Thực trạng chính sách phát triển nông thôn hiện nay


PGS. TS Vũ Trọng Khải

Trong thời gian vừa qua, nhiều cuộc hội thảo khoa học và các phương tiện thông tin đại chúng đều phản ánh thực trạng nông nghiệp nông thôn, nông dân với biết bao vấn đề nảy sinh đang bức xúc đòi hỏi phải giải quyết. Dân số sống bằng nghề nông chiếm 70% dân số cả nước, 57% lực lượng lao động xã hội làm việc trong ngành nông nghiệp, nhưng chỉ tạo ra chưa đầy 20% GDP và do đó, về cơ bản họ cũng chỉ được hưởng lợi trong khuôn khổ con số đó mà thôi; Chênh lệch thu nhập giữa nông dân và thị dân ngày càng cao, với chỉ số Gini khoảng 0,43; Trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, và hội nhập kinh tế quốc tế, nông dân là tầng lớp dễ bị tổn thương nhất; Họ đang đứng bên lề của quá trình đó nên ít được hưởng lợi; Nông dân bị mất đất do phát triển công nghiệp, du lịch và đô thị mà không kiếm được kế sinh nhai mới; Môi trường tự nhiên và nhân văn ở nông thôn bị ô nhiễm nghiêm trọng với sự xuất hiện nhiều làng ung thư, các con sông chết, các giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống ngày càng bị mai một, tệ nạn xã hội nông thôn ngày càng gia tăng… Thế nhưng, theo tôi, còn một thực trạng nữa chưa hay ít được bàn tới là “thực trạng chính sách phát triển nông thôn với những vấn đề nảy sinh cũng rất bức xúc cần được giải quyết”. Bởi vì chúng là nguyên nhân đầu tiên và quan trọng nhất, nếu không nói là chủ yếu, gây ra tình trạng và các vấn đề nói trên trong nông nghiệp, nông thôn.

Viện chiến lược và chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn đã sưu tầm và Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia đã ấn hành các văn bản chính sách của Đảng và nhà nước về nông nghiệp, nông thôn trong 10 năm qua (1997 – 2007) với hơn 1000 trang khổ giấy lớn (A4). Cách đây hơn 2 tháng, báo Nông nghiệp Việt Nam đăng loạt bài phản ánh tình trạng các chính sách nông nghiệp, nông thôn của Đảng và nhà nước chưa thực sự đi vào cuộc sống, có khoảng cách lớn giữa văn bản chính sách và thực tế. Nhưng chưa có ai đặt câu hỏi và giải đáp vì sao lại xảy ra tình trạng này. Vậy thực trạng với những vấn đề nảy sinh trong chính sách nông nghiệp, nông thôn hiện nay là gì? Trả lời câu hỏi này sẽ lý giải vì sao có khoảng cách lớn giữa văn bản chính sách và thực thi chính sách trong nông nghiệp và nông thôn hiện nay.

Trong hơn 20 năm đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng, Đảng và nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách nông nghiệp, nông thôn. Có thể chia thành 2 loại chính sách dựa theo tiêu chí “cởi trói” và “thúc đẩy” để chuyển từ nền kinh tế nhà nước hóa, bao cấp, kế hoạch hóa tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường trong nông nghiệp, nông thôn, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều vì mục tiêu phát triển, nhưng có đạt được mục tiêu này hay không còn tùy thuộc vào sự đúng đắn và kịp thời của chính sách.

1. Những chính sách mang tính “cởi trói” đương nhiên đi vào cuộc sống một cách “tự nhiên” nhất, nhanh nhất, được thực thi đầy đủ nhất, hiệu quả nhất, ngay cả khi mới chỉ là văn bản của Đảng, chưa được nhà nước thể chế hóa thành luật pháp. Điển hình là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ban hành tháng 4/1988 về “đổi mới quản lý nông nghiệp” với nội dung quan trọng nhất là thừa nhận hộ nông dân là đơn vị tự chủ sản xuất trong nông nghiệp, khôi phục lại vị thế vốn có từ bao đời nay của kinh tế hộ nông dân, đã bị xóa bỏ trong suốt 30 năm tập thể hóa nông nghiệp, coi HTX dựa trên chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác, là đơn vị sản xuất và phân phối theo kế hoạch nhà nước. Còn các nội dung khác, rất toàn diện của Nghị quyết này ít khi được nhắc đến (!)

Điển hình quan trọng thứ hai là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986) và các nghị quyết sau đó của Đảng thừa nhận nền kinh tế thị trường như nó đã vốn có bao đời nay, xóa bỏ chính sách “ngăn sông, cấm chợ”, để hàng hóa, trong đó có nông sản, được tự do buôn bán, không phân biệt chủ thể (quốc doanh hay dân doanh), không giới hạn qui mô và địa giới hành chính. Đó là 2 ví dụ điển hình nhất của chính sách “cởi trói”, khôi phục lại bản chất vốn có của hoạt động kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng.

Để ban hành những chính sách cởi trói, người ta chỉ cần lương tâm và lòng dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận cái gì vốn có của đời sống kinh tế theo tinh thần “của César hãy trả lại cho César”. Hơn nữa, thực tiễn “xé rào” đã buộc những nhà hoạch định chính sách phải hành động “mở khóa” cho cái “lò xo” bấy lâu bị ép chặt và do đó cái “lò xo” này sẽ tự bật lên hết cỡ để trở về trạng thái vốn có ban đầu của nó, mà không cần bất kỳ một tác động nào khác đối với nền kinh tế. Nhưng cũng vì lập tức “bật trở lại” vị thế ban đầu, nên nền kinh tế không thể tạo ra khả năng phát triển mới về chất.

2. Những chính sách “thúc đẩy” thì hoàn toàn khác hẳn với chính sách “cởi trói”. Với vai trò thúc đẩy sự phát triển, đạt chất lượng mới cao hơn, nó phải được hoạch định có căn cứ khoa học và thực tiễn, đòi hỏi nhà hoạch định chính sách không chỉ có lương tâm và lòng dũng cảm mà điều quan trọng hơn là phải có trí tuệ. Trí tuệ được thể hiện bằng sự hiểu biết thấu đáo lý luận, kinh nghiệm nước ngoài và khả năng vận dụng lý luận, kinh nghiệm quốc tế vào thực tiễn Việt Nam để phân tích thực trạng, phát hiện vấn đề nảy sinh trong nông nghiệp, nông thôn, nguyên nhân của chúng và đề xuất giải pháp khả thi. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các nhà hoạch chính sách còn phải hiểu biết các quy định của WTO và thông lệ quốc tế. Sau nữa là năng lực thực thi chính sách của bộ máy công quyền và đội ngũ công chức. Mặt khác, thực tiễn luôn luôn thay đổi và phát triển, nên chính sách cũng phải thay đổi để thích ứng. Do đó, các nhà hoạch định chính sách còn phải luôn tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao hiểu biết lý luận và kinh nghiệm quốc tế để đổi mới chính sách và bảo đảm tính khả thi, hiệu lực và hiệu quả của chính sách. Lương tâm và lòng dũng cảm của nhà hoạch định chính sách thể hiện ở chỗ không bị các nhóm lợi ích cục bộ vận động hành lang chi phối, dẫn đến việc hy sinh lợi ích của nông dân – người “thấp cổ, bé họng”, trong hoạch định và thực thi chính sách.

Nhìn vào thực trạng hoạch định và thực thi chính sách phát triển nông thôn hiện nay, người ta có thể thấy rất nhiều vấn đề nảy sinh.

2.1. Sau một thời gian ban hành và thực thi một chính sách nào đó, kể cả Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) về đổi mới quản lý nông nghiệp, chúng ta cũng chưa tổ chức việc đánh giá độc lập do các nhà chuyên gia thực hiện để xác định tác động và hiệu quả của chính sách, mức độ đạt mục tiêu đã đề ra, các tác động tiêu cực và nguyên nhân của nó, sự không còn phù hợp của chính sách so với thực tiễn kinh tế- xã hội đang phát triển, trên cơ sở đó, chỉnh sửa hay ban hành chính sách mới, thay thế chính sách cũ lỗi thời; chấn chỉnh việc thực thi nếu chính sách đúng, phù hợp nhưng không được thi hành nghiêm chỉnh do bộ máy công quyền và công chức thiếu năng lực và trách nhiệm, hay bị các nhóm lợi ích cục bộ chi phối.

2.2. Chưa có một chính sách nào được ban hành dựa trên kết quả nghiên cứu của một đề tài khoa học. Mặc dù trong thời gian qua, rất nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp bộ về nông nghiệp, nông thôn, nông dân được thực hiện, nghiệm thu, với kinh phí hàng trăm tỉ đồng. Dường như quá trình ban hành chính sách của bộ máy công quyền và quá trình nghiên cứu khoa học của giới học thuật là “2 đường thẳng song song”. Việc nghiên cứu khoa học về kinh tế- xã hội nông thôn, về nông nghiệp, nông dân chưa được coi là một khâu bắt buộc trong quá trình ban hành chính sách. Chỉ đến khi những vấn đề nông dân, nông nghiệp nông thôn nảy sinh rất bức xúc, các phương tiện thông tin đại chúng lên tiếng gay gắt, các nhà hoạch định chính sách mới vào cuộc và ban hành các chính sách mang nặng tính chất xử lý tình huống và bị động. Nhiều dự báo khoa học đã được công bố trước đây 5, 7 năm, nay do thực tiễn nóng bỏng bức xúc, các nhà hoạch định chính sách mới ngộ ra, nhưng lại tưởng chính mình là người đầu tiên vửa “tìm ra châu Mỹ”.

– Khi nông dân bị mất đất, nhất là đất “thượng đẳng điền, bờ xôi ruộng mật” để làm khu công nghiệp, khu đô thị, sân golf, không có công ăn việc làm, bị bần cùng hóa, tạo ra xung đột xã hội nghiêm trọng, báo, đài phản ánh bằng các phóng sự gây xúc động lòng người, các nhà hoạch định chính sách mới vào cuộc, vội vã ban hành các lệnh “cấm” theo kiểu hành chính, hoặc xử lý trường hợp đặc biệt bằng cơ chế “xin – cho”; “phải được cấp có thẩm quyền, thậm chí là Thủ tướng, phê duyệt”. Cơ chế “xin – cho” là mảnh đất màu mỡ sinh ra “văn minh phong bì” thay cho văn minh lúa nước như là “nét văn hóa ứng xử” trong quan hệ giữa người dân, doanh nghiệp với công chức của bộ máy công quyền.

– Đất lúa bị mất hàng trăm ngàn hecta để làm sân golf, khu công nghiệp, giá lương thực trên thị trường thế giới tăng đột biến, để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, lệnh tạm thời dừng xuất khẩu gạo được ban hành vào đầu năm 2008. Đó cũng là một điển hình của việc xử lý tình huống của các nhà hoạch định chính sách. Nông dân bị thiệt kép, do bán lúa với giá thấp và mua vật tư nhập khẩu như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu với giá cao. Các công ty kinh doanh lương thực đã lỡ mua gạo dự trữ để xuất khẩu nay phải chịu chi phí lưu kho và trả lãi ngân hàng. Thái Lan một mình một chợ trên thị trường lúa gạo thế giới, đã bán được giá quá cao, khoảng 1.200 USD/tấn gạo. Đáng lý ra, Cục Dự trữ Quốc gia xuất tiền ngân sách nhà nước, thuê một số công ty lương thực mua đủ số gạo dự trữ tối đa đủ dùng trong 3 tháng. Sau đó, việc xuất nhập khẩu lúa gạo vẫn diễn ra bình thường. Như thế, nông dân và doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo sẽ không bị thiệt thòi.

– Khi báo chí phát hiện các làng ung thư, các dòng sông chết, gây bàng hoàng cho cả xã hội, thì bộ máy công quyền mới vào cuộc nhưng không thể xử lý triệt để vấn đề đã nảy sinh. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nước ngoài thích đầu tư vào Việt Nam vì giá phải trả cho việc bảo vệ môi trường quá rẻ, thậm chí bằng “0”. Họ đã biến nước ta thành bãi thải công nghiệp khổng lồ của thế giới.

– Khi phóng sự “một hạt thóc gánh 40 khoản phí” được đăng tải, giật mình, các nhà hoạch định chính sách đã vội xử lý bằng việc miễn thủy lợi phí cho nông dân. Thế là “lợi bất cập hại”.

Thực tế phổ biến là nông dân vẫn không được miễn khoản thu này, vì các cơ quan chức năng lúng túng trong việc thực hiện. Khó thực hiện vì chính sách này thiếu cơ sở khoa học. Người ta chỉ nên miễn giảm các khoản đóng góp của nông dân từ thu nhập – đầu ra của quá trình sản xuất, để vừa nâng cao mức sống cho họ, vừa bảo đảm sự công bằng giữa cư dân nông thôn và thị dân, như các khoản đóng góp xây dựng trường học, trạm y tế, đường giao thông, hệ thống truyền tải điện đến từng nhà, quỹ bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo vệ đê điều, phòng chống thiên tai… Còn các chi phí thuộc đầu vào của quá trình sản xuất, như tiền mua giống, phân bón, dịch vụ tưới- tiêu nước… người sản xuất phải đầu tư, mới không làm méo mó thị trường theo quy định của WTO. Mặt khác, phải bỏ tiền mua vật tư, dịch vụ đầu vào, người sản xuất mới tiết kiệm sử dụng, người cung ứng mới có trách nhiệm và điều kiện tài chính thực hiện theo yêu cầu của khách hàng, xóa bỏ cơ chế “xin – cho”. Nếu theo logic này, nhà nước phải miễn cho nông dân cả tiền mua giống, phân bón, thuốc bảo vệ cây trồng, vật nuôi (!) thậm chí cả tiền thuê dịch vụ làm đất, thu hoạch nông phẩm theo thứ tự ưu tiên “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” (?). Khi không phải trả thủy lợi phí, nông dân phải xin Công ty thủy nông tưới và tiêu nước. Công ty thủy nông phải xin cơ quan tài chính cấp vốn hoạt động, mà vốn thường cấp vừa thiếu vừa không kịp thời do định mức thấp, bộ máy quan liêu, thiếu trách nhiệm, do cơ chế quản lý tài chính công được thiết kế và vận hành theo “nguyên lý Trạng Quỳnh”. Khi đó, người nông dân phải “biết điều” đưa phong bì cho người có trách nhiệm của Công ty thủy nông, nhất là lúc mùa vụ, ruộng nào cũng cần tưới, lúc úng lụt, ruộng nào cũng cần tiêu nước; còn Công ty thủy nông cũng phải “biết điều” với cơ quan tài chính để nhận được vốn kịp thời. Trong điều kiện luôn mất cân bằng thu-chi và bội chi ngân sách, lạm phát như hiện nay, việc cấp vốn cho Công ty thủy nông lại càng khó khăn. Công ty thủy nông sẽ không có vốn để tu bổ nạo vét kênh mương, sửa chữa máy bơm, trả tiền điện…

Công ty thủy nông đã từ một doanh nghiệp dịch vụ nông nghiệp thành một cơ quan dịch vụ công mà ta thường gọi là đơn vị sự nghiệp công ích. Hậu quả là tưởng giảm bớt gánh nặng cho nông dân, cho hạt lúa, trên thực tế là tăng chi phí, gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho tiêu cực phát sinh, không kiểm soát được.

– Luật đất đai chỉ hạn chế qui mô diện tích (hạn điền) đối với hộ nông dân khi giao đất và nhận chuyển quyền sử dụng đất. (2ha đất cây hàng năm/hộ ở các tỉnh phía Bắc và 3 ha cây hàng năm/hộ ở các tỉnh Nam Bộ), nhưng không hạn điền đối với doanh nghiệp. Thời gian sử dụng đất cũng vậy. Hộ nông dân chỉ được sử dụng 20 năm đất trồng cây hàng năm. Với thời hạn sử dụng đất quá ngắn và mức hạn điền quá thấp, nông dân không thể mạnh dạn đầu tư vốn lớn để tạo lập các trang trại sản xuất nông sản hàng hoá, thực hiện cơ giới hoá, áp dụng công nghệ cao để đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Do đó, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá nước ta trên thị trường trong và ngoài nước yếu kém là điều dễ hiểu. Trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) ghi rõ thời hạn hết quyền sử dụng đất là 2013 kể từ năm Luật Đất đai có hiệu lực 1993. Thế mà người lãnh đạo cao nhất của Bộ Tài nguyên- môi trường lại lên TV nói là nông dân ngộ nhận!? Trong khi đó các doanh nghiệp cả trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp đều có quyền thuê đất để kinh doanh 50 – 70 năm tùy dự án. Thực ra, nếu người nông dân biết lách luật, hai vợ chồng cũng có thể lập công ty trách nhiệm hữu hạn để có thể tích tụ ruộng đất và kéo dài thời gian sử dụng đất theo luật, với tư cách là một doanh nghiệp. Cùng thực hiện một hành vi là sử dụng đất để kinh doanh sản xuất nông nghiệp, hộ nông dân bị hạn điền, thời gian sử dụng đất 20 năm, còn doanh nghiệp thì không. Điều đó có nghĩa là các nhà hoạch định chính sách đã vi phạm nguyên tắc: “Luật pháp, chính sách nhà nước không phân biệt đối xử giữa các chủ thể (cá nhân hoặc tổ chức) cùng thực hiện một hành vi”. Điều đó xúi giục người ta nói dối nhau. Người dân, doanh nghiệp dối bộ máy công quyền. Công chức biết họ nói dối nhưng phải chấp nhận vì không trái luật. Thế mà có ý kiến cho là “quyền sử dụng đất” của nông dân nước ta còn rộng hơn quyền sở hữu ruộng đất của các nước tư bản phát triển. Hạn chế mức độ diện tích đất nông nghiệp của hộ nông dân vì sợ tích tụ ruộng đất làm nông dân mất đất, thất nghiệp nhưng chính sách lại không hạn chế tích tụ ruộng đất để làm sân golf, khu công nghiệp, khu đô thị. Có tỉnh xây dựng hàng chục sân golf, sử dụng hàng ngàn ha đất nông nghiệp. Nông dân mất đất, bị bần cùng hóa, tràn ra thành phố bán sức lao động cơ bắp với giá rẻ mạt và gây quá tải cho thành phố cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Lực lượng lao động này chỉ có thể làm những công việc như xây dựng, dệt may, làm da giày… vì thời gian huấn luyện tương đối ngắn với kỹ thuật tương đối giản đơn. Khi đến 35, 40 tuổi, sau khi đã bị vắt kiệt sức, họ sẽ bị các doanh nghiệp sa thải. Quay trở về nông thôn với hai bàn tay trắng, lực lượng lao động này sẽ là một gánh nặng to lớn cho nông thôn vốn đã ít đất, thiếu việc làm, lại đang bị ô nhiễm trầm trọng. Không thể lường trước được hậu quả kinh tế – xã hội sẽ xảy ra như thế nào. Phải chăng các nhà đầu tư nước ngoài đã chi phối được nhà hoạch định chính sách nên lợi ích của nông dân bị hy sinh vì lợi ích của các ông chủ tư bản?

Nói như vậy không có nghĩa là phản đối việc phát triển công nghiệp và đô thị để bảo vệ nền nông nghiệp truyền thống. Vấn đề là ở chỗ, một mặt phải đào tạo nghề cho nông dân để họ có thể có cơ hội kiếm việc làm trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, phải phát triển các khu công nghiệp và đô thị ở vùng nông thôn, tạo thành một hệ thống các đô thị vừa và nhỏ theo cấu trúc “một trung tâm với nhiều vệ tinh”. Không nên phát triển các siêu đô thị như hiện nay. Có như vậy mới đô thị hoá nông thôn nhanh chóng và hiệu quả.

– Không tích tụ ruộng đất, sản xuất nông nghiệp làm sao có hiệu quả? Làm sao có thể cơ giới hóa nông nghiệp, thực hiện sản xuất theo GAP để bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái? Làm sao tạo ra vùng nông nghiệp hàng hóa chuyên canh quy mô lớn đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường?… Thực tế đã xuất hiện việc tích tụ ruộng đất “chui” như cách đây hơn 20 năm, người ta đã thực hiện khoán “chui”. Khi tích tụ ruộng đất để lập các trang trại lớn, người nông dân mất đất, đặc biệt là đối với nông dân trung niên, thường có cơ hội kiếm việc làm với thu nhập cao và ổn định ngay trên mảnh đất trước đây của mình, hơn là đến các khu công nghiệp. Khi có các trang trại lớn, các HTX đích thực mới có thể hình thành và phát triển, sản xuất theo hợp đồng giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp mới có thể thực hiện phổ biến, mang lại lợi ích cho cả hai bên.

– Theo Luật Đất đai, nông dân chỉ được đền bù giá trị quyền sử dụng đất khi nhà nước chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp thành đất xây dựng đô thị, khu công nghiệp, sân golf. Nông dân không có quyền mặc cả với nhà đầu tư về giá cả chuyển nhượng đất. Nhưng khi đất đã thuộc quyền sử dụng của các chủ doanh nghiệp- nhà tư bản, dù chỉ là thuê đất, nếu nhà nước cần lấy lại để xây dựng kết cấu hạ tầng, hay một ai khác muốn thuê lại, đều phải thương lượng bình đẳng thuận mua vừa bán, theo cơ chế thị trường. Nông dân lại bị luật pháp xếp vào “chiếu dưới” so với các nhà tư bản.

– Giá đất nông nghiệp dù có được xác định trên cơ sở thuận mua vừa bán, cũng rất rẻ, không đủ để “tái định cư” theo đúng nghĩa cho người nông dân mất đất nông nghiệp. Ví dụ giá 500.000đ/m2 đất nông nghiệp nhưng chỉ cần nhà nước ban hành quy hoạch khu dân cư đô thị hay khu công nghiệp, và ra quyết định giao đất cho nhà đầu tư, chưa cần xây dựng bất cứ một công trình hạ tầng nào, giá đất cũng đã tăng lên 4-5 lần, có thể là 2.000.000đ/ m2. Khoản chênh lệch 1,5 triệu đồng này là địa tô cấp sai 2 thuộc sở hữu nhà nước, bởi do nhà nước quyết định quy hoạch, nhưng nhà đầu tư lại được hưởng. Lẽ ra, nhà nước phải dùng khoản thu này, thông qua đấu giá, để “an cư lạc nghiệp” cho nông dân mất đất theo đúng khái niệm “tái định cư” mà cả thế giới quan niệm. Cũng không thể xử lý bằng cách như có chuyên gia kinh tế đề nghị là nhà đầu tư trả một phần tiền mua quyền sử dụng đất của nông dân bằng cổ phiếu công ty của mình, để giải quyết kế sinh nhai cho họ sau khi mất đất. Bởi nông dân không đủ khả năng làm chủ cổ phần hay đồng sở hữu chủ công ty với nhà đầu tư. Rồi thì nông dân cũng phải bán “lúa non” cổ phần của mình như phần lớn công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa mặc dù họ được mua cổ phần với giá ưu đãi. Kinh nghiệm nước Nga hậu Xô-Viết cũng vậy. Nhà nước Nga chia tài sản quốc gia cho mọi công dân bằng coupon, để rồi họ bán rẻ cho các nhà đầu tư, nhanh chóng tạo ra các ông tỉ phú trẻ như Abramovich hay Khodorovski. Nhà nước phải sử dụng khoản địa tô cấp sai 2 do mình tạo ra để đào tạo nghề cho nông dân trẻ và lập quỹ an sinh cho nông dân trung niên, không thể chuyển đổi nghề nghiệp được. Không thể để tình trạng nông dân bán 4.000 m2– 5.000 m2 đất nông nghiệp mà không đủ tiền mua lại 01 nền nhà 80 m2 của chủ đầu tư ngay trên mảnh đất nông nghiệp của mình trước đây.

Không giải quyết rốt ráo, có căn cứ khoa học và thực tiễn vấn đề đất đai, chắc chắn sẽ dẫn đến bần cùng hóa nông dân trên diện rộng, tạo ra xung đột xã hội gay gắt, trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa. Phải chăng chính sách đất đai hiện nay bị chi phối bởi các nhà đầu tư nên đang bảo vệ lợi ích của họ và hy sinh lợi ích của nông dân?

2.3. Các nhà hoạch định chính sách cũng ít khi hỏi ý kiến người dân và doanh nghiệp, những người chịu tác động trực tiếp của các chính sách này, và không tính toán khả năng thực thi chính sách của bộ máy công quyền. Điển hình là chính sách cấm xe ba – bốn bánh tự chế và xe công nông. Trong nông nghiệp, xe công nông cũng như xe Đông Phong (Trung Quốc), Kubota (Nhật Bản) đều là loại máy kéo nhỏ dưới 15CV, rất thích hợp cho nền nông nghiệp có qui mô ruộng đất của mỗi nông hộ và diện tích mỗi thửa ruộng rất nhỏ hẹp như Việt Nam, Nhật, Đài Loan, Trung Quốc. Nó chỉ là máy kéo đa năng, có thể lắp các loại máy nông nghiệp khác nhau, như máy cày-xới, máy gieo hạt, mát bơm nước, máy suốt lúa, và khi lắp rơ-moóc, nó có thể vận chuyển vật tư ra đồng và chở nông sản về nhà, rất thuận tiện. Nếu cấm sử dụng loại máy đa năng này thì làm sao có thể cơ giới hóa nền nông nghiệp Việt Nam? Nhiều nơi, nông dân đã phải khôi phục xe trâu, bò kéo thay thế cho xe công nông.

Mục đích của việc cấm loại xe này hoạt động là để bảo đảm an toàn giao thông và bảo vệ môi trường sinh thái. Tất cả các phương tiện vận tải đều phải tuân thủ tiêu chuẩn kỹ thuật do nhà nước ban hành về an toàn giao thông và môi trường mới được hoạt động, chứ đâu phải chỉ có xe ba-bốn bánh tự chế và xe công nông. Biết bao tốn kém tiền bạc, thời gian của nhà nước và người dân, biết bao xáo trộn xã hội do chính sách này gây ra. Phải chăng các nhà sản xuất và nhập khẩu xe ba bánh Trung Quốc đã chi phối được nhà hoạch định chính sách? Bộ máy công quyền các cấp và người dân đang rất lúng túng, hoang mang trong việc thực thi chính sách này. Cần phải lấy ý kiến của người và tổ chức chịu tác động trực tiếp của chính sách, coi đó là một khâu bắt buộc trong quy trình hoạch định chính sách.

3. Giải quyết vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn chính là áp dụng lý luận phát triển nông thôn bền vững vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Theo đó, nâng cao chất lượng sống cả vật chất và tinh thần của nông dân và dân cư nông thôn nói chung vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp phát triển nông thôn. Nội dung của phát triển nông thôn bao gồm 4 quá trình: (i) công nghiệp hóa, hiện đại hóa; (ii) đô thị hóa; (iii) kiểm soát dân số; (iv) bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên và nhân văn, theo những tiêu chuẩn của nền văn minh nhân loại và truyền thống văn hóa Việt Nam. Thực hiện 4 quá trình này, tỉ lệ dân số và sức lao động nông nghiệp trong tổng dân số và lực lượng xã hội phải giảm tương ứng với tỉ lệ GDP nông nghiệp trong GDP của nền kinh tế. Do đó, phát triển nông thôn bền vững đã bao hàm việc phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Không nên theo cách gọi ngắn kiểu Trung Quốc: “tam nông” (do dùng chữ tượng hình, nên người Trung Quốc gọi như vậy cho dễ viết). Sự thành bại của quá trình phát triển nông thôn với 4 nội dung nêu trên quyết định sự thành bại của công cuộc chấn hưng đất nước, biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại, văn minh. Chính sách nhà nước, khuôn khổ pháp luật được hoạch định đúng đắn là điều kiện tiên quyết đối với sự nghiệp phát triển nông thôn. Chính sách, luật pháp của nhà nước pháp quyền chỉ phân biệt đối xử giữa các hành vi khác nhau, không phân biệt đối xử đối với các chủ thể (cá nhân, tổ chức) cùng thực hiện một hành vi. Xã hội dân sự phải có các tổ chức phi chính phủ, không hoạt động bằng ngân sách nhà nước, đại diện cho các nhóm lợi ích khác nhau, bình đẳng trước pháp luật trong việc tham gia nghiên cứu đề xuất, phản biện, đánh giá độc lập để hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Cần thiết phải luật hoá quy trình ban hành chính sách, trước tiên là quy trình hoạch định chính sách phát triển nông thôn bền vững.

Nguồn: Bài đăng lần đầu trên Nông nghiệp Việt Nam ngày 9/10.07.2008.

Advertisement

Nông sản Việt tìm đường “thoát Trung Quốc”


Nông sản chiến lược của Việt Nam là gạo và cao su đang lệ thuộc lớn vào thị trường tiêu thụ Trung Quốc. Trong bối cảnh Trung Quốc xâm lăng chủ quyền biển đảo Việt Nam, xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc cả tiểu ngạch lẫn chính ngạch có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Kinh tế Việt Nam sẽ lung lay?

Cán cân thương mại Việt Nam-Trung Quốc mất quân bình rất lớn, tổng trị giá hàng hóa Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc trong năm 2013 là 36,9 tỷ USD. Ngược lại Việt Nam đã xuất khẩu 13,3 tỷ USD hàng hóa sang trung quốc, phần lớn là nông thủy sản, khoáng sản.

Nếu Trung Quốc trừng phạt thì nền kinh tế Việt Nam sẽ lung lay, ngành dệt may da giày xuất khẩu có thể gặp khủng hoảng vì phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập của Trung Quốc. Hơn nữa kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản sản cũng bị ảnh hưởng lớn, vì tổng lượng mặt hàng này xuất qua Trung Quốc chiếm tỷ lệ hơn 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của cả nước.

Có mặt ở Philippines để tham dự Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới khu vực Đông Á, tối 21/5/2014 TS Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn từ Manila nhận định:

“Trước hết trong khi Việt nam đấu tranh để bảo vệ chủ quyền đang diễn biến, thì chuyện kinh doanh buôn bán thương mại giữa hai nước vẫn diễn ra một cách bình thường và chúng ta cũng mong muốn nó diễn ra bình thường. Tuy nhiên là trong mọi tình huống phải luôn luôn chủ động để đảm bảo được thị trường xuất khẩu cả chính ngạch và tiểu ngạch. Chính vì thế công tác nghiên cứu thị trường, công tác chuẩn bị thị trường hiện nay đang được đẩy mạnh. Và chỉ không có trong trường hợp xấu mà đến khi xảy ra gây khó khăn chúng ta mới phải lo chuyện này. Trong thời gian gần đây vấn đề thị trường của Việt Nam rõ ràng là vấn đề phải ưu tiên hàng đầu để mở rộng nó ra, chọn những thị trường đa dạng hơn, thị trường cao cấp hơn. Khâu phát huy thị trường hiện nay được đẩy mạnh khá tốt và tôi nghĩ là không chỉ riêng vấn đề thị trường Trung Quốc mà trên các thị trường khác ở châu Âu, ở châu Mỹ, ở các nước bắc Âu so với các nước bắc Á thì hoạt động nghiên cứu tiếp thị diễn ra rất mạnh.”

Trong số các mặt hàng nông sản chiến lược của Việt Nam phụ thuộc thị trường tiêu thụ Trung Quốc, năm 2013 Việt Nam xuất chính ngạch sang Trung Quốc hơn 2 triệu tấn gạo chiếm 1/3 tổng lượng gạo xuất khẩu, ngoài ra thương nhân còn xuất tiểu ngạch qua biên giới phía bắc khoảng 1,6 triệu tấn gạo nữa. Cùng năm 2013, Việt Nam xuất qua Trung Quốc 507.000 tấn mủ cao su chiếm 47% tổng lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam.

Mặc dù trong quá khứ rất nhiều lần Trung Quốc bất ngờ cấm biên làm hàng hóa xuất tiểu ngạch ứ đọng ở cửa khẩu, làm nhiều mặt hàng nông sản bị hư hỏng gây thiệt hại cho nông dân. Tuy vậy phải nhìn nhận rằng con đường xuất khẩu tiểu ngạch đã góp phần tiêu thụ nông sản cho nông dân, trong bối cảnh Việt Nam bị động về thị trường tiêu thụ nông sản.

Cần thay đổi phương cách tiếp thị

Trước tình hình Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng biển Việt Nam đã ba tuần lễ và chưa có dấu hiệu di dời, cũng như chuyện Trung Quốc đưa 4 tàu thủy sơ tán hơn 3.000 công nhân người Hoa khỏi Hà Tĩnh sau các vụ biểu tình bạo động, nhiều thương nhân e ngại Trung Quốc có thể làm khó khăn đối với hàng hóa Việt Nam qua đường tiểu ngạch. Thạc sĩ Hoàng Việt một chuyên gia nghiên cứu Biển Đông từ Saigon nhận định:

“Thông báo mới nhất thì Trung Quốc chưa trả đũa gì cả. Nhưng mà chuyện này đã xảy ra ở Việt Nam từ rất nhiều năm, thương lái Trung Quốc qua Việt Nam mua nhiều mặt hàng rất là lạ và ngược lại những mặt hàng Việt Nam xuất qua Trung Quốc như dưa hấu, mủ cao su, hạt điều chẳng hạn thì Trung Quốc lập ra những rào cản kỹ thuật, những nông sản này không để được lâu cho nên nó hạ giá hàng loạt và làm cho đời sống của người nông dân rất là khó khăn, đó là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp. Còn từ căng thẳng giữa hai bên trên biển này, giữa một Trung Quốc tuyên bố chính thức để trả đũa Việt Nam về kinh tế như là đối với Philippines thì cho đến bây giờ chưa có thông tin về chuyện đó.”

Căng thẳng với Trung Quốc đặt ra những cảnh báo mới về vấn đề xuất khẩu hàng hóa qua Trung Quốc cả tiểu ngạch cũng như chính ngạch. TS Đặng Kim Sơn nhận định:

“Xuất nhập tiểu ngạch có những rủi ro, cả về tình trạng gian lận thương mại, lẫn tình trạng rủi ro về khối lượng về thời gian về các tiêu chuẩn chất lượng… Trong tương lai càng sớm càng tốt phải tính lại chuyện này để đảm bảo xuất khẩu tiểu ngạch mang tính chất chính quy hơn. Ngay cả chuyện xuất khẩu chính ngạch cũng như tiểu ngạch đều phải biết rõ mục tiêu cuối cùng, địa điểm cuối cùng cũng như các tiêu chuẩn và tính cách của khách hàng rõ ràng hơn.”

Theo lời TS Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn: Dù có xảy ra tình hình khó khăn với Trung Quốc hay không, thì quá trình tái cơ cấu lại nền nông nghiệp Việt Nam cũng phải thay đổi phương cách tiếp thị thương mại và phát triển thị trường. Theo lời ông, bây giờ đã đến lúc phải tiến hành nghiên cứu cẩn thận thị trường và xúc tiến thương mại một cách bài bản trước hết với những sản phẩm Việt Nam coi là sản phẩm chiến lược.

Nguồn: RFA 22/05/14

Quy trình ngược của Bộ công thương


Trong vụ dưa hấu ứ đọng tại cửa khẩu Lạng Sơn chằng những thương lái lỗ nặng mà người trồng dưa khắp nơi không thể bán đã khiến dư luận xã hội đặt câu hỏi: việc tiếp thị nông phẩm và nghiên cứu cây trồng cho thích hợp với thị trường thế giới bấy lâu nay ra sao. Mặc Lâm có cuộc phỏng vần GSTS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Đại học Nam Cần Thơ để có thêm chi tiết về câu chuyện được mùa mất giá này.

Mặc Lâm: Thưa GS mới đây nhân vụ dưa hấu tồn đọng tại cửa khẩu Tân Thành, Lạng Sơn thì ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu của Bộ Công Thương nói rằng sẽ dành kinh phí xúc tiến thương mại quốc gia để thuê các nhà tư vấn của Trung Quốc nghiên cứu đưa ra cho Việt Nam những tư vấn phương hướng thâm nhập thị trường này. GS nghĩ sao về phương án mà dại diện Bộ công thương đưa ra?

GS Võ Tòng Xuân: Nói như thế là cái ông này bất lực. Ông Bộ Công thương này rất bất lực từ trước đến giờ. Ổng không có các bộ phận đi khắp nơi trên thế giới tìm thị trường hoặc mở thị trường cho một sản phẩm nào của Việt Nam. Ổng cứ ở nhà và ông có một cái quỹ để mà xúc tiến thương mại. Qũy này tôi không biết mấy ổng sài như thế nào nhưng mà tôi nghe phong phanh là lâu lâu tổ chức cho một số doanh nghiệp đi chơi, rồi cũng đóng tiền cho ổng, nhưng tổ chức đi chơi cũng lấy cái quỹ đó. Đi chơi vậy thôi chứ không phải đi tìm thị trường hay mở thị trường, cho nên cuối cùng là các doanh nghiệp cũng mù tịt không có thông tin thị trường.

Mặc Lâm: Như vậy theo GS Bộ Công thương phải làm gì mới phù hợp với tiến trỉnh giúp nông dân giải quyết việc bán nông phẩm của họ ra với quốc tế?

GS Võ Tòng Xuân: Đáng lẽ ra Bộ Công thương phải có một bộ phận xúc tiến thương mại, phải rất rành rõi về thị trường quốc tế, phải là những người thông thạo ngoại ngữ để đi sang Trung Quốc coi thị trường Trung Quốc thế nào. Họ đang cần cái gì, và mình sẽ coi những công ty nào họ đang phân phối những món hàng đó thì mình phải gắn kết công ty đó với công ty ở Viêt Nam, để hai công ty đó làm việc với nhau thì công ty Việt Nam này sẽ biết công ty Trung Quốc bên kia đang cần gì.

Họ có mạng lưới phân phối thì bên đây mình ký hợp đồng với họ  đàng hoàng. Rồi bên đây mình lo tổ chức cho nông dân trồng, căn cứ con số chính xác bên kia bao nhiêu thì người ta nhận bao nhiêu.

Chứ bây giờ, ông Bộ Công thương nói mời Trung Quốc qua, chứng tỏ ông rất bất lực, Ổng chính là người phải đi qua bên kia, đi tìm, đi qua Philippine coi thị trường Philippine cần cái gì, gạo thì luôn luôn nó cần đến mình rồi. Bây giờ cái chương trình sản xuất của người ta như thế nào để mình ước tính là lượng gạo người ta nhập sắp tới là bao nhiêu để mình chuẩn bị bên đây rồi ký hợp đồng với công ty gì bên kia. Rồi Indonesia cũng vậy, Trung Đông cũng vậy, Châu Phi cũng vậy, chứ không phải là mấy ổng mời người ta vô đây người ta đâu có phải vì mình đâu. Không chắc gì người ta vì mình, cho nên mình phải đi. Tôi thấy ngạc nhiên sao mà ông này kém quá kém không thể nào tổ chức được mà lại phải nhờ người ngoài vô tổ chức,

Mặc Lâm: Theo kinh nghiệm của GS ông có cho rằng việc này một phần do lỗi của người nông dân hay không?

GS Võ Tòng Xuân: Người ta nói là từ ông nông dân, ông nông dân có cái tập quán bắt chước, theo hùa, thấy người ta trồng gì là bắt chước trồng theo mà không cần biết thị trường có đòi hỏi hết hay không? Có bắt chước trồng sau, hùa theo trồng, khi mà hùa theo trồng rồi thì họ không để ý đến qui luật cung cầu, cung nhiều quá mà cầu thì không tăng thì giá phải rớt, rất dễ biết.

Mặc Lâm: Nhưng vai trò của nhà nước là trợ giúp hay tư vấn cho người nông dân  và nhất là thông tin chính xác cho họ biết những gì nên làm?

GS Võ Tòng Xuân: Nông dân mình có cái đặc tính khi trồng ra cái gì thì nhà nước phải mua hết! đâu có phải như vậy, nhà nước đâu có mua nhà nước chỉ hô hào vậy thôi, ai mua thì mua chứ ổng không mua. Lý do thứ nhất họ cứ nhắm mắt chạy hùa theo mấy người khác không cần biết gì hết mà cũng không đỗ lỗi được cho họ được, tại vì nhà nước không có những thông tin thị trường chính xác, kịp thời cho nông dân mình, cứ để cho nông dân muốn trồng gì trồng, muốn chặt gì chặt, tất là không có hướng dẫn thị trường như thế nào hết.

Bây giờ trên thế giới người ta đang cần cái gì, nước nào đang cần cái gì, thì mình ở đây phải lo sản xuất cái đó, đáp ứng cho thị trường thế giới. Nhà nước buông lỏng, không có thông tin thị trường gì hết. Trong khi đó mấy ổng cứ đi chỗ này, chỗ kia trồng cây lúa, trồng gạo này, trồng gạo kia. Lúa gạo mình quá nhiều cho nên mình phải như thế.

Cũng như bây giờ nói chuyện dưa hấu, để mà xuất khẩu sang bên Tàu thì hiện giờ không có ai, không có không tin tức gì hết. Cứ tưởng đâu một tỷ mấy người Tàu đều ăn dưa hấu của Việt Nam hết! nhưng mà mình sản xuất bao nhiêu thì họ ăn cũng không đủ.

Bây giờ dù thủ tục đi qua khỏi hải quan rồi, bên kia các công ty nào nó tiếp nhận nó mua, nó phân phối thì mình hoàn toàn không nắm vững. Nhà nước chúng ta thì vậy, ổng không nắm thị trường, ổng quy hoạch là vùng này trồng cái này, vùng nọ trồng cái kia,

Mặc Lâm: Việc thu mua nông sản của các công ty nhà nước từ trước tới nay vẫn bị cho là không khác gì với cách trục lợi của nhà buôn tư doanh, chỉ biết chờ người nông dân thu hoạch và thương lái nước ngoài kéo vô mới bắt đầu thu gom. Theo GS thì việc này ra sao?

GS Võ Tòng Xuân: Do mấy doanh nghiệp của Việt Nam mình không năng nỗ, từ ông tổng công ty lương thực cho đến các ông khác rất là thụ động, chờ thương lái ở ngoài vô. Họ hỏi có gì không? Có rồi đi gom, đi gom chỗ này chút, chỗ kia chút mà không có những kế hoạch cụ thể chỉ căn cứ trên thị trường của họ. Bây giờ bản thân họ không đi tìm thị trường và mở thị trường. Cụ thể là Bộ công thương và Bộ Nông nghiệp không có ai lo vấn đề đi tìm hiểu cũng như mở thị trường.

Ông doanh nghiệp cũng không đi luôn thì thành ra cứ làm mò thôi, và kiểu ăn sổi ở thì khi mà có thương lái nước ngoài nào vô hỏi mấy ổng có cái gì bán không thì mấy ổng nói có! Xong rồi mấy ông mới kéo đội quân thương lái đi gom. Như thế làm sao mà chất lượng hàng hóa của mình đồng đều với nhau. An toàn vệ sinh thực phẩm, giá thành hạ thì làm sao mấy ổng có cái đó, cho nên chính những yếu tố này khiến cho việc được mùa rớt giá cứ tiếp diễn mãi trong 30 năm nay rồi.

Mặc Lâm: Xin cám ơn Giáo sư.

Nguồn: RFA 16/04/14

Về chính sách tái cơ cấu nông nghiệp


Chính phủ Việt Nam tỏ ra chậm chạp trong việc tìm đối sách giải quyết nghịch lý nông nghiệp. Tổng số tiền xuất khẩu gạo mỗi năm không đủ để chi cho nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như bắp và khô dầu đậu nành.

Sự sai lầm của chính sách nông nghiệp

Năm 2013, Việt Nam xuất khẩu 6,6 triệu tấn gạo trị giá 2,9 tỷ USD nhưng đã phải nhập khẩu 9,2 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trị giá 4,5 tỷ USD. Trong đó, lượng ngô nhập khẩu lên tới hơn 2 triệu tấn và hơn 4 triệu tấn khô dầu đậu nành, tức bã đậu nành sau khi đã ép để lấy dầu.

Chính sách nông nghiệp tập trung vào lúa gạo sau ba thập niên đã lộ rõ sự sai lầm, người trồng lúa khốn khổ trong khi gạo Việt Nam luôn bán giá thấp. Nếu nhà nước nhìn xa trông rộng thì tình hình đã không đến nỗi bế tắc như hiện nay. Ông Phạm Đức Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam từ Đồng Nai nhận định: “Đây là một sự sai lầm nghiêm trọng trong chính sách nông nghiệp của Việt Nam. Trước đây, có ảnh hưởng tâm lý về an ninh lương thực của những vụ đói trước đây tạo ra suy nghĩ của người Việt Nam chỗ nào cũng phải trồng lúa. Ngay cả những vùng đất gò đồi, người ta cũng trồng lúa thay vì trồng ngô. Không có những chính sách khuyến nông để trồng ngô dẫn tới không có đầu tư, không có công nghiệp hóa, cơ giới hóa trong việc trồng ngô thu hoạch nó, phương tiện sơ chế không có. Đây là sai lầm… tự hào về việc xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới và cứ đeo đuổi mục tiêu đó. Theo bản thân chúng tôi suy nghĩ, hiện nay có thể nhà nước và Bộ NN & PTNT đã nhìn ra. Thứ nhất là kế hoạch chuyển 200.000 ha trồng lúa sang trồng ngô, với 200.000 ha này trồng ngô mỗi năm một vụ thì với năng suất khiêm tốn 5 tấn/ha thì một vụ có 1 triệu tấn ngô, trồng hai vụ sẽ có 2 triệu tấn, và nếu nhà nước Việt Nam và Bộ NN & PTNT cho phép trồng cây ngô biến đổi gien thì năng suất tăng gấp đôi, coi như Việt Nam sẽ có 4 triệu tấn ngô. Nếu việc này trở thành hiện thực thì trong tương lai gần Việt Nam không phải nhập bắp nữa”.

Trên thực tế, Việt Nam có diện tích trồng ngô khoảng hơn 1 triệu ha, sản lượng trung bình từ 4  – 5 triệu tấn. Hiện nay, giá ngô sản xuất trong nước cao hơn ngô nhập khẩu từ 100 – 200 đồng/kg, mặc dù ngô nhập khẩu có chịu thuế VAT và chi phí vận chuyển hàng hải. Theo Bộ NN & PTNT trong 4 tháng đầu năm 2014, lượng ngô nhập khẩu lên đến hơn 2,04 triệu tấn trong khi cả năm 2013, con số này là 2,26 triệu tấn. Ngô nhập khẩu ồ ạt được cho là vì giá thế giới giảm, đã làm cho nông dân trồng bắp ế ẩm phải bán hạ giá mà vẫn không thể cạnh tranh.

Trao đổi với Nam Nguyên, Phó Chủ tịch Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Phạm Đức Bình cho rằng, ngành trồng ngô cần tăng năng suất, tăng chất lượng giảm chi phí thì mới có thể cạnh tranh với ngô nhập khẩu từ Mỹ, Argentina…

“Tại sao các công ty Việt Nam nhập khẩu nhiều bắp từ nước ngoài, lý do vì mua ở Việt Nam mua số lượng nhiều không có. Chất lượng thì không đồng đều, thứ nhất vụ ngô chính của Việt Nam gieo khi mùa mưa đến và khi thu hoạch thì gặp lúc mưa dầm, hệ thống sấy để tồn kho không có, cho nên chất lượng không đều và số lượng cũng không nhiều. Ví dụ một đêm chúng tôi có thể mua trên thị trường CBOT một tàu hàng 100.000 tấn rất dễ dàng. Nhưng ở Việt Nam, nếu mua được một khối lượng như thế thì phải tổ chức rất nhiều điểm thu mua, nhưng chất lượng thì không tin tưởng, chất lượng không đồng nhất dẫn tới bảo quản rất khó. Đây là những hạn chế của sản xuất ngô của Việt Nam.

Câu chuyện tái cơ cấu nông nghiệp

Trong dịp trả lời chúng tôi, GS Bùi Chí Bửu nguyên Viện trưởng Viện KHKT NN miền Nam nói rằng, Việt Nam có thể tăng sản lượng bắp nếu có chính sách và đầu tư đúng. Ông nói: “Cây ngô thì chúng tôi tính là chỉ cần nâng 1 tấn/ha, tức là 4 tấn lên 5 tấn, thì mình không phải nhập. Ngô thì chắc chắn khỏi nhập nhưng đậu nành thì phải nhập. Ngô mình có tới hơn 1 triệu ha, hiện nay cây ngô trên Tây Nguyên không có nước, chủ yếu sử dụng nước của những trận mưa, còn vùng có nước trên Tây Nguyên như Đăk Lăk, được 8 tấn/ha dễ dàng lắm. Ngô Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có những vùng đất ở Cù Lao giữa sông, hay đất vùng đầu nguồn An Giang, Đồng THáp. Những vùng đó mình đẩy diện tích lên thì cũng được hơn 100.000 ha, hiện nay chỉ vài chục nghìn ha. Nhưng mà vùng này không phải là vùng trồng ngô, mặc dù năng suất của nó rất cao nhưng diện tích manh múm, nhỏ không đưa vào công nghiệp hóa được. Không thể có nhà máy nào mà rải rác để thu mua được. Chúng tôi khuyến nghị cây ngô nên đưa về Đồng Nai, lên Đăk Nông, lên Tây Nguyên. Đó mới là vùng thích hợp với điều kiện phải đầu tư tưới nước cho nó. Nếu có nước tưới thì ta không phải nhập ngô nữa, trồng ở đó giá thành mới rẻ được, còn ở Đồng bằng sông Cửu Long giá thành đắt lắm”.

Với tính cách của một nhà kinh doanh, ông Phạm Đức Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam tỏ ra lạc quan về việc có thể chuyển đổi một phần diện tích lúa sang ngô, điều mà ông nói là vừa tăng thu nhập cho nông dân, vừa tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu ngô từ nước ngoài. Ông nói: “Nhà nước cần có những chính sách khuyến nông về chuyện trồng ngô, thí dụ hỗ trợ giá ngô giống rồi đưa cây biến đổi gien vào, năng suất nó tăng lên đồng nghĩa với thu nhập của người nông dân tăng lên. Như vậy, chuyện chuyển đổi rất dễ dàng. Hiện nay, trồng lúa bán không được, lúa ê hề mà người nông dân vẫn thua thiệt không bán được lúa và họ rất muốn có một loại cây trồng để thay thế.

Đây là một cơ hội để chuyển đổi, còn đầu ra thì không lo bởi ngành chăn nuôi Việt Nam đang phát triển, sự tiêu thụ ngô rất nhiều. Ở Việt Nam bây giờ xuất khẩu gạo không đủ nhập thức ăn chăn nuôi về, tôi nghĩ rằng nhà nước Việt Nam đã nhìn thấy vấn đề và đang thay đổi rất tích cực trong chính sách vĩ mô, chính sách khuyến nông. Còn về kinh tế thị trường người nông dân sẽ tự thay đổi. Khi ở đâu mang lại lợi nhuận cao sẽ kéo theo tất cả các dịch vụ, hệ thống kho sấy…

Câu chuyện nghịch lý lúa gạo và nguyên liệu thức ăn chăn nuôi không phải đến năm 2014 này mới được báo chí, chuyên gia và doanh nghiệp lên tiếng. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang từng nói, nước xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới mà túi rỗng. Câu chuyện tái cơ cấu nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất, chuyển đổi giống cây trồng cho đến nay vẫn cứ không nhúc nhích.

Nguồn: RFA 07/05/14

DLTGVVN số 20/2014

Nông nghiệp Việt Nam cần thay đổi từ nhận thức


Trả lời chất vấn tại phiên họp ngày 08/04 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ NN & PTNT Cao Đức Phát nhìn nhận Việt Nam không thể làm nông nghiệp như cách vẫn làm từ 30 năm qua mà phải thay đổi từ trong nhận thức.

Các báo mạng như Đất Việt, Saigon Times, Dân Việt, Sài Gòn Giải Phóng và Một thế giới đưa nhiều tin bài về nội dung trả lời chất vấn của Bộ trưởng Bộ NN & PTNT. Theo lời người đứng đầu ngành nông nghiệp Việt Nam, khi tham gia nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, cạnh tranh quốc tế, mọi người tham gia quá trình này phải hiểu là làm ra sản phẩm để bán, làm những thứ thị trường thiếu. Theo đó, cần tập trung vào những loại cây trồng, vật nuôi có lợi thế, Việt Nam không thể trồng táo Tây hay lúa mì, nhưng có tôm, cá tra… Để thực hiện được chủ trương này phải điều chỉnh cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích người dân áp dụng khoa học công nghệ nâng cao hiệu quả sản xuất, xây dựng thương hiệu để dù sản lượng ít nhưng giá trị vẫn cao.

Người lướt mạng đọc báo điện tử có cảm giác ông Cao Đức Phát đang đóng vai một nhà phản biện thay vì điều hành chính sách trong cương vị Bộ trưởng Bộ NN & PTNT. Bởi vì bản thân ông là Tổng tư lệnh ngành nông nghiệp, đáng lý ông phải đề ra những chủ trương như thế và thực hiện nó sau khi nhậm chức năm 2004. Những gì ông Cao Đức Phát trình bày ngày 8/4 tại Quốc hội cũng là những gì mà các chuyên gia cả trong và ngoài chính phủ nói rất nhiều từ nhiều năm qua và có thể cho rằng chính ông là người không lắng nghe, hay trách nhiệm còn ở cấp cao hơn ông Bộ trưởng.

Có thể kiểm chứng, nếu dựa trên những thành quả phát triển nông nghiệp ở Việt Nam nhiều năm qua. Đây là một nền nông nghiệp phát triển không định hướng, chú trọng về lượng thay vì về phẩm, kết quả là Việt Nam đứng thứ nhì thế giới về xuất khẩu gạo nhưng nông dân không đủ ăn. Người trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ có lợi tức trung bình 530.000 đồng/tháng. Đó là mức thấp nhất trong tất cả các ngành nghề ở Việt Nam và tương đương chưa tới 1/2 mức lương tối thiểu của công nhân lao động. Số liệu này do chính các Viện nghiên cứu của Bộ NN & PTNT công bố.

Saigon Times và Dân Việt Online trích lời Bộ trưởng Bộ NN & PTNT Cao Đức Phát trình bày tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Việt Nam đã phát triển được 102 giống lúa nhưng chất lượng gạo xuất khẩu vẫn kém. Ông Phát nhận định là bản thân các giống đó không có đột phá, hơn nữa, trong quá trình tổ chức thu mua, thương lái trộn lẫn các loại lúa với nhau nên dẫn tới chất lượng thấp, giá bán không cao, khó cạnh tranh.

Những vấn đề như Bộ trưởng Cao Đức Phát vừa nêu thì chính bản thân ông phải là người có trách nhiệm lớn nhất vì ông là người thực hiện chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn của Đảng, Nhà nước và Chính phủ. Trong 3 thập niên vừa qua, GS.TS Võ Tòng Xuân, một nhà nông học có uy tín sống và làm việc ở đồng bằng sông Cửu Long từng nói những điều tương tự trên báo chí Việt Nam. Các giới chức có trách nhiệm chẳng hành động gì, 2 Tổng công ty lương thực quốc doanh thống lĩnh 70% thị phần xuất khẩu gạo không thực hiện vùng nguyên liệu và xa lạ với nông dân. Các Tổng công ty qua các công ty con của mình chỉ mua gạo nguyên liệu qua thương lái và chẳng bao giờ mua lúa của nông dân.

GS.TS Võ Tòng Xuân nhận định: “38 năm trong hòa bình mà người nông dân vẫn còn nghèo, bây giờ, nông dân khi thu hoạch xong phải ráng kiếm ai mua giùm sản phẩm thu hoạch của mình ngay, kẻo còn thiếu nợ nó bủa vây, chứng tỏ họ không dành dụm được bao nhiêu, chính sách thì hô hào người ta trồng khối lượng lớn để xuất khẩu cho nó oai, nhưng giá rất thấp vì mạnh ai nấy làm, với cái kiểu làm của Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) và Tổng công ty lương thực (Vinafood) thì gạo mình không có chất lượng. Không phải tại giống của mình xấu mà tại cách làm của VFA, Vinafood. Họ chỉ mua của mấy thương lái, mở bao gạo ra là 3 – 4 thứ gạo, trong đó có hột vàng, hột xanh, làm sao ăn được, ai mà mua giá cao được. Bên ngoài thì tên gạo Vietnamrice, không ai dám đứng ra chịu trách nhiệm, 90 triệu người cùng chịu trách nhiệm hết, làm sao gạo tốt được. Nói hoài không tới đâu, họ vẫn tiếp tục làm vậy, tại vì cái nhóm lợi ích nó mạnh quá”. Bao giờ gạo Việt Nam mới có thương hiệu?

Trở lại buổi chất vấn ngày 8/4 tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Cao Đức Phát không cho biết khi nào sẽ chấm dứt tình trạng một bao gạo có 5 – 10 giống trong đó. Theo Saigon Times Online, Bộ trưởng Cao Đức Phát bày tỏ hy vọng trong 5 năm tới, ngành lúa gạo sẽ có chuyển biến rõ hơn trong quá trình tổ chức sản xuất theo hướng liên kết nông dân và doanh nghiệp đầu ra. Nhờ đó, nông dân có nơi tiêu thụ ổn định và có nơi đặt hàng cho sản phẩm. Một trong những nhược điểm của gạo xuất khẩu được Bộ trưởng Cao Đức Phát nhìn nhận, không thể có thương hiệu khi thương lái đấu trộn hàng chục giống lúa trước khi xay ra gạo nguyên liệu để bán cho doanh nghiệp.

Một chuyên gia nông nghiệp ở tỉnh An Giang, ông Đoàn Ngọc Phả trình bày ý kiến cá nhân về vấn đề tại sao đến nay vẫn chưa xây dựng được thương hiệu cho gạo xuất khẩu của Việt Nam: “Không ai làm thay cho doanh nghiệp được, nhà nước chỉ hỗ trợ về khung chính sách thôi. Yếu kém đầu tiên là từ doanh nghiệp, doanh nghiệp Việt Nam rất yếu kém trong vấn đề xây dựng thương hiệu. Mộ tkhi họ có chiến lược xây dựng thương hiệu thì họ mới mua vùng nguyên liệu để bảo đảm ổn định chất lượng. Thành ra vừa qua, họ cũng không xây dựng thương hiệu và mua bán trôi nổi, bán bằng thương hiệu người khác, không có thương hiệu của mình. Bởi vì họ cũng mua nguyên liệu gạo lức trôi nổi, mua nhiều nguồn rồi chế biến theo đặt hàng của nhà nhập khẩu, nhà phân phối của nước ngoài. Nói về cách làm ăn là như vậy, bây giờ nhiều doanh nghiệp cũng đang xây dựng thương hiệu, cũng làm nhãn hàng hóa rồi xâm nhập thị trường. Nhưng thị trường nước ngoài thì khó nên họ xây dựng ở thị trường trong nước. Họ xây dựng thương hiệu nhãn hiệu hàng hóa lưu hành trong nước. Họ xây dựng thương hiệu nhãn hiệu hàng hóa lưu hành trong nước. Khi khách hàng nước ngoài tới Việt Nam thấy những nhãn hiệu đó mới đặt hàng cho doanh nghiệp làm. Muốn đẩy mạnh ra nước ngoài thì cần có sự hỗ trợ của nhà nước”.

Trao đổi với phóng viên đài RFA, ông Đoàn Ngọc Phả nhận định, Campuchia thành công trong việc xây dựng thương hiệu lúa gạo do làm thương hiệu khởi đầu với các giống lúa mùa truyền thống dài ngày. Tuy năng suất thấp nhưng chất lượng cao, ít lẫn giống và có thể “chứng nhận hữu cơ”, tức sản phẩm hữu cơ không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hay phân bón hóa học. Theo ông Phả, ở đồng bằng sông Cửu Long đã làm tăng vụ nhiều năm rồi, sử dụng các giống lúa ngắn ngày thích hợp cho thị trường trung bình thì khó mà xây dựng thương hiệu, muốn làm thương hiệu thì phải có các vùng lúa nguyên liệu tập trung được tổ chức bài bản. Ông Phả cho biết, một số diện tích lúa mùa ở Cà Mau cũng có thương hiệu Vĩnh Phú được chứng nhận hữu cơ, sản phẩm này đã được xuất khẩu đi Mỹ, Anh nhưng khối lượng còn hạn chế.

Ngành chăn nuôi đang thực sự sống dở chết dở

Theo Saigon Times, tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 8/4, các đại biểu nêu vấn đề năm 2013, Việt Nam xuất khẩu 2,95 tỷ USD gạo nhưng nhập khẩu hơn 3 tỷ USD nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như bắp và đậu nành. Các đại biểu đặt câu hỏi về chuyển dịch cơ cấu cây trồng để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra còn vấn đề ngành thức ăn chăn nuôi đang bị các doanh nghiệp nước ngoài thao túng. Bộ trưởng Cao Đức PHát cho biết Việt Nam chỉ có thể gia tăng diện tích trồng bắp, chứ đậu nành thì năng suất htấp không thể cạnh tranh. Về chăn nuôi, ông Bộ trưởng nhìn nhận đây là lĩnh vực yếu nhất và cần thời gian để tái cơ cấu, khuyến khích chăn nuôi khép kín trong trang trại lớn.

Trong dịp trả lời chúng tôi, bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế ở Hà Nội từng nhận xét về vấn đề liên quan: “Trên lĩnh vực chăn nuôi, đã để cho các nhà đầu tư nước ngoài, một số công ty nước ngoài khống chế thị trường về thức ăn chăn nuôi và từ đó tạo nên nhiều sức ép đối với người nông dân. Bản thân họ còn tổ chức chăn nuôi ở Việt Nam, biến nông dân thành những người làm gia công cho họ và đặt mức giá rất thấp. Tất cả những việc đó gây thiệt hại cho người nông dân, ngành chăn nuôi bây giờ đang thực sự sống dở chết dở và tương lai hết sức đáng lo ngại”.

Bộ trưởng NN & PTNT Cao Đức Phát đã tại chức được gần 10 năm, từ cuối năm 2004 cho tới nay. Ông đã là người điều hành chính sách nông nghiệp của Việt Nam trong một thời gian đủ dài để có thể cải cách nền nông nghiệp lạc hậu của Việt Nam. Nếu nhìn kết quả để đánh giá nhà lãnh đạo thì ông Cao Đức Phát phải là người chịu trách nhiệm cao nhất. Nhưng người nông dân có thể không oán trách ông Bộ trưởng mà còn oán ông chính phủ, ông Đảng vì cơ chế ở Việt Nam là như vậy.

Nguồn: RFA 11/04/14

DLTGVVN số 16/2014

Tái cơ cấu ngành thủy sản: Tham vọng và sự khả thi


Bộ NN&PTNT đặt mục tiêu tăng trưởng giá trị sản xuất và xuất khẩu thủy sản đạt 6%/năm. Theo đó trong vòng 6 năm tới, kim ngạch xuất khẩu thủy sản các loại đạt 8 tỷ USD/năm, thu nhập bình quân của cộng đồng ngư dân ven biển và lao động nghề cá tăng gấp 2,5 lần so với 2010. Nam Nguyên đặt câu hỏi về tính khả thi của đề án này với ông Nguyễn Tử Cương, Ủy viên Thường vụ kiêm trưởng ban phát triển bền vững Hội Nghề cá Việt Nam, Ủy viên Thường vụ kiêm Phó ban Pháp chế Chất lượng và Thị trường Hiệp hội Cá tra Việt Nam. Từ Hà Nội, ông Nguyễn Tử Cương nhận định:

+ Tôi nghĩ mục tiêu này là khả thi, bởi vì bên cạnh hướng nuôi, một chiến lược phát triển đánh cá ở ngoài khơi, các loại cá trữ lượng hãy còn nhiều. Đánh cá ngoài khơi bên cạnh việc phát triển sản xuất còn mang ý nghĩa khác là khẳng định chủ quyền vùng biển của quốc gia nữa.

Ông có thể nói rõ hơn vấn đề này.

+ Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ các tàu nhỏ đánh cá ở ven bờ sau khi đã đến hạn giải bán thì cho giải bán và không đóng thêm. Nhà nước có chính sách và ngân hàng cũng tích cực cho ngư dân vay vốn để đóng tàu công suất lớn đi đánh cá ở biển khơi xa. Ở ngoài khơi trữ lượng vẫn còn nhiều, đặc biệt vùng chung quanh quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và những vùng biển lân cận. Do vậy, chúng tôi đang tính rằng ngoài thủy sản nuôi tiếp tục được phát triển thì khai thác biển có giá trị kinh tế cao có khả năng xuất khẩu thì sẽ được tăng hơn nhiều.

Như vậy, đột phá tái cơ cấu ngành thủy sản được xác định bằng hiện đại hóa phương tiện tàu cá. Nhưng tiền vốn và tín dụng ngân hàng mà ông vừa đề cập lại là một vấn đề lớn, liệu ngân hàng có dám cho vay thế chấp bằng chính tàu cá của ngư dân, khi mà an ninh trên Biển Đông khá phức tạp. Ngư dân bị mất tàu, đâm tàu, cưỡng đoạt thường xuyên xảy ra… đột phá sẽ đi theo hướng này?

+ Trong đất liền việc tích tụ ruộng đất để có sản xuất lớn đang diễn ra khá mạnh. Trong nuôi trồng thủy sản cũng vậy, việc người dân gom ao lại hoặc khuyến khích người có khả năng có tiềm lực tập trung diện tích ao lớn hơn để có thể đầu tư kỹ thuật hiện đại. Trên cơ sở đó, nâng cao năng suất giảm chi phí đặc biệt là giảm ô nhiễm môi trường sẽ được triển khai, đấy là một hướng. Hướng thứ hai là các tàu đánh cá ở ngoài biển, trước cũng có tình trạng như ông nói, nhưng Việt Nam đã làm việc nhiều lần và tích cực với Trung Quốc thì tình trạng trên đã giảm dần. Và quan trọng hơn, dân Việt Nam vốn có truyền thống khi chủ quyền quốc gia bị đe dọa thì bất cứ là ai, cứ là người Việt Nam thì đều sẵn sàng ra khơi bám biển đánh cá đồng thời bảo vệ Tổ quốc.

Hướng thứ ba là có sự liên kết giữa sản xuất nguyên liệu chế biến với thị trường, đặc biệt coi trọng thị trường. Tức là mình phải làm ra cái sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn chứ không phải đi bán thứ mà mình có. Đấy là trọng tâm mà ngành thủy sản đang tập trung phát triển.

Như chúng tôi đã hỏi, liệu các ngân hàng có thoải mái về tiền vốn và cấp tín dụng cho ngư dân hay không khi hoạt động đánh bắt thủy sản có nhiều rủi ro. Sẽ có sự thay đổi như thế nào, chính phủ có can thiệp hay không, chính phủ đề nghị là cho vay tiền thế chấp bằng chính phương tiện đánh bắt. Đây là một giải pháp có thể tháo gỡ hay không?

+ Trước mắt, đúng là tiền thì chính phủ không thể cho dân được. Cho nên người dân dùng chính con tàu và những tài sản ở trên bờ để thế chấp. Bên cạnh đó, trong thời gian vừa qua chúng tôi cũng khá thành công trong việc các tàu đánh cá biển, đặc biệt là tàu đánh cá ngoài khơi mua bảo hiểm. Nếu có rủi ro thì ngân hàng không đến nỗi là không thu hồi được vốn. Còn nguồn vốn hiện nay ngân hàng cũng khá dồi dào và chủ trương đầu tư mạnh trong nông nghiệp nói chung, thủy sản nói riêng  đang là xu hướng mà chính phủ cũng như các ngân hàng đã hiểu rõ.

Bộ NN&PTNT đặt mục tiêu nâng thu nhập của cộng đồng ngư dân ven biển lên gấp 2,5 lần so với 2010. Điều này có khả thi không? Trong khi Bộ dự kiến giảm sản lượng khai thác ven bờ từ 1.2 triệu tấn xuống 0,8 triệu tấn. Như vậy phần giá trị gia tăng sẽ rất lớn?

+ Sẽ có chiến dịch lựa chọn đào tạo con em ngư dân kỹ năng đi biển xa bờ kể cả kỹ năng có thể tồn tại trong những điều kiện và hoàn cảnh khó khăn. Đó là một hướng quan trọng, nhưng bên cạnh đó việc nuôi trồng ven biển sẽ được đẩy mạnh lên và những ngành nghề khác, phục vụ cho khai thác, cho chế biến nuôi trồng cũng được đẩy mạnh. Một mặt nữa là du lịch, những người sống ở ven biển mà không có khả năng đi biển thì sẽ được làm những ngành nghề khác như vừa nói. Như thế mới có thể nâng cao đời sống.

Hai mặt hàng chủ lực trong kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản nói chung là tôm nuôi và cá tra, từ trước đến nay là không thể kiểm soát được. Trong cuộc tái cơ cấu này sẽ có vấn đề những hộ nông dân nhỏ lẻ phải chuyển nghề hay không?

+ Có thể nói là có ba hướng, một hướng là họ vẫn tồn tại. Nhưng họ tồn tại không phải như một cây đũa đơn lẻ, mà họ phải tồn tại đứng sát vào nhau tạo thành một bó đũa để không bị bẻ gãy. Đó là những tổ hợp, những nghiệp đoàn, những chi hội, thông qua đó tạo ra sức mạnh trong việc vay vốn ngân hàng, trong việc giao dịch với các doanh nghiệp. Hướng thứ hai, vì một lý do gì đó họ có thể bán ao cho doanh nghiệp và họ trở thành công nhân nuôi cá. Hướng thứ ba là họ bán ao đi rồi họ có nguồn vốn và chuyển sang một nghề khác. Nhưng hướng thứ ba là hướng không nhiều, bởi vì thông thường người nuôi cá là nông dân có ruộng, có vườn cây ăn trái thì họ có thể dùng tiền bán ao để mua ruộng, mua vườn. Có những cách để giải quyết chứ không đến nỗi là biến những người có ao nuôi nhỏ lẻ trở thành phá sản hoặc vô sản.

Nguồn: RFA 31/03/14

DLTGVVN số 14/2014

Luật nông trại Mỹ gây ảnh hưởng lớn tới xuất khẩu cá tra Việt Nam vào Mỹ


Luật Nông trại (farm Bill) vừa được Tổng thống Mỹ Barack Obama ký ban hành ngày 07/02/2014 có thể anh hưởng lớn tới kim ngạch cá tra vào Mỹ, đồng thời xóa sổ hàng loạt ao nuôi của hộ nông dân nhỏ lẻ ở đồng bằng sông Cửu Long.

Thách thức cho ngành thủy sản

Tất cả các ao nuôi cá tra và nhà máy chế biến ở Việt Nam sẽ phải nâng cấp và kiểm soát chặt chẽ theo tiêu chuẩn Mỹ, nếu còn muốn sản phẩm cá tra được xuất khẩu vào thị trường này. Theo Luật Nông trại mới ban hành, Bộ Nông nghiệp Mỹ sẽ áp dụng tiêu chuẩn qui định cá da trơn của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ phải đáp ứng các tiêu chuẩn ngang hàng với mặt hàng cá da trơn được sản xuất tại Mỹ, từ qui trình sản xuất cho đến việc đóng gói và xuất khẩu.

Về nguyên tắc, Bộ Nông nghiệp Mỹ sẽ công bố điều kiện cụ thể để thực thi Luật Nông trại trong vòng 60 ngày, kể từ ngày 07/02/2014 là ngày Tổng thống Obama ký Luật này. Tuy vậy, có thể thấy trước là tiêu chuẩn sản xuất, chế biến đóng gói thủy sản ở nước Mỹ, vốn dĩ là một quốc gia phát triển, sẽ không dễ dàng cho một quốc gia như Việt Nam, đặc biệt đối với những nông dân nuôi cá tra ở Việt Nam.

Ông Nguyễn Tử Cương, Ủy viên Thường vụ Hiệp hội Cá tra Việt Nam, Phó ban quản lý chất lượng và thương hiệu cá tra nhận định: “Dù hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp Mỹ chưa ban hành, nhưng có thể dự đoán trước là sẽ có những nội dung căn bản. Thứ nhất từng lô hàng cá tra sẽ phải kèm theo lý lịch, nó được nuôi ở nông trại nào và nông trại đó kiểm soát an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh, an toàn môi trường và an sinh xã hội ra sao. Chúng tôi nghĩ rằng nước Mỹ đi tiên phong các thị trường khác như châu Âu và các nơi khác cũng sẽ đòi hỏi như thế này. Việt Nam đã tính trước và có chuẩn bị nhưng khi Luật này có hiệu lực Việt Nam sẽ gặp một số khó khăn trong thời gian đầu. Cụ thể là xuất khẩu thủy sản vào Mỹ có thể bị chững lại. Tuy nhiên, trong xu thế quan hệ mọi mặt nói chung giữa Việt Nam và Mỹ đang được cải thiện, chúng tôi nghĩ rằng sẽ có đàm phán giữa Bộ Nông nghiệp Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Mỹ để có lộ trình thích hợp đáng ứng được Luật Mỹ, nhưng đồng thời cũng không gây quá nhiều khó khăn cho Việt Nam trong quá trình chuyển đổi”.

Năm 2013, tổng lượng cá tra Việt Nam xuất khẩu ra thế giới trị giá 1,8 tỷ USD. Theo lời ông Nguyễn Tử Cương kể từ năm 1995 Mỹ là thị trường chi phối từ 27% đến 33% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam nói chung và cá tra nói riêng. Việt Nam sẽ không thể để mất một thị trường nhập khẩu cá tra gần ngang bằng với tất cả các nước EU gộp lại.

Cơ hội tái cơ cấu lại ngành cá tra

Vẫn theo lời ông Nguyễn Tử Cương hiện nay 60% những hộ nuôi cá tra nhỏ lẻ ở đồng bằng Sông Cửu Long hoặc đã bỏ nghề, đã bán ao cho doanh nghiệp, hoặc đã liên kết thành những nhóm hợp tác để có tiếng nói chung cho quyền lợi của mình. Những nhóm liên kết này bắt đầu thực hiện áp dụng qui phạm thực hành nuôi thủy sản bền vững VietGap. Tiêu chuẩn này có thể xem là tương đương với bất kỳ tiêu chuẩn nào trên thế giới và dễ điều chỉnh đáp ứng Luật Nông trại Mỹ. Ông Nguyễn Tử Cương tiếp lời: “Nuôi trồng thủy sản trong đó có cá tra sẽ phải tiến theo con đường hội nhập quốc tế trong đó những nội dung căn bản nhất đó là hoạt động nuôi trồng chế biến và xuất khẩu phải đảm bảo được 4 điều: một là an toàn thực phẩm; hai là an toàn cho môi trường; ba là an toàn bệnh dịch và thứ tư là an sinh xã hội. Đương nhiên khi áp dụng những tiêu chí này, những hộ nuôi nhỏ sẽ gặp khó khăn hơn vì họ ít vốn. Những nơi có diện tích nuôi lớn gắn với nhà máy chế biến thì có nhiều thuận lợi hơn”.

Một nông dân đang nuôi cá tra ở đồng bằng Sông Cửu Long vừa thu lỗ, vừa bị doanh nghiệp nợ tiền cá không thanh toán đúng hạn, phát biểu với chúng tôi: “Nói lý thuyết chứ không ai làm được, làm kiểu đó cá 50.000 đồng/kg cũng không có lãi. Nuôi là phải có ao lắng, bơm nước qua ao lắng rồi mới xả ra hào cá. Thuốc thì phải dùng ít, nhưng cá hao, chết mà không ăn thuốc thì nó chết sạch. Nghề cá này một trăm lẻ một chuyện khó, nhưng mà xiết quá thì nghỉ hết”.

Chúng tôi hpản ánh ý kiến hộ nông dân nuôi cá tra nghi ngại việc chuyển đổi qua qui trình VietGap rất tốn kém, khó có lợi nhuận. Ông Nguyễn Tử Cương khẳng định áp dụng VietGap sẽ giảm chi phí và có lợi hơn rất nhiều. Tuy vậy, hộ nuôi phải liên kết thành từng cụm để có diện tích đủ điều kiện phát triển, hiện nay chính phủ có chương trình tài trợ huấn luyện và chứng nhận VietGap cho người nuôi cá. Ông nói: “Việc áp dụng VietGap, khó khăn lớn nhất ở đây là cấu trúc ao đầm để kiểm soát được lượng nước đầu vào, đồng thời xử lý được chất lượng nước thải ra ngoài môi trường. Rõ ràng chính phủ Việt Nam và người nuôi trồng đứng trước một sự lựa chọn: hoặc là cứ duy trì như hiện nay để môi trường nuôi trồng của Việt Nam bị hủy hoại và sản phẩm thì luôn luôn gặp rủi ro ở các thị trường xuất khẩu. Hay là phải mạnh dạn đổi mới và đáp ứng được các tiêu chuẩn như VietGap… Chính phủ VIệt Nam và đa số người nuôi lựa chọn con đường thứ hai. Tức là chúng tôi đảm bảo 4 điều, trước hết là bảo vệ môi trường cho chính mình, sau đó là thực phẩm an toàn cho người Việt Nam và người tiêu dùng trên thế giới.

Theo lời ông Nguyễn Tử Cương, các hộ nuôi cá tra đơn lẻ đã thấy rằng dù không có một áp đặt nào từ thị trường thì tự họ đã thấy rất khó khăn để tồn tại. Những hộ này không còn lựa chọn nào khác hoặc là tử bỏ nghề nuôi cá tra hoặc là liên kết, gắn bỏ chặt chẽ với nhà chế biến, thông qua đó nắm được yêu cầu của thị trường, hãy gom ruộng lại và áp dụng VietGap thì lúc đó mới có thể thành công. Bên cạnh sự đau khổ của hàng vạn người nuôi cá tra, từng lao đao vì được mùa mất giá và nạn doanh nghiệp chiếm dụng vốn, phải chăng Luật Nông trại của Mỹ lại chính là một cơ hội cho VIệt Nam tái cơ cấu lại ngành cá tra theo hướng phát triển bền vững.

Nguồn: RFA 13/02/14

DLTGVVN số 08/2014

Người nông dân vẫn là chỗ dựa của nền kinh tế


Nông dân vẫn thường được nhà nước ví von là chỗ dựa cho nền kinh tế. Nông dân và chuyên gia nói gì về hy vọng nâng cao thu nhập cho 50 triệu người làm nghề nông.

Theo TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm trị sự Diễn đàn Xã hội Dân sự, thật không có gì buồn hơn khi nói người làm nông nghiệp và nông thôn là trụ đỡ nền kinh tế những lúc khó khăn: “Sở dĩ người Việt Nam còn gắn bó với nông thôn vì khi mất việc làm ở thành phố người ta vẫn quay về nông thôn. Không còn cách gì khác người ta quay về làm ruộng, trồng cây hoặc nuôi gia súc để kiếm ăn. Đấy là một việc cực chẳng đã thì họ phải làm như vậy, họ còn có một nơi chốn để trở về. Hiểu theo nghĩa như vậy, nông thôn có thể xem là trụ đỡ nhưng thực sự đó là tai họa, bởi vì không còn cách để sinh nhau nên họ đành phải về đấy, gia đình họ hàng làng xóm có thể là nơi giúp cho người ta không phải bơ vơ ngoài vỉa hè. Nếu hiểu theo nghĩa trụ đỡ như thế thì tôi nghĩ là rất đáng buồn. Lúc đầu đổi mới mở ra, đầu tư của nhà nước tập trung cho nông nghiệp là nhiều, trong nông nghiệp chủ yếu tập trung cho thủy lợi rất là lớn”.

Nông dân chiếm một lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, họ đã nỗ lực để nuôi sống cả một đất nước 90 triệu dân và còn làm ra các sản phẩm xuất khẩu với số lượng rất lớn. Nếu lấy mốc thời gian trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì tổng mức đầu tư vào nông nghiệp đã giảm gần một nửa trong những năm gần đây. Phải chăng nhà nước đối xử bất công với trụ đỡ của nền kinh tế. Phải chăng nhà nước đã buông rơi nông nghiệp – nông sản cũng như để cho nông dân tự bươn chải. Ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang nhận định: “Nhưng mà nông nghiệp đâu chỉ có vấn đề thủy lợi, nếu gắn với phát triển nông thôn thì nó còn nhiều vấn đề khác. Từ nhu cầu mở rộng, yêu cầu nó cao hơn, người ta mới nhìn lại và thấy rằng đầu tư của nhà nước như vậy là thấp. Lúc đó yêu cầu xây dựng phát triển nông thôn, hội nhập kinh tế thế giới thì phải tăng hàm lượng chất xám trong sản phẩm kinh doanh, nó đòi hỏi đầu tư toàn diện và ở một chiều cao chiều sâu, lúc bấy giờ người ta coi lại thì thấy chính phủ đầu tư cho nông nghiệp là thấp. Người ta nói vậy là đúng”.

Tái cơ cấu đối với nông nghiệp dù là trên giấy tờ cũng bị nhà nước để rơi lại sau cùng, mãi đến tháng 07/2013, Thủ tướng Chính phủ mới phê duyệt đề án tái cơ cấu của Bộ NN&PTNT theo chủ đích nâng cao thu nhập cho nông dân. Đề án này cũng gây nhiều tranh luận trên các diễn đàn, bởi vì điều gọi là không thể xóa bài làm lại, khi ruộng đất đã được phân chia nhỏ lẻ manh mún, nông dân mạnh ai nấy làm.

“Cánh đồng lớn” nói thì dễ, thực hiện thì rất khó

Tổ chức lại sản xuất theo hướng đặt nông dân vào vai trò trung tâm của chuỗi sản xuất là điều nói thì dễ nhưng thực hiện thì rất khó. Cho đến nay việc thực hiện tái cơ cấu của Bộ NN&PTNT hầu như chỉ dừng lại ở một chủ trương đã cũ, thay vì khẩu hiệu “Cánh đồng mẫu lớn” trong trồng lúa thì nay gọi là “Cánh đồng lớn”. Nông dân làm theo hợp đồng với doanh nghiệp để có thu nhập tốt hơn.

Tuy nhiên, cánh đồng lớn chỉ đạt thành công ở một vài mô hình của tư nhân và diện tích còn giới hạn. Mấu chốt của cánh đồng lớn là giảm chi phí sản xuất, sản phẩm đồng nhất, phẩm chất được kiểm soát để tiêu thụ với giá cao hơn. Tuy nhiên, sẽ có bao nhiêu doanh nghiệp dám đầu tư vào cánh đồng lớn khi mà thị phần xuất khẩu gạo nằm trong tay các Tổng công ty Nhà nước đến 60 – 70% và các nhà buôn độc quyền này chỉ thích buôn bán xuất khẩu theo kiểu ăn chênh lệch giá.

Trong xu hướng cải cách chung, bà Phạm Chi Lan chuyên gia kinh tế ở Hà Nội kêu gọi công khai minh bạch trong thương mại và tôn trọng điều kiện và yêu cầu của thị trường, đặc biệt trong tiêu thụ xuất khẩu nông sản. Đối với hy vọng cải cách trong nông nghiệp, bà Phạm Chi Lan nhận định: “Hiện nay những mô hình như Đồng Tháp đang làm, người ta cố gắng tiến tới những cánh đồng liên kết, trong đó tổ chức lại sản xuất theo qui mô lớn, đòi hỏi phải có sự liên kết của nông dân tự nguyện tham gia. Trong khi tham gia vào liên kết đó, người nông dân sẽ được biết, được thông tin cả những vấn đề về thị trường nữa, để mà có thể chủ động và có quyết định đối với thị trường, họ sẽ được gắn gần gũi hơn với thị trường với các quyết định về kinh doanh nữa, chứ không phải chỉ là người sản xuất thuần túy không thôi”.

Bằng với kinh nghiệm của một người từ nông dân đi lên tới chức Chủ tịch tỉnh, ông Nguyễn Minh Nhị cho thấy bài toán hết sức nan giải của Việt Nam nếu muốn “đổi đời” cho nông dân: “Sẽ phải giải quyết đồng bộ nhiều chuyện lắm, thứ nhất là phải làm sao tích tụ đất đai, một người phải canh tác nhiều hécta. Bây giờ anh lãi 50% hay 100% nhưng anh làm có nửa hécta thì chẳng nhằm gì so với bốn năm nhân khẩu trong gia đình. Trước hết, đất đai phải nhiều thì lợi tức mới cao. Thứ hai, tổ chức làm sao từ khâu giống, nước, phân tới khâu thu hoạch phải đảm bảo giá thành thấp và đầu ra bảo đảm tiêu thụ ở mức ổn định và bảo đảm có lợi tức. Đó là hai điều kiện bản thân của nông nghiệp”.

Tái cơ cấu nông nghiệp là câu chuyện của nhà nước, đối với nông dân họ chỉ có những ước mong đơn giản và cụ thể. Ý kiến của một nông dân ở vựa lúa xuất khẩu đồng bằng sông Cửu Long có thể là mong muốn chung của hầu hết những người trồng lúa: “Qua năm Giáp Ngọ này “mã đáo thành công”, nông dân hy vọng lúa gạo bán có giá, thu nhập cao lên, chi phí đầu vào hạ xuống. Nếu nhà nước muốn hỗ trợ cho nông dân thì tôi nghĩ có một điều nông dân rất mong đợi là giá bán vật tư nông nghiệp đầu vào xin miễn thuế giá trị gia tăng, miễn thuế đầu vào thì nông dân giảm được 10% giá vật tư đầu vào như vậy nông dân lời được 10% trong đó rồi”.

Qua tiếp xúc với chúng tôi, nhiều nông dân mong muốn đổi đời cho con em mình một cách rõ rệt là sẽ không phải tiếp tục đời nông dân như cha ông. Đó không chỉ là một sự thật cay đắng mà chính là một trong các lời giải cho tái cơ cấu nông nghiệp. Bên cạnh việc tổ chức lại sản xuất, khi nào nhà nước chưa thể chuyển dịch cơ cấu lao động, rút giảm tỷ lệ đáng kể lao động trong nông nghiệp để lợi nhuận đầu người trong nông nghiệp cao hơn, thì khi ấy chưa thể nói gì về việc tăng thu nhập cho nông dân.

Nguồn: RFA 04/02/14

Khi trụ đỡ nông nghiệp bị lung lay


Nông nghiệp vốn được coi là chỗ dựa của nền kinh tế trong khủng hoảng nhưng đang có nhiều dấu hiệu cho thấy trụ cột này không còn vững vàng nữa. Tỷ lệ tăng trưởng chậm, cơ cấu ngành không hợp lý và nhiều vấn đề cho thấy thực tế này.

Nhiều năm rồi, ngành nông nghiệp mới có một báo cáo không sáng sủa như vậy. Trong năm tháng đầu năm nay, hầu hết các lĩnh vực của ngành đều có xu hướng tăng trưởng chậm lại: “Thị trường tiêu thụ lúa gạo và cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long gặp khó khăn, hạn hán gây ảnh hưởng tới lúa hè thu và cây càphê ở miền Trung và Tây Nguyên, dịch bệnh trên gia súc gia cầm ngày càng phức tạp, sản xuất chăn nuôi giảm, xuất khẩu các mặt hàng nông sản giảm cả về lượng và giá trị”, bộ trưởng bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cao Đức Phát đã nhấn mạnh trong cuộc họp tổng kết năm tháng của ngành này.

Trong những giai đoạn trước, tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội nông nghiệp (GDP nông nghiệp) khá cao. Giai đoạn 1995 – 2000 tỷ lệ này là 4%, đến giai đoạn 2001 – 2005 giảm xuống 3,83%, tiếp tục giảm còn 3,3% vào năm 2006 – 2010 và tụt xuống còn 2,72% vào năm 2012. Dự báo năm 2013, tỷ lệ này cũng khó có thể tăng.

Vào cuối tuần trước, khi thảo luận về vấn đề tái cơ cấu ngành nông nghiệp, ông Đặng Kim Sơn, viện trưởng viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn đã chỉ ra những lý do khiến nông nghiệp nước ta sẽ tiếp tục tăng trưởng chậm lại. Đó là các yếu tố chủ quan như những vướng mắc về quản lý đất đai, khoa học công nghệ kém, vật tư mắc (đắt) và kém, cơ sở hạ tầng lạc hậu, thiếu sự liên kết. Cộng thêm các vấn đề khách quan tác động như thiên tai, thị trường biến động, kinh tế suy thoái, công nghệ hỗ trợ kém, đầu tư thấp… nông nghiệp sẽ khó có thể trở thành trụ đỡ an toàn cho nền kinh tế.

Một ví dụ cụ thể là năng suất lao động ngành nông nghiệp nước ta hiện thấp nhất trong khu vực, thấp hơn cả Lào, Campuchia và Myanmar, ông Đặng Kim Sơn cho biết. Tới nay, tất cả các nước trong khu vực đã có năng suất lao động nông nghiệp cao hơn 400 USD/người/năm (theo mức giá tính năm 2000) thì Việt Nam vẫn đang ở mức khoảng 380 USD/người/năm. Năng suất lao động thấp cũng góp phần đẩy chi phí đầu vào của các sản phẩm nông nghiệp tăng lên, giảm sức cạnh tranh.

Là đất nước có thế mạnh với hơn 70% dân số hoạt động nông nghiệp nhưng nông sản Việt Nam vẫn có chỗ đứng thấp kém trên thị trường nông sản thế giới. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thừa nhận, phần lớn nông sản xuất khẩu ở dạng thô, sơ chế, chưa có thương hiệu, giá trị gia tăng thấp. Một đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và tăng trưởng bền vững đã được bộ này xây dựng và đưa ra thảo luận cuối tuần trước. Tuy nhiên trong đề án này vẫn thiếu vắng những giải pháp cụ thể tăng cường hàm lượng khoa học công nghệ, chế biến, xây dựng thương hiệu… để nâng cao giá trị sản phẩm. Đề án hầu như chỉ tập trung vào việc tăng sản lượng sản xuất và tăng nguồn cung từ nông nghiệp.

Ông Đặng Kim Sơn cho rằng, để cải thiện tăng trưởng của nông nghiệp cần thay việc kích cung bằng việc tăng giá trị của nông sản. Để làm được việc này, theo ông Sơn, cần xác lập rõ ràng vị thế, thương hiệu của nông sản Việt Nam, thực hiện các giải pháp nhằm đảm bảo an toàn, chất lượng bền vững và nguồn cung đảm bảo. “Điều quan trọng là cần đưa ra các cơ chế tốt hơn nữa để thu hút doanh nghiệp kinh doanh và chế biến nông sản”, ông Sơn nói.

Trong khi còn đang loay hoay với việc tái cơ cấu lại nền nông nghiệp như thế nào thì nhiều vấn đề hiện tại vẫn làm đau đầu các nhà quản lý. Giá lúa hè thu đang sụt giảm nghiêm trọng khiến nông dân lỗ nặng, tồn kho cao do gạo bị ép giá không xuất khẩu được. Tỷ lệ nông sản bị từ chối và bị đưa vào danh sách phải kiểm soát chặt chẽ do dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và sai nhãn mác. Vấn đề vi phạm an toàn thực phẩm nông sản tiêu thụ trong nước đang khiến cho người dân lo lắng như một “vấn nạn”. Trong khi đó việc kiểm soát nhập lậu nông sản chưa tốt cũng đe doạ sản xuất trong nước với nguy cơ dịch bệnh, ô nhiễm… Giải quyết được câu chuyện chạy theo lượng cung hay chạy theo giá trị nông sản sẽ dần dần giúp các nhà quản lý tháo gỡ những vấn đề này trong tương lai.

Nguồn: SGTT

Tháo gỡ nghịch lý trong nông nghiệp


Cho rằng các khâu mắt xích trong nền sản xuất nông nghiệp đều “có vấn đề”, từ chính sách, người nông dân, doanh nghiệp đến thị trường xuất khẩu, GS Võ Tòng Xuân bàn giải pháp tái cấu trúc lại.

Cầm cố gạo

Giáo sư Võ Tòng Xuân nói:

Tôi xin kể lại câu chuyện này. Cách đây khoảng 15 năm, có một công ty kinh doanh gạo của Mỹ hợp tác với một công ty kinh doanh lương thực cấp Trung ương làm gạo xuất khẩu. Họ đặt mấy điểm thu mua ở mấy vùng nhiều lúa, mua trực tiếp của nông dân. Nông dân mang lúa tươi đến, có giấy chứng nhận là lúa IR 64 họ mua giá cao hơn các doanh nghiệp nhà nước ta mua. Mua gạo xong họ đem về sấy. Họ xuất được giá 350 USD/tấn trong khi các doanh nghiệp Việt Nam chỉ xuất được 180 USD/tấn.

Nhiều ý kiến cho rằng, doanh nghiệp nước ngoài đang “giết” chết doanh nghiệp Việt Nam ngay trên sân nhà. Ông chủ tịch tỉnh lúc bấy giờ hỏi ý kiến tôi, tôi nói: “Phải thưởng huân chương cho họ vì họ mua cho nông dân giá cao!”. Ông chủ tịch có vẻ băn khoăn vì nhiều doanh nghiệp đề nghị không cho mua trực tiếp, phải mua qua doanh nghiệp Việt Nam. Một lúc sau vị chủ tịch hỏi, có thể để doanh nghiệp mình bán giá cao được không. Tôi trả lời thẳng: “Còn lâu doanh nghiệp Việt Nam mới bán được giá như họ bởi họ có thương hiệu, tên tuổi, làm chặt chẽ chứ không như ta làm”.

Cho đến nay đã 15 năm rồi nhưng chưa có doanh nghiệp xuất khẩu gạo nào của ta ý thức được tầm quan trọng của gạo xuất khẩu là phải rặt, tức chỉ một loại giống!

Giống nào cũng vậy, nếu được làm tốt, bảo quản tốt, xay ra hạt nguyên sẽ có giá cao!

Để đạt được chất lượng gạo như giáo sư vừa nói, ta cần phải thay đổi như thế nào?

Theo tôi, dứt khoát không thể sử dụng thương lái như bấy lâu nay làm trung gian mua lúa của nông dân cung ứng cho doanh nghiệp. Nguyên nhân là thương lái không thể bảo quản lúa đúng tiêu chuẩn từ đồng ruộng về tới kho của công ty.

Ở Thái Lan hoàn toàn không có tầng lớp thương lái như ở ta. Ở các tỉnh trồng lúa, Bộ Thương mại Thái có mạng lưới kho rất lớn, phân bổ đều. Các kho này được trang bị đầy đủ phương tiện kỹ thuật để đảm bảo giữ chất lượng lúa để vào. Nông dân trước khi vào vụ sản xuất, phải khai báo giống với nhà nước và được chấp nhận mới làm. Đến kỳ  thu hoạch, nông dân đem lúa nhập vào kho kèm theo chứng nhận giống. Quản lý kho đại diện cho nhà nước sẽ xuất cho ngân phiếu trị giá tương đương số lượng lúa gửi vào. Vậy là nông dân có tiền xài. Nếu sau này giá lúa lên, sẽ được hưởng thêm. Phần lớn giá sẽ lên vì thời điểm thu hoạch tập trung, cung lớn nên giá sẽ giảm.

Nhà nước sẽ bán lúa trong kho cho các công ty xuất khẩu gạo nếu họ mua giá cao thông qua đấu thầu.

Chính sách này gọi là “cầm cố gạo” (Mortgage) rất thuận lợi cho nông dân.

Nhiều công ty xuất khẩu gạo của Thái rất ‘khôn’, họ tổ chức vùng nguyên liệu và có kho. Nhưng nông dân vẫn khoái “gửi” vào kho của nhà nước hơn.

Chuyên môn hóa theo chuỗi giá trị


Ở ta, quan hệ doanh nghiệp xuất khẩu gạo và nông dân giống như 2 người đắp chung tấm chăn hẹp. Năm nào giá thị trường tốt, nông dân còn được “đắp” một chút; năm nào khó khăn, nông dân chẳng còn gì để “đắp”. Theo giáo sư, phải tổ chức lại như thế nào để không còn “kẻ đắp chăn”, kẻ kia phải “chịu lạnh lùng” mãi thế này, mặc dù Chính phủ đã có Quyết định “liên kết 4 nhà” 5 năm nay rồi?

Quyết định 80 của Chính phủ về liên kết 4 nhà chưa xử lý được căn cơ nên chưa được 2 bên nông dân và doanh nghiệp tôn trọng. Khi giá lúa cao, ông nông dân bán mất cho ai trả giá cao. Còn khi giá thấp, ông doanh nghiệp bỏ mặc nông dân, tìm chỗ mua rẻ hơn. Chẳng có gì là “liên” là “kết” cả.

Cần phải để doanh nghiệp và nông dân vào cùng chuỗi giá trị. Doanh nghiệp căn cứ vào thị trường và loại gạo, phải tổ chức cho nông dân suất xuất. Trong quá trình nông dân sản xuất, doanh nghiệp cung ứng phân, thuốc trừ sâu. Các nhà khoa học tham gia huấn luyện, đào tạo nông dân theo quy trình GAP. Quy trình GAP sẽ giúp cho nông dân dùng ít thuốc, phân bón nhưng cho năng suất cao hơn.

Sản phẩm thu hoạch, doanh nghiệp chịu trách nhiệm đưa xà lan, ghe tàu vận chuyển về kho để sấy theo đúng phương pháp. Nhờ vậy, tỷ lệ gạo nguyên sẽ cao hơn nhiều. Thông thường tỷ lệ gạo nguyên cao hơn 1% thì tiền bán cao hơn 5%!

Lâu nay tỷ lệ lúa xay ra gạo chỉ 50%. Nhưng qua trình như trên tỷ lệ gạo xay ra đạt tới 66%, mức chênh lệch rất lớn.

Như vậy, mối liên kết này rất chặt chẽ, cả hai cùng có lợi, chứ không còn bên này ép bên kia. Nhờ tiết giảm được chi phí rất nhiều, tăng hiệu quả khâu chế biến nên hiệu quả cuối cùng cao hơn nhiều lắm.

Xin được ngắt lời giáo sư, mô hình “chuỗi liên kết” giáo sư vừa nói là mới nghiên cứu được, đang ở cấp độ lý thuyết hay đã…

Đã thực hiện ở nhiều nơi rồi chớ! Những con số tôi nêu ra ở trên là con số căn cứ vào kết quả mới áp dụng xong ở vài nơi rồi. Ở đây tôi chỉ nói vắn tắt thôi chứ đi sâu vào còn nhiều nội dung lắm. Nhưng, tôi xin khẳng định lại, phải để vào “chuỗi giá trị” như vậy thì thực sự mới có liên kết chặt chẽ và công bằng được.

Về vấn đề an ninh lương thực, theo giáo sư nước ta có cần phải giữ 3,8 triệu ha trồng lúa như hiện nay để rồi hàng năm phải vất vả bán 7 – 8 triệu tấn gạo mà nông dân chẳng được lợi gì như năm nay?

Về mặt an ninh lương thực thì hoàn toàn yên tâm, chẳng có vấn đề gì. Chỉ sợ mấy ông doanh nghiệp đầu cơ như hồi năm 2008 gây sốt gần cả tháng thôi. Hàng năm ta sản xuất ra dư thừa xuất khẩu cả 7 – 8 triệu tấn mà cứ “la làng” là “an ninh lương thực” là không thuyết phục đâu!

Vậy sao không rút bớt diện tích để trồng cây gì khác có hiểu quả hơn trồng lúa? Giáo sư có nghĩ đến kịch bản như vậy không?

Tôi cũng suy nghĩ và tính toán rồi. Theo tôi, ở miền Bắc sản xuất lúa gạo chi phí cao, chất lượng không bằng miền Nam, nên chăng rút bớt diện tích trồng lúa ở miền Bắc chuyển qua trồng khoai tây! Sản lượng gạo thiếu thì điều chuyển từ miền Nam ra.

Ta đang có giống khoai tây rất tốt, ăn ngon. Khoai tây ở Việt Nam ta khác với bên Âu Mỹ. Bên xứ họ vụ khoai tây kết thúc vào khoảng tháng 9 tháng 10 trước khi mùa đông băng tuyết đến. Họ phải trữ khoai tây trong tủ lạnh để dùng 4 – 5 tháng. Miền Bắc nước ta trồng được vụ đông, thu hoạch xong ta bán cho rất nhiều nước đang bị băng tuyết che phủ. Khoai tây của ta tươi, chất lượng cao, ăn ngon.

Vấn đề là Nhà nước phải giao cho cơ quan có trách nhiệm khảo sát, xác định thị trường, tìm được khách hàng rồi về tổ chức cho bà con nông dân sản xuất khoai tây. Tôi nghĩ, làm được vậy thì người trồng khoai tây cũng có lợi tức cao mà người trồng lúa, người nông dân cũng có lợi tức cao!

Xin cảm ơn Giáo sư!

Nguồn: http://www.tiasang.com.vn