các nhà môi giới được tổ chức trong bối cảnh Thượng Hải đang áp đặt các biện pháp phong tỏa chặt chẽ nhằm kiểm soát đại dịch COVID-19, Weijan Shan, một trong những nhà tài chính kỳ cựu và thành công nhất của Trung Quốc, nói: “Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nghĩ rằng họ hiểu rõ hơn thị trường, nhưng nhiều hành động của họ trên thực tế lại gây thiệt hại cho thị trường và nền kinh tế”. Weijan Shan cho biết tập đoàn đầu tư tư nhân PAG của ông, vốn tập trung vào châu Á và quản lý hơn 50 tỷ USD, đã dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc.

Những chỉ trích gay gắt bất thường từ Weijan Shan, người trước nay vẫn lớn tiếng bảo vệ Bắc Kinh, đã xuất hiện vào thời điểm quan trọng đối với thị trường vốn của Trung Quốc. Một đợt thanh trừng ở nước này, bắt nguồn từ việc Tập Cận Bình phản đối mở rộng vốn một cách vô trật tự, đã khiến giá trị thị trường của các tập đoàn công nghệ niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán trong 12 tháng qua giảm khoảng 2000 tỷ USD.

Thay vì sự nổi lên của các thị trường cởi mở như ông đã đề cập một thập kỷ trước, môi trường huy động vốn xuất hiện ở Trung Quốc ngày càng được định hình bởi các ưu tiên chiến lược rộng lớn hơn của Tập Cận Bình – trong đó lĩnh vực công nghệ được coi là trọng tâm trong cạnh tranh kinh tế với phương Tây, chịu sự chỉ đạo của nhà nước và bị nghi ngờ có sự tham gia của các thế lực bên ngoài.

Thay đổi này cho thấy sự giảm sút về ảnh hưởng của các nhà đầu tư nước ngoài khi Bắc Kinh đẩy mạnh nỗ lực biến các thị trường vốn cổ phần của Trung Quốc thành một “dây chuyền lắp ráp” điều hướng các nguồn vốn tư nhân vào việc thực hiện các mục tiêu chính sách, với mục đích cuối cùng là sản sinh ra một thế hệ doanh nghiệp nhà nước mới đi đầu trong các lĩnh vực chiến lược.

Để đạt được điều đó, nhà nước Trung Quốc đagn mở rộng sự hiện diện của mình trong toàn bộ hệ thống IPO của nước này. Trong thập kỷ qua, các quỹ chỉ đạo của chính phủ đã huy động được hơn 900 tỷ USD nhằm đảm bảo đủ nguồn vốn cho các công ty thuộc các ngành công nghiệp được ưu tiên như sản xuất hàng hóa cao cấp, năng lượng tái tạo và công nghệ sinh học. Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách đã thúc đẩy thông qua các cải cách để rút ngắn thời gian thẩm duyệt hồ sơ đăng ký niêm yết ngay khi các công ty sẵn sàng lên sàn chứng khoán.

Đối với Tập Cận Bình, việc cung cấp tài chính để Trung Quốc trở thành một trung tâm đổi mới công nghệ cao toàn cầu là nhiệm vụ trọng tâm đối với công tác quốc phòng. Trong một bài phát biểu được đăng trên tạp chí hàng đầu của Trung Quốc về lý luận đảng năm 2022, ông cảnh báo: “Chỉ khi nắm trong tay các công nghệ then chốt, chúng ta mới có thể bảo đảm một cách cơ bản an ninh kinh tế quốc gia, an ninh quốc phòng và an ninh trong các lĩnh vực khác”.

Kiki Yang, đồng trưởng bộ phận chứng khoán tư nhân khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Bain&Company, cho biết các nhà đầu tư đang điều chỉnh. Thời của những công ty khởi nghiệp đột phá dựa vào dòng tiền của các nhà tài trợ nước ngoài để mở rộng quy mô cho đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng ở New York hay Hong Kong đã qua. Bà nói thêm: “Là một quỹ, công ty chúng tôi cần suy nghĩ về những lĩnh vực có thể thực sự được hưởng lợi từ góc độ chính sách. Rất nhiều giao dịch lớn hơn đang được thực hiện bởi các quỹ do chính phủ chỉ đạo”.

Điều đó khác xa với tình hình cách đây một thập kỷ, khi các công ty khởi nghiệp của Trung Quốc nhận được nguồn đầu tư dồi dào từ các công ty tư nhân nước ngoài như Sequoia và SoftBank – sự hỗ trợ của họ dành cho Alibaba và Tencent ngay từ đầu đã giúp thúc đẩy các ứng dụng và nền tảng thanh toán đổi mới, từ đó góp phần định hình lại nền kinh tế Trung Quốc.

Fraser Howie, một chuyên gia độc lập về tài chính Trung Quốc, cho biết các lãnh đạo của nước này không coi các công ty nền tảng và Internet là những công ty thực sự đổi mới. Họ muốn vi mạch, điện toán lượng tử, di truyền học, những thứ hữu hình trái ngược với không gian mạng”.

Theo Howie, các biện pháp trừng phạt của Mỹ đối với các nhà sản xuất thiết bị viễn thông và chất bán dẫn của Trung Quốc, cũng như phản ứng dữ dội ở châu Âu trước việc nước này từ chối lên án Nga sau chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine, đã thúc đẩy đảng-nhà nước Trung Quốc đầu tư nhiều hơn cho các lĩnh vực mà họ cho là quan trọng đối với việc bảo vệ an ninh và thúc đẩy nền kinh tế quốc gia. Howie nói thêm: “Tập Cận Bình rõ ràng đang chỉ đạo việc này. Câu hỏi đặt ra là ông sẽ thành công tới mức nào?”.

(còn tiếp)

Nguồn: https://www.ft.com/content/d5b81ea0-5955-414c-b2eb-886dfed4dffe

TLTKĐB – 20/09/2022

COVID-19 giúp châu Á thu hút đầu tư?


Năm 2020, lượng đầu tư quốc tế giảm mạnh, giảm gần 35% trên thế giới, ngoại trừ ở châu Á, nơi đón nhận hơn một nửa lượng đầu tư quốc tế. Châu Á cũng đã trở thành khu vực đứng đầu về xuất khẩu đầu tư toàn cầu, do các quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore thúc đẩy. Xu hướng này vẫn tiếp tục vào năm 2021.

Phân tích các khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một công việc khó khăn vì các dòng chảy đầu tư quan sát được có thể che giấu những thực tế rất khác. Điều quan trọng là phải xác định những nước tiếp nhận đầu tư cuối cùng, thường đi qua các nước trung chuyển, hay các trung tâm tài chính ở Singapore và Hong Kong. Cũng cần phân biệt giữa một bên là “đầu tư lĩnh vực xanh” dẫn đến việc tạo ra các cơ sở hạ tầng mới (nhà máy hoặc văn phòng) và một bên là các hoạt động sáp nhập và mua lại, các chuyển giao tài chính nội bộ trong các công ty đa quốc gia hay các hoạt động thanh lý các công ty Holdings (công ty nắm giữ các cổ phần hoặc tổng công ty) có thể dẫn đến sự thoái vốn rất lớn. Một sự thay đổi đơn thuần về thuế, chẳng hạn việc chấm dứt các đặc quyền thuế gắn với việc tái đầu tư cổ tức ra nước ngoài của các công ty đa quốc gia vào năm 2018 ở Mỹ, đã gây ra sự sụt giảm mang tính cơ cấu (hơn 60%) các khoản đầu tư trực tiếp của các công ty Mỹ trên thế giới.

Năm 2020 là năm đặc biệt hỗn loạn ở các nước phương Tây. Đặc biệt là ở châu Âu, nơi cùng một lúc xảy ra tình trạng sụt giảm cổ tức ở nước ngoài, các hoạt động tái đầu tư, và các khoản cho vay dài hạn. Kết quả là trong năm 2020, các khoản đầu tư trực tiếp cảu châu Âu trên thế giới  có giá trị ròng chỉ bằng 1/10 so với năm 2015. Chỉ châu Á thoát khỏi những biến động hỗn loạn này và duy trì được sự ổn định lớn để đón chào các khoản đầu tư nước ngoài hặc để phát triển các khoản đầu tư của mình.

Châu Á điểm đến đầu tiên của các dòng vốn đầu tư quốc tế

Sự sụp đổ của các khoản đầu tư của châu Âu và sự sụt giảm các khoản đầu tư của Mỹ đã đương nhiên đưa châu Á trở thành trung tâm của các dòng vốn quốc tế, bao gồm cả dòng vốn vào và ra.

Tác động của đại dịch COVID-19 không đồng nhất trên toàn châu Á. Các quốc gia Đông Nam Á đã ghi nhận mức giảm 25% dòng vốn vào, được bù đắp bởi sự gia tăng 6% của dòng vốn đổ vào Trung Quốc và 27% vào Ấn Độ, quốc gia đang trải qua một năm 2020 rất sôi động trong lĩnh vực mua bán và sáp nhập. Mặt khác, dòng vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc cũng tăng cao do các hoạt động chuyển vốn đáng kể từ các công ty đa quốc gia Trung Quốc sang các chi nhánh của họ ở Hong Kong trong khuôn khổ các hoạt động nhằm củng cố các công ty Holdings.

Sự tiếp tục gia tăng các đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc có thể gây bất ngờ. Đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy mạnh mẽ việc giảm sự phụ thuộc vào sản phẩm “Made in China”. Điều này không chỉ là mối quan tâm của Mỹ, àm còn là của nhiều công ty đa quốc gia khác nhau ở châu Âu, Nhật Bản (với sự hỗ trợ công khai của chính phủ), Hàn Quốc hoặc Đài Loan. Nhưng trào lưu di chuyển các cơ sở sản xuất này phần lớn được bù đắp bởi sức hấp dẫn mạnh mẽ của thị trường Trung Quốc trong các lĩnh vực dịch vụ và công nghệ cao, cũng như nhờ việc nới lỏng chính sách chào đón đầu tư nước ngoài mà Trung Quốc đã thực hiện từ 2 năm nay.

Về loại hình đầu tư, năm 2020 là một năm thành công ở châu Á trong lĩnh vực mua bán và sáp nhập, với mức tăng 40% về giá trị, chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tài chính và hàng tiêu dùng. Sự gia tăng mạnh mẽ này trái ngược với sự sụt giảm 1/3 các thông báo về các dự án “cánh đồng xanh” và những hoạt động tài trợ dự án, đặc biệt là do sự sụp đổ của các dự án năng lượng.

Những triển vọng cho năm 2021 vẫn tốt đẹp

Năm 2020, UNCTAD đã rất bi quan về các dòng vốn đầu tư trực tiếp nói chung, dự kiến sẽ giảm thêm vào năm 2021. Dự báo gần đây của cơ quan này vào tháng 6 vừa rồi lạc quan hơn khi kỳ vọng một mức tăng đầu tư toàn cầu từ 10% đến 15% vào năm 2021, sẽ tăng mạnh hơn một chút ở Mỹ và châu Âu (tăng từ 15% đến 20%) sau khi suy giảm rất rõ rệt vào năm 2020. Châu Á sẽ tiếp tục đón nhận nhiều khoản đầu tư hơn, với mức tăng khoảng 5% đến 10%, phù hợp với sự phục hồi của GDP trong khu vực.

Khu vực đầu tư châu Á có thể tiến triển hơn

Theo các dữ liệu chưa được xử lý, một nửa các khoản đầu tư quốc tế do các nước châu Á khởi xướng đổ về châu Á, trong khi 23 các khoản đầu tư của châu Âu đổ về châu Âu. Nhưng nếu chúng ta tính đến điểm đến cuối cùng của các khoản đầu tư bằng cách xóa bỏ vai trò của các quốc gia trung chuyển các dòng tài chính, thì thị phần của khu vực giảm đi rõ rệt và sự chênh lệch với châu Âu cũng giảm bớt.

Châu Á vẫn là điểm đến cuối cùng ít quan trọng nhất trong các hoạt động đầu tư ra nước ngàoi của các nước châu Á. Điều này được giải thích là do tầm quan trọng của hoạt động mua bán và sáp nhập hoặc đầu tư cổ phần ở các nước phương Tây, vốn là mục tiêu của các công ty đa quốc gia và quỹ tài sản có chủ quyền châu Á.

Các nước Đông Nam Á là những nước đầu tư trong khu vực nhiều nhất. Chẳng hạn, năm 2020 Singapore chiếm 40% vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và 25% vào Indonesia. Chúng ta hãy lấy trường hợp của Trung Quốc để phân tích chi tiết hơn về động lực đầu tư ra nước ngoài của các nước châu Á.

Trung Quốc đầu tư ít hơn cho thế giới và tập trung vào châu Âu và châu Á

Trên toàn cầu, các khoản đầu tư của Trung Quốc vào phần còn lại của thế giới đạt đỉnh vào năm 2017 với hơn 170 tỷ USD, sau đó, giảm mạnh do các quy định chặt chẽ hơn của Chính phủ Trung Quốc và sự do dự ngày càng tăng của các nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt ở Bắc Mỹ.

Kể từ năm 2005, Trung Quốc ưu tiên phân bổ các khoản đầu tư cho châu Á và châu Âu (mỗi khu vực chiếm 30% tổng vốn FDI ra nước ngoài của Trung Quốc), trong khi đó Bắc Mỹ chỉ chiếm dưới 20%. Sự tập trung này của Trung Quốc vào châu Âu và châu Á gia tăng trong những năm gần đây. Nhưng cũng cần lưu ý tầm quan trọng ngày càng tăng của Mỹ Latinh trong các lựa chọn đầu tư của các công ty đa quốc gia Trung Quốc. Việc thắt chặt chính sách tiếp nhận đầu tư của châu Âu đối với Trung Quốc gần đây vẫn chưa gây ra tác động đáng kế đến lựa chọn điểm đến châu Âu của Trung Quốc.

Phân tích các hoạt động đầu tư của Trung Quốc trên thế giới kể từ năm 2005 cho thấy tỷ trọng đầu tư đáng kể vào cặp đôi kim loại và năng lượng, chiếm gần 50% tổng số lĩnh vực được chọn đầu tư. Sau đó đến vận tải và bất động sản, mỗi ngành chiếm 11%, và 4 lĩnh vực khác chiếm khoảng 5% là tài chính, công nghệ, nông nghiệp và văn hóa (trò chơi, điện ảnh, thể thao).

Đại dịch COVID-19 và những căng thẳng thương mại giữa Trung Quốc và phương Tây đã làm thay đổi sự phân bố này. Tỷ trọng đầu tư và năng lượng và kim loại vẫn khá ổn định, tỷ trọng đầu tư vào giao thông tăng (tăng 15% các khoản đầu tư vào năm 2020 và 2021, đặc biệt trong ngành ô tô và hàng không). Đầu tư trong lĩnh vực bất động sản, tài chính và nông nghiệp giảm rất mạnh (từ 23% trước đây xuống còn 9% kể từ năm 2020) để chuyển sang các lĩnh vực công nghệ và văn hóa.

Trường hợp của hai gã khổng lồ kỹ thuật số Trung Quốc, Tencent và Alibaba là minh chứng cho sự đa dạng các chiến lược của Trung Quốc. Tencent bắt đầu đầu tư trên toàn cầu vào năm 2011. Các khoản đầu tư của tập đoàn này, lên tới 30 tỷ USD, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực giải trí, đặc biệt vào các trò chơi điện tử, phim ảnh và âm nhạc. Thương vụ nổi bật nhất trong lĩnh vực trò chơi điện tử là việc mua lại chương trình Supercell của Phần Lan vào năm 2016, với giá 8,6 tỷ USD. Tencent đầu tư rất ít vào châu Á, vốn chỉ chiếm 12% các khoản đầu tư toàn cầu của công ty này. Ngược lại, tập đoàn này có sự hiện diện mạnh mẽ ở châu Âu, nơi tập trung 2/3 đầu tư quốc tế của họ, một chiến lược mà cuộc khủng hoảng y tế đã không làm thay đổi về cơ bản. Chính sách mới của Trung Quốc phản đối trò chơi điện tử mới chính là nguy cơ kiềm chế những tham vọng của Tencent ở Trung Quốc cũng như trên thị trường quốc tế.

Alibaba đã đầu tư ra nước ngoài từ năm 2013. Các khoản đầu tư của họ nhiều hơn của Tencent. Những lĩnh vực mà Alibaba quan tâm trước hết tập trung vào lĩnh vực kinh doanh cốt lõi là thương mại điện tử và công nghệ, với sự đa dạng hóa trong lĩnh vực tài chính, bất động sản và phân phối. Không giống như Tencent, 3/4 vốn đầu tư của Alibaba nằm ở châu Á, nhất là ở Ấn Độ, Pakistan và Đông Nam Á. Xu hướng này cũng không bị cuộc khủng hoảng y tế COVID-19 tác động.

Đại dịch COVID-19 củng cố vị thế đặc biệt của châu Á trong thế giới đang phát triển

Chúng ta hãy quay trở lại với một phân tích toàn diện hơn về những thách thức liên quan đến đầu tư quốc tế: cuộc khủng hoảng y tế gây ra hai tác động chính. Nó củng cố vị trí trung tâm của châu Á ở cả luoồng vốn vào và ra, giúp khu vực này cóo phương tiện để theo đuổi chiến lược hội nhập của mình. Vị trí trung tâm này của châu Á trái ngược với sự phụ thuộc của các khu vực đang phát triển khác như châu Phi và Mỹ Latinh. Những phát triển gần đây cũng khẳng định châu Á có khả năng trở thành khu vực xuất khẩu ròng đầu tư trực tiếp. Theo truyền thống, đó là trường hợp của Nhật Bản, Hàn Quốc và giờ đây cũng là trường hợp cảu Trung Quốc và của Thái Lan ở Đông Nam Á.

Ở cấp độ khu vực, các nước châu Á vẫn duy trì tương đối nhiều rào cản đối với các hoạt động đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các hiệp định thương mại đa phương đã được ký kết mới đây sẽ dẫn đến việc giảm dần các rào cản này. Điều này sẽ góp phần vào sự trỗi dậy của khu vực trong các chiến lược đầut ư của các công ty đa quốc gia châu Á.

Nguồn: www.asialyst.com – 19/09/2021

TLTKĐB – 04/10/2021

Tương lai của ESG và phát triển bền vững


Đại dịch COVID-19 có tiềm năng tác động đến ESG [Environmental, Social, and Governace – Tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị] và các sáng kiến của nhà đầu tư chủ động vì phát triển bền vững và đến việc hoạch định chiến lược dài hạn của doanh nghiệp.

Một số dữ liệu quan trọng nhất mà người ta đã và đang nhìn vào để đánh giá tác động và thời điểm của một đợt đại dịch COVID-19 là khí thải của Trung Quốc cụ thể là khí dioxit nito.

Trước tình hình bùng phát ban đầu của COVID-19 tại Vũ Hán, Trung Quốc đã thực hiện một cuộc phong tỏa quy mô lớn – và toàn bộ các ngành chế tạo Trung Quốc gần như ngừng trệ cả, khí thải của Trung Quốc cũng vậy.

Tôi đề cập đến chủ đề này bởi vì nhu cầu của giới đầu tư chủ động ESG đã đột ngột tăng lên. Năm 2018, đã có những mức kỷ lục về nhu cầu của giới đầu tư chủ động, cả ở Hoa Kỳ và trên toàn cầu. Có thể thấy hiện tượng này thể hiện tương ứng trong Hình 1 và Hình 2.

Thêm vào đó, năm 2018, một số lĩnh vực hàng đầu có các nhà đầu tư chủ động đang thúc đẩy các mục tiêu và sáng kiến bao gồm biến đổi khí hậu (19%), phát triển bền vững (13%), các hoạt động môi trường khác (7%) và hoạt động chính trị (19%). Bạn có thể thấy sự phân chia này trong Hình 3. Nếu coi phát triển bền vững là một loại sáng kiến bảo vệ môi trường song hành với vấn đề biến đổi khí hậu và các giải pháp môi trường khác, thì chúng ta thấy rằng 39% – một con số lớn – trên tổng số các giải pháp của nhà đầu tư chủ động được đưa ra vào năm 2018 có liên quan đến môi trường.

Ở đây tôi muốn lưu ý về một vấn đề. Tôi không đưa ra một nhận định giá trị về các giải pháp này. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng chúng chiếm một tỷ lệ lớn trong các giải pháp của nhà đầu tư chủ động vào năm 2018 – và rằng nhiều khả năng chúng sẽ ngày càng trở nên phổ biến hơn.

Và các giải pháp loại này sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong tài chính.

Nói tóm lại, giới đầu tư chủ động thường là các nhà đầu tư lớn, sử dụng quyền hành cổ đông của mình để thúc đẩy công ty thực hiện những thay đổi cơ bản trong cách mà chúng vận hành.

Và các hoạt động của họ đang trên đà gia tăng. Thực tế, số lượng các công ty chấp nhận hoạt động theo yêu cầu của nhà đầu tư chủ động đã tăng gần 54% từ năm 2013 đến 2018 trên phạm vi toàn cầu. Có thể nhận thấy điều này trong Hình 1.

Nhìn vào nội địa, ở Hoa Kỳ, tình hình cũng hoàn toàn tương tự, và số lượng các công ty Mỹ phải đáp ứng các yêu cầu của nhà đầu tư chủ động đã tăng hơn 50% kể từ năm 2013. Có thể thấy điều này trong Hình 2.

Nhìn về tương lai của tài chính, tôi cho rằng động lực tăng cầu này của giới đầu tư chủ động – và số lượng các công ty chịu tác động – có thể sẽ tiếp tục đà gia tăng.

Bất kỳ sinh viên ngành kinh tế nào cũng biết rằng các công ty thường được hưởng lợi từ những thứ họ không phải trả tiền nhưng cũng có những tổn thất. Những tổn thất này không được giữ lại mà được chuyển cho xã hội, và nói chung được gọi là tác động ngoại biên [externalities: ngoại tác]. Loại này bao gồm bất kỳ tác động môi trường tiêu cực tiềm tàng nào mà hoạt động của một doanh nghiệp có thể gây ra. Nhưng chung cũng có thể bao gồm cả việc tận dụng lực đòn bẩy đối với những tình trạng thiếu hiệu quả về lao động, xã hội hoặc chính trị để nắm bắt cơ hội đầu cơ hòng gặt hái được những lợi ích tài chính ngoại hạng.

Do đó, không có gì ngạc nhiên khi đã óc một động lực thúc đẩy các công ty phải chịu phần trách nhiệm về tác động ngoại biên. Dù sao đây là một trong những điều đầu tiên mà hầu hết sinh viên kinh tế được học.

Nhưng vấn đề là thế này: Việc định giá đầy đủ các tác động ngoại biên đối với hoạt động của công ty có thể làm xói mòn khả năng sinh lợi đối với một số công ty. Và có lẽ đó chỉ mới là bức khởi đầu. Đối với các công ty hoạt động trong lĩnh vực năng lượng mà tôi làm việc, các cơ quan xếp hạng đã bắt đầu cảnh báo rằng những mục tiêu phát triển bền vững (hoặc thiếu bền vững) của họ có thể tác động đến giá trái phiếu và chi phí vốn trung bình có trọng số của họ – WACC. Đến lượt điều này lại gây tác động lên khả năng sinh lợi, định giá tổng thể, xếp hạng tín dụng và giá cổ phiếu.

Nhìn về phía trước

Trong tương lai, các công ty sẽ ngày càng cần chứng tỏ tính khả thi của phát triển bền vững và các mục tiêu ESG khác. Nếu không làm như vậy, công ty sẽ phải tùy thuộc dưới sự kiểm soát của nhà đầu tư chủ động. Và khả năng lợi nhuận cũng như giá cổ phiếu của công ty có thể bị ảnh hưởng xấu.

Hơn nữa, giảm thiểu khí thải do năng lực sản xuất bị cắt giảm, do làm việc từ xa, học tập từ xa và do sự hạn chế đi lại có thể truyền cảm hứng cho các nhà đầu tư chủ động để ủng hộ việc thông qua một số thay đổi cần thiết này trong dài hạn một khi cuộc khủng hoảng đại dịch COVID-19 đã đi qua.

Logic cho loại thúc đẩy như thế là để chấp nhận thực thi những hành động trong tình huống bất thường phát sinh từ niềm tin cho rằng nếu một công ty muốn chứng tỏ mục tiêu phát triển xanh và sạch của nó, thì còn cách nào khác để làm điều đó tốt hơn là:

+ Giảm mức tiêu thụ nhiên liệu cho hoạt động đi lại của nhân viên văn phòng.

+ Giảm tiêu thụ điện năng trong văn phòng.

+ Giảm nhu cầu nhiên liệu máy bay và phát thải CO2 vốn đi kèm với việc đi công tác nhiều nơi (và đặc biệt là đi nước ngoài).

Tôi kỳ vọng rằng một số công ty có thể tiếp tục phát huy kinh nghiệm và các chính sách giảm tiêu thụ năng lượng. Và đối với một số nhà đầu tư chủ động, nhiều khả năng kinh nghiệm này sẽ cho thấy rằng lượng khí thải carbon có thể được cắt giảm đáng kể nếu người ta thực thi được một cam kết rất hệ trọng iên quan đến vấn đề đó.

Nhưng ngay khi các công ty hoàn toàn lấy lại hoạt động kinh doanh của họ như thời điểm trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát, tôi vẫn kỳ vọng số lượng sáng kiến của nhà đầu tư chủ động sẽ tăng lên theo thời gian. Và tôi mong chờ vấn đề phát triển bền vững và biến đổi khí hậu sẽ luôn đứng đầu danh sách rút gọn cho dù có chuyện gì xảy ra đi nữa.

Giống như ở các lĩnh vực khác, thì đối với ESG và phát triển bền vững, đại dịch COVID-19 đã bộc lộ một tiềm năng đã tồn tại nhưng còn chưa được thực hiện. Trong trường hợp này, tiềm năng đã được bộc lộ chính là tiềm năng giảm thiểu tiêu thụ năng lượng và khí thải.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Jason Schenker – Tương lai sau đại dịch COVID – NXB TG 2021.

Các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại – Phần cuối


IV/ Các nước đang phát triển, thông báo và thời kỳ quá độ

1/ Đối với các nước đang phát triển

Trong trường hợp những biện pháp áp dụng đối với việc đầu tư có liên quan tới thương mại được sử dụng không phù hợp với quy định tại điều 3 trong Hiệp định chung động chạm tới lợi ích của nước ký Hiệp định chung là nước có mức sống thấp, kinh tế đang ở vào giai đoạn phát triển sơ khởi – các nước đang phát triển, thì họ có thể đáp lại theo trình tự và quy định tại khoản 3 điều 18 trong Hiệp định chung. Trường hợp các biện pháp áp dụng đối với việc đầu tư được sử dụng không phù hợp với quy định tại điều 11 trong Hiệp định chung thì họ cũng được làm như thế.

Khi có yêu cầu, các nước ký Hiệp định chung có thể đồng ý cho nước ký kết Hiệp định chung là nước đang phát triển tạm thời áp dụng những biện pháp đã được quy định đối với xuất khẩu để giúp ngành công nghiệp nào đó của họ phát triển. Nhưng với điều kiện phải được các nước ấy công nhận: 1) Không còn có biện pháp nào giúp thực hiện mục đích ấy mà lại gây ra thiệt hại ít hơn đối với thương mại; 2) Biện pháp được sử dụng không gây ra thiệt hại nghiêm trọng đối với công nghiệp trên lãnh thổ nước khác, hoặc không cản trở nghiêm trọng việc xây dựng công nghiệp của nước khác, hoặc không khiến lợi ích của nước khác bị đánh giá sai; 3) Đã được các nước khác đồng ý về thời gian biểu rút bỏ biện pháp ấy.

2/ Về thông bao và thời kỳ quá độ

Kể từ ngày hiệp định về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại bắt đầu có hiệu lực, các nước ký hiệp định này không được sử dụng các biện pháp áp dụng đối với đầu tư trái với khoản 4 điều 3 và khoản 6 điều 11 trong Hiệp định chung. Trong vòng 90 ngày kể từ ngày hiệp định này bắt đầucó hiệu lực phải thông báo cho Toàn thể các nước ký Hiệp định chung về các biện pháp áp dụng đối với đầu tư có liên quan với thương mại mà mình đang thực hiện không phù hợp với hiệp định; phải từng bước xóa bỏ các biện pháp đó; phải sửa đổi các biện pháp áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại vẫn tiếp tục được thực hiện sau ngày kết thúc vòng đàm phán Uruguay và có thể dẫn đến hậu quả là hạn chế nhiều hơn đối với thương mại, nhưng không sửa đổi nội dung của các biện pháp áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại đã được thông báo theo hiệp định.

Các nước ký Hiệp định chung đồng ý rằng, trong các thời hạn sau đây, kể từ ngày hiệp định này bắt đầu có hiệu lực, phải hủy bỏ các biện pháp áp dụng đối với đầu tư đã được thông báo cho Toàn thể các nước ký Hiệp định chung: 2 năm đối với các nước phát triển, 5 năm đối với các nước phát triển, 7 năm đối với các nước chậm phát triển nhất. Những biện pháp không phù hợp với hiệp định này đã được thực thi chưa đầy 180 ngày trước khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực không được hưởng thời ỳ quá độ nói trên.

Các nước ký Hiệp định chung có thể gia hạn thời kỳ quá độ đối với các nước đang phát triển có nhiều khó khăn trong việc thực hiện hiệp định này.

Các nước có thể sử dụng biện pháp hoặc duy trì biện pháp cũ đối với đầu tư, nếu ủy ban phụ trách vấn đề này tin chắc rằng biện pháp ấy có thể thúc đẩy điều chỉnh một cách tích cực kết cấu ngành, đồng thời, nếu kết hợp với các chính sách khác thì nó có thể tăng mức độ tự do hóa công nghiệp hoặc giảm một cách toàn diện sự viện trở đối với ngành công nghiệp.

V/ Các quy tắc và yêu cầu khác

1/ Về sự trong sáng

Các nước ký Hiệp định chung đồng ý rằng, các quy định về công bố và thực thi điều lệ thương mại tại điều 10 trong Hiệp định chung được áp dụng cho tất cả các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại.

Như vậy, các nước ký hiệp định này phải nhanh chóng công bố các biện pháp được áp dụng một cách phổ biến đối với đầu tư có liên quan tới thương mại để chính phủ và các hãng của các nước khác đều biết. Nhưng không đòi hỏi các nước công khai các tài liệu mật có thể gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật, hoặc mâu thuẫn với lợi ích xã hội, hoặc có thể gây thiệt hai lợi ích của các xí nghiệp thương nghiệp nhà nước hoặc tư nhân, mà chỉ báo cáo lên Ban thư ký Hiệp định chung và Ủy ban về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại. Bất kỳ nước nào ký Hiệp định chung cũng có thể gửi văn bản tới các nước khác yêu cầu được cung cấp tài liệu về các biện pháp ấy, và yêu cầu này phải được đáp ứng nhanh chóng, toàn diện, kịp thời. Không được sự đồng ý của nước cung cấp tài liệu, thì không được công bố tài liệu ấy, trừ trường hợp nó đã được công bố công khai.

Các nước cần lập ra một tổ chức chuyên môn để trả lời các nước khác về nội dung của các biện pháp được thực thi có liên quan như thế nào tới các mặt khác.

Bất kỳ nước nào, nếu họ chưa được nước khác thông báo cho biết các biện pháp áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại mà nước đó đã thực hiện, thì có thể nhắc nhở nước ấy. Nếu sau đó vẫn không được thông báo thì có thể yêu cầu Ủy ban về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại lưu ý tới những biện pháp ấy.

2/ Thương lượng và giải quyết tranh chấp

Hiệp định về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại sử dụng trình tự thương lượng được quy định tại điều 22 và giải quyết tranh chấp quyền lợi được quy định tại điều 22 trong Hiệp định chung.

Theo các quy định ấy, khi một nước nào đó cho rằng biện pháp mà nước khác áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại gây ra hậu quả đối với họ thì họ có thể dựa vào Hiệp định chung yêu cầu thương lượng theo hiệp định này. Nếu qua thương lượng hai bên đều nhận thấy rằng, biện pháp ấy đã gây ra tác dụng phụ, thì nước áp dụng biện pháp ấy phải sửa đổi hoặc khi cần thiết thì phải hủy bỏ biện pháp ấy.

3/ Ủy ban về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại

Các nước ký Hiệp định chung đã quyết định thành lập Ủy ban chuyên xử lý các vấn đề các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại, gồm đại biểu cảu các nước ký Hiệp định chung. Hằng năm ủy ban này họp ít nhất một lần. Nó thi hành chức trách được quy định trong hiệp định này và do Toàn thể các nước ký Hiệp định chung giao phó.

Hàng năm ủy ban này phải tổng kết và báo cáo cho Toàn thể các nước ký Hiệp định chung tình hình, hiệu quả thực thi hiệp định này và thành tích xóa bỏ tác dụng phụ của các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại. Để các nước hiểu rõ hơn những hạn chế và sự bóp méo thương mại do các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại gây ra, cứ 5 năm rà lại hiệp định này một lần, sửa đổi các quy định về nghĩa vụ cho rõ.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Lý Cương – Từ “Câu lạc bộ các nhà giàu trên thế giới” đến “Liên hợp quốc kinh tế và thương mại” – NXB CTQG 1996.

Các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại – Phần II


Cần phải thừa nhận tác dụng to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Song, bất kỳ nước nào cũng có quyền quyết định có cho nước ngoài đầu tư vào nước mình hay không, có quyền quyết định ra mức độ và điều kiện đối với sự đầu tư của nước ngoài.

Các nước ký hiệp định này có nhiệm vụ ra sức thúc đẩy hoạt động đầu tư quốc tế, đồng thời hợp tác chặt chẽ để tiết chế các tác động tiêu cực do các biện pháp được áp dụng của đầu tư gây ra đối với thương nghiệp.

III/ Về chế độ đãi ngộ chung và hạn chế số lượng

1/ Chế độ đãi ngộ chung

Các nước ký Hiệp định chung đồng ý không sử dụng các biện pháp không phù hợp hoặc trái với Hiệp định chung gây ra tác động hạn chế đối với đầu tư. Các tác động hạn chế đối với thương nghiệp do các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư gây ra cũng giống với những tác động của các biện pháp được đề cập tới về chế độ đãi ngộ chung tại điều 3 trong Hiệp định chung. Các nước không nên vì bảo vệ sản xuất trong nước mà sử dụng các biện pháp nói trên đối với việc đầu tư để áp dụng đối với sản phẩm nhập khẩu hoặc sản phẩm trong nước.

Theo điều 3 trong Hiệp định chung, các nước ký hiệp định này phải:

a/ Không được sử dụng bất kỳ biện pháp nào được áp dụng đối với đầu tư để phân biệt đối xử giữa sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm trong nước.

b/ Trong trường hợp liên quan tới số lượng cụ thể hoặc tỷ lệ về cấu thành, tỷ lệ gia công hoặc sử dụng sản phẩm, thì không được trực tiếp hoặc gián tiếp đòi hỏi phải lấy số lượng cụ thể hoặc tỷ lệ do các hãng trong nước cung cấp làm biện pháp áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại. Nghĩa là, bất kỳ nước nào cũng không được dùng các biện pháp trái với nguyên tắc được quy định tại khoản 1 điều 3 trong Hiệp định chung làm biện pháp áp dụng đối với việc đầu tư có liên quan tới thương mại.

c/ Không được sử dụng các quy định về mua hoặc sử dụng sản xuất những sản phẩm nào đó, hoặc lấy đòi hỏi phải có một số lượng nhất định, một lượng giá trị nhất định hoặc một tỷ lệ nhất định là sản phẩm do trong nước sản xuất hoặc do trong nước cung cấp, hoặc đòi hỏi lấy sản phẩmtrong nước thay thế sản phẩm nhập khẩu cùng loại, làm biện pháp hạn chế đầu tư có liên quan tới thương mại.

d/ Không được lấy đòi hỏi nguyên vật liệu, linh kiện hoặc phụ kiện phải là những sản phẩm do công ty trong nước sản xuất làm biện pháp hạn chế đầu tư có liên quan tới thương mại.

e/ Không được sử dụng biện pháp hạn chế nguyên vật liệu, linh phụ kiện mà các công ty dùng trong sản xuất tại nước sở tại, hoặc đòi hỏi lượng nhập khẩu các sản phẩm khác có liên quan đến sản xuất tại nước sở tại phải ngang bằng với xuất khẩu về số lượng, giá trị hoặc tỷ lệ, để lấy đó làm biện pháp hạn chế đầutư có liên quan tới thương mại.

2/ Xóa bỏ những hạn chế chung về số lượng

Các nước ký Hiệp định chung cho rằng, tác động hạn chế thương nghiệp có thể do các biện pháp được áp dụng với đầu tư có liên quan tới thương nghiệp gây ra giống với tác động của những biện pháp hạn chế chung mà điều 11 trong Hiệp định chung đã quy định phải rỡ bỏ. Do vậy, theo quy định tại điều 11 trong Hiệp định chung, mọi nước ký Hiệp định chung đều không được sử dụng các biện pháp dưới đây đối với đầu tư có liên quan tới thương mại:

a/ Hạn chế các công ty nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện hoặc các sản phẩm có liên quan để dùng vào sản xuất tại chỗ, yêu cầu số lượng, giá trị hoặc tỷ lệ nhập khẩu ấy phải ngang với xuất khẩu của công ty.

b/ Cấm hoặc hạn chế số lượng bất kỳ sản phẩm nào nhập khẩu từ các nước ký Hiệp định chung, hoặc cấm, hạn chế số lượng xuất khẩu sang các nước ký Hiệp định chung.

c/ Hạn chế số lượng, giá trị hoặc tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu do các công ty sản xuất tại chỗ.

d/ Bằng cách hạn chế quyền sử dụng ngoại tệ của các công ty, hoặc dùng các phương thức không phù hợp với quy định về sử dụng ngoại tệ tại điều 15 trong Hiệp định chung, cho phép các công ty sử dụng thu nhập ròng bằng ngoại tệ mà họ thu về được qua xuất khẩu, để hạn chế họ nhập khẩu nguyên vật liệu, linh phụ kiện hoặc các sản phẩm khác dùng cho sản xuất tại chỗ.

e/ Đặt ra các quy định về việc mua, sử dụng hoặc chế tạo những sản phẩm nào đó, hoặc đòi hỏi phải có một số lượng, một lượng giá trị nhất định hoặc một tỷ lệ nhất định là sản phẩm do trong nước sản xuất hoặc do trong nước cung cấp, hoặc dùng sản phẩm trong nước thay thế sản phẩm nhập khẩu cùng loại.

g/ Bằng cách sử dụng các biện pháp hạn chế đối với đầu tư để hạn chế nhập khẩu nguyên vật liệu và linh phụ kiện, và để qua đó hạn chế các công ty sử dụng những nguyên vật liệu và linh phụ kiện ấy vào sản xuất trong nước.

h/ Hạn chế các công ty trên lãnh thổ nước mình xuất khẩu sản phẩm của họ sang thị trường nước ngoài.

3/ Ngoại lệ

Các nước ký Hiệp định chung đồng ý rằng, các quy định ngoại lệ về cấm sử dụng các phương thức không phù hợp hoặc mâu thuẫn với điều 3 hoặc điều 11 cũng được dùng làm các quy định ngoại lệ về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại trái với điều 3 hoặc điều 11 trong Hiệp định chung. Do vậy, các nước có thể có các biện pháp đáp lại phù hợp với quy định trong Hiệp định chung, nếu họ cho rằng do nước khác sử dụng các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại đã gây ra các hậu quả sau đây đối với lợi ích thương mại của họ:

a/ Tước đoạt hoặc làm thiệt hại lợi ích của nước ký hiệp định này được trực tiếp hoặc gián tiếp hưởng theo quy định trong Hiệp định chung.

b/ Gây thiệt hại nặng nề hoặc dẫn tới nguy cơ có thể bị thiệt hại nặng nề đối với ngành công nghiệp nào đó của nước ký Hiệp định chung, hoặc gây ra trở ngại nghiêm trọng đối với việc xây dựng ngành công nghiệp mới củ họ.

c/ Có sự phân biệt đối xử quá quắt đối với họ.

4/ Quy định mới

Các nước ký Hiệp định chung đồng ý không sử dụng các biện pháp đối với đầu tư mà chúng có thể gây ra các hậu quả sau:

a/ Vô hiệu hóa hoặc làm thiệt hại lợi ích của nước được trực tiếp hoặc gián tiếp hưởng theo quy định trong Hiệp định chung, hoặc trong hiệp định này.

b/ Gây ra thiệt hại lớn hoặc dẫn tới có nguy cơ có thể bị thiệt hại lớn đối với ngành công nghiệp nào đó trên lãnh thổ nước khác, hoặc gây trở ngại nghiêm trọng đối với việc xây dựng ngành công nghiệp nào đó của nước khác.

c/ Qua phân biệt đối xử với nước khác.

Trong trường hợp đặc biệt, nếu đã sử dụng những biện pháp ấy thì cần cố gắng tránh: 1) Quy định lượng xuất khẩu thấp nhất, mức xuất khẩu thấp nhất hoặc tỷ lệ xuất khẩu thấp nhất những sản phẩm được sản xuất tại chỗ; 2) Quy định thị trường hoặc khu vực xuất khẩu cho sản phẩm nào đó, hoặc giao cho công ty nào đó trên lãnh thổ nước mình quyền chuyên doanh cung ứng mọi sản phẩm của những công ty ấy tại thị trường nước ngoài.

Các nước ký hiệp định chung cũng đồng ý rằng, khi sử dụng các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư sẽ không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài và cũng không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài với nhau.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Lý Cương – Từ “Câu lạc bộ các nhà giàu trên thế giới” đến “Liên hợp quốc kinh tế và thương mại” – NXB CTQG 1996.

Các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại – Phần I


Các biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư có liên quan tới thương mại cũng là một đề mục mới đã được đưa ra đàm phán tại vòng đàm phán Uruguay. Nội dung chủ yếu là điều tra xem biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư đã có ảnh hưởng hạn chế và bóp méo như thế nào đối với thương mại để từ đó định ra các quy tắc loại trừ chúng. Sau cuộc đàm phán rất khó khăn giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển và các nước đang phát triển, cuối cùng người ta đã cho ra đời bản dự thảo “Hiệp định về các biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư có ảnh hưởng tới thương mại”.

I/ Đầu tư quốc tế và thương mại quốc tế

1/ Quan hệ giữa đầu tư quốc tế và thương mại quốc tế

Xét trên góc độ lý luận, tích lũy trong phạm vi một nước là tiền đề tái sản xuất mở rộng của nước đó. Đầu tư là điều kiện quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển của sản xuất. Chỉ khi nào sản xuất phát triển, thương mại mới được mở rộng. Vì vậy, về thực chất,quan hệ giữa đầu tư và thương mại là quan hệ giữa sản xuất và lưu thông. Trên phạm vi thế giới thì đầu tư quốc tế là điều kiện quan trọng thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển. Số lượng, quy mô và tốc độ tăng trưởng đầu tư quốc tế, ở mức độ nhất định, cũng quyết định số lượng, quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền thương mại thế giới.

Nhất thể hóa kinh tế thế giới, mà trong đó có quốc tế hóa tư bản và toàn cầu hóa thương mại, càng phát triển thì quan hệ giữa đầu tư và thương mại quốc tế càng khăng khít. Đầu tư tư bản quốc tế tăng lên thì thương mại quốc tế cũng tăng theo; thương mại quốc tế tăng lên sẽ mở ra cơ hội đầu tư tư bản quốc tế mới, làm tăng đầu tư quốc tế. Hai mặt đó tác động lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau.

2/ Ảnh hưởng của các biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư có liên quan tới thương mại quốc tế

Các biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư có ảnh hưởng tới thương mại quốc tế chủ yếu ở hai mặt sau đây: Một là, ảnh hưởng tích cực. Người đầu tư trực tiếp là người nước ngoài, được ưu đãi về thuế, sức cạnh tranh của sản phẩm của họ tăng lên, điều đó làm cho họ càng hứng thú đầu tư. Hai là, ảnh hưởng tiêu cực. Sản phẩm xuất khẩu ít, thành tích xuất khẩu kém, các yêu cầu về cán cân ngoại hối, về chuyển lợi nhuận bằng ngoại tệ ra nước ngoài không được xử lý tốt, những điều ấy, làm giảm hứng thú đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.

Ảnh hưởng tích cực sẽ thúc đẩy sản xuất và thương mại phát triển. Ảnh hưởng tiêu cực sẽ hạn chế sản xuất và thương mại.

Mỗi nước đều căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế của mình để áp dụng các biện pháp ưu đãi khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành có nhu cầu phát triển cấp bách, còn đối với các ngành khác thì áp dụng các hạn chế nghiêm ngặt. Cả hai mặt đó đều có ảnh hưởng tới mậu dịch đối ngoại của họ, do đó mà ảnh hưởng tới hướng đi và lưu lượng thương mại quốc tế.

3/ Đàm phán về các biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư có liên quan tới thương mại

a/ Lập trường của các nước phát triển.

Các nước phát triển cho rằng phải cấm các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư gây ra những ảnh hưởng lớn đối với thương mại. Do vậy, theo họ, phải quy định ra quy tắc mới để hạn chế “các điều kiện cho phép đầu tư bước vào trong nhà”, như những quy định về thiết bị, hạn ngạch xuất khẩu tối thiểu, tỷ lệ đầu tư của nước ngoài, điều kiện thương mại ngang bằng, cân đối ngoại hối…, qua đó loại bỏ “vùng xám” không nằm trong khuôn khổ Hiệp định chung.

Trong số các nước phát triển, Mỹ là nước có thái độ kiên quyết nhất. Họ đưa ra một dự án có lợi cho lợi ích của các nước phát triển. Nhưng giữa các nước phát triển lại có bất đồng. Quan điểm của Mỹ và Canada khác nhau khá xa về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại, đặc biệt là về vấn đề thành tích xuất khẩu thông qua đầu tư nước ngoài. Canada cho rằng điều đó không phù hợp với Hiệp định chung, còn Mỹ thì lại cho rằng không làm như thế là trái với Hiệp định chung.

b/ Lập trường của các nước đang phát triển

Các nước đang phát triển cho rằng, vấn đề cần thảo luận là các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư đã gây ra ảnh hưởng như thế nào đối với thương nghiệp và làm thế nào để tránh được những ảnh hưởng bất lợi đó, chứ không phải là cấm đoán bản thân các biện pháp ấy. Các nước này chủ trương phải dựa vào Hiệp định chung để giải quyết vấn đề các biện pháp đã được áp dụng đối với đầu tư gây ảnh hưởng tới thương mại. Nếu cho rằng, trong trường hợp nào đó, biện pháp này đã ảnh hưởng bất lợi thì cần phải có chứng cứ, chứ không được suy diễn rằng, nó có thể gây ra ảnh hưởng trong bất kỳ trường hợp nào, và phải giải quyết từng trường hợp một.

Theo quan điểm của các nước đang phát triển, vấn đề phát triển của các nước đang phát triển phải được coi trọng đầy đủ hơn trong khi đàm phán về các biện pháp được áp dụng đối với đầu tư có liên quan tới thương mại. Họ kiên quyết phản đối đưa những yêu cầu về xuất khẩu vào nghị quyết, mà phải căn cứ vào trình tự giải quyết tranh chấp để giải quyết từng vụ việc một như trước đây. Cuối cùng đòi hỏi này đã được chấp nhận.

II/ Về phạm vi và tác động của các biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư có liên quan tới thương mại

Tại vòng đàm phán Uruguay, các nước tham gia đàm phán về các biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư có liên quan tới thương mại đã đồng ý sau khi điều tra những thiệt hại đối với thương nghiệp do áp dụng các biện pháp đối với đầu tư theo các điều khoản có liên quan trong Hiệp định chung gây ra thì phải định ra những quy định mới để tiết chế tác dụng phụ đối với thương mại. Do vậy, cuối cùng họ đã đưa ra dự thảo “Hiệp định về các biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư có liên quan tới thương mại”.

1/ Định nghĩa các biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư có liên quan tới thương mại.

Những biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư, nếu là đặt điều kiện đối với chiều hướng thương mại và với hoạt động thương mại của một xí nghiệp, do đó gây ra tác động hạn chế hoặc có hại đối với thương mại, mà tác động ấy lại là tác động trực tiếp, to lớn, hơn nữa còn làm tổn hại tới lợi ích của nước khác và không phù hợp với quy định trong Hiệp định chung, thì biện pháp đó bị coi là biện pháp có liên quan tới thương mại.

2/ Phạm vi của các biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư

Biện pháp được áp dụng đối với việc đầu tư là biện pháp được thực thi đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi: 1) Đầu tư vào mọi ngành sản xuất hoặc công trình chế tạo, hoặc lập công ty, hoặc mua lại công ty hiện có; 2) Mở rộng đầu tư; 3) Công ty tiếp tục kinh doanh.

Chỉ trong các trường hợp sau người ta mới có thể coi là biện pháp áp dụng đối với việc đầu tư đã được thực thi: 1) Biện pháp ấy phải được áp dụng một cách phổ biến hoặc phù hợp với luật pháp, với phán quyết của tòa án, hoặc với tập quán hành chính, với chính sách hoặc với quy định; 2) Biện pháp ấy được ký kết là nhà đầu tư hoặc nhà sản xuất chấp nhận; 3) Biện pháp ấy được coi là điều kiện hoặc nhân tố quyết định để một bên ký kết giao kèo được lợi, hoặc được dùng làm điều kiện hoặc nhân tố quyết định để phòng ngừa một bên ký kết rút lại điều có lợi nào đó.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Lý Cương – Từ “Câu lạc bộ các nhà giàu trên thế giới” đến “Liên hợp quốc kinh tế và thương mại” – NXB CTQG 1996.

Sự thất bại của các thị trường – Phần cuối


Trong luận văn năm 1980 của mình, Bernanke bắt đầu phân tích bằng cách tóm lược lại sự khác nhau kinh điển giữa rủi ro và sự bất định, khái niệm được Frank H. Knight đưa ra lần đầu tiên năm 1921. Theo cách diễn đạt của Frank, rủi ro áp dụng cho những kết quả ngẫu nhiên mà các nhà đầu tư có thể lập mô hình với những xác suất đã biết, trong khi sự bất định áp dụng cho những kết quả ngẫu nhiên với những xác suất không ai biết. Một nhà đầu tư điển hình sẵn sàng chấp nhận rủi ro nhưng có thể sẽ chùn bước trước sự bất định cực đoan. Đóng góp của Bernanke là việc xây dựng vấn đề này như một phần của chi phí cơ hội. Có thể trong thâm tâm, các nhà đầu tư cảm thấy sợ sự bất định, nhưng cũng có thể họ sợ cả sự ì trệ, mà chi phí cho sự ì trệ cao hơn cả chi phí của việc bám lấy điều không biết. Ngược lại, chi phí của sự ì trệ có thể được giảm bớt bằng lợi ích của việc chờ đợi thông tin mới. Như Bernanke phát biểu, “Sẽ cần phải trả một cái giá cho việc đầu tư… khi chi phí của việc chờ đợi cao hơn lợi nhuận kỳ vọng từ việc chờ đợi đó. Lợi nhuận kỳ vọng từ việc chờ đợi là xác suất thông tin [mới]… sẽ khiến nhà đầu tư phải hối tiếc về quyết định đầu tư của mình… Động cơ để chờ đợi là… sự lo ngại việc những thông tin bất lợi có thể xuất hiện”.

Đoạn trên chính là phiến đá Rosetta để giải mã tất cả những chính sách của Bernanke liên quan đến chính sách tiền tệ trong suốt thời gian giữ chức Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Sau năm 2008, FED của Bernanke tăng chi phí chờ đợi bằng cách cho các nhà đầu tư không nhận được một xu lợi nhuận trên tiền mặt bỏ ra, giảm chi phí của việc quyết định hành động bằng cách định hướng chính sách. Với việc tăng chi phí chờ đợi và giảm chi phí hành động, Bernanke đã đẩy cán cân nghiêng về phía các khoản đầu tư tức thời và giúp nền kinh tế tăng trưởng thông qua việc làm và thu nhập tăng thêm nhờ những khoản đầu tư đó. Bernanke là bậc thầy hoạch định chính sách đã thúc đẩy các nhà tư bản quay lại trò chơi đầu tư. Ông đã thể hiện rõ những tính toán của mình khi viết, “Không có gì khó khăn để tìm ra một ví dụ về… nền kinh tế trong một mô hình chu trình kinh doanh cân bằng. Như vậy, cách hợp lý nhất là nghĩ rằng nền kinh tế này đang được vận hành bởi một nhà hoạch định chính sách trung ương”.

Logic của Bernanke là một sai sót rất lớn, vì nó giả định rằng trong lúc giảm mức độ bất định, FED không đồng thời làm tăng tính bất định thông qua quá trình thực hiện của nó. Khi nào thì FED đưa ra định hướng đối với lãi suất, các nhà đầu tư có thể chắc chắn đến đâu về việc FED có thay đổi ý định hay không? Khi FED nói họ sẽ tăng lãi suất trong những điều kiện nhất định, các nhà đầu tư có thể chắc chắn đến đâu về việc những điều kiện này sẽ được đáp ứng? Trong lúc cố gắng loại bỏ một dạng bất định này, FED gần như lại tạo ra một dạng bất định khác liên quan đến khả năng thực hiện nhiệm vụ thứ nhất. Sự không chắc chắn về chính sách trong tương lai đã  bị thay bằng sự không chắc chắn về độ tin cậy của các định hướng. Tình hình càng tệ hơn bởi nó phụ thuộc và sự bốc đồng của người hoạch định thay vì hoạt động của thị trường.

Một luận văn quan trọng của Robert Hall từ trường Đại học Stanford, được trình bày tại hội nghị của FED tại Jackson Hole vào tháng 8 năm 2013, đã chứng minh bản chất phản tác dụng của lập luận mà Bernanke đưa ra. Hall chỉ ra rằng, quyết định thuê một người lao động mới hoàn toàn dựa vào tính toán của chủ loa động về giá trị hiện tại của sản lượng mà nhân viên đó sẽ làm ra trong tương lai. Việc tính toán giá trị hiện tại lại phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu được sử dụng để quy đổi lợi nhuận tương lai thành giá trị tính theo USD trong hiện tại. Nhưng tính bất định do sự bất bênh trong chính sách của FED gây ra khiến cho lãi suất chiết khấu rất khó xác định và các công ty phải giảm hoặc ngừng thuê thêm người. Những nỗ lực của FED nhằm kích thích nền kinh tế trong thực tế lại đang cản trở nền kinh tế phát triển.

Các thị trường tự do quan trọng không phải do ý thức hệ mà do tính hiệu quả. Chúng không hoàn hảo nhưng vẫn tốt hơn mọi mô hình kinh tế khác. Akerlof minh họa chi phí của thông tin cân xứng tại một thời điểm nhất định, trong khi Bernanke cho thấy chi phí của tính bất định về mặt thông tin quá thời gian. Cả hai đều đúng  về những chi phí trên lý thuyết này, nhưng họ đã bỏ qua tổng chi phí của việc cố gắng sửa chữa vẫn đề tồn tại với sự can thiệp của Chính phủ. Akerlof ít ra còn khiêm tốn thừa nhận những hạn chế này, trong khi đó Bernanke lại phô bày sự ngạo mạn của một nhà hoạch định chính sách trung ương trong suốt sự nghiệp của mình.

Adam Smith và Friedrich Hayek đã cảnh báo rằng nhiệm vụ của FED là bất khả thi và việc theo đuổi nó tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, nhưng Charles Goodhart lại chỉ ra một mối nguy hiểm còn lớn hơn. Ngay cả nhà hoạch định chính sách trung ương cũng cần phải đợi tín hiệu thị trường rồi mới triển khai một kế hoạch. Một tiệm bán quần áo theo phong cách Liên Xô đặt hàng toàn bộ số tất chân màu xanh lá cây có thể sẽ muốn biết rằng xanh lá cây là màu ít người thích nhất, và số tất sẽ bị tồn kho nhiều. FED cũng dựa vào các tín hiệu về giá theo cách tương tự, đặc biệt là những tín hiệu liên quan đến lạm phát, giá hàng hóa, giá cổ phiếu, tình trạng thất nghiệp, nhà ở và nhiều biến số khác. Điều gì xảy ra khi bạn chi phối các thị trường bằng cách sử dụng tín hiệu giá, mà bản thân những tín hiệu này lại là kết quả đầu ra của các thị trường đã bị chi phối? Đây chính là câu hỏi mà định luật Goodhart đặt ra.

Nhà hoạch định chính sách trung ương phải bỏ qua niềm tin của bản thân vào sự can thiệp để thu thập thông tin về những ảnh hưởng của biện pháp can thiệp đó. Nhưng thông tin này là một tín hiệu sai, vì nó không phải là kết quả của hoạt động của thị trường tự do. Đây là một phương trình đệ quy. Nói đơn giản, nhà hoạch định chính sách trung ương không còn lựa chọn nào ngoài việc phải tự uống bột thức uống Kool Aid của chính mình. Quả là tình thế tiến thoái lượng nan đối với Cục Dự trữ Liên bang và tất cả các ngân hàng trung ương đang tìm cách để lèo lái nền kinh tế của họ thoát khỏi đợt suy thoái mới. Những định chế này càng can thiệp vào thị trường thì họ càng biết ít hơn về điều kiện thực tế của nền kinh tế, từ đó họ lại càng có nhu cầu phải can thiệp Dạng bất định này được thay thế bởi dạng bất định khác. Sự bất định về mặt thể chế trở nên phổ biến khi vốn chờ đợi lợi nhuận của các thị trường thực.

Không giống Salanio của Shakespeare, chúng ta không thể tin vào những gì thị trường nói với mình được nữa, vì đến ngay cả những người kiểm soát thị trường còn không tin tưởng chúng. Yellen và những người còn lại nghĩ rằng bàn tay học thuật của họ quyền lực hơn bàn tay vô hình của Adam Smith. Kết quả là tính hữu dụng của thị trường giảm dần, dẫn đến cái chế từ từ của nền kinh tế thực – và của đồng USD.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: James Rickards – Sự lụi tàn của đồng tiền – NXB TC 2017.

Sự thất bại của các thị trường – Phần VI


Thị trường bất cân xứng

Theo cách nhìn của FED, phần quan trọng nhất trong kế hoạch xoa dịu cơn sợ hãi trong các thị trường là chính sách truyền thông hay còn gọi là “định hướng chính sách” (forward guidance), thông qua đó, FED tìm cách khuếch đại ảnh hưởng của chính sách nới lỏng bằng cách hứa hẹn rằng họ sẽ duy trì như vậy trong thời gian dài, hoặc cho đến khi tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát đạt được mục tiêu đề ra. Cuộc tranh luận chính sách về việc  phương pháp định hướng chính sách có phải đang tiếp thêm sức mạnh cho FED lũng đoạn thị trường hay không vẫn luôn là một trong những lĩnh vực điều tra tình báo dai dẳng nhất trong kinh tế học hiện đại Cuộc điều tra này liên quan đến thông tin không hoàn hảo hoặc sự bất cân xứng về thông tin: tình trạng một bên nắm giữ những thông tin tốt hơn bên kia, khiến cả hai bên thực hiện hành vi dưới điểm tối ưu.

Lĩnh vực này đạt được bước tiến vượt bậc với một luận văn của George Akerlof xuất bản năm 1970, Thị trường cho những “trái chanh” (The market for “lemons”), trong đó ông chọn doanh số xe hơi đã qua sử dụng làm luận chứng. Năm 2001, Akerlof được trao giải Nobel Kinh tế một phần vì công trình này. Ông nói, người bán của một chiếc xe hơi đã qua sử dụng biết rất rõ xe còn tốt hay đã xuống cấp nhiều – một “trái chanh”. Người mua thì không biết điều này, do đó phát sinh tình trạng bất cân xứng thông tin giữa hai bên. Thông tin không cân xứng này sẽ quy định hành vi theo những cách trái ngược nhau. Người mua có thể nghĩ rằng mọi chiếc xe đã qua sử dụng đều là trái chanh, nếu không thì người ta đã không bán chúng. Niềm tin này khiến người mau trả giá xuống thấp hơn mức mình sẵn sàng trả. Người bán của những chiếc xe cũ nhưng còn tốt sẽ không chấp nhận mức giá này và từ chối bán xe. Trong trường hợp cực đoan nhất, rất có thể sẽ không có thị trường cho toàn bộ xe đã qua sử dụng vì người mua và người bán không thể thỏa hiệp về mức giá, ngay cả khi về lý thuyết vẫn sẽ có một mức giá cân bằng thị trường nếu cả hai bên tham gia giao dịch đều biết hết mọi thông tin.

Những chiếc xe đã qua sử dụng chỉ là một ví dụ minh họa cho tình trạng thông tin bất cân xứng. Nó có thể ứng dụng vào rất nhiều loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau, bao gồm các giao dịch tài chính. Điều thú vị là, vàng không phải chịu cảnh này vì nó có một chất lượng theo quy chuẩn. Không có gian lận thì không có “trái chanh” khi mua bán vàng thỏi.

Kể từ năm 1970, công trình của Akerlof đã được áp dụng cho vô số vấn đề, và các nhà kinh tế học xem đây như một “phép thử” tài năng. Những ý nghĩa của phân tích mà ông đưa ra vô cùng phong phú. Nếu kỹ thuật giao tiếp  có thể được cải thiện và tình trạng thông tin bất cân xứng giảm đi thì các thị trường trở nên hiệu quả hơn và thực hiện chức năng dò giá thuận lợi hơn, giảm chi phí cho người tiêu dùng.

Năm 1980, nhà kinh tế học 26 tuổi – Ben S. Bernanke đặt ra thách thức đối với vai trò của việc phân tích thông tin trong thị trường hiệu quả. Trong một luận văn có tiêu đề Tính chất không thể đảo ngược, tính chất bất định và Hoạt động đầu tư tuần hoàn (Irreversibility uncertainty, and cyclical investment), Bernanke trình bày quy trình ra quyết định đằng sau một khoản đầu tư và đặt ra vấn đề: tính bất định trong chính sách tương lai và điều kiện kinh doanh gây cản trở khoản đầu tư đó như thế nào. Đây là một câu hỏi trọng yếu. Đầu tư là một trong bốn thành tố nền tảng của GDP, còn lại là tiêu dùng, chi tiêu của Chính phủ và cán cân thương mại. Có lẽ đầu tư là thành tố quan trọng nhất vì GDP bị điều khiển không chỉ khi dự án đầu tư được triển khai mà trong nhiều năm sau đó thông qua cái giá phải đánh đổi để năng suất tăng lên. Việc đầu tư vào các doanh nghiệp mới có thể là chất xúc tác đối với nhu cầu tuyển dụng, nhờ đó thúc đẩy tiêu dùng thông qua việc trả lương cho người lao động bằng lợi nhuận từ khoản đầu tư. Bất cứ trở ngại nào đối với hoạt động đầu tư cũng có thể gây ra tác động tiêu cực lên sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.

Tình trạng thiếu vốn đầu tư là một tác nhân quan trọng khiến Đại suy thoái kéo dài. Các học giả, từ Milton Friedman và Anna Schwartz cho đến Ben Bernanke đều xác định chính sách tiền tệ là nguyên nhân hàng đầu của Đại suy thoái. Tuy nhiên, số lượng các công trình nghiên cứu lý do Đại suy thoái kéo dài quá lâu như vậy vẫn chưa là gì so với giai đoạn suy thoái tương đối ngắn vào năm 1920. Charles Kindleberger đã xác định đúng nguyên nhân dẫn đến bản chất kéo dài của Đại suy thoái, đó là tính bất định của chính thể (regime uncertainty). Lý thuyết này cho rằng, ngay cả khi giá thị trường đã giảm mạnh để thu hút các nhà đầu tư quay trở lại nền kinh tế thì các nhà đầu tư có thể vẫn e ngại vì chính sách công không ổn định khiến họ rất khó tính toán lợi nhuận cho chính xác. Tính bất định của chính thể không chỉ là tính bất định thông thường của hoạt động kinh doanh do sự thay đổi trong sở thích của người tiêu dùng, hay sự thực thi kém hiệu quả của một kế hoạch kinh doanh. Nó đề cập đến sự bất định phát sinh thêm bởi chính sách can thiệp của Chính phủ, nhìn bề ngoài thì có vẻ như được thiết kế để cải thiện các điều kiện nhưng thực ra là đang khiến tình hình tồi tệ hơn.

Luận văn của Bernanke được xuất bản năm 1980, ngay giữa ba thời kỳ đỉnh cao của tính bất định chính thể trong một thế kỷ qua: thập niên 1930, thập niên 1970 và từ năm 2010 đến nay.

Trong thập niên 1930, tính bất định bị gây ra bởi bản chất thất thường, lúc thế này lúc thế khác của những chính sách can thiệp mà Hoover-Roosevelt đưa ra trong việc kiểm soát giá, trợ giá, luật lao động, xung công vàng và nhiều lĩnh vực khác. Tính bất định càng thêm nghiêm trọng bởi các quyết định của Tòa án Tối cao ủng hộ chương trình này và hủy bỏ chương trình kia. Bất chấp lực lượng lao động không được sử dụng dồi dào và giá cả chạm đáy, trong thập niên 1930, các nhà tư bản vẫn thờ ơ cho đến tận khi đám mây bất định chính sách được gạt bỏ bởi sự cưỡng chế năm 1946. Chỉ đến khi Chính phủ tìm ra hướng đi đúng đắn, nền kinh tế Mỹ mới thoát khỏi Đại suy thoái.

Trong thập niên 1970, nền kinh tế Mỹ một lần nữa là nạn nhân của  sự bất định thể chế nghiêm trọng kéo dài 10 năm, bắt đầu với việc Nixon kiểm soát lương và giá cả, cấm chế độ bản vị vàng, rồi tiếp diễn bởi việc Jimmy Carter ban hành thuế lợi nhuận đánh trên lượng dầu thô khai thác được.

Tình trạng bất định thể chế cũng đang diễn ra trong nền kinh tế Mỹ ngày nay do các cuộc chiến ngân sách, quy định về chế độ chăm sóc y tế, chính sách thuế và luật môi trường. Vấn đề không phải là việc mỗi sự lựa chọn về chính sách thực chất tốt hay tồi. Hầu hết các nhà đầu tư có thể xoay sở thích nghi được khi Chính phủ đưa ra chính sách tồi. Điều cốt lõi là họ không biết chính sách nào sẽ được ủng hộ, do đó không thể tính toán được suất sinh lời nếu không biết đủ rõ về vốn rủi ro.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: James Rickards – Sự lụi tàn của đồng tiền – NXB TC 2017.