Nguyễn Kiến Giang
……….
6. Cách nhìn của Samuel Huntington
Một số người nghiên cứu cho rằng cách tiếp cận của A. Tofler là “cách tiếp cận theo cận văn minh”, dùng sự phát triển từ văn minh này sang văn minh khác để lý giải các quá trình diễn ra trên thế giới. Nhưng cách tiếp cận theo văn minh không chỉ có ở riêng Tofler, nó còn có ở những tác giả khác. Có điều là nếu ở A. Tofler, khái niệm văn minh chủ yếu dựa vào trình độ kỹ thuật và công nghệ, thì ở một số tác giả khác, khái niệm đó dựa vào những nền tảng khác. Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu “cách tiếp cận theo văn minh” của Samuel Huntington, giáo sư và giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược Olin thuộc trường Đại học Harvard, với cách nhìn độc đáo của ông. Ông trình bày quan niệm của mình trong một bài viết đăng trên tạp chí Foreign Affairs(Mỹ), số mùa hè năm 1993, dưới nhan đề “Sự xung đột tương lai của các nền văn minh”, một bài viết gây tiếng vang mạnh mẽ ở phương Tây, Huntington lấy các tôn giáo làm nền tảng cho các nền văn minh khác nhau. Theo ông, chính trị thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó nguyên nhân căn bản của các cuộc xung đột sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa, mà là do những văn minh khác nhau. Tất nhiên, những nền văn minh này không đứng nguyên, chúng phát triển và thoái hóa, chia và hợp, và có những nền văn minh đang biến mất. Ông nói, người phương Tây thường có xu hướng cho rằng các quốc gia – dân tộc là những diễn viên chính trên vũ đài thế giới. Thật ra, điều đó chỉ có trong vài thập kỷ gần đây. Những không gian rộng lớn nhất của lịch sử là lịch sử của các nền văn minh, và thế giới đang quay về với mô hình đó. Bản sắc của các nền văn minh sẽ ngày càng quan trọng hơn, và thế giới ở một mức độ lớn sẽ bị chi phối bởi những tác động qua lại giữa bảy hay tám nền văn minh chính: phương Tây, Khổng giáo, Nhật Bản, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Chính thống giáo Slave, Mỹ Latin và có thể là châu Phi nữa. Ranh giới phân chia giữa những nền văn minh đó sẽ là tiền tuyến trong tương lai.
Tại sao như vậy? Ông trả lời: “Những khác biệt giữa các nền văn minh là những khác biệt cốt yếu và đụng tới lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống và nhất là tôn giáo. Các nền văn minh khác nhau có những quan điểm khác nhau về những liên hệ giữa con người và Thượng đế, giữa công dân và nhà nước, bố mẹ và con cái, tự do và uy quyền, bình đẳng và thứ bậc. Những khác biệt ấy là sản phẩm của một lịch sử lâu đời. Chúng sẽ không sớm biến mất đâu” (Liberation, 25.9.1993). Ý thức về nền văn minh tăng lên; do những tiếp xúc giữa các dân tộc thuộc những nền văn minh khác nhau đang tăng lên, và do những thay đổi xã hội và kinh tế làm mất đi những bản sắc địa phương lâu đời, khiến cho con người càng cố bám giữ những bản sắc đó. Chẳng hạn, người Mỹ phản ứng một cách tiêu cực đối với đầu tư của Nhật hơn là đối với đầu tư của Canada và các nước châu Âu vào nước mình.
Thêm vào đó, ở phần lớn các vùng trên thế giới, thay thế cho những hệ tư tưởng cũ đã phá sản là các tôn giáo, thường là dưới hình thức những phong trào bảo vệ toàn vẹn tính chính thống của chúng (trên báo chí thường gọi là các phong trào “toàn thống”), như trong Kitô giáo phương Tây, đạo Do Thái, đạo Phật, Ấn Độ giáo và nhất là Hồi giáo. “Phi thế tục hóa” (desecularisation) là một nét trong đời sống cuối thế kỷ XX.
Ý thức về văn minh riêng còn tăng lên vì vào lúc phương Tây đang ở đỉnh cao của sự hùng cường, thì các nền văn minh không phải phương Tây bắt đầu trở lại cội nguồn: “châu Á hóa” ở Nhật, “ấn Độ giáo hóa” ở Ấn Độ, “tái Hồi giáo hóa” Trung Đông và “Tây hóa” ở Nga… Phương Tây càng muốn áp đặt những giá trị của mình về dân chủ và chủ nghĩa tự do như những giá trị phổ biến, càng muốn duy trì ưu thế quân sự và những lợi ích kinh tế của mình, thì sự phản ứng của các nền văn minh khác càng tăng lên.
P. Huntingon cho rằng các trục chính của chính trị thế giới sẽ là sự xung đột giữa “phương Tây và phần thế giới còn lại” và những sự chống trả của những nền văn minh không phải phương Tây đối với sức mạnh và những giá trị của phương Tây. Ví dụ nổi bật nhất của sự hợp tác chống phương Tây là mối liên hệ đang được thiết lập giữa các quốc gia Khổng giáo và Hồi giáo để thách thức lại sức mạnh và những giá trị của phương Tây.
Những đặc trưng và những khác biệt về văn hóa thường ít bị thay đổi hơn và, do đó, việc loại bỏ và giải quyết chúng thường khó khăn hơn những đặc trưng và những khác biệt về chính trị và kinh tế. Ở Liên Xô cũ, chẳng hạn, người cộng sản có thể trở thành người dân chủ, người giàu thành người nghèo và ngược lại, nhưng người Nga theo Chính thống giáo không thể trở thành người Estonia theo Gia tô giáo. Một người Pháp có thể là nửa Pháp nửa Ảrập, hoặc là công dân của hai nước, nhưng rất khó trở thành nửa Gia tô giáo nửa Hồi giáo.
Cuối cùng, chủ nghĩa khu vực kinh tế tăng lên cũng làm cho ý thức về văn minh riêng cũng tăng lên. Vả chăng, chủ nghĩa kinh tế khu vực chỉ có thể thành công khi nó bám rễ vào nền văn minh chung của khu vực. Cộng đồng châu Âu dễ hình thành hơn vì nó dựa vào văn hóa phương Tây và Kitô giáo phương Tây, nhưng ở Đông Á một cộng đồng kinh tế như vậy khó hình thành hơn vì ở đây có những nền văn minh khác nhau.
Xuất phát từ cách nhìn thế giới theo “văn minh – tôn giáo” ấy, S. Huntington cắt nghĩa những xung đột đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới: giữa Hồi giáo và phương Tây, giữa các dân cư Hồi giáo và Chính thống giáo ở Nam Tư cũ, giữa người Azerbaijan và Armenia, v.v… Theo ông, những xung đột giữa các nền văn minh đã có từ lâu đời. Giữa phương Tây và Hồi giáo, sự xung đột đã kéo dài 1300 năm và chắc chắn không kết thúc sớm. “Một cuộc chiến tranh thế giới tới đây, nếu nổ ra, sẽ là một cuộc chiến tranh giữa các nền văn minh”, ông nhấn mạnh.
Từ những nhận định trên đây, S. Huntington đi tới những khuyến cáo về chính trị đối với phương Tây: cần đi tới một sự hợp tác lớn hơn và một sự thống nhất cao hơn bên trong nền văn minh của mình, đặc biệt giữa châu Âu và Bắc Mỹ; đưa các xã hội Đông Âu và Mỹ Latin có văn hóa gần gũi với phương Tây hội nhập với mình; duy trì các quan hệ chặt chẽ với Nga và Nhật; ủng hộ các nhóm tán thành những giá trị và lợi ích phương Tây trong các nền văn minh khác; ủng hộ tổ chức quốc tế nào bảo vệ những giá trị và lợi ích đó. Đặc biệt, ông khuyến cáo phải hạn chế sự gia tăng sức mạnh quân sự của những nền văn minh nào có tiềm năng đối địch với phương Tây, nhất là văn minh Khổng giáo và văn minh Hồi giáo. Đó là về ngắn hạn. Còn về lâu dài, phương Tây cần tìm ra những phạm vi thỏa thuận rộng lớn hơn với những nền văn minh khác có những sức mạnh gần ngang mình nhưng lại có những giá trị và lợi ích rất khác mình. Điều đó đòi hỏi phương Tây phải hiểu sâu sắc hơn những nền tảng tôn giáo và triết học của những nền văn minh khác, tìm ra những yếu tố giống nhau giữa phương Tây và những nền văn minh ấy. Kết luận của S. Huntington là: “Trong một tương lai có thể nhìn thấy, sẽ không có một nền văn minh toàn thế giới, mà là một thế giới trong đó những nền văn minh khác nhau phải học cách sống chung với nhau” (Libération, 23-9-1993).
Cách nhìn độc đáo của S. Huntington thật đáng suy nghĩ, vì nó đụng tới những chiều sâu không thể bỏ qua của sự phát triển trên thế giới hiện nay và sau này. Nhưng rõ ràng ở đây có một sự cường điệu nào đó, thể hiện một tâm lý bi quan nào đó của người đề xướng ra nó. Chỉ ít lâu sau khi Huntington công bố những quan điểm ấy, đã có những phản ứng tiêu cực. Josef Joffe, một nhà bác học nổi tiếng, lập tức lên tiếng trên tờSüdddeusche Zeitung (CHLB Đức) để phản bác lại. Đúng là đang có một bóng ma bay lượn trên bầu trời phương Tây, bóng ma chiến tranh giữa các nền văn hóa, buộc mỗi người phải đặt ra câu hỏi: “Anh đứng về phía nào?” và “Anh là ai?”, dựa vào sự tự ý thức của con người, vào văn hóa, mà không phải vào hộ chiếu và thẻ đảng nữa. Thế nhưng, đây là sự xung đột giữa những nền văn hóa nào? Thoạt nhìn, cách trình bày của S. Huntington có vẻ là đúng, nhưng theo J. Joffe trên thực tế không phải như vậy. Một bức tranh phức tạp hơn hiện lên. Một mặt, sự xung đột giữa các nền văn minh có từ lâu đời rồi, sự xung đột giữa Đông và Tây cũng đã có từ 1300 năm nay, những điều đó không có gì mới. Mặt khác, nhìn kỹ các cuộc xung đột, thì đó không phải là giữa các nền văn minh. Giữa Trung Quốc và Nhật Bản, chẳng hạn, đó không phải là xung đột về Khổng Tử, mà là về những tham vọng Thái Bình Dương. Ngay bên trong mỗi nền văn minh, có những lợi ích xung đột nhau. Điều đó rất đúng cả với trường hợp Hồi giáo. Giữa các nước thuộc văn minh Hồi giáo, có những chia rẽ và xung đột sâu sắc giữa các quốc gia Hồi giáo và bên trong các quốc gia đó: những cuộc đảo chính liên tiếp xảy ra, những cuộc xung đột kéo dài của “tất cả chống lại tất cả” ở Libya, và giữa các quốc gia Hồi giáo (Ai Cập chống Jemen, Syria chống Jordan, Iraq chống Kuwait, chiến tranh giữa Iraq và Iran). Theo J. Joffe, không có một thứ “Hồi giáo” nói chung. Thực chất của vấn đề không phải là ở cuộc chiến tranh giữa các nền văn hóa, mà là ở cuộc đấu tranh để phân bố lại phạm vi ảnh hưởng, cuộc đấu tranh giành quyền lực. (Xem bài “Sẽ không có những xung đột giữa các nền văn hóa, mà là…”, Za rubezhom số 36, 1993, tr. 11). Nhưng với những sự phân tích khác nhau, J. Joffe và S. Huntington cùng có chung một cách nhìn bi quan gần giống nhau về tương lai gần của thế giới. Chúng ta đã biết điều đó ở S. Huntington, còn ở J. Ioffe thì đây là kết luận: “Không ai có thể biết chắc chắn rằng mình có một phương thuốc chữa bách bệnh đối với tất cả những tai họa đó cả” (như trên).
- Cách nhìn của phái xã hội-dân chủ
Từ đầu thế kỷ XX, như đã biết, phong trào công nhân thế giới – trước hết ở châu Âu – chia thành hai trào lưu lớn: cộng sản và xã hội – dân chủ. Trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, khi trào lưu cộng sản lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc, thì trào lưu xã hội – dân chủ vẫn tiếp tục tồn tại với những ảnh hưởng lớn mạnh, tuy có giảm đi phần nào ở một số nước (Pháp, Thuỵ Điển, ý, v.v…). Những biến đổi trên thế giới đặt ra cho các đảng xã hội – dân chủ tập hợp với nhau trong Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa những thách đố lớn về tư tưởng và chính trị. Tháng chín 1992, Đại hội XIX Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa đã thảo luận và thông qua một loạt văn bản quan trọng nhằm trả lời những thách đố ấy.
Đại hội họp ở thành phố Berlin, “tượng trưng cho những biến đổi mà những người xã hội chủ nghĩa dân chủ trên toàn thế giới đấu tranh để đạt tới: quá độ hòa bình từ chế độ độc tài sang chế độ dân chủ và gạt bỏ những chướng ngại đối với sự thống nhất nhân dân vì một sự nghiệp chung”. Phái xã hội – dân chủ đánh giá rất tích cực những biến đổi đang diễn ra và họ coi sự thách đố hiện nay là ở chỗ “bảo vệ những gì đã đạt được và bảo đảm cho tự do cũng như hứa hẹn một đời sống tốt hơn trở thành hiện thực đối với tất cả các dân tộc trên thế giới” (Social Democracy in a Changing World, Văn kiện Đại hội XIX Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa).
Trong hoàn cảnh thế giới biến đổi ghê gớm hiện nay, Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa tuyên bố “những giá trị căn bản của chúng tôi không thay đổi”, và những nguyên tắc chỉ đạo của họ vẫn là tự do, đoàn kết và dân chủ với công bằng xã hội. Họ tỏ ra hân hoan trước những thành tựu của dân chủ ở Mỹ Latin, Trung và Đông Âu và những nơi khác. Đồng thời họ lo ngại trước những “bước thụt lùi” như cuộc đàn áp ở Thiên An Môn, cuộc đảo chính ở Moskva (tháng tám 1991), sự đàn áp ở Miến Điện…, cũng như trước những vi phạm quyền con người ở nhiều nước. Trong con mắt họ, các chế độ dân chủ trẻ tuổi ở các nước đang phát triển vẫn bị đe dọa bởi các giới có thế lực quân sự và kinh tế trước đây, bởi nạn tham nhũng và tình trạng mong manh của các thể chế dân chủ. ở Đông Âu cũng vậy, các chế độ dân chủ mới đang phải đối phó với những thách đố rất lớn. Và ở tất cả những nơi mới chuyển sang chế độ dân chủ, việc xây dựng văn hóa dân chủ là vô cùng khó khăn. Vì hiện nay ở đó đang nảy nở rất nhiều đảng với ngôn ngữ chính trị mơ hồ (những người cộng sản tự coi mình là dân chủ hay xã hội chủ nghĩa), đang lan rộng thái độ hoài nghi đối với chính trị nói chung. Mối đe dọa nguy hiểm nhất là từ giới cầm quyền trước đây, mhữmg kẻ đang lợi dụng những sự bấp bênh trong quá trình biến đổi và sử dụng những ngôn từ mị dân và dân tộc chủ nghĩa không thể dung thứ được.
Phái xã hội-dân chủ đặc biệt chú trọng vấn đề công bằng xã hội. Theo họ, tình trang không điều tiết được thị trường khi chuyển sang kinh tế thị trường đang dẫn tới sự phân phối thu nhập và việc làm bất công hơn, cũng như tập trung của cải lớn hơn. Công bằng xã hội đòi hỏi tăng thêm dân chủ kinh tế trong tất cả các khu vực sản xuất và dịch vụ, từ cửa hàng, xí nghiệp tới từng vùng và cả nước. Đối với họ, cả công bằng xã hội lẫn hiệu quả kinh tế đều phải được quan tâm. Các nước cần có một sự đồng thuận xã hội về mức tiền công và điều kiện lao động, về phân phối của cải và thu nhập.
Phái xã hội-dân chủ nhấn mạnh sự hợp tác và đoàn kết quốc tế của một thế giới đang biến đổi. Vì từng nước chỉ có một lề hành động chật hẹp trong thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, nên sự hợp tác vùng và quốc tế là cực kỳ quan trọng để đạt tới hòa bình, phát triển và bảo vệ môi trường. An ninh quốc gia phải dựa vào những cố gắng vì an ninh chung. Sự kết thúc “chiến tranh lạnh” đã mở ra những cơ hội to lớn và những mục tiêu mới cho sự hợp tác vùng và quốc tế. Ngày nay khi sự đối đầu về hệ tư tưởng và quân sự đã bị vượt qua, các chính phủ, giới kinh doanh, các công đoàn và các tổ chức tình nguyện phải tập trung khắc phục những phân chia Nam – Bắc và Đông – Tây. Các nước phát triển có những cơ hội tốt nhất và trách nhiệm lớn nhất về mặt này. Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới trở thành những tổ chức thật sự toàn cầu phải được cải cách để phản ánh tốt hơn những nguyên tắc dân chủ và sự cân bằng lợi ích đúng hơn giữa nước giàu và những nước nghèo. Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa toàn thống là rất tai hại cho sự hợp tác hòa bình, phải được ngăn chặn. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay càng phải được chú trọng hơn.
Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa đưa ra những phân tích và những quan điểm về nền kinh tế thế giới nhằm thiết lập một sự “đối tác toàn cầu vì sự phát triển vững chắc”. Với việc xóa bỏ sự phân chia Đông-Tây, đã xuất hiện một thế giới nhiều cực về chính trị và kinh tế. Việc xây dựng trật tự toàn cầu mới phải dựa vào tính nhiều cực ấy, đặc biệt phải tính đến sự phân chia ngày càng tăng giữa những nước đang hưởng lợi về tiến bộ kinh tế và những nước đang bị đe dọa đẩy ra ngoài lề ngày càng tăng. Một sự phát triển không đều sẽ đặt dân chủ vào sự hiểm nghèo, dẫn tới chủ nghĩa dân tộc chính trị và tạo ra những cơ sở của nạn nghèo khổ và suy thoái môi trường. Cần bảo đảm một sự điều chỉnh theo hướng nhân đạo. Các nước đang cải cách phải đạt tới mức tăng trưởng vững bền và thực hiện các chương trình chống nghèo khổ. Phái xã hội dân chủ nhấn mạnh lại truyền thống của chế độ dân chủ-xã hội dựa vào kinh tế hỗn hợp, nhà nước phúc lợi và hợp tác quốc tế vững chắc. Kinh tế thị trường sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn, cũng như thuận lợi hơn cho sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Nhưng nhà nước phải điều chỉnh những nhược điểm của nó, thiết lập một hệ thống thuế và điều tiết có hiệu quả và bình đẳng, chú trọng cơ cấu hạ tầng công cộng, khởi xướng sự phát triển nhân đạo và hoàn thiện công bằng xã hội.
Một thách đố lớn của thời đại, theo những người xã hội-dân chủ, là bảo vệ môi trường. Ngày nay không thể nói tới phát triển mà không đụng tới vấn đề môi trường. Về mặt này các nước công nghiệp phải chịu trách nhiệm đặc biệt vì gây ô nhiễm nhiều nhất: một phần năm dân số thế giới gây ra tới 4/5 tổn hại cho môi trường. Sự kết thúc của chiến tranh lạnh tạo ra khả năng chuyển những nguồn lực trước đây giành cho vũ trang sang cho phát triển.
Trong hàng ngũ Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa, đang có thêm những bộ phận mới: những người chuyển từ lập trường cộng sản sang lập trường xã hội – dân chủ (đảng Dân chủ cánh tả Italia, đảng Dân chủ cánh tả Ba Lan, v.v…). Trong số đó có cả Gorbachev cựu tống bí thư ĐCSLX. Những người này không những đã chia sẻ các quan điểm xã hội-dân chủ, mà từ kinh nghiệm bản thân, còn phát biểu về những giá trị của chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh thế giới mới. Tại đại hội XIX Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa, M. Gorbachev phát biểu một bài nhan đề Thế giới trong bước ngoặt, thể hiện tư tưởng đó. Bên cạnh những vấn đề của thế giới nói chung (khủng hoảng toàn diện của nền văn minh hiện nay và sự mở đầu một nền văn minh mới, vấn đề sống còn của loài người trước những nguy cơ lớn như thảm họa hạt nhân, bùng nổ dân số, môi trường sinh thái, vấn đề toàn cầu hóa các quá trình thế giới, chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến và những vấn đề khác), ông đặc biệt phân tích những lý do khiến cho chủ nghĩa công sản bị phá sản, đồng thời cũng bảo vệ những giá trị xã hội chủ nghĩa trong thế giới hiện nay. Theo chính lời ông, hiện đang có những người lên án ông phản bội chủ nghĩa xã hội, song cũng có những người phê phán ông vì ông trung thành với tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Câu trả lời của ông là: “Nhà nước dựa vào hệ tư tưởng cộng sản lúc đầu đã được sử dụng có hiệu quả trong một thời kỳ lịch sử nào đó để hiện đại hóa đất nước. Nhưng cuối cùng nó bộc lộ là không có sức sống về mặt lịch sử. Sự tan rã bên trong của hệ thống được đẩy nhanh hơn do tác động của sự cô lập và tự cô lập bên ngoài không thể tránh khỏi đối với nó”. Cải tổ chính là sự lựa chọn cần thiết và đúng đắn để tránh khỏi một sự phá sản chắc chắn. Sự sụp đổ của các chế độ toàn trị ở Liên Xô và nhiều nước khác đã làm nổi rõ nhiều điều trước đây bị che đậy. Nó chứng tỏ toàn thế giới đang trải qua một thời kỳ chuyển tiếp sang một nền văn minh mới bắt đầu hình thành. Do đó quan niệm của ông về chủ nghĩa xã hội khác với sơ đồ quyết định luận của chủ nghĩa Mác. Cần quan niệm chủ nghĩa xã hội như một giá trị hợp nhất tất cả những gì tiến bộ và dân chủ. Ông nói: “Kinh nghiệm của thế kỷ XX cũng cho thấy những ý định coi chủ nghĩa xã hội-chủ nghĩa cộng sản như một hình thái trong sự phát triển theo giai đoạn của xã hội là không đúng ngay từ đầu. Điều đó hiện nay càng thấy rõ hơn khi những mối liên hệ và phụ thuộc qua lại của sự phát triển ấy là điều kiện không thể thiếu của sự tiến bộ mà của cả sự sống còn của cộng đồng thế giới. Sự đối chiếu những định hướng giá trị, sự thi đua của các trào lưu chính trị khác nhau, đối thoại, kiểm soát lẫn nhau – tất cả những điều đó là cần thiết cho xã hội bình thường”.
M. Gorbachev cũng bác bỏ quan điểm của những người cho rằng những sự kiện đầy kịch tính cuối những năm 80 đầu những năm 90 là “chiến thắng” của tự do kinh tế và là “sự kết thúc của lịch sử”. Theo ông, trong cuộc đấu tranh giữa hai nguyên lý – tính hiệu quả và công bằng xã hội – chủ nghĩa tự do đã buộc phải vay mượn cái gì đó ở các học thuyết xã hội chủ nghĩa. Về phần mình, những người xã hội chủ nghĩa phải áp dụng những phương pháp do các nhà lý luận và chính trị của chủ nghĩa tự do tạo nên, nếu không thì khi cầm quyền họ sẽ mất năng lực hoạt động và bỏ mất chính quyền.
Ông khẳng định rằng những giá trị thường được đưa vào tư tưởng xã hội chủ nghĩa không mất đi thực chất của chúng, chừng nào vẫn còn phản ảnh những hiện thực tồn tại của con người trong thế giới này. Sự phá sản của chế độ toàn trị ở Liên Xô là sự phá sản của một chế độ được gọi là chủ nghĩa xã hội nhưng thật ra không phải thế.
Nhìn tới triển vọng của thế giới, ông vẫn tỏ ra lạc quan về một nền văn minh toàn cầu, trong đó con người là mục tiêu và ý nghĩa của tiến bộ, mà không phải là công cụ của nó. nghĩa là một nền văn minh dựa vào chủ nghĩa văn minh toàn cầu. Trong nền văn minh này, tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn có và phải có vị trí của nó, miễn là nó phải được suy nghĩ lại. Bởi vì như ông quan niệm, định hướng theo những giá trị xã hội chủ nghĩa sẽ giúp hiểu đúng hơn những thực tế kinh tế và chính trị xã hội.
(còn tiếp)
Nguồn: tawalas.org