1000 năm tới: “Năm động lực lớn” tăng trưởng kinh tế – Phần cuối


Một chất bột ngọt tổng hợp có độ ngọt gấp 50.000 lần so với loại đường thông thường. Về mặt lý thuyết, một vài cơ sở sản xuất loại chất bột ngọt này có thể thay thế hàng triệu hecta và người lao động được sử dụng để sản xuất các chất bột ngọt có hương vị tự nhiên. Điều quan trọng nhất là các chất bột ngọt có nồng độ cao có tiềm năng lớn trong việc làm giảm quá trình hấp thụ calo, hạn chế béo phì, tăng cường sinh lực và nâng cao tuổi thọ.

Công nghệ vi tiểu dùng để chế tạo các loại máy móc và công cụ cỡ phân tử trở thành loại công nghệ tiên phong có kích cỡ nhỏ li ti mới chỉ bắt đầu được khám phá. Công nghệ vi tiểu sẽ sử dụng ít nguyên liệu hơn, tốn ít năng lượng hơn, và giảm thiểu được chất thải. Các ống nghiệm với đường kính trong lòng là 10 phần tỉ mét được chế tạo để sử dụng các ống carbon siêu nhỏ. Các động cơ tĩnh điện nhỏ tương đương 70 trắc vị kế (đường kính tương đương 0,003 inch) có thể đạt vận tốc trung bình 240.000 vòng quay/phút và vận tốc tối đa là 600.000 vòng/phút. Nhiều khả năng kỳ diệu hơn bao gồm xe “giao” thuốc, các thiết bị giải phẫu hiển vi có thể khai thông mạch, và các thiết bị tự nhân bản sử dụng các bản vẽ giống AND để tự liên kết. Các tiểu robot thì chưa thể có.

Khoa học siêu vật chất sẽ khám phá những công nghệ tiên phong thậm chí còn nhỏ hơn cả công nghệ vi tiểu: từng bước và từng phần, các tia hạt hoạt động và/hoặc các dạng hình sóng hình thành cấu trúc nguyên tử sẽ tiếp tục được khám phá. Các nhà khoa học đang bóc đi các lớp vỏ bên ngoài của các hạt nhân của một nguyên tử giống như lớp vỏ bên ngoài của một củ hành và xác định được rất nhiều các thành tố dưới nguyên tử. Còn lại những lớp và vỏ sâu tận cùng của chất dưới nguyên tử vẫn chưa được khám phá.

Hơn 300 hạt hạ nguyên tử đã được khám phá, nhưng kết quả cho đến nay vẫn nằm ngoài nhãn tiền. Tại Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN), máy phân tích hạt điện tử Pozitron phóng đại có thể cho phép nhìn thấy các phân tử nhỏ tới 10 phần tỉ mét. Khả năng đo được phân tử ở mức này cho phép nhìn thấy những thành tố đầu tiên của vật chất và năng lượng. Đây chính là những thành tố giúp toàn bộ vũ trụ phát triển. Máy phân tích hạt điện tử Hadron phóng đại tại CERN sẽ giúp phát triển hơn nữa những công nghệ tiên phong. Kết quả phân tích sẽ được đưa lên mạng vào năm 2005. Lĩnh vực vi phân này đem lại kỳ vọng lớn lao về một nền văn minh tiên tiến của chúng ta.

Việc kiểm soát nguyên tử phụ thuộc vào khả năng “nhìn” hoặc tạo ra hình ảnh quá trình và cấu trúc nguyên tử và dưới nguyên tử. Các máy siêu âm sử dụng tia X có thể tạo ra hình ảnh cấu trúc các phân tử, protein, và các chất hóa hữu cơ (enzime). Những kính hiển vi mới sử dụng năng lượng nguyên tử có thể phân tích từng nguyên tử. Một khi bản chất thực sự của vật chất được thấu hiểu, thì khoa học sẽ có thể kiểm soát được nó một cách dễ dàng. Thời điểm đó không còn bao xa nữa.

NGUYÊN TỬ MỚI

Thời đại nguyên tử mới: thống trị trong giai đoạn các năm 2100 – 2500

Năng lượng nhiệt hạch sẽ mở ra một thời đại nguyên tử mới. Năng lượng này sử dụng hoàn toàn khí hydro làm nhiên liệu, và vì thế nó có tiềm năng làm thỏa mãn nhu cầu về nguồn năng lượng vô hạn. Khi chúng ta biết cách nhân đôi nguồn năng lượng khí hydro, nguồn cung cấp chất đốt cho mặt trời, thì con người sẽ khai thác năng lượng từ chính những “lò tinh tú” của họ.

Nhu cầu năng lượng nhiệt hạch sẽ trở nên cấp thiết vào khoảng các năm 2050 – 2100 khi các nguồn dầu khí cạn kiệt. (Viện Dầu khí Hoa Kỳ ước tính hiện trên trái đất không còn quá 2 nghìn tỷ thùng dầu thô, tức là sẽ không còn đủ dùng cho hơn 95 năm nữa). Trước năm 2050, các nền kinh tế sẽ ngày càng phụ thuộc vào than. Tiếp đó, khoảng 2250 – 2500, khi trữ lượng than cũng đã cạn kiệt, thì nguồn cung cấp các nhiên liệu hóa thạch sẽ bị cạn kiệt và nhu cầu về năng lượng thay thế sẽ trở nên cấp bách.

Nguồn năng lượng khí hydro có thể cung cấp năng lượng thoải mái trong vòng 50 triệu năm! 10 feet lớp bề mặt của đại dương chứa đủ chất deuteri (một chất đồng vị với khí hydro) làm nhiên liệu đốt cho các lò phản ứng nhiệt hạch trong khoảng thời gian lâu như vậy. Khí hydro tự nhiên trong lớp vỏ bề mặt của trái đất có thể cung cấp trữ lượng bổ sung khổng lồ. Các nguồn ngoài tầng khí quyển có thể trở thành nguồn cung cấp bổ sung khi cần thiết. Chi phí để chuyển chất deuteri thành chất triti, một chất đồng vị mạnh hơn có tiềm năng cung cấp năng lượng gấp 4 lần, là không quá đắt. Các chất đồng vị heli có thể cung cấp thậm chí nhiều năng lượng hơn.

Để năng lượng nhiệt hạch có tính thương mại, sẽ cần một số đột phá khẩu, đặc biệt trong lĩnh vực vật lý, hóa huyết tương, phát triển các lĩnh vực phòng ngừa tốt, thiết bị gia tốc trao đổi phân tử, kỹ thuật giảm quán tính, các thiết bị kích thích (chẳng hạn như laze), và tinh chế nguyên liệu thô. Tuy nhiên những trở ngại này có thể xử lý được. Cần phải có thời gian cần thiết cho các quá trình điều tiết, xây dựng, và các biện pháp khởi động khác. Việc thành lập các cơ sở sản xuất năng lượng nhiệt hạch có thể bắt đầu sớm nhất là vào năm 2025, và kết quả sẽ được đưa lên mạng vào năm có một con số ý nghĩa là năm 2050.

Các nguồn thay thế khác có thể cung cấp năng lượng, nhưng không nhiều. Các tấm điện quang có thể chuyển ánh sáng mặt trời thành dòng điện nhưng vẫn còn rất tốn kém. Năm 1997, ở Mỹ, sức gió góp 7.630 MW điện (tăng từ 10 MW năm 1980), nhưng vẫn còn ở mức tương đối nhỏ trong tổng số lượng cung cấp năng lượng. Các tế bào nhiên liệu của một loại đã được cải tiến dự kiến sẽ được đưa vào sử dụng thương mại vào năm 2025.

Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, sự phân hạch hạt nhân đã được khai thác, không chỉ nhằm tạo ra những kho vũ khí khổng lồ, mà còn được sử dụng vào những mục đích hòa bình. Con số các quốc gia phụ thuộc hoàn toàn vào việc phân hạch hạt nhân để đáp ứng nhu cầu năng lượng của họ ngày càng tăng. Sự phụ thuộc đó sẽ còn tiếp tục tăng. Chúng ta cũng có thể trông đợi vào sự phát triển ổn định trong lĩnh vực này.

VŨ TRỤ MỚI

Thời đại vũ trụ mới: thống trị trong giai đoạn 2500 – 3000

Đến năm 3000 và có lẽ sớm nhất là năm 2500, thương mại trong vũ trụ sẽ trở thành động lực chính của hoạt động kinh tế. Trong nhiều thế kỷ qua, nhiều kính viễn vọng và thiết bị quan sát ngày càng tinh vi đã và đang tìm kiếm, nghiên cứu các điểm cực xa trong khoảng không vũ trụ. Vật lý học thiên thể và nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới đã vén dần, tuy chậm nhưng chắc, những bí ẩn của vũ trụ bao la. Nhiều con tàu vũ trụ có người điều khiển hoặc không có người điều khiển đã bắt đầu nhiệm vụ khám phá khoảng không vũ trụ ngoài trái đất. Vũ trụ ngày càng trở nên gần với chúng ta hơn bao giờ hết.

Vũ trụ thật mênh mông bao la, vì thế thật khó mà hiểu hết được nó. Dải ngân hà “Milky Way” mà trái đất của chúng ta nằm trong đó có 200 đến 400 tỉ tinh tú và rất nhiều hành tinh khác. Theo ước tính, vũ trụ có hơn 125 tỉ dải thiên hà khác.

Bất chấp những con số gây thất vọng như vậy, nhiều chuyên gia có tầm nhìn xa đã thiết lập những doanh nghiệp tổ chức du lịch trong vũ trụ cho những người ưa mạo hiểm và dịch vụ “mai táng” những hài cốt đã hỏa táng trong vũ trụ. Nhiều người dự đoán các thuộc địa vũ trụ sẽ là nơi để khai thác các tài nguyên từ sự phong phú của hệ thống mặt trời này, thiên hà này, và xa hơn. Sự khám phá vũ trụ của con người là vô tận. Nhiều công nghệ cần thiết cho Thời đại Vũ trụ mới đã được ứng dụng. GIờ đây, những công nghệ này cần được phát triển tiếp tục.

Những triển vọng tiến bộ

Các kỷ nguyên kinh tế lớn không bỗng nhiên xuất hiện như là một “dấu ấn gây kinh ngạc”. Phải mất hơn 100 năm để phát triển những công nghệ phục vụ cuộc cách mạng công nghiệp. Vạch ra những tác động về mặt chính trị và xã hội phải mất lâu hơn. Cần ít nhất 250 năm mới thấy được những tác động phụ, có biện pháp cải thiện những tác động hệ quả, và chú trọng mặt tích cực.

Lối sống tốc độ nhanh và những lo toan trước mắt của ngày hôm nay đã hạn chế tầm nhìn dài hạn. Chúng ta hiểu lịch sử một cách lờ mờ. Tuy nhiên, sự kiểm chứng chi tiết quá khứ và hiện tại là cần thiết để dự báo những triển vọng có thể có, khả dĩ sẽ có trong tương lai. Đường thời gian kinh tế được trình bày ở đây đưa ra một tầm nhìn xa như vậy, cho phép các cá nhân tận dụng những cơ hội kinh tế trong tương lai, nắm bắt được những cơ hội của xu thế phát triển và bỏ qua những cơ hội trong xu thế tụt hậu.

Cuối cùng, nghiên cứu quá khứ và hiện tại cho thấy rằng điều kiện của con người đã được cải thiện một cách ổn định và tăng dần. Chúng ta còn có thể trông đợi sự cải thiện tiếp tục trong những năm tới.

Người dịch: Nguyễn Hồng Hải

Nguồn: G. Molitor – The next 1000 years: The “Big Five” engines of economic growth – The Futurist, 2000, No. 10, Vol. 33, p13 – 20.

TN 2000 – 54

1000 năm tới: “Năm động lực lớn” tăng trưởng kinh tế – Phần II


KHOA HỌC VỀ SỰ SỐNG

Kỷ nguyên khoa học về sự sống: thống trị vào năm 2100

Đến năm 2100, khoa học về sự sống sẽ thống trị thay thế cho hoạt động kinh tế và sẽ tiếp tục phát triển trong thế kỷ tiếp theo. Việc họa đồ hệ thống gen của con người và các cấu trúc khác sẽ mở ra những tiềm năng mang dấu ấn mới trong lịch sử nhân loại. Bí mật của sự sống, một trong những điều thần bí luôn là mục tiêu để khám phá, đang dần dần được vén mở. Nắm bắt được các “bản họa đồ” cho sự sống sẽ cho phép các chuyên gia về gen kiểm soát được sự tiến hóa của thực vật, động vật và con người.

Sớm nhất là năm 2020, khả năng đó sẽ tạo ra khó khăn có tính chất chia rẽ sâu sắc trong sự lựa chọn giữa chuẩn mực và đạo đức. Thuyết ưu sinh – tức là con người có khả năng kiểm soát sự tiến hóa của họ – chắc chắn trở thành một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất. Các tổ chức tôn giáo, cùng với nhiều nhà phê bình và những người tham gia chiến dịch vận động sẽ phát huy những ảnh hưởng mạnh mẽ của họ để phản đối những công nghệ gen làm biến đổi sự sống.

Những tiến bộ lớn nhất trong sinh học cũng đã gặp phải sự phản kháng tương tự. Cách đây không bao năm, nhiều lãnh tụ nhà thờ đã có những lời lẽ gay gắt phỉ báng việc lai tạo giống thực vật của Lurther Burbank. Nhiều thế kỷ trước đây, các lãnh tụ tôn giáo đã ngăn cản việc giải phẫu trên người với lý do rằng điều đó là phi đạo đức và bẩn thỉu. Việc thay đổi cấu trúc gen sẽ vượt qu những trở ngại đó, và cũng sẽ không thể phủ nhận những lợi ích còn chưa chắc chắn của nó như xóa bỏ những căn bệnh về gen, kéo dài tuổi thọ, tăng sản xuất thực phẩm và cải thiện dược phẩm.

Việc xóa bỏ những căn bệnh về gen thực sự nằm trong khả năng của chúng ta. Hơn 4000 gen được phát hiện là có liên quan tới những bệnh di truyền. Nhiều ca chuẩn đoán được thực nghiệm trên một mẫu AND trong phòng thí nghiệm để phát hiện những bệnh về gen. Các bộ phận phôi của con người được đưa lên màn hình để chuẩn đoán bệnh xơ nang và thiếu máu do huyết cầu có hình lưỡi liềm gây ra. Nhìn từ góc độ tiêu cực, những người bị dị tật gen sẽ chịu sự phân biệt, mất tự do, hạn chế chăm sóc y tế, dị dạng, và được chết để tránh đau đớn.

“Nhà thiết kế trẻ em”, đó là phương pháp tốn kém đối với mọi người, nhưng với người giàu thì lại không, và phương pháp này sẽ dần dần trở thành chuẩn mực. Việc phẫu thuật buồng trứng và thay thế tinh trùng sẽ được chọn lựa một cách cẩn thận, sau đó sẽ được ghép lại với nhau trong phòng thí nghiệm để tạo ra một hợp tử hoàn hảo. Khi hợp tử phát triển thành phôi, người ta sẽ cấu nó vào trong mẹ đẻ hoặc một người mẹ thay thế khác. Tình dục rồi sẽ trở nên có tính giải trí hơn là để sinh đẻ con cái. Biện pháp hạn chế sẽ được áp dụng rộng rãi. Việc sinh sản thông qua quan hệ tình dục “thông thường” giờ đây sẽ được xem là ngớ ngẩn cũng gống như việc chăm sóc chu sinh.

Tuổi thọ con người kéo dài từ 125 đến 160 tuổi sẽ đặt ra những khó khăn mới liên quan đến những căn bệnh của tuổi già. Con người sẽ duy trì thể chất như thế nào trong thời gian nghỉ hưu là 100 năm? Xã hội sẽ phải có quyết định về bệnh thiếu máu. Những thay đổi chính sách về việc ủng hộ phương pháp sinh đẻ hợp pháp trên đây của Jack Kevorkian ở Oregon và Australia là những dấu hiệu sớm cho thấy một cuộc tranh cãi sẽ xảy ra.

Công nghệ sinh học sẽ làm tăng sản lượng nông nghiệp. Người ta sẽ thiết kế những vụ mùa sử dụng phương pháp biến đổi cấu trúc sinh học để phát triển trong những môi trường khó khăn, tăng hàm lượng chất dinh dưỡng, giảm thiểu nhu cầu sử dụng phân bón… Nhiều loại cà chua được biến đổi gen đã được ứng dụng để chống bị hư hỏng và bảo quản trong điều kiện không tốt. Liệu pháp tăng hóoc môn đã được sử dụng thành công để tăng sản lượng sữa ở bò. Nhiều loại “dược phẩm” được biến đổi cấu trúc gen đã được thử nghiệm để tiêm chủng phòng bệnh. Các vụ mùa có thể được thiết kế lại để thu chỉ những thành phần mong muốn – thí dụ các túi nước cam -, sẽ không còn rễ, mầm, nhánh, lá, vỏ hoặc hạt. Monsanto có loại cây bông được biến đổi cấu trúc sinh học để cho những trái bông ra màu sắc ngay từ ở trên cây.

Cuối cùng, những nguyên tắc về gen sẽ được ứng dụng để tạo ra những cơ quan vô tính của con người dùng cho việc cấy ghép và khám phá những bộ máy vận hành do quá trình lão hóa. Khả năng “bất tử” là thấy rõ.

SIÊU VẬT CHẤT

Kỷ nguyên siêu vật chất: thống trị trong giai đoạn các năm 2200 – 2300

Công nghệ siêu vật chất, bao gồm khả năng tách và kết cấu lại vật chất ở mức nguyên tử và hạ nguyên tử, sẽ làm thay đổi căn bản ngành khoa học tự nhiên, nhưng cũng sẽ phải mất một thời gian đáng kể nhằm đạt được điều đó. Những công nghệ này có thể sẽ thống trị trong giai đoạn các năm 2200 – 2300. Khoa học siêu vật chất vén mở dần dần những thần bí của những trạng thái bao la và hình thù của vật chất.

Áp suất có ảnh hưởng sâu sắc tới hình thù của vật chất, và những thí nghiệm bằng áp suất trong phòng gần đây đã cho những kết quả đầy hứa hẹn. Các chất đồng vị carbon ở thể “rắn trong suốt” chịu áp suất không khí 200.000 atmosphere, sẽ tạo thành những hạt kim cương tổng hợp. Khí hydro dưới áp suất không khí 2,5 triệu atmosphere sẽ tạo thành kim loại. Ở dạng này, khí hydro sản sinh ra một lực đẩy lớn gấp hàng trăm lần so với bất kỳ một loại nhiên liệu nào khác, kết quả này cho thấy khả năng mới về lực đẩy.

Nhiệt độ chuyển từ cực nóng sang cực lạnh cũng làm thay đổi mạnh mẽ hình thái của vật chất. Ở nhiệt độ cực thấp – xấp xỉ mức 0 – nhiều chất được tạo thành chất siêu dẫn; tức là khi cho dòng điện chạy qua chất này sẽ không bị giảm do điện trở. Các thí nghiệm trong phòng nâng dần nhiệt độ ở mức mà các chất siêu dẫn có thể hoạt động. Một ngày nào đó, người ta có thể tạo ra các chất siêu dẫn hoạt động ở nhiệt độ trong phòng bằng việc pha trộn tổng hợp những nguyên tố cần thiết trong môi trường thích hợp. Tiềm năng tiết kiệm năng lượng của chất siêu dẫn là rõ ràng. Kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này cũng có thể tạo ra giao thông đệm từ, tĩnh và êm như lụa.

Ở nhiệt độ 1.870.000 độ F, hầu hết các chất đều được tạo thành thạch anh lục và có thể tạo ra hợp chất hỗn hợp. Điều này dễ dàng đạt được nhờ các tia laze mạnh. Kể từ thập kỷ 50, nhiều loại laze đã được phát minh, bao gồm một loại laze nguyên tử sản sinh ra các nguyên tử hoạt động tạo thành các sóng ánh sáng. Loại laze mạnh nhất, một loại laze phi điện tử (free-electron) được hoạt động nhờ một hoạt chất xúc tác có thể chuyển năng lượng điện tử thành một tia laze. Ứng dụng thực tế các loại laze, từ giao thông đến giải phẫu, đã làm chuyển hóa tất cả các ngành công nghiệp.

Nhiều loại chất tổng hợp tiếp tục được chế tạo với số lượng nhiều đến chóng mặt. Các loại nhựa, chẳng hạn như nhựa cứng và nhựa tổng hợp được chế tạo năm 1828 đã hình thành những ngành công nghiệp quan trọng trong thế kỷ XX. Các loại nhựa dẫn điện, nhựa kết dính, và nhựa Teflon dùng để chế tạo các dụng cụ nấu ăn “không dính (non-stick)” là những thí dụ về những loại chất tổng hợp làm cho cuộc sống trở nên dễ dàng hơn đôi chút. Hàng ngày, nhiều chất mới được tạo ra. Mỗi năm, hơn 10 triệu hợp chất hóa học được xác định, và thêm 400.000 hợp chất khác được phát hiện.

“Nhà thiết kế vật chất” không hạn chế đối với chất vô cơ: Chất hữu cơ tổng hợp cũng nhiều vô kể. Thí dụ, hãy xem một chất thông thường được tìm thấy trong hầu hết các chạn đựng thức ăn: bột ngọt. Các nhà khoa học đã phát hiện ra các chất bột ngọt hóa học tổng hợp trong thời gian khoảng cuối những năm 1880, và nhiều chất bột ngọt được biến đổi gen vào những năm 1990. Được biết, hiện có khoảng 1000 chất bột ngọt cả tự nhiên lẫn nhân tạo trong chiếc chạn đựng thức ăn toàn cầu của chúng ta.

(còn tiếp) 

Người dịch: Nguyễn Hồng Hải

Nguồn: G. Molitor – The next 1000 years: The “Big Five” engines of economic growth – The Futurist, 2000, No. 10, Vol. 33, p13 – 20.

TN 2000 – 54

1000 năm tới: “Năm động lực lớn” tăng trưởng kinh tế – Phần I


G. Molitor

Chỉ còn vài tháng nữa là kết thúc năm 2000, năm cuối cùng của thế kỷ XX, nhân loại sẽ bước sang một thiên niên kỷ mới, thiên niên kỷ thứ ba – 1000 năm tới. Nhìn vào thế kỷ XX – 100 năm và rộng ra là 1000 năm qua, chúng ta quả là không thể tin vào sự phát triển một cách kỳ diệu trên hầu khắp mọi lĩnh vực, trong đó phải kể đến sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ đã cứu triệu triệu con người khỏi đói nghèo, đưa lịch sử phát triển của nhân loại vào thời đại có thể nói là văn minh, nhờ có những phát minh vĩ đại trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.

Trong khoảng thời gian chuyển tiếp còn lại này, chúng ta hãy thử nhìn lại quá trình phát triển kinh tế, xem những động lực nào và sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đến mức nào đã giúp thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế trong suốt 1000 năm qua, và cùng dự đoán xem con tàu khoa học – công nghệ, động lực mạnh mẽ của tăng trưởng kinh tế, sẽ tiếp tục đi đến đâu trong 1000 năm tới khi người ta giờ đây đang nói nhiều đến nền kinh tế tri thức (Knowledge-based economy).

MỞ ĐẦU

Một nhà tương lai học nổi tiếng tiên đoán rằng trong 1000 năm tới, nền kinh tế thế giới sẽ trải qua năm đợt sóng lớn.

Trong suốt lịch sử nhân lạoi cho đến nay, đã có bốn đợt sóng kế tiếp nhau làm thay đổi kinh tế mà động lực chính là nông nghiệp, sản xuất công nghiệp, dịch vụ và thông tin. Trong 1000 năm tới, nhân loại sẽ chứng kiến ít nhất năm đợt sóng tương tự như vậy nổi lên, đó là giải trí, khoa học về sự sống, siêu vật chất, kỷ nguyên nguyên tử mới và một kỷ nguyên vũ trụ mới. Mỗi lực lượng mang tính thương mại này tạo dựng động lực cho hàng trăm năm và không còn khiến cho những người có thông tin phải ngỡ ngàng.

Thời đại nông nghiệp phát triển dựa trên sự thu hoạch các nhu phẩm từ đất đai, và nghề nông ở Mỹ phát triển nhất trong suốt thập kỷ những năm 1880. Kỷ nguyên công nghiệp mà ở Mỹ việc làm được tạo ra nhiều nhất trong suốt những năm 1920 chủ yếu tập trung vào sản xuất các sản phẩm đại trà. Đợt sóng thứ ba được bàn luận nhiều – kỷ nguyên dịch vụ – đã qua lâu rồi: ngành dịch vụ phát triển nhất trong thời kỳ giữa thập kỷ những năm 1950.

Kỷ nguyên thông tin hiện nay được tạo dựng nhờ có sự phát triển về công nghệ truyền thông và máy tính đang ở giai đoạn phát triển nhất, nhưng cũng chỉ ở vị trí độc tôn một số năm, cùng lắm là 20 năm nữa. Hai thập kỷ không phải là một khoảng thời gian quá ngắn ngủi để bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc về điều gì sẽ diễn ra tiếp theo.

Điều gì rồi sẽ diễn ra tiếp theo? Sự tấn công của loại hình doanh nghiệp mới dẫn đến những thay đổi chưa rõ ràng sẽ thúc đẩy cũng như làm tiêu hủy công ăn việc làm và thu nhập, hình thành lại các nền kinh tế và gây ảnh hưởng tới toàn bộ thế giới. Những lĩnh vực ngày càng suy yếu được thay thế bởi công nghệ mới sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Cần thiết phải lên kế hoạch về phương cách giải quyết sự thay đổi to lớn diễn ra đồng hành với những dịch chuyển như vậy để giảm thiểu những xáo động bất thường. Sự sống còn của toàn bộ các ngành và sự tăng trưởng kinh tế trong tương lai nói chung sẽ phải phụ thuộc vào tính tiên phong của các công nghệ mới.

Mỗi đợt sóng mới trong số “năm đợt sóng lớn” sẽ chiếm vị trí độc tôn trong một thời gian ngắn ngủi, tương tự như “bốn đợt sóng lớn” trước đó. Trước tiên, nó sẽ trở thành người tạo công ăn việc làm lớn nhất và ngay sau đó, sẽ chiếm cổ phần lớn nhất trong tổng sản phẩm nội địa.

Những nghiên cứu kỹ lưỡng cho thấy rằng các lực lượng đứng đằng sau sự thay đổi kinh tế căn bản bắt đầu tích tụ từ nhiều thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ trước khi đợt sóng dâng cao. Dấu hiệu của từng đợt sóng kinh tế mới đã thực sự hình thành.

GIẢI TRÍ

Kỷ nguyên thời gian giải trí: thống trị vào năm 2015

Các ngành kinh doanh hướng vào giải trí – mọi thứ, từ quán bar đến các cửa hàng video, nhà hát kịch – sẽ chiếm 50% tổng sản phẩm quốc dân ở Mỹ ngay sau năm 2015.

Các công ty tổng hợp “Giải trí lớn” bao gồm phim, truyền hình, xuất bản, âm nhạc, khách sạn, và công viên giải trí – chẳng hạn như Viacom – Paramount – Simon & Schuster, Disney’s ABC, và Time – Warner – Turner – luôn đi đầu trong lĩnh vực mới này. Một thực tế không mấy người quan tâm liên quan đến địa điểm mà người dân nước này thường đến thăm đó là 15 triệu người Mỹ đã đến thăm lãnh địa Disney ở Anaheim năm 1996, trong khi đó chỉ có 10,8 triệu người (không kể các du khách là doanh gia) đến thăm thủ đô của nước này. Các nhà đầu tư có đầu óc đã bắt đầu chuyển tiền của họ vào các doanh nghiệp trong ngành giải trí.

Cùng với sự tiến triển của xã hội qua từng kỷ nguyên trước đó, thời gian dành cho giải trí tăng lên. Khi nông nghiệp phát triển khoảng 10.000 năm trước đây, thì người ta đã không phải dành nhiều thời gian cho săn bắn và hái lượm mà có thể đã dành khoảng 10% thời gian của cuộc sống cho hoạt động giải trí. Trong khoảng thời gian từ năm 6000 trước công nguyên (B.C) đến năm 1500 sau công nguyên (A.D), những người thợ thủ công và nghệ nhân đã tạo điều kiện cho những người khác không phải làm những công việc lãng phí thời gian, giải phóng và dành cho giải trí tới 17% thời gian. Vào khoảng những năm 1770, mọi việc được thực hiện nhanh hơn nhờ có máy móc, bao gồm cả động cơ hơi nước còn thô sơ, và điều này đã làm tăng thời lượng giải trí lên đến 23%. Đến thập kỷ 1990, máy móc chạy bằng sức điện đã đẩy nhanh tốc độ mọi thứ từ chuẩn bị thức ăn đến giao thông, và đã tạo điều kiện cho con người hưởng thụ 41% cuộc sống của họ dành cho giải trí. Từ nay đến trước năm 2015, công nghệ mới và một số trào lưu khác sẽ cho phép con người dành hơn 50% thời gian cuộc sống của họ cho giải trí.

Tuần làm việc đã giảm đều: từ 72 giờ trong suốt cuối những năm 1700 xuống còn 69,8 giờ năm 1859, dưới 40 giờ trong những năm 1990; ở châu Âu chưa áp dụng tuần làm việc 30 giờ. Hiện nay, người ta, đặc biệt là các công đảng chính trị ở châu Âu, đang tranh luận về tuần làm việc 20 giờ.

Càng ngày càng có nhiều ngày nghỉ hơn. Trong năm 1998, ở Mỹ có 10 ngày nghỉ được công nhận cho toàn liên bang. Các cơ quan hành pháp Nhà nước và địa phương thường ít có ngày nghỉ hơn. Các quốc gia khác mỗi năm có tới 18 ngày nghỉ, gợi ý rằng người Mỹ sau rốt cũng nên có nhiều ngày nghỉ hơn. Nhiều lợi ích chủng tộc, dân tộc và tôn giáo sẽ khích lệ xu hướng này.

Các kỳ nghỉ cũng sẽ kéo dài hơn. Người Mỹ, hiện bình quân được hưởng 12 ngày nghỉ, đang hướng tới 40 ngày vào năm 3000. Người lao động Phần Lan năm 1993 được hưởng 37,5 ngày nghỉ. Số ngày nghỉ của người Tây Âu dài gấp từ hai đến ba lần số ngày nghỉ của người Mỹ: 32,5 ngày ở Hà Lan 32 ngày ở Italy, và 30 ngày ở Đức. Nghỉ phép hoặc nghỉ không lương cũng tiếp tục trở nên thông thoáng hơn.

Chưa bao giờ người dân nghỉ hưu sớm đến thế. Tuổi nghỉ hưu ở Mỹ bình quân là 67 thời kỳ 1950 – 1955, và giảm xuống còn 63 thời kỳ 1985 – 1990; năm 1994, tuổi nghỉ hưu phổ biến nhất là 60. Tuy nhiên, tuổi nghỉ hưu sẽ trở lại như xưa. Đến năm 2022, độ tuổi thích hợp được hưởng an sinh dự tính tăng từ 65 lên 67; và đến năm 2025, tuổi nghỉ hưu có thể tăng lên 70 do cuộc sống lành mạnh hơn và tuổi thọ cao hơn. Ngay bây giờ, hãy thử giả thiết rằng ngày càng có nhiều người tuổi thọ cao và nhiều cá nhân sống đến 160 tuổi; nếu người ta 60 tuổi đã phải nghỉ hưu, thì 100 năm còn lại sẽ làm gì?

Nền kinh tế giải trí sẽ đánh dấu một loạt thái độ, triển vọng và hoạt động mới. Người ta sẽ bỏ tiền để đổi lấy trải nghiệm thay vì vật chất: riêng các ngành kinh doanh chào mời những cuộc thám hiểm và những chuyến đi gây cảm giác kỳ thú sẽ bùng nổ. Trước tiên, người ta sẽ muốn đi thăm những nơi khác trên thế giới. Trung Quốc sẽ trở thành điểm du lịch được xếp hàng đầu trên thế giới vào năm 2020.

Đối với một số người, thời gian giải trí sẽ dành để phát huy tối đa giá trị bản thân và phát triển tiềm năng nội tại. Những người khác sẽ dành nhiều thời gian hơn cho các vấn đề tinh thần; tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của tuổi già sẽ đem lại động lực mới. Tuy nhiên, phần lớn mọi người sẽ dành thời gian giải trí cho thể thao và các hoạt động giải trí khác.

(còn tiếp) 

Người dịch: Nguyễn Hồng Hải

Nguồn: G. Molitor – The next 1000 years: The “Big Five” engines of economic growth – The Futurist, 2000, No. 10, Vol. 33, p13 – 20.

TN 2000 – 54

Một số lý thuyết về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội và việc vận dụng ở Việt Nam hiện nay – Phần cuối


Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết phát triển và từ các bài học kinh nghiệm thực tiễn của nhiều nước, Chiến lược đã nêu những định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện bộ máy nhà nước và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường ở nước ta: “Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường”. Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả, thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

5/ Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng

Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả. Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước, góp phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

Chiến lược cũng nêu mục tiêu tổng quát: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị – xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế  của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.

Đặc biệt, trên cơ sở tham khảo lý thuyết và mô hình phát triển của nhiều nước trên thế giới, căn cứ vào thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội, nhất là thời kỳ chiến lược 2001 – 2010 của đất nước, Đảng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về mô hình phát triển bền vững và sự cần thiết phải đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của nước ta. Trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 – 5/6/2011), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ rõ: Phát triển bền vững được đo bằng nhiều tiêu chí, bảo đảm sự gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường. Để phát triển bền vững, trước hết phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô – yếu tố quan trọng hàng đầu cho tăng trưởng bền vững; đồng thời, tăng trưởng bền vững sẽ tạo điều kiện để ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc. Trong thời kỳ chiến lược 2001 – 2010, tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và nguồn lao động giá rẻ, chất lượng thấp. Khuyết điểm của chúng ta là duy trì quá lâu mô hình này… Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong một thế giới mà toàn cầu hóa và liên kết kinh tế diễn ra rất quyết liệt, các mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu hoặc hướng về xuất khẩu không còn nguyên ý nghĩa kinh điển của nó. Điều đó càng đòi hỏi chúng ta phải có tư duy toàn cầu và hành động quốc gia để có cách làm sáng tạo. Chúng ta phải trên cơ sở những bài học học lịch sử về tiến trình công nghiệp hóa mà các nước đi trước đã trải qua và những đặc điểm kinh tế của thời đại để tìm ra cách đi phù hợp với những điều kiện cụ thể của nước ta. Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 đã nhấn mạnh yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường phát triển kinh tế xanh”.

Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu tổng quát, đồng thời với chủ trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng,t ái cấu trúc nền kinh tế, Chiến lược đã đề ra 12 định hướng phát triển, xác định rõ ba đột phá chiến lược, hình thành đồng bộ các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại như một chỉnh thể thống nhất, bảo đảm phát triển bền vững.

Những quan điểm, mục tiêu, những nguyên tắc chính về phát triển bền vững trong Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam cũng như trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 hợp thành những tư tưởng, quan điểm cốt lõi của lý thuyết phát triển và quản lý phát triển xã hội Việt Nam trong giai đoạn mới, vừa là kết quả của sự vận dụng sáng tạo những lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội và kinh nghiệm phát triển của thế giới vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời cũng là sự tổng kết thực tiễn phát triển đất nước qua quá trình đổi mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa mang tính định hướng cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, thể hiện một tư duy phát triển mới, tầm nhìn mới của Đảng về mô hình phát triển của đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, nhằm hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nguồn: Ngô Ngọc Thắng & Đoàn Minh Huấn (đcb) – Một số lý thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội – NXB CTQG 2014.

Một số lý thuyết về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội và việc vận dụng ở Việt Nam hiện nay – Phần XVIII


Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. Tạo lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận tới những nguồn lực chung và được phân phối công bằng những lợi ích công cộng, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau, sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo lại được, gìn giữ và cải thiện môi trường sống, phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân thiện mới môi trường; xây dựng lối sống lành mạnh, hài hòa, gẫn gũi và yêu quý thiên nhiên.

Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất, trước mắt cần được đẩy mạnh sử dụng ở những ngành và lĩnh vực sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác.

Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân. Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa chọn các quyết định về phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường ở địa phương và trên quy mô cả nước. Bảo đảm cho nhân dân có khả năng tiếp cận thông tin và nâng cao vai trò của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của phụ nữ, thanh niên, đồng bào các dân tộc thiểu số trong việc đóng góp vào quá trình ra quyết định về các dự án đầu tư phát triển lớn, lâu dài của đất nước.

Thứ bẩy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước. Phát triển các quan hệ song phương và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực; tiếp thu có chọn lọc những tiến bộ khoa học – công nghệ, tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển bền vững. Chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra.

Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội.

Ngoài ra, việc tiếp thu và vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội phải quán triệt những quan điểm, mục tiêu và các giải pháp lớn trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020.

Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu năm quan điểm phát triển có ý nghĩa chỉ đạo:

1/ Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.

Tư tưởng chỉ đạo trong Chiến lược là: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nahnh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế – xã hội.

2/ Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước ta thành nước xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, coi đây là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển.

3/ Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.

Chiến lược nhấn mạnh yêu cầu: “Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước”; coi phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học – công nghệ là một trong những đột phá chiến lược và là yếu tố quyết định để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

4/ Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học – công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn phát triển ở nhiều nước cho thấy, thể chế chứ không phải tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý kinh tế là yếu tố quyết định sự phát triển. Một hệ thống thể chế phù hợp, chất lượng cao là điều kiện để huy động mọi nguồn lực cho phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy, Chiến lược nhấn mạnh yêu cầu phải hoàn thành thể chế kinh tế thị trường, tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Ở đây đặt ra vấn đề về chức năng, vai trò của bộ máy nhà nước và việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, vốn là một trong những vấn đề trung tâm của các học thuyết kinh tế.

(còn tiếp) 

Nguồn: Ngô Ngọc Thắng & Đoàn Minh Huấn (đcb) – Một số lý thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội – NXB CTQG 2014.

Một số lý thuyết về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội và việc vận dụng ở Việt Nam hiện nay – Phần XVII


Ngay từ khi cuộc khủng hoảng kinh tế vừa bùng phát, nhiều nhà kinh tế học nổi tiếng ở phương Tây đã phải thừa nhận việc áp dụng mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa tự do mới là sai lầm và đã đến lúc phải từ bỏ nó. Chẳng hạn giáo sư Joseph Stiglitz, người được giải Nobel kinh tế năm 2001, đã viết trong bài Cuộc khủng hoảng toàn cầu mang nhãn hiệu “Made in USA” như sau: “Mỹ đã xuất khẩu triết lý kinh tế thị trường tự do ở mức mà ngay cả vị “tu sĩ” cao cấp nhất của trường phái đó là Alan Greenspan giờ cũng phải thừa nhận là sai lầm… Mỹ đã xuất khẩu một thứ văn hóa doanh nghiệp vô trách nhiệm đối với xã hội… Và cuối cùng, Mỹ đã xuất khẩu cả sự suy thoái kinh tế đi bốn phương”. Chính Tổng thống Pháp Nicolas Sarcozy với tư cách là Chủ tịch luân phiên Liên minh châu Âu (EU) cũng phải tuyên bố: “Phải chỉnh đốn lại chủ nghĩa tư bản theo mô hình mới bởi hệ thống thị trường tự điều tiết đã qua rồi, mọi quyền lực của thị trường luôn được cho là đúng đã kết thúc”. Những thí dụ trên cho thấy, không một lý thuyết hay mô hình phát triển nào là hoàn thiện, tối ưu, là vĩnh viễn, không cần phải thay đổi, điều chỉnh, do đó việc đánh giá và áp dụng chúng đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử – cụ thể, phải có cái nhìn toàn diện, thấy được cả mặt tích cực cũng như hạn chế của nó. Việc tìm hiểu và áp dụng những lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của phương Tây vào Việt Nam lại càng phải lưu ý điều này. Chẳng hạn, hiện nay chúng ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong một thế giới toàn cầu hóa với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, đòi hỏi chúng ta phải tiếp thu một cách có phê phán và vận dụng một cách sáng tạo những lý thuyết về vai trò của thị trường, vai trò của nhà nước, về nền kinh tế hỗn hợp, hay lý thuyết về công nghiệp hóa, về hiện đại hóa… cùng những bài học kinh nghiệm thành công và thất bại của các nước đã và đang áp dụng những lý thuyết trên vào thực tiễn nước ta để tìm ra phương thức tốt nhất thực hiện thành công đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước ta. Việt Nam là nước đang phát triển, có điểm xuất phát thấp. Chúng ta phải kết hợp cả những bước đi vừa mang tính tuần tự, vừa phải đi tắt, đón đầu. Việc vận dụng những lý thuyết và kinh nghiệm thực hiện tăng trưởng kinh tế là cần thiết, nhưng với tư duy mới, sáng tạo, phù hợp với điều kiện Việt Nam và bối cảnh quốc tế hiện nay. Đối với nước ta, muốn phát triển phải thực hiện tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là bắt buộc và cần thiết, nhưng phải gắn với xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát tiền. Tăng trưởng với tốc độ nhanh nhưng phải chú ý chất lượng và tính bền vững, phải bảo vệ môi trường, phải gắn với chuyển dịch và xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Để làm được điều đó, phải có những giải pháp và cách làm phù hợp trong việc tạo lập và phát huy các yếu tố tối cần thiết như: “tư bản nhân lực”, tri thức, “kỹ thuật” và “công nghệ tiên tiến”, tư bản nói chung, đặc biệt là “tư bản quốc tế”, thu hút đầu tư nước ngoài để tạo “cú huých” tăng trưởng, thoát ra khỏi “cái vòng luẩn quẩn” của những nước nghèo, đồng thời, gắn với đó phải có những “điều chỉnh” về thể chế và hệ tư tưởng, văn hóa phù hợp với đòi hỏi của tăng trưởng kinh tế nói riêng và phát triển xã hội, đổi mới đất nước nói chung. Như vậy, tất yếu phải đổi mới tư duy, cải cách thể chế, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, truyền thông và các yếu tố liên quan…, phù hợp với văn hóa dân tộc, những giá trị, những chuẩn mực chung và xu hướng chung của thời đại.

Bốn là, việc lựa chọn, tiếp thu và vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội phải xuất phát từ định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, phù hợp với quan điểm, đường lối phát triển đất nước của Đảng, phục vụ việc thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020.

Trước hết, việc lựa chọn, tiếp thu và vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội phải xuất phát từ những quan điểm, mục tiêu và nguyên tắc chính để bảo đảm phát triển bền vững ở nước ta đã được nên trong Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) ban hành theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/08/2004 của Thủ tướng Chính phủ.

Quan điểm phát triển được khẳng định trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”; “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”.

Trên cơ sở đó, Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam đã xác định mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.

Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần lớn cho các thế hệ mai sau.

Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội là đạt được kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một xã hội, duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần.

Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.

Để đạt được các mục tiêu nêu trên, Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam đã nêu lên tám nguyên tắc chính cần thực hiện trong quá trình phát triển, cụ thể như sau:

Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán trong mọi giai đoạn phát triển.

Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới, bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền vững, bảo đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm cho nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa với phát triển xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc “mọi mặt: kinh tế, xã hội và môi trường đều cùng có lợi”.

Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triểnh. Tích cực và chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường do hoạt động của con người gây ra. Cần áp dụng rộng rãi nguyên tắc “Người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì phải bồi hoàn”. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về công tác bảo vệ môi trường; chủ động gắn kết và có chế tài bắt buộc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế – xã hội, coi yêu cầu về bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá phát triển bền vững.

(còn tiếp) 

Nguồn: Ngô Ngọc Thắng & Đoàn Minh Huấn (đcb) – Một số lý thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội – NXB CTQG 2014.

Một số lý thuyết về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội và việc vận dụng ở Việt Nam hiện nay – Phần XVI


Hai là, việc xem xét, đánh giá, lựa chọn và vận dụng lý thuyết phát triển và quản lý phát triển xã hội cần dựa trên quan điểm khách quan, khoa học.

Có một thực tế là, những lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội được phổ biến và áp dụng ở nhiều nước hiện nay hầu hết đều là kết quả nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm của các nhà khoa học ở các nước tư bản phát triển trên cơ sở khảo sát thực tiễn và tổng kết mô hình phát triển ở một quốc gia hay khu vực, một lĩnh vực phát triển nào đó của nhân loại, ít nhiều đã được thực tiễn kiểm nghiệm ở một mức độ nào đó. Nhiều tác giả của những lý thuyết trên đã được giải thưởng Nobel về các lĩnh vực khoa học và hoạt động xã hội khác nhau. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là những lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội với tư cách là sản phẩm khoa học thì vận dụng vào đâu cũng được, đều cho kết quả tốt. Vấn đề còn tùy thuộc ở cách tiếp cận, quan điểm, động cơ, mục đích và bối cảnh, điều kiện, môi trường của người lựa chọn và sử dụng chúng. Mặt khác, bản thân những lý thuyết trên là đứa con tinh thần, là kết quả lao động nghiêm túc của các nhà khoa học, phần nào phản ánh quan điểm và cách tiếp cận riêng của họ. Do giới hạn của nhận thức, do hạn chế về thông tin hoặc do điều kiện khách quan và chủ quan, có thể những lý thuyết đó chỉ đáp ứng được một khía cạnh nào đó của sự phát triển xã hội tại những thời điểm cụ thể, trên những địa bàn và lĩnh vực cụ thể khác nhau. Vì vậy, cần có thái độ tiếp thu một cách có phê phán trên tinh thần khách quan, khoa học và trân trọng khi tiếp cận những lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội với tư cách là những giá trị chung, phản ánh cố gắng của nhân loại trong quá trình tìm kiếm những con đường, phương thức và mô hình phát triển phù hợp. Cần sáng suốt, thận trọng và khách quan khi phân tích, đánh giá đúng sai, chỉ ra ưu điểm và hạn chế của những lý thuyết trên, tránh lặp lại những thiên kiến sai lệch của quá khứ thời Chiến tranh Lạnh, khi thế giới bị chia thành hai phe “địch – ta”, các sản phẩm khoa học xã hội và các lý thuyết phát triển được nhìn nhận và đánh giá một chiều qua lăng kính chính trị và đấu tranh giai cấp một cách giản đơn, thô thiển. Chẳng hạn, có một thời ở các nước xã hội chủ nghĩa tồn tại quan điểm cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, là đối lập với chủ nghĩa xã hội, do đó những gì liên quan tới nó đều là tiêu cực, bóc lột, hoặc quan điểm tuyệt đối hóa vai trò của nhà nước và kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, gắn với nó là cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, coi đó là mô hình phát triển tối ưu của chủ nghĩa xã hội so với mô hình phát triển thị trường tự do tư bản chủ nghĩa, vì vậy mà không cần đổi mới, không cần học cái hay, cái hợp lý trong những lý thuyết, những mô hình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa… Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, những quan điểm và cách tiếp cận chủ quan, thiên kiến, thiếu khoa học nói trên chỉ là sự biện minh hoặc tự tạo điều kiện nuôi dưỡng cho chủ nghĩa bảo thủ, biệt lập, cục bộ, khép kín, hoặc che đậy sự non kém, ngộ nhận, tự đề cao, đó chính là kẻ thù của đổi mới, cách mạng, tiến bộ, khoa học và phát triển.

Ba là khi nghiên cứu, tiếp cận và vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội cần có quan điểm lịch sử – cụ thể, quan điểm toàn diện.

Không thể phủ nhận một thực tế là các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội mà chúng ta từng tiếp cận và được du nhập vào nước ta vốn thuộc các trường phái khác nhau, chủ yếu từ các nước phương Tây. Mỗi lý thuyết đều có những hạt nhân hợp lý, những ưu điểm cũng như những hạn chế nhất định, vì chúng đều là những sản phẩm của sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và khái quát lý luận ở những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, xuất phát từ những cách tiếp cận, những quan niệm và cách nhìn khác nhau và hướng đến những mục tiêu cụ thể khác nhau. Có những nội dung, tư tưởng và cách làm nào đó được đề cập trong các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội khi vận dụng vào thực tiễn có thể là phù hợp, không có lợi đối với quốc gia khác trong điều kiện tương tự, hoặc không thể thực hiện được khi hoàn cảnh và điều kiện vận dụng chúng không phù hợp. Những lý thuyết và mô hình trên, theo quy luật phủ định biện chứng, qua thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn của chân lý, sẽ ngày càng được chọn lọc, điều chỉnh bổ sung hoặc bị thay thế bởi những lý thuyết và mô hình phát triển hợp lý và hoàn thiện hơn. Chẳng hạn, lý thuyết bàn tay vô hình, đề cao cơ chế thị trường tự do của Adam Smith đã được các nước tư bản Âu – Mỹ áp dụng suốt mấy trăm năm, được coi là chủ thuyết phát triển của xã hội tư bản từ cuố thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Tuy  nhiên, lý thuyết trên chỉ phù hợp và phát huy tác dụng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, giai đoạn cạnh tranh tự do không cần đến sự can thiệp của nhà nước, hoặc chỉ cần “nhà nước tối thiểu”. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền, thối nát, mà biểu hiện của nó là những cuộc suy thoái và khủng hoảng chu kỳ, điển hình là cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 gây ra hàng loạt các vấn đề xã hội bức xúc, nạn thất nghiệp tràn lan, chứa đựng nguy cơ bùng nổ xã hội nghiêm trọng, đã chứng tỏ sự bất cập của lý thuyết phát triển của chủ nghĩa tự do cổ điển do A. Smith đại diện. Lúc này, sự ra đời của lý thuyết về vai trò “bàn tay hữu hình” nhà nước của John Maynard Keynes, chuyển từ tư duy kinh tế thị trường tự do sang tư duy kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước chính là cứu cánh cho chủ nghĩa tư bản. Keynes đã chứng minh rằng, muốn thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp, nhà nước phải điều tiết nền kinh tế. Ông bác bỏ quan điểm “nhà nước tối thiểu” và đề xuất chủ trương mở rộng những chức năng của nhà nước, xem đó là cách duy nhất để cứu vãn sự sụp đổ của các thể chế kinh tế đương thời. Theo ông, rốt cuộc không có cơ chế tự động an toàn của nền kinh tế thị trường tự do. Nền kinh tế thị trường phải được điều tiết bởi nhà nước nhằm khắc phục hai khuyết tật lớn của xã hội tư bản là “không có việc làm đầy đủ và phân phối của cải một cách bất công”. Từ chỗ bị các môn phái của lý thuyết thị trường tự do của A. Smith cooi là “tà giáo”, lý thuyết của Keynes dần dần chiếm vị trí địa vị chi phối ở các nước tư bản phát triển trong suốt thập niên 40 đến đầu thập niên 70 của thế kỷ XX. Trong thời gian trên, lý thuyết Keynes đã được sử dụng làm nền tảng lý luận cho việc xây dựng các nhà nước phúc lợi xã hội ở hàng loạt nước tư bản phát triển Bắc Âu và một số nước Tây Âu, điển hình là mô hình Nhà nước phúc lợi xã hội của Thụy Điển do Đảng Dân chủ xã hội cầm quyền tồn tại trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, Keynes đã không thành công trong việc xây dựng một lý thuyết phát triển với sự kết hợp thỏa đáng giữa tăng trưởng kinh tế và đáp ứng việc làm của người lao động trong thời gian lâu dài. Sau ba thập kỷ hoạt động suôn sẻ, nền kinh tế của các nước tư bản Âu – Mỹ vận hành theo lý thuyết Keynes lại rơi vào trì trệ, suy thoái, lạm phát và thất nghiệp gia tăng, nhất là từ giữa những năm 1970, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển như vũ bão, làn sóng quốc tế hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ gắn với sự mở rộng hoạt động của các tập đoàn tư bản độc quyền xuyên quốc gia. Lý thuyết Keynes đã dần dần nhường bước cho chủ nghĩa tự do mới (neo-liberalism), mà người đặt nền móng là Friedrich August von Hayek (1899 – 1992). Năm 1944, trong cuốn Con đường dẫn đến sự nô dịch (The Road to Serfdom), Hayek kịch liệt phê phán sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường, đồng thời ca ngợi tư tưởng tự do kinh tế ở các thế kỷ XVIII – XIX và cho rằng việc vận dụng các tư tưởng đó vào điều kiện kinh tế trong thế kỷ XX vẫn là cần thiết và lý tưởng. Những tư tưởng của chủ nghĩa tự do mới đã được Thủ tướng Anh M. Thatcher và Tổng thống Mỹ Ronald Reagan nhiệt thành hưởng ứng và áp dụng trên thực tế từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX, sau đó được giới cầm quyền của nhiều nước trong tổ chức OECD và một số nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh làm theo. Những người đại diện của các nước trên đã gặp nhau tại thủ đô Hoa Kỳ và thông qua bản Tuyên bố chung gọi là :Thị trường nhiều hơn, nhà nước ít hơn. Thực hiện phương châm trên, người ta đã thu hẹp khu vực sở hữu nhà nước, đẩy mạnh tư nhân hóa, hạn chế sự can thiệt của nhà nước vào công việc kinh doanh, giảm chi từ ngân sách quốc gia cho các lợi ích công cộng, điều chỉnh phân phối thu nhập theo hướng bất lợi cho người lao động như có lợi cho chủ tư bản nhằm khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Trong lý thuyết phát triển của chủ nghĩa tự do mới thì tăng trưởng kinh tế phải đi trước, công bằng xã hội sẽ theo sau, người nghèo phải chấp nhận và chờ đợi. Thực tế cho thấy những nước áp dụng tích cực nhất lý thuyết trên không những không giải quyết được những vấn đề xã hội nan giải của chủ nghĩa tư bản, mà còn làm cho nó trở nên gay gắt, bùng nổ thành cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, bắt đầu từ cuộc đổ vỡ thị trường tài chính Phố Wall vào cuối năm 2007, đầu năm 2008 và hiện nay đã lan ra nhiều nước thuộc Liên minh châu Âu, mà đỉnh cao là cuộc khủng hoảng nợ công đang diễn ra ở Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ireland, Tây Ban Nha, Italy và đặc biệt là ở Mỹ – nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới. Điều đó đã khiến cho Mỹ bị Cơ quan đánh giá chỉ số tín nhiệm quốc tế Standar&Poor’s (S&P) hạ mức đánh giá tín dụng từ AAA xuống còn AA+, vì cho rằng giới lãnh đạo và hệ thống chính trị nước này đã bất lực trong việc tìm ra giải pháp nhằm ngăn chặn khủng hoảng kinh tế dẫn đến bất ổn xã hội, ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Rõ ràng là, sự khủng hoảng trong lĩnh vực kinh tế, tài chính có nguyên nhân từ khủng hoảng niềm tin vào giới chính trị, vào những lý thuyết và mô hình phát triển mà nó đang áp dụng và truyền bá.

(còn tiếp) 

Nguồn: Ngô Ngọc Thắng & Đoàn Minh Huấn (đcb) – Một số lý thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội – NXB CTQG 2014.

Một số lý thuyết về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội và việc vận dụng ở Việt Nam hiện nay – Phần XV


4 – Trải qua 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và gần 30 năm đổi mới theo hướng phát triển nhanh và bền vững, đồng thời với những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa, trong đời sống vật chất và tinh thần trên lĩnh vực đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và mô hình phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đặc biệt là nhận thức về xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã có những bước tiến rõ rệt và khá căn bản. Đó là:

+ Trong quan niệm về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, chúng ta không chỉ đề cập đến sự phát triển xã hội nói chung, mà đã có những nhận thức mới về xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, đã nhận thức rõ hơn phương diện xã hội trong xã hội tổng thể. Đó là các vấn đề xã hội, các quan hệ xã hội và cơ cấu xã hội trong chỉnh thế cấu thành xã hội, liên quan trực tiếp đến đời sống con người.

+ Việc phát triển xã hội tổng thể sẽ không thể thực hiện được nếu không có nhận thức đúng đắn, quan tâm đúng múc, giải quyết kịp thời và hữu hiệu lĩnh vực (phương diện) xã hội, đặt trong mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời với các lĩnh vực (phương diện) khác như kinh tế, chính trị, văn hóa, môi trường… Phát triển xã hội đòi hỏi phải đồng bộ và thống nhất với các lĩnh vực trên, đặc biệt là thống nhất kinh tế với chính trị, chính sách kinh tế với chính sách xã hội phải gắn kết, đi đôi với nhau; đầu tư cho xã hội, cho việc giải quyết các vấn đề xã hội là đầu tư cho phát triển, là đầu tư theo chiều sâu, nhằm mục tiêu sâu xa là phát triển con người với tư cách là yếu tố cơ bản quyết định, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững.

+ Phát triển xã hội đòi hỏi phải cấu trúc lại mô hình tăng trưởng kinh tế, phát triển chính trị và phát triển văn hóa với vai trò tạo động lực cho phát triển xã hội, gồm: chuyển mô hình tăng trưởng chủ yếu từ vốn tài chính sang tăng trưởng dựa vào vốn phi tài chính, đặc biệt là vốn con người; thay đổi quan niệm coi đầu tư phát triển xã hội là đầu tư cho phúc lợi xã hội bằng quan niệm coi đầu tư cho phát triển xã hội là đầu tư cho phát triển vốn xã hội, vốn con người; chuyển tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, chú trọng chất lượng, hiệu quả tổng hợp, tính bền vững.

+ Trong điều kiện nước ta, quản lý xã hội đòi hỏi chủ thể lãnh đạo (Đảng) và quản lý (Nhà nước) phải có tầm nhìn chiến lược và chương trình hành động thiết thực, chủ động, sáng tạo cùng các công cụ quản lý đồng bộ, từ thể chế, chính sách, cơ chế đến tổ chức, bộ máy và con người, bảo đảm các nguồn lực và điều kiện cần thiết cho phát triển.

+ Trong điều kiện kinh tế thị trường, phát triển xã hội và quản lý xã hội đòi hỏi phải xây dựng và tăng cường Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, chú trọng việc phát huy và giải quyết tốt mối quan hệ của các thành tố quan trọng đối với phát triển là kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Phải hoàn thiện chức năng xã hội của Nhà nước thông qua việc xây dựng mô hình nhà nước dịch vụ công, vận dụng hợp lý các quy luật của thị trường vào quản lý phát triển xã hội, tạo sự cạnh tranh trong khu vực công và giữa khu vực công với khu vực tư trong cung ứng dịch vụ phát triển xã hội; mở rộng vai trò của các loại hình tổ chức phi lợi nhuận (gồm cả pháp nhân và thể nhân dân sự) trong phát triển xã hội bằng cơ chế, chính sách đặc biệt nhằm khắc phục các giới hạn của nhà nước và thị trường đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Đặc biệt, quản lý phát triển xã hội của nhà nước trong nền kinh tế thị trường càng phải chú trọng đề cao luật pháp và đạo đức, năng lực, trình độ quản lý điều hành, thi hành công vụ của bộ máy và đội ngũ công chức, đồng thời phát huy vai trò của người dân và các tổ chức dân sự trong xã hội.

+ Vì sự ổn định và bền vững của xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đòi hỏi Nhà nước, xã hội và mọi người dân phải thường xuyên chăm lo đến sự an toàn của môi trường sống của con người và xã hội, bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội – nhân văn, ngăn chặn và hạn chế những tác động tiêu cực của thảm họa môi trường tạo nên bởi chính hành vi của con người và xã hội. Phát triển kinh tế – xã hội bền vững phải gắn liền với bảo vệ môi trường, là yêu cầu sống còn của phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh hiện nay.

Như vậy, những chuyển biến trong nhận thức về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trên vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của quá trình đổi mới đất nước nói chung và đổi mới tư duy về mô hình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội nói riêng, tạo môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho việc chủ động, sáng tạo và vận dụng có hiệu quả các lý thuyết phát triển xã hội ở nước ta hiện nay.

Bối cảnh tình hình đất nước và quốc tế trên có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định chiến lược phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, vừa là cơ hội thuận lợi, vừa đặt ra những yêu cầu mới, những vấn đề mới, đòi hỏi phải tiếp tục suy nghĩ, tìm tòi và vận dụng sáng tạo những lý thuyết và mô hình phát triển của nhân loại, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức để thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ chiến lược tới.

2/ Một số quan điểm định hướng trong vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay

Từ những phân tích ở trên cho thấy việc nhận thức và vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội ở nước ta hiện nay cần quán triệt những quan điểm mang tính nguyên tắc và định hướng sau đây:

Một là, cần quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có quan điểm “mở” và quan điểm phát triển, chủ động, sáng tạo khi tiếp cận và vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội vào nước ta.

Karl Marx là nhà bác học vĩ đại của giai cấp vô sản, người đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội, cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận để nhận thức quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người như một quá trình lịch sử – tự nhiên. Học thuyết Marx là chìa khóa giúp ta nhận thức và cải tạo thế giới theo hướng phát triển bền vững, hài hòa giữa con người với tự nhiên. Tuy nhiên, bản thân K. Marx không bao giờ coi học thuyết, lý luận của mình như một cái gì đã xong xuôi, “bất khả xâm phạm”, tuyệt đối hoàn thiện, không cần phải bổ sung, phát triển, trái lại, đã nhiều lần nhấn mạnh rằng học thuyết của ông không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Như vậy, học thuyết Marx, theo tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, không phải là một hệ thống khép kín, bất biến, mà là một hệ thống mở, đòi hỏi luôn phải được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx – Lenin luôn chỉ ra rằng, chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Theo tinh thần đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời luôn căn dặn cán bộ, đảng viên khi học tập chủ nghĩa Marx – Lênin không có nghĩa là phải học thuộc lòng từng câu chữ, mà là: “Phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Marx – Lenin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp củ chủ nghĩa Marx – Lenin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Đồng thời, Người cũng yêu cầu phải thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ thực tiễn. Trên một ý nghĩa nào đó cũng có thể và cần thiết phải vận dụng những quan điểm trên của chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh khi tiếp cận và vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội hiện đại vào thực tiễn nước ta. Những lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội nói chung, đều là sự tổng kết, khái quát hóa sự vận động của hiện thực xã hội trên những mặt, những lĩnh vực, những khía cạnh nhất định trong không gian và thời gian nhất định. Tuy nhiên, thực tiễn xã hội luôn vận động và biến đổi không ngừng. Do đó, sẽ không bao giờ có một lý thuyết toàn diện nhất, đầy đủ nhất, hoàn thiện nhất bao quát mọi khía cạnh, mọi khả năng và xu hướng vận động và phát triển của xã hội, nếu như vậy thì mọi khoa học nói chung và khoa học xã hội nói riêng sẽ trở nên không cần thiết và không có lý do để tồn tại. Vì vậy, không nên quan niệm các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội như là những chân lý tuyệt đối, hoàn hảo, có thể vận dụng ngay mà không cần nhắc đến điều kiện, hoàn cảnh và mục đích sử dụng chúng có phù hợp với chúng ta hay không. Nói cách khác, cần có quan điểm “mở”, quan điểm phát triển và sáng tạo, chủ động khi tiếp cận và vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội từ bên ngoài vào thực tiễn nước ta.

(còn tiếp) 

Nguồn: Ngô Ngọc Thắng & Đoàn Minh Huấn (đcb) – Một số lý thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội – NXB CTQG 2014.

Một số lý thuyết về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội và việc vận dụng ở Việt Nam hiện nay – Phần XIV


Thực tiễn đã kiểm nghiệm và cho thấy, những lý thuyết đó đều không thành công hoàn toàn, trọn vẹn, hoặc chỉ thành công hạn chế ở một giai đoạn, một khía cạnh nào đó. Hệ quả là, trong lịch sử đã diễn ra và lan truyền làn sóng khủng hoảng về mô hình phát triển ở mọi khu vực trên thế giới, nhất là từ giữa những năm 80 đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX với sự sụp đổ của mô hình phát triển kinh tế – xã hội theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung phi thị trường ở các nước xã hội chủ nghĩa thuộc Liên Xô và Đông Âu. Sự thất bại của mô hình phát triển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết bởi Nhà nước phúc lợi xã hội ở Thụy Điển và một số nước tư bản phát triển Bắc Âu, Tây Âu từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1990. Hay sự bế tắc của mô hình phát triển theo chủ nghĩa tự do mới mà biểu hiện rõ nhất là cuộc đại suy thoái và khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ năm 2008; sự phát triển quá nóng của nền kinh tế Trung Quốc và khủng hoảng nợ công của Mỹ và các nước châu Âu hiện nay là một minh chứng về sự phát triển không bền vững. Điều đó đã cảnh tỉnh mọi người về mặt trái và tác động tiêu cực của những lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội có tính thiên lệch và cực đoan, đồng thời buộc các quốc gia phải cùng nhau xem xét lại mô hình phát triển của mình, phải thận trọng, sáng suốt, nêu cao trách nhiệm hơn khi đề ra lý thuyết phát triển cũng như khi vận dụng, tiếp thu lý thuyết và mô hình phát triển từ nước khác. Chính vì vậy, ngay từ khi cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ đang lan ra toàn cầu, tại khóa họp thường niên lần thứ 63 của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 23/9/2008, Tổng thống Pháp lúc đó là Nicolas Sarkozy, Chủ tịch luân phiên của Liên minh châu Âu (EU) đã kêu gọi các nhà lãnh đạo chủ chốt của thế giới tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh để rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đồng thời “tái xây dựng một chủ nghĩa tư bản điều chỉnh”. Cũng tại Hội nghị thượng đỉnh nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20) diễn ra ở Pittsburgh (Mỹ) ngày 24/9/2009, Thủ tướng Anh Gordon Brown kêu gọi hình thành một “cơ chế quản lý kinh tế toàn cầu mới”. Vào cuối năm 2009, tại cuộc gặp các đại diện của trên 50 đảng cánh tả ở thủ đô Caracas, Tổng thống Venezuela Hugo Chavez đã kêu gọi thành lập Quốc tế V. Như vậy, thực tiễn phát triển kinh tế, chính trị – xã hội toàn cầu hiện nay đã và đang đặt ra những nhu cầu mới mà nhân loại cần phải quan tâm, đặc biệt là mặt chính trị – xã hội của thể chế kinh tế thế giới trong thời đại toàn cầu hóa, để bảo đảm các yếu tố, các điều kiện phù hợp cho sự phát triển nhanh và bền vững của các nền kinh tế nói riêng và sự phát triển của các quốc gia nói chung. Đây cũng là điều mà Việt Nam phải cân nhắc khi lựa chọn và áp dụng các lý thuyết và mô hình phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, nhất là khi chúng ta lựa chọn con đường phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một mô hình chưa có tiền lệ trong lịch sử, ở bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng hiện nay.

2 – Việc tìm kiếm, xây dựng và tiếp thu, vận dụng những lý thuyết phát triển tiên tiến vào phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh trên thế giới đang diễn ra khủng hoảng lý thuyết và mô hình phát triển, đồng thời nhân loại đang tìm lối thoát và kỳ vọng vào Lý thuyết phát triển bền vững được coi là lý thuyết phát triển hợp lý nhất hiện nay. Như đã trình bày ở phần trên, quan niệm phát triển bền vững xuất hiện từ những năm đầu thập niên 80 thế kỷ XX, được phổ biến rộng rãi vào năm 1987, với hàm ý tổng quát là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau, trong đó phải đảm bảo có sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa ba mặt của sự phát triển gồm phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Trong hai thập niên qua, trên bình diện quốc tế đã có không ít hội nghị thượng đỉnh thảo luận về chủ đề này và đưa ra nhiều văn kiện, quyết sách quan trọng. Qua các bản tuyên bố, các văn kiện được thông qua, nội hàm phát triển bền vững ngày càng được bổ sung và phát triển với phương pháp tư duy và cách tiếp cận mới, hệ thống, sâu rộng, bao quát và có tầm nhìn xa hơn. Vấn đề phát triển bền vững ngày càng được đặc biệt quan tâm, trở thành yêu cầu phát triển chung của nhân loại.

Lý thuyết phát triển bền vững đã được Việt Nam tiếp nhận ngay khi nó được phổ biến từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Sớm nhận thấy những hạn chế, bất cập trong các lý thuyết phát triển trước đây trên thế giới, Việt Nam đã hưởng ứng mạnh mẽ những tư tưởng, quyết sách và các chương trình phát triển bền vững của Liên hợp quốc, trong đó có Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) về phát triển bền vững toàn cầu, đồng thời xây dựng Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam Phát triển bền vững đã trở thành một trong những tư tưởng chủ đạo trong chính sách và chiến lược phát triển của Việt Nam, được quán triệt và thể hiện từ trong các văn kiện của Đảng và trong các văn bản quản lý, các chương trình hành động của Chính phủ, cũng như cam kết của Việt Nam với quốc tế. Điều đó được phản ánh trong Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, nhằm phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển văn hóa, phát triển con người, bảo vệ môi trường. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam đã nêu lên những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt, đề ra những chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần được thực hiện để phát triển bền vững trong thế kỷ XXI. Đây cũng là một chiến lược khung bao gồm những định hướng lớn, làm cơ sở pháp lý để các ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện và phối hợp hành động, nhằm bảo đảm phát triển bền vững đất nước, đồng thời thể hiện sự quyết tâm và cam kết của Việt Nam với quốc tế. Những sự kiện quốc tế và trong nước nói trên là bối cảnh thuận lợi, là cơ sở pháp lý và định hướng rõ ràng cho việc vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay.

3 – Việc xác định và vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xa hội ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh đất nước trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội (2001 – 2010), nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7,26%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. Năm 2010, tổng sản phầm trong nước bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; năng lực sản xuất và tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng tăng lên, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tăng gấp 3,26 lần năm 2000, góp phần đưa nền kinh tế vượt qua tác động nặng nề của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (1997 – 1998) và khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu (bắt đầu từ năm 2008). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng, công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu nổi bật, tỉ lệ hộ nghèo giảm 2 – 3%/năm; thu nhập thực tế bình quân theo đầu người tăng hơn 2 lần. Đến năm 2010, nước ta đã hoàn thành phần lớn các mục tiêu thiên niên kỷ mà Liên hợp quốc đề ra cho năm 2015. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Bên cạnh những kết quả nêu trên, dưới góc độ phát triển bền vững cho thấy sự phát triển của nước ta cũng còn nhiều yếu kém, bất cập. Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. “Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải… Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả… Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển”. Nói về nguyên nhân của tình hình trên, trong bài viết về quan điểm xuyên sốt trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ rõ: Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, trong đó nổi lên là: Quan điểm phát triển bền vững chưa được nhận thức sâu sắc và thể hiện một cách cụ thể, nhất quán trong hệ thống chính sách, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết. Trong quản lý, điều hành còn thiên về tốc độ tăng trưởng mà chưa coi trọng đúng mức đến chất lượng tăng trưởng và tính bền vững của sự phát triển; chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc.

Trên bình diện quốc tế, việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của nước ta trong giai đoạn mới diễn ra trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nhận định: Trong thập niên tới, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh giành tài nguyên và lãnh thổ, nạn khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên… buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động… Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp… Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức ngày càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia… Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Mặt khác, khủng hoảng còn để lại hậu quả nặng nề, chủ nghãi bảo hộ trỗi dậy trở thành rào cản lớn cho thương mại quốc tế. Kinh tế thế giới tuy đã bắt đầu phục hồi nhưng còn nhiều khó khăn, bất ổn; sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất là những nước lớn sẽ có tác động đến nước ta.

(còn tiếp) 

Nguồn: Ngô Ngọc Thắng & Đoàn Minh Huấn (đcb) – Một số lý thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội – NXB CTQG 2014.

Một số lý thuyết về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội và việc vận dụng ở Việt Nam hiện nay – Phần XIII


b/ Lý thuyết quản trị công mới (NPM – New Public Management)

Đại diện tiêu biểu cho lý thuyết này là Osborne, Gaebler, Hood, Pollitt, Barzelay, OECD… Lý thuyết “quản trị công mới” được hình thành vào những năm 1980 nhằm hiện đại hóa hoạt động quản trị khu vực công vì mục tiêu kinh tế, hiệu quả và hiệu lực cao. Một trong những triết lý cải cách khu vực công theo tư duy NPM là định hướng thị trường đối với khu vực công nhằm nâng cao hiệu quả và đáp ứng kịp thời các nhu cầu xã hội. Các hướng đổi mới trong quản trị phát triển khu vực công gồm: nâng cao trách nhiệm của bộ máy công quyền; chuẩn hóa các tiêu chuẩn và chỉ tiêu đánh giá kết quả khu vực công; nhấn mạnh kiểm soát đầu ra thay vì kiểm soát quá trình; tăng cường phân cấp quản lý; đưa cạnh tranh vào khu vực công; áp dụng phong cách quản lý và tư duy của khu vực tư nhân vào khu vực công.

c/ Lý thuyết tiếp cận tổng thể về quản lý xã hội

Đại diện tiêu biểu cho cách tiếp cận tổng thể về quản lý xã hội là các nhà xã hội học P.B. Colomy và D. Bell. Trong cách tiếp cận này, xã hội được nhìn nhận từ ba cấp độ: 1 – Cấp độ chiến lược, bao gồm các định hướng, tầm nhìn dài hạn, bao quát được các khuynh hướng phát triển và tiềm năng biến đổi của xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử; 2 – Cấp độ trung gian – quản trị các biến đổi xã hội diễn ra trên bề mặt trung hạn (meso), ba hàm biến đổi quá trình kinh tế, chính trị, kết cấu xã hội và văn hóa, biến đổi các giá trị nội và ngoại lai,…; 3 – Cấp độ tình huống – quản trị xung đột, khủng hoảng và bất thường diễn ra trong những giới hạn thời gian và không gian cụ thể.

Công cụ và cơ chế thực hiện chức năng quản lý đối với từng cấp độ có những đặc thù, tuy nhiên cần có sự phối hợp thích hợp để phát huy công năng của từng loại chiến lược quản trị trong từng giai đoạn phát triển xã hội. Ba cấp độ quản lý này liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau khi có cơ chế phối hợp phù hợp. Ngược lại, cơ chế không phù hợp có thể gây ra những biến động, phương hại tới mục tiêu của từng cấp độ.

Quản lý phát triển xã hội được hiểu là hành động hay quá trình vận động từ trạng thái yếu kém sang trạng thái đầy đủ năng lực hiện thực hóa các mục tiêu xã hội. Vì thế, quản lý phát triển xã hội tập trung vào phân tích các quá trình, nguồn lực và hiện tượng đóng vai trò tạo thuận lợi hay cản trở sự vận động theo hướng đạt các mục tiêu đã lựa chọn của xã hội. Dưới góc độ phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội có quan điểm tiếp cận toàn diện về những thách thức phát triển liên quan tới lịch sử, văn hóa, xã hội và kinh tế có thể làm cho quá trình phát triển trở nên phức tạp, về các phương diện dân tộc, địa phương và các phương diện quốc tế có ảnh hưởng tới sự phát triển, từ đó có những phương thức, giải pháp quản lý chủ động, phù hợp, bảo đảm cho xã hội phát triển bình thường, tránh rủi ro. Như vậy, quản lý vì phát triển xã hội cần sử dụng những khuôn khổ phân tích bao hàm những yếu tố bên trong và bên ngoài, không gian và thời gian, trước mắt và lâu dài.

Quản lý phát triển xã hội gắn chặt với lĩnh vực chính sách công, bởi lẽ quá trình phát triển xã hội không thể nằm ngoài các quá trình phát triển chính sách mà trong đó chủ thể hoạch định chính sách là nhà nước đóng vai trò quyết định. Chính sách công hoàn toàn dựa vào hệ thống quan điểm, mô hình và tiếp cận bảo đảm cho việc thấu hiểu, liên kết lợi ích và vai trò của các chủ thể tham gia sân chơi, quan hệ động lực và thể chế định hình khu vực này. Quản lý phát triển xã hội dưới góc độ chính sách công cần phải được xác định rõ những đặc điểm của các phương án can thiệp khác nhau trong quá trình phát triển, bao gồm mục tiêu và giới hạn, quá trình huy động nguồn lực và sự hậu thuẫn xã hội, sự đồng thuận và chia sẻ xã hội, khả năng thu hút hay xây dựng đồng minh chiến lược trong các cộng đồng lợi ích xã hội…

Quản lý phát triển xã hội nhấn mạnh tới sự quản lý như một nghề và người thực hiện chức năng này là chuyên gia thực hành nghề nhuần nhuyễn, thuần thục. Những người này phải là những chủ thể chủ chốt bảo đảm thực hành thành công các mục tiêu xã hội trong từng giai đoạn và ngữ cảnh khác nhau. Quản lý phát triển xã hội được coi là lĩnh vực liên ngành phức tạp nhất, đề xuất các kỹ năng thực tiễn trong việc xúc tiến và phối hợp các loại hành vi, quan hệ và quyết định trong việc giải quyết các vấn đề nhằm thực hiện kết hợp các can thiệp quản lý hiệu quả và hiệu lực cao. Quản lý phát triển xã hội đề cao hệ thống tri thức quản trị, quá trình và kỹ thuật, công cụ và kỹ năng cần thiết trong việc biến ý tưởng và chính sách thành những chương trình hành động và kết quả cụ thể.

d/ Lý thuyết phát triển xã hội dựa vào sự tham gia

Đại diện tiêu biểu cho lý thuyết này là các tổ chức quốc tế như WB, UNDP, các tổ chức NGOs, các nhà tài trợ từ các nước phát triển.

Tư tưởng chính của lý thuyết phát triển có sự tham gia được khởi xướng từ đầu những năm 1970, đến nay vẫn đang được vận dụng rộng rãi vào việc thực hiện nhiều dự án phát triển trong nhiều quốc gia. Phát triển có sự tham gia là thu hút người dân địa phương vào các dự án phát triển kinh tế – xã hội phục vụ cho chính dân địa phương. Một trong những tiếp cận quan trọng của nhóm lý thuyết này là nhu cầu cơ bản cho phát triển, “trao cho người nghèo cơ hội tham gia vào thiết kế sáng kiến vì lợi ích của họ”, khi đó các dự án phát triển sẽ hiệu quả và thành công hơn, bởi vì chúng được sự đồng thuận, chia sẻ và phối hợp thực hiện của các bên hưởng lợi như dân địa phương có dự án triển khai. Phát triển có sự tham gia được chấp nhận rộng rãi và thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng trong nhiều loại hình tổ chức khác nhau, từ các tổ chức kinh tế tới tổ chức xã hội và quản trị công. Trong lĩnh vực quản trị phát triển xã hội, tiếp cận này được cải cách theo logic phát triển “từ dưới lên”. Sự tham gia đòi hỏi sự phát huy năng lực địa phương (bản địa), tránh sự áp đặt từ bên ngoài. Nói cách khác, phát triển có sự tham gia là nuôi dưỡng và nâng cao năng lực của người dân trong việc khẳng định vai trò của mình trong phát triển xã hội.

III/ Quan điểm, định hướng vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay

1/ Bối cảnh vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay

Lịch sử loài người chỉ ra rằng, sự phát triển của một quốc gia, một xã hội chỉ có thể thành công trên cơ sở xác lập được một lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội thật sự khoa học. Lý thuyết đó phải dựa trên những nguyên lý và quy luật phát triển phổ biến của giới tự nhiên nói chung và của xã hội loài người nói riêng, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và thực tiễn của mỗi quốc gia, mỗi xã hội trong quá trình phát triển. Đó vừa là sản phẩm, là kết quả của sự học hỏi, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những mô hình, những lý thuyết phát triển, những kinh nghiệm của quốc gia và quốc tế trong quá khứ, trong hiện tại gắn với xu thế phát triển của thời đại mới. Đồng thời, đó còn là sản phẩm và kết quả của sự tự trải nghiệm, tổng kết, đúc rút thành lý luận và lý thuyết phát triển của các thế hệ những nhà khoa học, nhà quản lý và những người hoạt động thực tiễn ở mỗi quốc gia, trên các lĩnh vực của đời sống đương đại. Việt Nam là nước đang phát triển có điểm xuất phát thấp, một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, vừa thoát khỏi chiến tranh đang trên đường tìm kiếm và xây dựng một lý thuyết và mô hình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của mình sao cho vừa phù hợp với trào lưu chung của thời đại và những giá trị, chuẩn mực phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng, bản chất chế độ chính trị – xã hội và thực tiễn đất nước, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi và tương lai phát triển của dân tộc trong thời kỳ mới. Để làm được điều đó, chúng ta phải nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những lý thuyết và mô hình phát triển xã hội của thế giới. Việc tiếp thu và vận dụng các lý thuyết phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh sau đây:

1 – Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, đặc biệt là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, loài người đã sáng tạo, trải nghiệm và chứng kiến rất nhiều mô hình và lý thuyết phát triển khác nhau. Mỗi loại mô hình đều dựa vào một lý thuyết phát triển chủ đạo, thể hiện bản chất chế độ chính trị – xã hội và truyền thống văn hóa của những nước áp dụng mô hình ấy. Mỗi quốc gia, trên cơ sở tham khảo các lý thuyết và mô hình phát triển của những nước có ít nhiều thành công, xuất phát từ điều kiện đặc thù và những cách tiếp cận khác nhau đã vạch ra con đường và những chiến lược phát triển riêng để đưa đất nước đi lên với những mức độ khác nhau. Có những quốc gia phát triển nhanh nhờ tìm ra và áp dụng có kết quả những lý thuyết và mô hình phù hợp, nhưng cũng có không ít quốc gia phải trả giá đắt cho sự ngộ nhận, ấu trĩ khi áp dụng máy móc, nóng vội những lý thuyết và mô hình phát triển của bên ngoài, hoặc phải gánh chịu những hậu quả và ảnh hưởng tiêu cực do mặt trái của sự phát triển đó mang lại. Nhiều lý thuyết đã được đưa ra và thể nghiêm như: Lý thuyết “tự điều tiết” của trường phái kinh tế học cổ điển (gắn liền với lý thuyết “bàn tay vô hình” của A. Smith và thuyết “cân bằng tổng quát” của L. Walras); lý thuyết về tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước của J.M. Keynes; lý thuyết kinh tế hỗn hợp của P.A. Samuelson (“nhà nước ít hơn, thị trường nhiều hơn” hay “nhiều nhưng có thể, ít nhưng cần thiết”); lý thuyết tự do (nhà nước tối thiểu) của Friedrich August von Hayek; lý thuyết phát triển “cân đối có kế hoạch” ứng dụng trong mô hình chủ nghĩa xã hội quan liêu, bao cấp kiểu Xô Viết…

(còn tiếp) 

Nguồn: Ngô Ngọc Thắng & Đoàn Minh Huấn (đcb) – Một số lý thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội – NXB CTQG 2014.