Thẩm định văn hóa như một phần trong quá trình thay đổi được quản lý – Phần cuối


Bước 10: Các quyết định để có hành động tiếp theo (30 phút)

Mục đích của bước này là đạt đến sự đồng thuận về việc đâu là những giả định chúng được chia sẻ và hàm ý của chúng đối với việc tổ chức cần hành động gì tiếp theo. Nếu có các nhóm được chia nhỏ, chúng sẽ họp theo từng nhóm và sau đó trình lên cho toàn bộ nhóm đại diện các kết quả phân tích của riêng mình. Nếu có sự đồng thuận cao, người điều phối có thể trực tiếp hướng mọi người cùng thảo luận về các bước hành động tiếp theo của tổ chức. Nhiều khả năng là sẽ có những khác biệt, có thể là bất đồng, do đó toàn bộ nhóm đại diện cần tìm hiểu và phân tích thêm để tạo thuận lợi cho người điều phối.

Ví dụ, cả nhóm có thể đồng thuận rằng cần phải quan tâm đến các văn hóa bộ phận nổi bật, chúng khác biệt nhau và đều gây ảnh hưởng đáng kể; hoặc cần phải xem xét lại một số giả định để giải quyết vấn đề bất đồng. Khi đó vai trò của người điều phối là nêu câu hỏi, yêu cầu giải thích rõ, kiểm tra nhận thức và nhiều cách khác nhằm giúp nhóm có một bức tranh càng rõ càng tốt về tập hợp các giả định chi phối nhận thức, cảm xúc, tư duy và sau cùng là hành vi của nhóm.

Một khi đã có đồng thuận nhất định về các giả định chung, cuộc thảo luận sẽ đi đến các hàm ý đã được xác định. Một trong những hiểu biết đáng kể nhất sẽ thu được từ việc quan sát xem một số giả định sẽ có thể hỗ trợ nhóm như thế nào, tạo nên khả năng để nhóm củng cố các giả định tích cực và vượt qua những giả định là rào cản ra sao. Tuy nhiên, nếu xác định được những giả định đúng là rào cản, việc thảo luận của nhóm cần được chuyển sang phân tích xem có thể quản lý văn hóa như thế nào và cần làm gì để vượt qua các rào cản văn hóa đó. Chúng ta cần xem xét một số cơ chế thay đổi văn hóa, đồng thời một tập hợp mới của các nhóm có thể được xây dựng để phát triển một chiến lược thay đổi văn hóa. Theo cách điển hình, việc này đòi hỏi tối thiểu là thêm nửa ngày làm việc nữa.

Quá trình 10 bước như trên có thể tiêu tốn khoảng 1 ngày làm việc, hoặc ít hơn. Không nhất thiết phải cho rằng việc thẩm định văn hóa như trên là một quy trình chậm rãi, tốn kém thời gian. Cách làm việc theo nhóm như trên không những hiệu quả hơn việc phỏng vấn từng cá nhân, mà quan trọng hơn là dữ liệu thu được cũng có giá trị cao hơn bởi vì các yếu tố sâu sắc của văn hóa chỉ thể hiện ra ngoài thông qua tương tác, và vì chúng được sản sinh ra trong bối cảnh nhóm nên có thể được kiểm tra ngay lập tức. Văn hóa là một hiện tượng mang tính chất nhóm, và có thể được thẩm định một cách hiệu quả nhất trong bối cảnh nhóm.

Từ góc độ nhà nghiên cứu, có một hạn chế đáng kể – đó là những kết quả thu được có thể là rất sáng tỏ đối với tất cả các thành viên trong nội bộ tổ chức, nhưng lại khiến cho nhà nghiên cứu bên ngoài cảm thấy lúng túng. Nếu mục tiêu là hỗ trợ cho tổ chức, thì việc này không sao cả. Nhà nghiên cứu/tư vấn bên ngoài không nhất thiết phải hiểu văn hóa của tổ chức một cách toàn diện. Nhưng mặt khác, nếu nhà nghiên cứu muốn hiểu đủ rõ để có thể trình bày cho những người khác, cần phải có thêm các dữ liệu thu được từ việc quan sát và tổ chức thêm các cuộc họp nhóm.

Chuyện gì xảy ra nếu cần thay đổi các yếu tố văn hóa?

Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, quá trình thẩm định thường tiết lộ hầu hết văn hóa và sẽ giúp cho các tiến trình thay đổi khác. Tuy nhiên, cũng có thể có một số yếu tố văn hóa là rào cản và buộc phải điều chỉnh lại nội dung của chương trình thay đổi. Ví dụ, khi những người lao động của Alpha Power được yêu cầu phải nhận diện và xử lý được các rủi ro môi trường, điều này được công nhận là thay đổi văn hóa bởi vì khi đó người lao động phải phát triển một hình ảnh bản thân rất khác và các hiểu biết mới về bản chất công việc họ đang làm.

Nếu có một hành vi mới, được yêu cầu phải thực hiện, có liên quan đến các chuẩn mực của một nhóm nhỏ tại đó sự quản lý bị giới hạn; thì có lẽ cần phải có một chương trình thay đổi trên phạm vi rộng hơn và ứng dụng nhiều công cụ khác nhau. Ví dụ, tại Alpha Power, mục tiêu cao nhất là làm sao để người lao động giám sát lẫn nhau và báo cáo về nhau một khi phát hiện ra những nguy cơ đối với sự an toàn môi trường, từ đó đưa đến một giả định sâu sắc hơn trong văn hóa bộ phận của công đoàn: “các đồng nghiệp không quay lưng lại với nhau”. Mục tiêu của công ty, suy cho cùng, chỉ là tạo điều kiện để dựa vào toàn bộ lực lượng lao động nhằm thực hiện trách nhiệm môi trường và không bao che cho các hành vi nguy hiểm của họ. Điều này lại dẫn đến hậu quả là một chương trình thay đổi trên phạm vi lớn hơn xoay quanh sự phát triển hoạt động công đoàn và những thay đổi trong hệ thống khen thưởng và kỷ luật. Một chương trình kiểu này, với sự cần thiết phải thay đổi một số yếu tố văn hóa, có thể tiêu tốn vài năm và kèm theo là những nỗ lực chuyên sâu khác nữa. Cho nên, nếu chỉ thông báo “một chương trình thay đổi văn hóa” không thôi thì sẽ là vô nghĩa, trừ khi vai trò lãnh đạo trong công cuộc thay đổi đã chỉ rõ ra đâu là các hành vi mới và đã tiến hành khác biệt hóa các yếu tố văn hóa này, thông qua các hành vi kiểm soát trực tiếp của giới lãnh đạo, kéo theo yêu cầu thay đổi đối với hành vi của các thành viên trong văn hóa bộ phận.

Các văn hóa bộ phận được khám phá, các giả định văn hóa vĩ mô có ảnh hưởng đến những gì được định nghĩa là khủng hoảng hoặc vấn đề rắc rối trong kinh doanh, các cuộc thẩm định văn hóa cho thấy không cần thiết phải thay đổi văn hóa nếu một số quy trình kinh doanh khác đã được chỉnh sửa, và các mục tiêu thay đổi văn hóa được xác định. Nhưng việc này có khi đòi hỏi thời gian là nhiều năm. Tuy nhiên, khó có thể giải mã được những tình huống đã được công khai, bởi vì tôi không thể biết được mức độ tương tự trong việc sử dụng các định nghĩa giữa bản thân tôi và những nhà nghiên cứu/tư vấn khác.

Tổng kết và những kết luận

Quá trình thẩm định nhanh vừa được trình bày và minh họa trong bài này đã phản ánh một số kết luận như sau:

+ Văn hóa có thể được thẩm định bằng một số phương tiện khác nhau: phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn nhóm, nhưng tới thời điểm này thì phỏng vấn nhóm vẫn là phương pháp tốt hơn, xét về độ chính xác và hiệu quả thu được.

+ Sự thẩm định văn hóa chỉ mang lại chút ít giá trị, trừ khi nó gắn liền với việc phải giải quyết một số vấn đề cụ thể của tổ chức. Nói cách khác, thẩm định văn hóa chỉ nhằm mục đích thẩm định sẽ là một công việc không những quá rộng lớn, mà còn có thể bị coi là một thứ nhàm chán và vô ích. Mặt khác, khi tổ chức có mục đích cụ thể, một chiến lược mới, một vấn đề cần giải quyết, hoặc một chương trình thay đổi, thì việc xác định xem văn hóa có ảnh hưởng như thế nào không những là hữu ích mà còn là điều cần thiết trong hầu hết các tình huống. Vấn đề cần xử lý phải là vấn đề liên quan đến hiệu quả hoạt động của tổ chức và phải được giải thích càng cụ thể càng tốt. Chúng ta không thể nói rằng bản thân văn hóa là một vấn đề. Văn hóa ảnh hưởng đến cách thức vận hành của tổ chức, và trọng tâm ban đầu nên là những mảng vận hành được cải thiện.

+ Trước tiên, quá trình thẩm định cần xác định được các giả định văn hóa, sau đó đánh giá xem chúng hỗ trợ hay cản trở điều mà tổ chức đang muốn làm. Trong hầu hết các nỗ lực làm thay đổi tổ chức, việc suy luận ra sức mạnh của văn hóa là dễ dàng hơn nhiều so với việc vượt qua những cản trở bằng cách làm thay đổi văn hóa đó.

+ Trong mọi quy trình thẩm định văn hóa, chúng ta nên nhạy cảm với sự hiện diện của các văn hóa bộ phận và cẩn chuẩn bị để đánh giá chúng một cách riêng biệt, nhằm xác định sự liên quan của các văn hóa bộ phận này đến công việc mà tổ chức đang muốn thực thi.

+ Để một cuộc thẩm định văn hóa có giá trị, cần đi đến cấp độ các giả định. Nếu không đạt đến cấp độ này, người ta không thể lý giải được sự mâu thuẫn thường hiển thị giữa các giá trị được đồng thuận và những sản phẩm nhân tạo mang tính hành vi có thể quan sát thấy bề ngoài.

Cũng cần lưu ý rằng quá trình thẩm định nhóm theo 10 bước như trình bày trong bài này là một phương pháp rất nhanh. Trong vòng vài giờ đồng hồ, một nhóm có thể ước đoán được khá tốt về một số giả định then chốt của họ. Người điều phối có thể không hiểu đầy đủ về văn hóa tổ chức, nhưng điều đó không thành vấn đề chừng nào nhóm vẫn có thể xúc tiến được chương trình thay đổi của họ. Nếu như nhà nghiên cứu/người ngoài tổ chức cho rằng khả năng mô tả văn hóa đến mức chi tiết là điều quan trọng, thì họ cần thêm những dữ liệu khác, thông qua quan sát cũng như việc đánh giá thêm của nhóm. Khi đó họ m1ơi có thể có một bức tranh hoàn chỉnh.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Edgar H. Schein – Văn hóa doanh nghiệp và sự lãnh đạo – NXB TĐ 2012

Thị trường hóa quá mức nhà ở và hậu quả xã hội của nó – Từ vấn đề nhà ở của Engels nhìn tiêu dùng nhà ở của cư dân trung hạ lưu thành thị – Phần IV


Đáng cảnh tỉnh là, mấy năm gần đây, bất động sản dường như trở thành điều kiện chọn bạn đời quan trọng hơn, ít nhất là không kém con người. Phân tích của Viện Nghiên cứu Hôn nhân Gia đình Hắc Long Giang về 400 trường hợp quảng cáo cầu hôn đăng trên một tờ báo cấp tỉnh của tỉnh này từ tháng 10 năm 2006 đến tháng 6 năm 2007 cho thấy: hai giới nam nữ đều trí coi tuổi tác, chiều cao và tình trạng kinh tế là 3 chỉ tiêu hàng đầu; so với nam, nữ càng coi trọng tình trạng kinh tế (48%) và nhà ở (25,5%). Nhà ở, tình trạng kinh tế chiế 2 trong 3 điểm nóng trong lựa chọn bạn đời.

“Điều tra tình yêu và hôn nhân cư dân mạng Trung Quốc năm 2008” công bố ngày 13 tháng 2 năm 2008, về nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến tình yêu và hôn nhân, trong số 154386 người được điều tra, 72562 người chọn điều kiện vật chất, chiếm 47%; 40140 người chọn hợp tính nhau, chiếm 26%; 22695 người chọn độ hài hòa về tính dục, chiếm 14,7%; 12505 người chọn bối cảnh gia đình, chiếm 8,1%; 6484 người khác, chiếm 4,2%. Tại mấy kỳ Hội tương thân của những người cổ cồn trắng tổ chức tại Thượng Hải, những câu hỏi được xếp ở 3 vị trí đầu là: 1) Bạn mua nhà rồi phải không? 2) Bạn vay tiền mua nhà phải không? 3) Tiền vay mua nhà của bạn còn bao nhiêu? ở góc tương thân, nhà ở và việc làm của bạn trai trong tầm ngắm là nhân tố mà rất nhiều bạn nữ cân nhắc trước tiên. Xét về mặt khách quan, trên thị trường hôn nhân Thượng Hải hiện nay, có một “quy tắc ngầm” bất thành văn gắn liền với nhà ở: phòng ở của con cái tuyệt đại đa số là do bố mẹ bên nam mua, ít nhất là do bố mẹ bên nam và con trai chịu trách nhiệm trả trước một phần, phần còn lại thì do bên nam hoặc hai bên cùng chịu, con gái Thượng Hải đặc biệt coi trọng tình trạng nhà ở của bên nam.

6/ Nhà ổ chuột và các vụ án ở Thượng Hải

Sự lưu hành tiểu thuyết Nhà ổ chuột và cơn sốt về bộ phim truyền hình này là một trong các sự kiện văn hóa có ảnh hưởng xã hội nhất năm 2009. Bối cảnh câu chuyện Nhà ổ chuột là Thượng Hải, nhưng nó phản ánh tình hình thực tế và môi trường sinh thái phát sinh những năm gần đây của rất nhiều thành phố lớn toàn Trung Quốc. Ở đây có các quan tham lọc lõi, các hộ đinh bị hại, các nhà khai thác lòng dạ đen tối, những người lao động trí óc nhỏ bị vấn đề nhà ở đè nặng thở không ra hơi. Vì viết chân thực và xúc động nên gây cộng hưởng và thảo luận lâu dài và mạnh mẽ. Kho dữ liệu dân ý của báo Phương Đông buổi sáng (Dongfang zaobao) đã điều tra 1034 công dân trưởng thành về vấn đề “nạn mua nhà” mà Nhà ổ chuột phản ánh. Trong đó 77,57% người được hỏi cho rằng vấn đề “nạn mua nhà” mà Nhà ổ chuột phản ánh là có tính phổ biến ở Thượng Hải; 72,24% công dân thẳng thắn nói, giá nhà ở Thuợgn Hải “cao quá mức, không chịu nổi”. Bí thư thị ủy Thượng Hải Du Chính (Yu Zheng) nói, không những ông đã xem Nhà ổ chuột, mà tại hội nghị cán bộ còn khuyến khích mọi người xem để thể nghiệm tình trạng khó khăn về nhà ở. Ngoài khó khăn kinh tế, những khó khăn nẩy sinh xung quanh vấn đề nhà ở càng phản ánh nhân sinh quan và giá trị quan méo mó dưới sự chèn ép của giá nhà cao.

“Nhà ổ chuột” là chỉ không gian chật hẹp đến mức nghẹt thở mà người ta phải cư trú. Bất luận đô thị phồn hoa thịnh vượng như thế nào, dân chúng bình thường đều sống tù bức như con ốc sên vậy. Nhà ổ chuột kể câu chuyện hai chị em tình cảm tốt đến mức đổi áo cho nhau mặc, từ ngoại tỉnh đến thành phố lớn tìm không gian cư trú yên ổn để theo đuổi công việc suốt đời mình. Cô chị là Hải Bình (Hai Ping) và chồng là Tô Thuần (Su Chun) sau khi tốt nghiệp đại học ở lại thành phố phấn đấu. Được coi là cổ cồn trắng nhưng hàng ngày bớt ăn bớt mặc vẫn kông mua nổi căn hộ mơ ước.

Sau ki quyết tâm nhà tại Thái Thương bên ngoài Thượng Hải, cuộc sống như là ác mộng. Hải Bình “mỗi ngày mở mắt là có một chuỗi con số nảy ra trong óc: nợ nhà 6 nghìn, ăn mặc hết 2 nghìn rưỡi…” Cứ thế trở thành một “nô lệ nhà” làm thuê cho một ông chủ ngân hàng khác. Dưới sức ép nặng nề của đồng tiền, cảm thấy mình sống rất chán nản và trút nỗi buồn chán trong lòng mình sang cho chồng là Tô Thuần và rút ra được một quan niệm mới về giá trị, cuộc sống và tình yêu. Cô ta bảo cô em Hải Tảo (Hai Zao): “Chị bảo cho em biết, tình yêu, tình yêu, đó chỉ là trò bịp của đàn ông đối với đàn bà. Những gì là “anh trao trái tim cho em, em sẽ mãi mãi có anh”, đó chỉ là thuật che mắt của một kẻ nghèo rớt mùng tơi. Đó là anh ta chẳng có gì nên chỉ nói mấy lời đường mật. Đàn ông nếu thực sự yêu một người phụ nữ thì đừng nói những lời trống rỗng. Anh yêu người phụ nữ này, cái thứ nhất cần cho không phải là trái tim của anh, cũng không phải là thân thể của anh, mà một là chồng lên một chồng tiền để cho người phụ nữ không phải lo lắng về tương lai; hai là tặng một căn nhà, ít nhất là khi không có được người đàn ông, lòng mất mát, thân thể vẫn còn có nơi để ở”. Không rõ là chủ động bao nhiêu bị động bao nhiêu, một cô Hải Tảo từng chân chất đáng yếu đã biến thành một cô bé sùng bái tiền trong ca khúc của Madonna, quan niệm và hành vi cũng phát sinh biến đổi, kết quả cô ta rời xa Tiểu Bối (Xiao Bei) vốn yêu mình sâu sắc để lao vào lòng Tống Tư Minh (Song Siming) nhiều nhà nhiều tiền, quyền thế hiển hách, làm “bà hai” trong tòa chung cư sang trọng. Điều khiến người ta có ấn tượng sâu sắc là, rất nhiều bạn trẻ vô cùng yêu thích Tống Tư Minh đa tình đa nghĩa, thoải mái hào phóng, hâm mộ cuộc sống hào hoa thoải mái, không lo chuyện tiền nong của Hải Tảo. Có thể thấy sức ép của nhà ở và sức cuốn hút của chủ nghĩa sùng bái tiền trong xã hội này là to lớn chừng nào.

III/ Bất động sản với tính cách chính sách xã hội chứ không phải chính sách kinh tế: Tiến tới xây dựng xã hội người tiêu dùng

Để giải quyết vấn đề nan giải về nhà ở, có rất nhiều phương án chính sách có thể lựa chọn. Mao Vu Thức (Mao Yushi) cho rằng, tiền đồ duy nhất bất động sản là trở về thị trường. Từ sau khi Trung Quốc hàng hóa hóa nhà ở, ngành bất động sản đã tạo ra nguồn của cải to lớn, người mua nhà vào ở nhà mới, nhà khai thác cũng kiếm được tiền, toàn xã hội vì vậy mà giàu lên. Giá nhà ở cực kỳ không bình thường là do chính quyền một số địa phương thao túng từ bên trong, nâng giá đất lên, có một phần lớn tiền mua nhà của nugời mua trở thành thu nhập của chính quyền từ bán đất. Để cho chính quyền rút ra, để cho cung cầu trên thị trường trực tiếp gặp nhau, khoản chi phí này sẽ có thể giảm đi rất nhiều. Còn quan điểm để cho chính quyền trợ cấp giúp mọi người mua nhà là hoàn toàn sai lầm. Trái lại Lỗ Phẩm Việt (Lu Pinyue) cho rằng, đầu cơ bất động sản, vốn luân chuyển trong ngàoi nước tràn lan là bàn tay vô hình cướp đoạt thị trường nhà ở, chính phủ quyết không thể áp dụng chủ nghĩa tự do buông thả đối với thị trường bất động sản, mà cần can thiệp sâu vào thị trường bất động sản: khi vận dụng lưu lượng tiền tệ để thúc đẩy kinh tế phát triển, cần xác lập cơ chế giám sát, quản lý dòng chảy của vốn, nâng đỡ nhu cầu hữu hiệu của công dân về nhà ở, kiềm chế đầu cơ bất động sản. Viên Vĩ Thời (Yuan Weishi) thì cho rằng, phương hướng lớn về cải cách thị trường hóa nhà ở tại Trung Quốc là đúng, phương hướng thị trường hóa nhà ở không được dao động, nhưng không tìm được lối ra từ kinh nghiệm địa phương. Ông nhận thấy 80% nhà ở của Singapore đều được giải quyết thông qua chính phủ hoặc các công ty trực thuộc chính phủ, 40% dân số Hương Cảng ở trong các chung cư do chính phủ xây dựng. Trong vấn đề nhà ở của các quốc gia và khu vực này, chính phủ gánh lấy trách nhiệm, thông qua việc xây dựng các hình thức nhà chung cư đã giải quyết được khó khăn của các tầng lớp trung hạ lưu. Trung Quốc đại lục có thể tham khảo những kinh nghiệm này, nếu chính phủ có thể đảm đương xây dựng khoảng 30% nhà ở dùng để giải quyết vấn đề nhà ở của tầng lớp trung hạ lưu khó khăn nhất thì sẽ đóng được vai trò khá lớn trong việc ổn định giá nhà.

Những kiến nghị chính sách này có ý nghĩa và giá trị xây dựng quan trọng. Nhưng cũng có chỗ sai lầm. Nói khái quát, Mao Vu Thức (Mao Yushi) tiếp tục kiên trì con đường thị trường hóa và vận dụng thêm một bước phương án thị trường hóa vào bất động sản, nhưng không cân nhắc đầy đủ đến tính bên ngoài của thị trường, dù là thị trường hóa và thương mại hóa với quyền tài sản rõ ràng, nếu mất đi công bằng xã hội cũng có thể đi tới hiệu ứng Matthew: người nghèo càng nghèo, người giàu càng giàu. Lỗ Phẩm Việt (Lu Pinyue) nhấn mạnh việc chính phủ kiềm chế vốn luân chuyển và đầu cơ, như tăng thuế giao dịch, tăng lãi suất tiền cho vay mua căn nhà thứ hai hoặc các căn nhà tiếp theo…, nhưng trước đây, sau khi thực thi các biện pháp tương tự cũng đã từng phát sinh tình huống tác dụng nhỏ bé, hơn nữa hướng suy nghĩ này chú trọng kỹ thuật, bỏ qua cấp độ lớn lao hơn, quan trọng hơn. Thí dụ những nhà đầu tư chân chính rõ ràng là có vốn lớn, không bị hạn chế bởi tiền cho vay mua nhà và thuế. Viên Vĩ Thời (Yuan Weishi) chú trọng trách nhiệm của chính phủ, nhưng ở Trung Quốc hiện nay, thông qua chính phủ hay các công ty trực thuộc chính phủ để giải quyết vấn đề khó khăn về nhà ở của các tầng lớp trung hạ lưu đông đảo rõ ràng là một vườn ươm lớn khác làm nẩy sinh tham nhũng, hình thành bữa đại tiệc tham nhũng từ các công trình công cộng; đồng thời cũng dễ dàng hình thành “hệ thống tồn tại song hành hai quỹ đạo” là thị trường cung cấp bất động sản và chính phủ, gây tổn hại nặng cho những thành quả thời kỳ đầu cải cách nhà ở. Quan trọng hơn là, những kiến nghị chính sách này phần nhiều dựa trên những cân nhắc về kinh tế, kỹ thuật hay chính trị, đối với sự thiếu hụt nhà ở, sự tăng vọt giá nhà với tính cách là một mặt của vấn đề xã hội  phần lớn đều bị bỏ qua.

(còn tiếp)

Người dịch: Viễn Phố

Nguồn: TN 2014 – 74, 75 76

Thẩm định văn hóa như một phần trong quá trình thay đổi được quản lý – Phần II


Bước 3: Chọn lựa một thiết kế không gian phù hợp để nhóm tự thẩm định

Buổi họp của nhóm cần kích thích được những nhận thức, tư duy và cảm xúc mà trong điều kiện bình thường thì chúng chỉ là những điều ngầm hiểu. Vì vậy phòng họp phải thoải mái, cho phép mọi người ngồi xung quanh bàn tròn, có thể dán giấy lên tường hay viết bằng nhiều nội dung về các yếu tố văn hóa. Ngoài ra cũng cần có không gian dành cho các nhóm nhỏ hơn, nhất là khi toàn bộ nhóm tham gia họp có số lượng lớn hơn 15 người.

Bước 4: Giải thích về mục đích buổi họp (15 phút)

Cuộc họp nên bắt đầu với lời giải thích về mục đích, trình bày bởi một người trong tổ chức và được những người khác nhận thức là có vai trò lãnh đạo hay được ủy quyền, qua đó khích lệ  các phản hồi cởi mở. Vấn đề thay đổi của tổ chức cần phải được tuyên bố rõ ràng và viết hẳn ra giấy/bảng để mọi người có thể cùng thảo luận và đặt câu hỏi. Người trong tổ chức này sau đó sẽ giới thiệu người điều phối (thường là nhà tư vấn bên ngoài) với vai trò hỗ trợ công tác thẩm định để biết văn hóa tổ chức có thể tạo thuận lợi hay cản trở việc giải quyết vấn đề như thế nào. Cũng có khi nhà tư vấn là thành viên của tổ chức nếu có hiểu biết về sự vận hành của văn hóa và quen thộc với các quá trình của nhóm.

Bước 5: Một bài giảng ngắn gọn trình bày cách tư duy vè văn hóa (15 phút)

Quan trọng là nhóm đại diện phải hiểu được rằng văn hóa thể hiện thông qua những sản phẩm nhân tạo và các giá trị được đồng thuận, nhưng mục tiêu ở đây là cố gắng giải mã các giả định chung được ngầm hiểu đang nằm dưới các lớp nhận thức sâu hơn. Vì vậy, nhà tư vấn nên trình bày về mô hình 3 cấp độ của văn hóa và chắc chắn mọi người hiểu rằng văn hóa là một tập hợp các giả định đã học được, dựa trên quá trình lịch sử chung của nhóm. Việc nhóm hiểu được rằng đây là việc thẩm định một sản phẩm của lịch sử, và tính ổn định của văn hóa dựa trên những thành công trong quá khứ của tổ chức cũng là điều quan trọng.

Bước 6: Tìm hiểu những sản phẩm nhân tạo (60 phút)

Nhà tư vấn sau đó sẽ nói cho cả nhóm đại diện biết rằng cần bắt đầu công tác thẩm định văn hóa với việc mô tả nó, thông qua các sản phẩm nhân tạo (artifacts). Một phương pháp hữu hiệu là tìm ra ai mới gia nhập nhóm và hỏi họ xem có cảm xúc thế nào, họ chú ý nhất đến những điều gì trong tổ chức. Mọi thứ cần được ghi lại trên giấy hoặc lên bảng. Nếu các thành viên tích cực cung cấp thông tin, người điều phối có thể ít nói hơn, ngược lại anh ta/cô ta có thể gợi ý: quy ước về trang phục, các mô hình hành vi của sếp, thiết kế không gian vật chất của tòa nhà làm việc, cách thức sử dụng thời gian và không gian, những loại cảm xúc trong tổ chức, cách thức ra quyết định, sự thăng tiến trong nội bộ, sự cân bằng giữa công việc và gia đình… Người điều phối có thể ứng dụng các nội dung để đảm bảo rằng mọi người thảo luận toàn diện, nhưng quan trọng là không đưa ra một danh sách các chủ đề trước khi mọi người thảo luận, bởi vì danh sách đó có thể khiến họ có thành kiến trong nhận thức.

Quá trình này có thể được diễn tiến trong một giờ đồng hồ cho đến khi nhóm đã thảo luận xong, theo đó hình thành nên một danh sách dài các sản phẩm nhân tạo phản ánh nhiều khía cạnh trong đời sống của tổ chức. Đây là yếu tố kích thích nhóm đại diện tìm đến những lớp sâu hơn trong tư duy về các giả định chung.

Bước 7: Xác định các giá trị được đồng thuận (15 – 30 phút)

Câu hỏi để khơi gợi ra những sản phẩm nhân tạo thường là “Chuyện gì diễn ra ở đây?”. Ngược lại câu hỏi để gợi mở đến các giá trị được đồng thuận lại là “Tại sao các bạn lại làm như vậy?”. Thường thì các giá trị đó đều được đề cập đến trong khi thảo luận về các sản phẩm nhân tạo, vì vậy cần viết hết ra những gì đã thảo luận. Để khơi gợi được các giá trị xa hơn, tôi thường chọn ra một sản phẩm nhân tạo mà rõ ràng là cả nhóm quan tâm, rồi yêu cầu họ giải thích lý do. Khi các giá trị và niềm tin đã được tuyên bố, tôi kiểm tra lại tính đồng thuận; nếu đã có sự đồng thuận thì tôi sẽ viết ra một trang giấy riêng. Nếu các thành viên chưa nhất trí, tôi tìm hiểu thêm bằng cách hỏi xem có phải vấn đề là sự khác biệt trong các nhóm nhỏ hay không, rồi ghi chú lại để xem xét sau. Tôi thường khích lệ nhóm xem xét tất cả các sản phẩm nhân tạo mà họ đã xác định được, và cố gắng hết sức để làm rõ những giá trị có thể là hàm ý từ những sản phẩm đó. Nếu tôi nhìn thấy một số giá trị hiển nhiên mà nhóm lại chưa đề cập đến, tôi sẽ đề xuất một số ý liên quan – nhưng trên tinh thần là cùng tìm hiểu, chứ không phải là với tư cách chuyên gia đang tiến hành phân tích.

Bước 8: Xác định các giả định chung, làm nền móng (15 – 30 phút)

Điều then chốt để có được các giả định chung làm nền móng cho văn hóa là kiểm tra xem các giá trị được đồng thuận có thực sự lý giải được cho những sản phẩm nhân tạo hay không, hoặc các sự việc đang diễn ra vẫn chưa được giải thích hoặc chúng thực sự còn mâu thuẫn với một số giá trị. Ví dụ, một nhóm trong công ty máy tính Apple tiến hành thẩm định văn hóa hồi thập niên 1980 nhằm mục đích xác định xme mức độ tăng trưởng có ảnh hưởng đến cấu trúc tổ chức và nhu cầu mở rộng không gian vật chất nhưt hế nào. Trong danh sách các sản pah63m nhân tạo, họ ghi chú rằng họ dành nhiều thời gian để hoạch định và viết kế hoạch, nhưng các bản kế hoạch này thường bị phớt lờ vì những cuộc khủng hoảng sau đó. Vậy là họ cho rằng công tác xây dựng kế hoạch cũng là một giá trị được đồng thuận và họ cảm thấy lúng túng khi hầu như không bao giờ làm việc theo kế hoạch. Việc này nêu lên vấn đề nhận thức về thời gian, và sau khi thảo luận các thành viên đồng ý với nhau rằng họ làm việc dựa trên một giả định sâu hơn rằng: “Chỉ có thực trạng trong hiện tại mới là điều quan trọng nhất”, Khi đó, họ mới nhìn ra các sản phẩm nhân tạo khác, cũng theo qun niệm về thời gian định hướng hiện tại.

Nhóm này còn liệt kê ra nhiều hoạt động không chính thức khác trong công ty, chẳng hạn cùng nhau đi ăn uống sau giờ làm việc, tiệc sinh nhật cho thành viên nhóm, đi vui chơi cuối tuần… và giá trị được đồng thuận là “họ thích được cùng nhau”. Nhưng sau khi cân nhắc kỹ hơn các dữ liệu văn hóa, họ mới thấy rõ một giả định sâu sắc là “Việc kinh doanh có thể và nên vượt hơn chuyện kiếm tiền, kinh doanh có thể và nên là một thú vui, và xa hơn nữa thì kinh doanh có thể và nên mang ý nghĩa xã hội”.

Khi đã nhận thức được các giả định, người ta có thể bắt đầu có được một tập hợp các hiểu biết sâu sắc, hoàn toàn mới mẻ và lý giải được ý nghĩa của nhiều sự việc mà trước kia họ vẫn cho là vô nghĩa. Khi đi sâu hơn vào các giả định, nhóm này nhận ra rằng công ty vận hành dựa trên 2 giả định căn bản về hành vi của con người; (1) Người làm việc tốt nhất khi đã có đầy đủ các nguyên tắc rõ ràng để giải quyết mọi tình huống (trong số các sản phẩm nhân tạo mà nhóm liệt kê ra, có những tài liệu “dài hàng dặm” để hướng dẫn quy trình làm việc) và (2) con người thích nhận được ý kiến phản hồi ngay lập tức và sẽ không tuân theo các nguyên tắc trừ khi sẽ bị trừng phạt ngay lập tức mỗi khi vi phạm nguyên tắc.

Khi các giả định đã lộ diện, người điều phối có thể kiểm tra tính đồng thuận và viết các giả định đó ra một phần riêng. Danh sách các giả định này là quan trọng vì cần làm rõ một số yếu tố căn bản của văn hóa. Giai đoạn này kết thúc khi người điều phối và nhóm đại diện cảm thấy rằng họ đã xác định được hầu hết các giả định then chốt, và những người tham gia đều hiểu rõ từng giả định.

Bước 9: Xác định sự hỗ trợ và cản trở từ văn hóa (30 – 60 phút)

Nếu nhóm đại diện là nhỏ (15 đến 20 người), cả nhóm nên cùng tham gia vào bước này. Còn nếu nhóm đại diện đông hơn 20 người, cách tốt nhất là chia ra thành vài nhóm nhỏ hơn. Nhiệm vụ cho từng nhóm nhỏ phụ thuộc vào vấn đề cần giải quyết, tùy vào việc có hay không các văn hóa bộ phận, và thời gian cho phép là bao nhiêu. Ví dụ, nếu thấy rõ trong buổi họp là có những văn hóa bộ phận mang tính chức năng, phân vùng địa lý, nghề nghiệp và cấp bậc thì người điều phối có thể để cho các nhóm bộ phận đó tìm hiểu thêm các giả định của riêng mình. Còn nếu nhận thấy rằng cả nhóm lớn dù đã đồng thuận về các giả định đã tìm thấy, người điều phối có thể lập thành các nhóm nhỏ theo cách ngẫu nhiên, với một số tiêu chí tùy theo vấn đề đang cần được giải quyết là gì.

Sau đó, nhiệm vụ sẽ là phân loại, sắp xếp các giả định đã tìm thấy vào một trong hai nhóm: hỗ trợ hoặc ngăn cản quá trình thay đổi mà tổ chức đang theo đuổi. Nhóm sẽ phải xem xét “những phương pháp làm việc mới” là gì, đánh giá xem các giả định văn hóa có tạo thuận lợi hay cản trở chúng hay không. Điều quan trọng trong lúc này là yêu cầu các thành viên nhóm phải xem xét các giả định từ quan điểm hai chiều, bởi vì xu hướng thường là: xem văn hóa luôn luôn là rào cản do đó người ta chỉ nhấn mạnh đến những giả định nào gây cản trở cho sự thay đổi. Trong thực tế, các thay đổi thành công trong một tổ chức hầu như đều xuất phát từ việc nhận ra các giả định nào sẽ hỗ trợ cho sự thay đổi, hơn là các giả định gây cản trở. Nhưng ban đầu nhóm sẽ khó có thể nhìn nhận văn hóa như một nguồn lực hỗ trợ tích cực cho sự thay đổi.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Edgar H. Schein – Văn hóa doanh nghiệp và sự lãnh đạo – NXB TĐ 2012

Thị trường hóa quá mức nhà ở và hậu quả xã hội của nó – Từ vấn đề nhà ở của Engels nhìn tiêu dùng nhà ở của cư dân trung hạ lưu thành thị – Phần III


Tình trạng nhà ở của quần thể sinh viên mới tốt nghiệp, trong đó kể cả “họ kiến”, chẳng khá hơn là bao so với những di dân nông thôn ra thành thị này. Có một số quần thể tốt nghiệp sinh đại học ở lứa tuổi “8x” thu nhập thấp tụ cư hình thành nên “họ kiến”, quần thể này có rất nhiều đặc điểm giống như kiến: thông minh, nhỏ yếu, sống thành bầy. Tại các thành phố Bắc Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán, Quảng Châu, Tây An… quần thể này đều tồn tại với quy mô lớn. Tại các “thôn tụ cư” mà họ sinh sống như Đường Gia Lĩnh (Tangjialing), Tiểu Nguyệt Hà (Xiaoyuehe), Mã Liên Oa (Malienwa), điều kiện ăn ở sơ sài, môi trường tồi tệ. Ở đây, các loại cửa hàng cửa hiệu liên doanh không phép như quán cơm nhỏ, hiệu làm tóc nhỏ, xưởng thủ công nhỏ, phòng khám nhỏ, quán cà phê Internet nhỏ, cửa hiệu đồ dùng người lớn và quán giải trí cấp thấp… tập trung rất nhiều và tăng lên một cách lộn xộn, các vụ án hình sự như đột nhập trộm cắp, cướp của, đánh lộn thường xuyên xảy ra, tình hình đời sống rất đáng lo ngại. Môi trường đó rõ ràng thuộc về một thế giới hoàn toàn khác với những quán bar sang trọng, các cửa hiệu chuyên bán hàng tinh chế, quán cà phê hạng sang, hội quán, câu lạc bộ… Những người sống trong hai loại môi trường cũng rất ít giao lưu đi lại với nhau trong đời sống thường ngày, thuộc các mạng quan hệ xã hội tách biệt nhau.

3/ Giá nhà và ác quỷ trong đời sống thường ngày

Trong 7 năm tác giả sống ở Thượng Hải, ít có cuộc tụ họp đồng nghiệp hay bạn bè nào mà không nói tới chuyện nhà ở và giá nhà. Là lý tưởng an cư lạc nghiệp cơ bản nhưng đối với không ít người lại là ác mộng thường xuyên xảy ra. Thỉnh thoảng nghe được những câu chuyện như thế này: một bác sĩ ở tuổi 30 vì không có nhà ở cảm thấy xấu hổ, thấp kém một bậc giữa đồng nghiệp; một sinh viên vừa mới tốt nghiệp hai năm làm việc trong công ty tuyển mộ chuyên viên giỏi hỏi dò bạn thân tín về giá một loại chất kích thích, bởi vì cô ta đang tính toán mua nhà mà tích lũy trong tay có hạn; một cặp tình nhân vì một bên để mất cơ hội mua nhà năm 2003, cuối cùng họ không đi tới lâu đài hôn nhân; mấy sinh viên tỉnh ngoài đến thành phố làm việc, vì không chịu được sức ép của giá nhà, cảm thấy đời sống bấp bênh, buộc phải trở về tỉnh nhà tìm lối thoát khác; một vị trí thức vì hỏi vay tiền đồng nghiệp kiêm bạn bè trong văn phòng để trả tiền nhà lần đầu, từ đó giữa hai người chỉ còn quan hệ đồng nghiệp; một nhân tài khoa học kỹ thuật với chức cao được tiến cử, vì chính sách của đơn vị quy định phải kết hôn mới được nhận trợ cấp tiền nhà, căn phòng đã ưng năm 2004 thì đến năm 2009 giá đã tăng gấp 3 lần, anh ta thường xuyên kể lể dài dòng về chuyện này giống như thím Tường Lâm [nhân vật nữ chịu nhiều bất hạnh trong tiểu thuyết Chúc phúc của Lỗ Tấn] vậy, và đem sự bất mãn đối với đơn vị truyền đạt cho bạn bè và thân thích; một cặp vợ chồng tình cảm bất hòa nhiều năm nay vì không ly hôn được đành sống riêng dưới cùng một mái hiên; để mua được một căn phòng rẻ, một cặp vợ chồng trung niên đành hy sinh chỗ đi làm gần và thuận tiện, kết quả là hàng ngày đi đi về về giữa chỗ ở và nơi làm việc mất hơn 4 tiếng đồng hồ, một cặp khác cũng trong tình cảnh tương tự đành làm vợ chồng cuối tuần ở cùng thành phố; để trả tiền thuê nhà, một trưởng ban của công ty đã tham ô công quỹ và bị kết án; một phụ nữ vì nhà đang bị gắn bảng “nhà cho thuê” nên tố cáo lên báo chí, vì vậy bị mang tiếng xấu, kỳ thị và oan khuất; vì lo con đến lúc cần không mua được nhà, một số cha mẹ đã tìm mọi cách mua nhà cho con cái; vì vấn đề mua nhà dẫn đến gia đình bất hòa, cha mẹ anh chị em lục đục.

4/ Quấy rối bằng điện thoại và tin nhắn

Do các vụ việc (như mua bán và thuê nhà), số điện thoại di động cá nhân bị các văn phòng mua bán nhà và các môi giới xấu biết được. Các đối tượng này sẽ gửi hàng loạt tin nhắn và gọi điện thoại, cho bạn biết thông tin về chỗ nào đang cho thuê hoặc bán nhà, cả những thông tin về trang trí, sửa sang như tủ chạn, gạch lát nền…, hỏi bạn phòng ở tiểu khu là bán hay cho thuê, thậm chí lừa gạt tiền bạc. Tôi và rất nhiều bạn bên cạnh đều than phiền gần đây nhận được những tin nhắn tương tự, cách làm của mọi người nói chung là trực tiếp xóa đi, có người nhìn thấy số điện thoại lạ gọi đến thì đành trực tiếp tắt máy. Phía gọi điện thoại và gửi tin nhắn không tiếc chi phí, làm tốn thời gian và sức lực của hai bên, thậm chí tổn thương tình cảm. Thứ đối thoại này có lúc kết thúc bằng chửi nhau. Trên mạng đã xuất hiện đối sách đối phó với mấy thứ quấy rối này, có một số là dĩ độc trị độc. Nhưng ý nghĩa xây dựng cảu thứ trao đổi thông tin, giao lưu điện thoại này cực ít, phần nhiều là hậu quả tiêu cực. Nhưng chỉ cần đạt được một phần vạn thành công thì bên chủ động gây chuyện vẫn sẽ kiên trì thực hiện. Nếu không phải là “có tiền mua tiên cũng được” thì không thể nào phát sinh những sự việc đê tiện và thủ đoạn thấp hèn như vậy được.

Các trường hợp mà tác giả thu thập những năm gần đây như sau:

“Sau khi mua nhà, hàng ngày tiếng điện thoại réo liên tục, tin nhắn không ngớt, trúng thưởng rồi, đã gửi tiền cho tôi tới tài khoản của ai ai rồi, đã cung cấp dịch vụ sửa chữa rồi…, còn biết chính xác họ của tôi, vị trí chính xác của căn hộ. Mới kết hôn chưa bao lâu đã tiên tục được gọi linh tinh là “tiểu thư”, “quý bà”…, phiền phức không dứt, không cách nào thoát được. Điều khác thường là ngày nghỉ, ngày tết họ cũng gọi” (25 tuổi, kế toán công ty).

“Những quấy rối qua điện thoại và tin nhắn rác này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của tôi, có lúc đang tập trung tâm trí soạn bài, đột nhiên một trận chuông làm đứt quãng dòng suy nghĩ mới hình thành. Tệ hại nhất là khó khăn lắm mới chợp được mắt thì lại bị tiếng chuông không hẹn mà tới làm bừng tỉnh, vừa cầm máy nghe thì lại là môi giới bất động sản, bực mình không kể xiết. Có lúc tôi đang chờ một cuộc gọi quan trọng, thì cuộc gọi này lại tới” (34 tuổi, giáo viên trung học).

“Chiều qua nhận được một cú điện thoại quấy rối của môi giới (nhà ở), rất phiền phức. Sáng nay vừa ngủ dậy đang chăm chú viết bài, nghe thấy chuông điện thoại. Thấy số lạ, tôi kết nối nhưng không nói, đối phương im lặng, tôi cho rằng lại gọi điện quấy rối đây, liền lạnh lùng bảo, có gì thì nói đi. Tiếng nói vang lên, hóa ra là bà con ở quê. Tôi cảm thấy ngượng và có lỗi” (41 tuổi, kỹ sư nhà máy).

“Tôi đang lái xe trên đường vành đai về nhà, nghe chuông điện thoại kêu, sợ có chuyện gì quan trọng, bật nghe. Đối phương không giới thiệu về mình, đã hỏi có nghe rõ không, sau đó hỏi căn nhà X, X (tên tiểu khu) của anh bán phải không. Nghe điện thoại khi đang lái xe trên đường cao tốc rất dễ xảy ra sự cố, những đồ chết tiệt này bất chấp bạn đang bận gì” (54 tuổi, giám đốc công ty bất động sản).

“Lúc bình thường điện thoại không nhiều, điện thoại reo thì cho rằng bạn bè, đồng nghiệp gọi đến. Chiều qua đang họp, việc quan trọng, các thủ trưởng như trưởng ban… đều có mặt, máy điện thoại của tôi reo, không nghe không tiện, vừa nghe liền phát hiện là điện thoại quấy rối, trưởng ban liếc nhìn tôi. Chút phận thăng chức của tôi nằm trong tay lãnh đạo, cú gây rối này quá…” (30 tuổi, viên chức cơ quan chính quyền).

“Mùa thu năm ngoái nhận được một cú điện thoại, nói là cục thuế nhà nước, gia đình tôi sau khi mua nhà có thể hoàn thuế mua. Đối phương biết rành rẽ diện tích nhà tôi, tên tiểu khu, giá giao dịch. Còn tính ra cho có khoảng 5000 NDT, nói sẽ chuyển vào tài khoản của tôi, tôi căn cứ theo lời đối phương, tới máy rút tiền tự động dùng thẻ rút là được. Trong đầu tôi đã lóe lên cảnh mình dùng thẻ đi rút tiền và nhận được tiền hoàn thuế. Về sau cảm thấy có chút không đúng. Cục thuế nhà nước Thượng Hải làm gì có người nói tiếng phổ thông, thái độ tốt như vậy. Gọi điện tới Phòng Nhà đất khu, mới nói vài câu, đối phương nói “giả đấy” liền ngắt máy” (43 tuổi, giảng viên đại học).

5/ Chọn bạn đời hay chọn nhà

Trên thị trường hôn nhân, có nhà để ở không, có mua được nhà đủ rộng, đủ tốt không ngày càng chiếm địa vị và vai trò quan trọng, còn vai trò tác động của tuổi tác, nghề nghiệp, phẩm hạnh, hoàn cảnh gia đình, quan hệ xã hội và vóc dáng… tương đối giảm. Năm 1996, thông qua phỏng vấn tại nhà và điều tra theo mẫu đối với 3200 nam nữ đã kết hôn ở Thượng Hải và Cáp Nhĩ Tân, Từ An Kỳ (Xu Anqi) phát hiện, trong một khoảng thời gian rất dài những năm 80 của thế kỷ XX về trước, “lợi ích vật chất” và “kim tiền vạn năng” từng bị coi là nguồn gốc của mọi cái xấu và bị phê phán mạnh mẽ, nhưng quan niệm lựa chọn bạn đời gần đây trái ngược với hình thái ý thức cách mạng hóa, lý tưởng hóa tình yêu và coi thường ham muốn vật chất trước kia. Phát hiện khác biệt về tiêu chuẩn chọn bạn đời trong các thời kỳ khác nhau: trong lựa chọn ý trung nhân, tỷ lệ đối tượng nghiên cứu quan tâm đến nhà ở trong 4 thời kỳ 1948 – 1966, 1967 – 1976, 1977 – 1986, 1987 – 1996 lần lượt là 16,4%, 27,7%, 33,1% và 37,2%, tỷ lệ quan tâm đến thu nhập lần lượt là 20,1%, 27,5%, 27,0% và 34,9%. Nghiên cứu về thông báo cầu hôn trên tạp chí Phụ nữ Trung Quốc, tỷ lệ đề cập các biến số tài sản trong điều kiện đòi hỏi của người cầu hôn nữ các thời kỳ khác nhau, năm 1985 ít hơn rõ rệt so với các năm khác, năm 1995 nhiều hơn rõ rệt so với các năm khác, năm 1985 và 1990 ít hơn rõ rệt so với năm 1995 và 2000.

(còn tiếp)

Người dịch: Viễn Phố

Nguồn: TN 2014 – 74, 75 76

Thẩm định văn hóa như một phần trong quá trình thay đổi được quản lý – Phần I


Có nhiều cách thay phát triển và thay đổi văn hóa. Nhiều sự thay đổi được khởi phát từ hành vi của người lãnh đạo, chẳng hạn như thăng cấp cho những người nào có các giá trị và niềm tin phù hợp. Nếu các hoạt động này còn quá chậm, trong khi tổ chức cần phải thay đổi nhanh chóng, thì những người lãnh đạo cần chuyển sang một quá trình thay đổi được quản lý, ứng dụng mô hình thay đổi. Văn hóa sẽ trở nên có liên quan đến sự thay đổi và đôi khi còn trở thành mục tiêu chính của sự thay đổi. Sau đó, cần phải có một phương pháp để nhanh chóng thẩm định văn hóa sao cho những người lãnh đạo quản lý sự thay đổi xác định được các yếu tố văn hóa có thể hỗ trợ hay cản trở công việc của họ như thế nào, hoặc chúng có thể trở thành các mục tiêu của sự thay đổi như thế nào.

Giải mã tức thời – Một quá trình nhiều bước dành cho nhóm

Quá trình mà tôi sẽ trình bày dưới đây được thiết kế để cung cấp cho những người lãnh đạo đang quản lý sự thay đổi trong tổ chức một phương pháp tức thời nhằm giải mã các yếu tố văn hóa trong tổ chức và từ đó có thể thẩm định được mức độ liên quan của văn hóa đối với chương trình thay đổi. Trong bối cảnh này, tôi thường được yêu cầu thiết kế nên một chương trình khảo sát hay phỏng vấn, và tôi luôn luôn tranh luận rằng điều đó là không cần thiết hoặc không được mong đợi. Quá trình phỏng vấn nhóm được trình bày dưới dây vừa nhanh hơn vừa có giá trị hơn bởi vì sự tương tác sẽ đưa đến các giả định chung nhanh hơn. Quá trình này là hữu ích nhất trong bối cảnh của một chương trình thay đổi khi các mục tiêu thay đổi đã được công khai nên người ta thẩm định văn hóa để biết chúng có thể hỗ trợ hay cản trở chương trình thay đổi đó (Schein, 2009b). Khi sự thay đổi không có trọng tâm cụ thể, quá trình này trở nên nhàm chán và vô nghĩa.

Nếu được yêu cầu tiến hành thẩm định văn hóa, tôi luôn luôn hỏi lại, “Tại sao bạn muốn thẩm định?”. “Bạn đang cố gắng giải quyết vấn đề gì?” và “Bạn có ý gì khi đề cập đến văn hóa và tại sao bạn lại nghĩ rằng việc thẩm định văn hóa là cần thiết?”. Các câu trả lời thường sẽ cho thấy một số chi tiết trong chương trình thay đổi mà khách hàng của tôi đã có, và làm cho khách hàng thể hiện rõ chương trình thay đổi của họ là điều quan trọng. Sau khi khách hàng đã xác định rõ các điều khoản cụ thể và “phương pháp làm việc mới” là những gì, ta có thể tiến hành thẩm định văn hóa một cách nhanh chóng (Schein, 2009b).

Điều cốt yếu trong quá trình thẩm định này là kết hợp thành một hay nhiều nhóm đại diện trong tổ chức, mang đến cho họ một mô hình tư duy về văn hóa tổ chức và các văn hóa bộ phận, rồi yêu cầu họ xác định các sản phẩm nhân tạo, các giá trị được đồng thuận, các giả định chung được ngầm hiểu trước một người ngoài tổ chức đang đóng vai trò là người điều phối, “người dẫn chương trình”, người ghi chép biên bản, và khi cần thiết là người đặt câu hỏi và người châm chọc, gây “sốc”. Một thành viên của tổ chức cũng có thể là người điều phối nếu như nhóm đại diện kia không phải là phòng ban của anh ta/cô ta và thành viên đó hiểu được cách thức vận hành của văn hóa. Loại hình thẩm định này được dựa trên một số giả định quan trọng là:

+ Văn hóa là tập hợp các giả định chung được chia sẻ, vì thế việc thu thập dữ liệu từ một nhóm mới được tập hợp sẽ phù hợp hơn và có giá trị hơn so với việc phỏng vấn từng cá nhân đơn lẻ.

+ Chỉ những thành viên mới là những người có thể hiểu được toàn bộ ý nghĩa tùy theo bối cảnh của những giả định văn hóa; do đó tạo nên một phương tiện để họ tìm hiểu văn hóa sẽ quan trọng hơn việc tạo ra phương tiện cho nhà nghiên cứu hay nhà tư vấn.

+ Không phải mọi bộ phận của văn hóa đều liên quan đến một vấn đề cụ thể mà tổ chức đang đối mặt; vì vậy cố gắng tìm hiểu toàn bộ văn hóa sẽ là điều vừa không thực tế vừa không phù hợp.

+ Những thành viên trong tổ chức có thể hiểu được và công khai hóa một số giả định chung, được ngầm hiểu – thứ đã tạo nên văn hóa, nhưng họ cần người bên ngoài tổ chức hỗ trợ quá trình này. Cho nên người hỗ trợ/nhà tư vấn nên làm việc sơ bộ từ một mô hình tư vấn theo quy trình và nên tránh không trở thành một chuyên gia trong nội dung văn hóa của nhóm, càng xa càng tốt (Schein, 1999a, 2009a).

+ Một số giả định văn hóa sẽ được nhận thức là yếu tố hỗ trợ cho tổ chức trong việc đạt được các mục tiêu của sự thay đổi hoặc giải quyết vấn đề hiện tại; trong khi một số giả định khác lại được nhận thức là rào cản hay yếu tố làm hạn chế quá trình này; vì thế điều quan trọng đối với các thành viên trong nhóm là phải có một quy trình cho phép họ sắp xếp được các giả định văn hóa vào một trong hai loại như trên.

+ Các thay đổi trong thực hành của tổ chức để giải quyết vấn đề (điều khởi phát cho việc thẩm định văn hóa) thường là có thể làm được bằng cách xây dựng từ những giả định đã có; nghĩa là quá trình giải mã văn hóa thường cho thấy các thực hành mới không những có thể phát xuất từ chính văn hóa hiện hành, mà còn nên như thế.

+ Nếu nhận thấy có những thay đổi văn hóa cần thiết, những thay đổi này hiếm khi liên quan đến toàn bộ văn hóa; mà thường chỉ là việc thay đổi một hoặc hai giả định. Hiếm khi phải thay đổi mô hình căn bản, mà nếu có cần thay đổi mô hình này thì tổ chức phải đối mặt  với một quá trình thay đổi lớn trong nhiều năm.

Bước 1: Có được sự cam kết lãnh đạo

Việc giải mã các giả định văn hóa và thẩm định mức độ phù hợp của các giả định đó đối với một chương trình thay đổi nào đó của tổ chức cần phải được xem là sự can thiệp đáng kể vào đời sống của tổ chức. Vì vậy việc này chỉ được phép tiến hành khi những người lãnh đạo chính thức của tổ chức đều thấu hiểu đầy đủ và chấp thuận. Điều này có nghĩa là: không những chỉ thăm dò nguyên nhân tại sao những người lãnh đạo muốn thẩm định văn hóa, mà còn phải trình bày đầy đủ về quá trình và những hậu quả có thể có để nhận được sự cam kết tham gia của họ.

Bước 2: Chọn lựa các nhóm để tự thẩm định

Tiếp theo, người điều phối phải làm việc với những nhà lãnh đạo chính thức nhằm xác định cách tốt nhất để chọn lựa ra một số nhóm đại diện cho văn hóa doanh nghiệp. Các tiêu chí để chọn lựa phải dựa trên bản chất của vấn đề đang cần giải quyết. Các nhóm có thể là đồng nhất (các nhân viên trong cùng một phòng ban hay những nhà quản lý ngang cấp với nhau) hoặc khác biệt (với nhiều lát cắt lấy ra từ trong tổ chức), số lượng mỗi nhóm có thể từ 3 đến 30. Nếu người ta tin rằng có một số văn hóa bộ phận đang vận hành, quá trình này có thể được lặp lại với nhiều nhóm khác nhau hoặc các mẫu thành viên khác nhau trong các nhóm khác nhau, để kiểm tra xem liệu có sự khác biệt giữa các văn hóa bộp hận hay không.

Sau đó, thành phần của nhóm đại diện có thể được ấn định thông qua nhận thức của những người lãnh đạo về mức độ tin cậy và cởi mở trong tổ chức, đặc biệt là việc quyết định xem nên có sự hiện diện của một số nhân vật kỳ cựu (những người có thể cản trở công tác thẩm định văn hóa) hay không. Bởi vì bản thân mức độ tin cậy và cởi mở giữa các bộ phận trong tổ chức đã là một đặc trưng văn hóa nên tốt nhất là hãy bắt đầu với một nhóm không đồng nhất và để cho nhóm đó trải nghiệm mức độ giới hạn, tại đó một số hoạt động giao tiếp sẽ bị và không bị người khác cản trở, hạn chế. Cũng bởi vì các mối quan hệ ủy quyền và mức độ thân mật là những khía cạnh chính yếu của văn hóa, bản thân quá trình chọn lựa nhóm đại diện từ những thành viên bên trong cũng đã cho thấy một số yếu tố quan trọng của văn hóa. Nhà tư vấn/người điều phối cần vận dụng sự tương tác của bản thân mình với các thành viên trong tổ chức của khách hàng như dữ liệu chẩn đoán xuyên suốt quá trình hoạch định này.

Sau khi đã chọn được các nhóm đại diện, người lãnh đạo chính thức cần thông báo cho các nhóm đó về mục đích của các cuộc họp liên quan đến việc thẩm định văn hóa, xem lại các nội dung đã trao đổi với người điều phối, và giải thích những cơ sở để chọn lựa những cá nhân vào nhóm đại diện. Việc được mời tham gia hội họp sẽ thẩm định văn hóa là điều mơ hồ đối với nhiều người, nên họ cần biết rõ đâu là những vấn đề liên quan đến sự thay đổi, cần ý thức được rằng người lãnh đạo cũng cam kết với quá trình thẩm định văn hóa. Còn người lãnh đạo cần nhấn mạnh rằng điều cần thiết phải cởi mở và vô tư, rằng văn hóa luôn luôn trung tính chứ không phải là tốt đẹp hoặc xấu xa.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Edgar H. Schein – Văn hóa doanh nghiệp và sự lãnh đạo – NXB TĐ 2012

Thị trường hóa quá mức nhà ở và hậu quả xã hội của nó – Từ vấn đề nhà ở của Engels nhìn tiêu dùng nhà ở của cư dân trung hạ lưu thành thị – Phần II


2/ Giá trị sử dụng bị bỏ qua, giá trị trao đổi nổi lên

Theo Tư bản, “hàng hóa là một thứ hai mặt, tức là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi… Đây là điểm nút để lý giải kinh tế học chính trị…”. “Nói hàng hóa có giá trị sử dụng, không có gì khác là nói nó có thể thỏa mãn nhu cầu xã hội nào đó”. Giá trị trao đổi trước hết thể hiện thành quan hệ về lượng mà các loại giá trị sử dụng có thể trao đổi lẫn nhau, nó “trước hết biểu thị thành quan hệ hoặc tỷ lệ về lượng mà một thứ giá trị sử dụng trao đổi lẫn nhau với một thứ giá trị sử dụng khác”. Ngoài tính cách là tượng trưng cho địa vị thân phận, nhà ở với tính cách là hàng hóa vừa có giá trị sử dụng (use value) thỏa mãn nhu cầu đời sống thực tế, đồng thời còn có giá trị trao đổi (exchange value) để giao dịch trên thị trường. Tiền tệ, vật ngang giá chung, làm cho giá trị trao đổi và giá trị sử dụng của hàng hóa đạt tới thống nhất. Tương ứng với điều đó, nhu cầu về nhà ở có hai loại: “nhu cầu thực sự” (nhu cầu nhà ở đối với nhu cầu giá trị sử dụng nguồn tài nguyên) và “nhu cầu có tính đầu cơ” (đầu tư kiếm tiền), tỷ lệ giữa hai bên là thước đo quan trọng cho thấy loại giá trị nào được xã hội coi trọng hơn. Những thước đo này đồng thời cho chúng ta thấy, tiền tệ và tư bản đã khiến cho giá trị sử dụng và giá trị trao đổi đạt tới “thống nhất” như thế nào trên thị trường nhà ở Trung Quốc.

Chỉ tiêu cụ thể trước hết là tỷ lệ thuê-bán nhà ở (tỷ lệ tiền thuê tháng và giá nhà). Phạm vi tỷ lệ thuê-bán trên thị trường bất động sản tương đối lành mạnh được quốc tế công nhận là khoảng 1:100 đến 1:230, điều tra theo mẫu cho thấy, tỷ lệ thuê-bán nhà ở tại đa số khu phố ở Bắc Kinh và Thượng Hải đã vượt 1:350, vượt xa tuyến cảnh báo quốc tế 1:300.

Thứ hai là tỷ lệ mua nhà có tính đầu tư và tỷ suất nhà để không. Theo Nghiên cứu về nhà ở hàng hóa để không toàn Trung Quốc do Viện Nghiên cứu Bất động sản Dị Cư Thượng Hải công bố tháng 4 năm 2009, tỷ lệ nhà hàng hóa để không ở Trung Quốc năm 2008 là 9,503%, xét theo tiêu chuẩn quốc tế thì thuộc mức đặc biệt cao, tỷ lệ nhà để không tại các thành phố trung tâm như Bắc Kinh, Thượng Hải lúc bấy giờ so với mức bình quân toàn quốc cao lần lượt là 75% và 50%. Năm 2009 sau khi bất động sản phục hồi, tỷ lệ này tiếp tục tăng, hiện nay rất có thể đã đột phá 10%, mức cảnh báo quốc tế. Tỷ lệ nhà để không của Bắc Kinh, Thượng Hải có thể đã tiếp cận mức nguy hiểm là 20%. Nghiên cứu về nhà ở hàng hóa để không toàn Trung Quốc cho thấy, tỷ lệ nhà ở hàng hóa để không của một số thành phố tuyền một Trung Quốc hiện nay quá cao, trong đó tỷ lệ để không của Bắc Kinh đạt 16,64%. Còn ở Mỹ trước khủng hoảng cho vay thứ cấp, tỷ lệ để không chỉ là 3%. Những dữ liệu này đều thể hiện, sau khi hai loại nhu cầu bị tiền tệ hóa, tỷ lệ mua nhà để tự dùng giảm xuống, tỷ lệ mua nhà đầu tư tăng lên, tỷ lệ nhà để không có xu thế tăng lên. Tình hình nhà để không ở Bắc Kinh, Thượng Hải đạt tới mức nguy hiểm. Những người được lợi từ tiền tệ hóa nhà ở thì chủ yếu là các tập đoàn lợi ích bất động sản như các nhà khai thác bất động sản, những người đầu cơ nhà ở, các tổ chức môi giới.

3/ Chính quyền địa phương coi khai thác bất động sản là ngành trụ cột, từ trong đó đạt được thu nhập thuế và phí quá cao

Trong thể chế hiện hành, không có sự can thiệp của chính phủ, nhất là chính quyền địa phương, các tập đoàn lợi ích bất động sản khó mà hình thành, dây chuyền lợi ích sẽ bị gián đoạn. Chen đã hồi cố một cách hệ thống lịch trình cải cách kinh tế và cải cách nhà ở thời kỳ đầu, cho rằng việc khai thác nhà ở đã chuyển từ thể chế tái phân phối tập trung tới phân quyền tài chính. Cải cách chế độ thuế bắt đầu từ năm 1994 đã quy một bộ phận rất lớn thu nhập về trung ương, khiến thu nhập thuế của chính quyền địa phương không đủ, chỉ có thể dựa vào bán đất để giải quyết vấn đề tài chính, từ đó hình thành cộng đồng lợi ích với các nhà kinh doanh bất động sản, đẩy giá nhà lên cao. Ngành bất động sản và ngành thông tin, ngành tài chính tiền tệ, ngành thương mại phân phối, ngành chế tạo xe hơi, ngành chế tạo thiết bị đồng bộ đã cấu thành “6 ngành trụ cột lớn” của Thượng Hải, tỷ lệ giá trị gia tăng 3 năm 2000, 2006, 2007 lần lượt chiếm 5,5% 6,6% và 6,6% trong giá trị tổng sản lượng của thành phố Thượng Hải. Theo dữ liệu bài viết “Bất động sản cột chặt Trung Quốc” của Kiếm Viên (Jian Yuan) cung cấp, trong thời gian từ năm 2001 đến 2003, thu nhập của chính quyền địa phương từ chuyển nhượng đất là 910 tỷ NDT. Mà năm 1998 chỉ là 6,7 tỷ NDT, tổng mức quốc trái phát hành từ năm 2001 đến 2003 chỉ là 930 tỷ NDT. Diệp Đàn (Ye Tan) trong “Chiến tranh bất động sản ở Trung Quốc” thì chỉ rõ lợi ích của người chiến thắng: Trong toàn bộ quá trình xây dựng, giao dịch bất động sản, thu nhập thuế, phí của chính phủ chiếm tới 30 – 40% giá bất động sản. Nếu cộng thêm chi phí đất đai chiếm 20 – 40% giá bất động sản thì thu nhập của chính quyền địa phương về bất động sản sẽ chiếm tới 50 – 80% toàn bộ giá bất động sản. Trong khi đó tại các nước Âu, Mỹ, giá đất, thuế, phí gộp lại chỉ chiếm đến trên dưới 20% giá nhà ở.

II/ Hậu quả xã hội của việc hàng hóa hóa, thị trường hóa, tiền tệ hóa quá mức nhà ở

30 năm nay, cải cách nhà ở tại thành thị đi từ phân khúc nhà phúc lợi tới hàng hóa hóa, nói chuẩn xác là “tái hàng hóa hóa”, và cùng với sự phát triển cao độ của thành thị Trung Quốc, đã xuất hiện tình trạng giá nhà tăng vọt. Bất luận là đế quốc Đại Thanh hay là chính phủ Bắc Dương, chính phủ Quốc dân Đảng đều chưa gặp tình hình như vậy. Hàng hóa hóa, thị trường hóa, tiền tệ hóa quá mức nhà ở là căn nguyên cốt lõi của vấn đề này, hậu quả xã hội mà nó tạo ra cực kỳ tệ hại.

1/ Các sự kiện bạo lực đổ máu do tranh chấp bất động sản, đặc biệt là do phá nhà cũ tái định cư liên tục xảy ra

Ngoài các vụ án tranh chấp nhà ở tăng vọt, các vụ xung đột bất động sản chiếm quá nửa số vụ kiện tụng. Sự phản kháng của Đường Phúc Trân (Tang Fuzhen) được phía quan phương nhận định là “chống lại pháp luật bằng bạo lực” và tự thiêu, các vụ bạo lực thậm chí đổ máu tương tự do cưỡng chế tái định cư liên tục phát sinh, cho thấy, do nóng lòng mong muốn thu lợi lớn, các nhà khai thác không tiếc hy sinh thậm chí cố ý làm tổn hại nhân thân và an toàn sinh mệnh của dân chúng. Nói lên rằng một số “hộ đinh” nào đó không tiếc trả giá bằng sự sống của mình để bảo vệ nhu cầu an cư cơ bản, ở đây giá trị sử dụng được coi quá cao, hoặc để thu được bồi thường nhiều hơn, ở đây thì giá trị trao đổi lại bị đẩy lên vô hạn, và bị ác quỷ kim tiền làm hại giống như là nhà khai thác. Không thể đánh giá thấp hậu quả xã hội thậm chí ảnh hưởng chính trị do những vụ xung đột này đã gây ra. Đúng như Mao Vu Thức (Mao Yushi) đã nói, loại xung đột này đã vượt ra ngoài phạm vi kinh tế thuần túy, trở thành vấn đề chính trị. Nó làm suy yếu rất lớn quyền uy của chính phủ, quan hệ cán bộ-dân chúng gần như biến thành quan hệ đối địch.

2/ Quần thể nghèo khổ ở thành thi, di dân nông thôn ra thành thị, sinh viên mới tốt nghiệp trở thành vật hi sinh cho ván bài bất động sản, khoảng cách xã hội giữa các tầng lớp và quần thể khác nhau mở rộng rõ rệt

Thời kỳ đầu cải cách mở cửa, thông qua các phương tiện truyền thông như điện ảnh, truyền hình, cư dân ý thức được rằng “có nhà có xe” là một trong các tiêu chí của của các nước giàu có ở phương Tây. Nhà ở và xe hơi riêng đã đi vào lý tưởng sống của tầng lớp trung lưu, trở thành dấu hiệu thân phận và tượng trưng địa vị không thể thiếu trong lối sống của tầng lớp này. Nhưng đối với rất nhiều người, lý tưởng hạnh phúc có nhà có xe hoàn toàn không dễ thực hiện, kể cả những người tự cho rằng mình thuộc tầng lớp trung lưu hoặc có thu nhập trung bình.

Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch xã hội chủ nghĩa, việc cung cấp nhà ở tại thành thị Trung Quốc chủ yếu do các ngành thực hiện, cùng với sự ổn định trong công việc, nhà ở trở thành một khâu quan trọng nhất trong chế độ phúc lợi, những người được lợi từ cải cách nhà ở chủ yếu là những cán bộ có tư cách và kinh lịch tương đối. Tính tương quan giữa thu nhập và tình trạng nhà ở là rõ ràng, thu nhập thấp, nhà ở kém trở thành chỉ tiêu quan trọng nhất của sự nghèo khó ở thành thị Trung Quốc. Theo ý nghĩa này, cải cách đã tăng cường sự bất bình đẳng vốn đã tồn tại trong phân phối nhà ở. Thông qua việc phân tích các hộ cư trú ở thành thị trong dữ liệu tổng điều tra dân số lần thứ năm ờ Trung Quốc, Biên Yên Kiệt (Bian Yanjie) đã phát hiện, các hộ cư trú mà chủ hộ có địa vị nghề nghiệp cao thì về các mặt tỷ suất sở hữu tài sản, tỷ lệ mua, thuê, năng lực mua nhà (đặc biệt là mua nhà hàng hóa mới xây dựng) đều thể hiện ưu thế rõ rệt. Mặt khác, từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX trở đi, diện tích và chất lượng nhà ở tăng lên rất lớn, diện tích nhà ở của các gia đình thuộc giới elite quản lý và elite chuyên môn thường rất lớn, chất lượng rất tốt. Những phát hiện này nói lên rằng, đằng sau cải cách kinh tế thành công, cơ chế phân tầng xã hội vừa thể hiện sự vượt lên về chế độ vừa duy trì sự tiếp nối về chế độ. Nếu nói rằng một số cực ít tầng lớp quyền quý có biệt thự, tầng lớp xã hội giữa và trên cư trú trong các chung cư cao cấp, đa số dân số có hộ tịch tại các thành phố lớn mua chung cư thông thường khó khăn thì di dân nông thôn ra thành thị cực kỳ thiếu nhà ở, điều kiện cư trú rất tồi tệ. Đối với một xã hội nhà quê truyền thống như Trung Quốc, xu thế thành thị hóa nhanh chóng trên quy mô lớn đang diễn ra hiện nay là không thể đảo ngược, dân thường Trung Quốc được gọi là “công nhân nông dân”, nói chính xác hơn là di dân nông thôn ra thành thị (rural-urbanmigrants), trong làn sóng công nghiệp hóa, tuyệt đại đa số trong số họ không thể không, chủ động hoặc bị động, thông qua các phương thức như làm công…, đi vào thành phố làm việc và sinh sống. Về mặt chế độ họ từng bị gạt ra ngoài việc mua nhà ở thành phố, tuyệt đại đa số họ không mua nổi nhà, một số cực ít dù có mua được thì còn phải đối mặt với những rào chắn về mặt chế độ như việc đi học của con cái, việc làm, an sinh xã hội… Môi trường cư trú nhà ở ngày càng được người hiện đại coi trọng, người ta ngày càng nhận thức được rằng, “nhà ở” không chỉ bao gồm kết cấu che phủ về vật lý, mà có tương quan mật thiết với môi trường cư trú rộng lớn hơn. Đúng như Pynoos đã nói, nhà ở không chỉ là chỗ cư chú để che chắn gió mưa mà còn bao gồm môi trường cư trú rộng lớn hơn, như sức khỏe, an toàn, bí mật riêng tư, quan hệ xã hội láng giềng, địa vị, công trình và dịch vụ công cộng, cơ hội làm việc… Những di dân nông thôn ra thành thị ở Trung Quốc không để ý, cũng không có điều kiện để ý đến môi trường láng giềng của nhà ở, trang thiết bị nhà ở kém, chỉ có 4% có thiết bị tắm rửa tự dùng, chỉ có 8% có nhà vệ sinh riêng, không ít gia đình dùng chung bếp và đường nước với các hộ cư trú khác. Tại các nơi như Bắc Kinh, Thượng Hải, Ninh Ba, Tế Nam…, tác giả quan sát thấy, những người làm công này thường tụ cư tại các nhà một tầng sơ sài hoặc các chung cư chất lượng kém, một số nhà ở còn tiềm ẩn nguy cơ về an toàn; hơn nữa họ ở tách rời cư dân sở tại, về các mặt vị trí nhà ở, chất lượng nhà ở, trang thiết bị bên trong, môi trường xung quanh đều ở vào trạng thái bị cách ly, ngoài các việc như trả tiền thuê nhà… giữa hai bên gần như không có giao tiếp thực chất, đặc trưng bài xích xã hội thể hiện rõ.

(còn tiếp)

Người dịch: Viễn Phố

Nguồn: TN 2014 – 74, 75 76

Thị trường hóa quá mức nhà ở và hậu quả xã hội của nó – Từ vấn đề nhà ở của Engels nhìn tiêu dùng nhà ở của cư dân trung hạ lưu thành thị – Phần I


Zhang Dunfu

Tóm tắt

Tiêu dùng nhà ở thuộc về lĩnh vực đời sống cơ bản của cư dân, nhưng lại được coi là ngành trụ cột của tăng trưởng kinh tế; dân chúng coi trọng giá trị sử dụng, còn các nhà kinh doanh, đầu cơ khai thác bất động sản, chính quyền địa phương… lại coi trọng giá trị trao đổi, các hàng tiêu dùng cơ bản để an cư lạc nghiệp bị tiền tệ hóa, tư bản hóa quá mức; giá nhà vọt lên một cách bất hợp lý đã làm tổn hại đến quan hệ liên cá nhân, quan niệm đạo đức, hệ thống giá trị lành mạnh hài hòa và tình cảm xã hội quan trọng, hậu quả xã hội rất đáng lo ngại. So với vấn đề nhà ở mà Engels trình bày, vấn đề nhà ở của Trung Quốc hiện nay vừa có chỗ riêng (thời kỳ chuyển hóa xã hội, phương án giải quyết, sự can thiệp của chính phủ…), vừa có chỗ chung (công nghiệp hóa, khác biệt giữa thành thị và nông thôn, di dân nông thôn ra thành phố, ý chí của tư bản, thị trường hóa). Nhà nước và chính phủ có trách nhiệm làm cho quốc dân an cư lạc nghiệp. Con đường căn bản để giải quyết vấn đề nhà ở là ở chỗ đối xử với nó như vấn đề xã hội chứ không phải là vấn đề kinh tế thuần túy, ứng phó bằng chính sách xã hội chứ không phải bằng chính sách kinh tế, xây dựng xã hội người tiêu dùng trong đó các tầng lớp, các quần thể cùng chia sẻ lợi ích.

Nhà ở đi vào lĩnh vực nghiên cứu xã hội học đã gần 70 năm. Ngay từ năm 1978 trước khi Hội Xã hội học Nhà ở Quốc tế thành lập, các nhà xã hội học đã có những nghiên cứu chuyên đề về nhà ở. Một quan điểm quan trọng của trường phái Weber trong nghiên cứu thành thị là giai cấp nhà ở (housing class). Giữa năm 1940 – 1960, trường phái Chicago đã có nghiên cứu hệ thống về phân khu nhà ở thành thị. Rex phát hiện, phần lớn cư dân thành thị có định hướng giá trị chung về nguồn nhà ở, tức là mong muốn vào ở khu nhà cao sang sạch sẽ, cách xa phiền não hoặc khu ngoại ô có điều kiện ưu việt; cạnh tranh về nguồn lực thành thị đã hình thành nên các giai cấp khác nhau. Saunders đi sâu thêm một bước khi thảo luận về giai cấp nhà ở, cho rằng trong xã hội hiện đại, quan sát tình hình nhà ở của một người quan trọng hơn là lưu ý đến công việc của người ấy, có thể căn cứ vào tình trạng nhà ở của người ta để phân thành các giai cấp khác nhau. Nhà xã hội học M. Halbwachs khi nghiên cứu về lưu động dân số và thị trường bất động sản Paris phát hiện, sự phát triển của ngành bất động sản rốt cuộc không quyết định bởi sự lựa chọn của nhà đầu tư, thậm chí cũng không phụ thuộc vào quy hoạch thành thị. Xuất phát từ động lực căn bản là theo đuổi lợi nhuận, nhà đầu cơ ra sức nắm bắt “trạng thái nhu cầu đại chúng”, từ đột phá hạn chế đất đai thành thị, vi phạm sự bố trí quy hoạch thành thị.

Điều liên quan đến các tư liệu trên đây nhưng khác biệt rõ rệt là, bài viết này quan tâm đến vấn đề nhà ở trong xã hội Trung Quốc từ khi thực hiện cải cách thị trường hóa và hàng hóa nhà ở trở lại đây, tức là các vấn đề xã hội do tình trạng thiếu nhà ở nghiêm trọng hoặc giá nhà ở cao vọt tạo ra. Về vấn đề nhà ở mà Engels công bố năm 1872 đã từng bàn một cách chính xác về nạn thiếu nhà ở như là vấn đề xã hội, sự luận bàn này chưa được coi trọng, đánh giá và vận dụng một cách đầy đủ với tính cách một tài liệu nghiên cứu  về xã hội học nhà ở, thậm chí bị bỏ qua và quên lãng do “niên đại đã xa”, “không hợp mốt”. Nhưng các hiện tượng khiến người ta rất quan tâm liên quan đến nhà ở diễn ra 10 năm gần đây ở cái công xưởng của thế giới là Trung Quốc này, như giá nhà cao vọt, tầng lớp thu nhập vừa và thấp ở thành thị khó mua và thuê nhà ở, các doanh nhân khai thác bất động sản, các tập đoàn đầu cơ nhà ở, các tổ chức môi giới, chính quyền địa phương phát tài mạnh nhờ bất động sản…, thì có rất nhiều chỗ giống với tình hình từng diễn ra tại Đức và Anh mà Engels đã quan sát. Vấn đề nhà ở thể hiện tính chất chung cảu vấn đề xã hội, thông qua phân tích vấn đề nhà ở, các nhà nghiên cứu quan tâm đến đời sống xã hội có thể học được rất nhiều điều trên các mặt vai trò của quy phạm, tính phức tạp của các nhân tố và phương pháp phân tích chung các vấn đề xã hội. Còn đối với thế giới xã hội chủ nghĩa nhà nước, vấn đề nhà ở là vấn đề quan trọng nhất, bức thiết nhất. Vì vậy, nhìn nhận lại từ giác độ xã hội học vấn đề nhà ở phát sinh trong sự chuyển hóa xã hội của Trung Quốc không chỉ có lợi cho việc làm rõ nguyên nhân của tình trạng căng thẳng cực độ về nhà ở của tầng lớp hoặc quần thể có thu nhập vừa và thấp, góp phần tìm ra phương pháp và sách lược giải quyết những vấn đề này, cung cấp kiến nghị chính sách xác đáng để khắc phục tình trạng này, giúp mọi người hiểu rõ tính chất chung và cơ chế tác động của nhiều vấn đề xã hội tương tự hiện nay, cung cấp cho nghiên cứu học thuật về xã hội học nhà ở những kinh nghiệm không giống với các xã hội khác.

I/ Các cấp độ chủ yếu của vấn đề nhà ở hiện nay

Cải cách nhà ở khiến cho đại đa số cư dân thành thị Trung Quốc có nhà ở của mình, trở thành “chủ sở hữu hoặc người tiêu dùng công dân”. Năm 2000, 72% hộ cư dân thành thị có quyền sở hữu nhà ở, so với 24% của năm 1990 tăng 48%. Nhưng gần 10 năm lại đây, sự biến đổi của lĩnh vực tiêu dùng nhà ở đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quốc kế dân sinh, nguồn gốc của tai họa là thị trường hóa quá mức nhà ở, tức là nhà ở (chứ không phải đất đai) ngày càng trở thành thứ hàng hóa mà người ta bàn luận nhiều nhất, quan tâm nhất, muốn mua nhất mà lại sợ mất nhất, mức giao dịch cao nhất, lượng giao dịch lớn nhất, sức ảnh hưởng và sức cuốn hút áp đảo các hàng hóa khác. Trước vấn đề trọng đại mà cả nước quan tâm này, rất nhiều tài liệu đã từ kinh tế học thảo luận về nguyên nhân, cơ chế làm nảy sinh và cách thức giải quyết vấn đề này, những thảo luận này tuyệt đại đa số từ giác độ kinh tế học khảo sát các nhân tố quan hệ cung cầu, giá cả, kết cấu ngành, lợi ích kinh tế, hành vi của chính phủ, tình hình mua nhà của dân chúng, còn ảnh hưởng xã hội, hậu quả xã hội (social consequences) của việc hàng hóa hóa, thị trường hóa nhà ở và giá nhà tăng vọt thì lại bị bỏ qua. Còn thảo luận và nghiên cứu của xã hội học về vấn đề này cũng còn xa mới đạt tới mức khiến người ta thỏa mãn. Dựa trên tư liệu kinh nghiệm nghiên cứu, số liệu thống kê tương quan và quan sát của tác giả về tiêu dùng nhà ở của cư dân Thượng Hải 6 năm gần đây, tác giả nhận thấy, cấp độ chủ yếu tạo ra vấn đề xã hội trọng đại này bao gồm mấy điểm sau:

1/ Giá nhà tăng vọt, vượt qua năng lực mua của dân chúng bình thường

Đánh giá giá nhà cao thấp không chỉ cần nhìn tình hình gia tăng và tỷ suất gia tăng thực tế của giá nhà, mà càng cần nhìn mức thu nhập của cư dân và sự biến động của nó. Số liệu mà Chính sách bất động sản của Trung Quốc và triển vọng thị trường (số 09-18) của Mã Tư Huy (Ma Zihui)… cung cấp cho thấy: diện tích tiêu thụ và mức tiêu thụ bất động sản hàng hóa ở Trung Quốc năm 1998 – 2007 bình quân mỗi năm tăng 24,3%, mức tiêu thụ bình quân mỗi năm tăng 33,2%. Năm 2008 do khủng hoảng tiền tệ quốc tế, thị trường bất động sản Trung Quốc hơi sụt giảm. Sau năm 2008 do khủng hoảng tiền tệ quốc tế, thị trường bất động sản Trung Quốc hơi sụt giảm. Sau năm 2009, thị trường bất động sản bắt đầu hồi phục nhanh, số lượng và giá cả đều tăng. Một bộ phận nhà ở thương mại tại Bắc Kinh… đã hồi phục đến trên 30%, thậm chí đã tạo ra cao trào mới về giá nhà. Lấy một số thành phố tuyến một tháng 11 năm 2009 làm thí dụ, tốc độ tăng giá nhà ở Bắc Kinh đạt 68%, Thâm Quyến đạt tới 73%, Hạ Môn vượt 50%; điều tra theo mẫu cho thấy, tỷ lệ thu nhập giá nhà ở các thành phố trung tâm bình quân cao tới 23:1, vượt xa trên mức dưới 7:1 bình quân thế giới.

Năm 2008 mức lương bình quân công nhân viên chức thành phố Thượng Hải là 39.502 NDT, mà giá nhà cuối năm 2009 mỗi mét vuông là 14.459,53 NDT, tức là thu nhập bình quân một năm chỉ có thể mua 2,7 m2, vì vậy muốn mua một căn phòng 80 m2 sẽ phải chi trọn toàn bộ tiền lương 30 năm. Tuyệt đại bộ phận thời gian làm việc trong cả đời cư dân, tuyệt đại bộ phận toàn bộ thu nhập sẽ dùng vào tiêu dùng nhà ở. Dưới sức ép to lớn của giá nhà ngày càng tăng cao mà vẫn không nhìn thấy “điểm ngoặt”, dự đoán của người ta về tiêu dùng nhà ở thường thường là “bây giờ không mua thì sau này không thể nào mua được nữa”. Lựa chọn bất đắc dĩ là giải quyết nhanh nhất vấn đề nhà ở của rất nhiều gia đình đã đè nén các mặt tiêu dùng khác, sự bóp méo kết cấu tiêu dùng tất nhiên có ảnh hưởng không tốt tới kết cấu của toàn bộ nền kinh tế và sự phát triển lành mạnh của nó. Một số cửa hiệu, nhà máy thuộc một số ngành đóng cửa ăn mừng, các ông chủ may mắn sớm đem tiền đầu tư vào thị trường nhà ở chẳng cần nhọc lòng kinh doanh mà vẫn thu được những khoản tiền lớn.

(còn tiếp)

Người dịch: Viễn Phố

Nguồn: TN 2014 – 74, 75 76

COP27: Chi phí cần để Nam Phi ngừng sử dụng than – Phần cuối


Không phải tất cả mọi người trong cộng đồng địa phương đều tin rằng việc làm sẽ thành hiện thực. Thomas Mnguni, một nhà hoạt động cộng đồng ở Mpumalanga, than phiền: “Chúng tôi không có thông tin trong phạm vi cộng đồng. Chúng ta không thể có một quá trình chuyển đổi đơn thuần mà không có lao động trên tàu”.

Cũng như sự hoài nghi của cộng đồng, có một mối đe dọa khác: sự cản trở từ chính Eskom. Vào thời điểm Komati đóng cửa trong tuần này, cả năng lượng mặt trời và năng lượng gió đều không được lắp đặt. Rambharos cho biết, người giám sát việc định vị lại đã bị đình chỉ.

Đằng sau hậu trường có thể đang diễn ra một cái gì đó “mờ ám” hơn. Eskom là một trong những mục tiêu chính của cái gọi là “chiếm giữ nhà nước”, việc kiểm soát có hệ thống các tổ chức trong gần một thập kỷ cựu Tổng thống Jacob Zuma nắm quyền cho đến năm 2018. Kết quả là Eskom đã tăng số lượng hợp đồng cung cấp than cho các mỏ nhỏ, mở rộng phạm vi cho các giao dịch gian dối và hoạt động tội phạm.

Ông De Ruyter, Giám đốc điều hành được bổ nhiệm vào năm 2020 để giải quyết mớ hỗn độn, mô tả cách thức hoạt động của một trò lừa đảo. Than cho các nhà máy điện được chất lên xe tải được theo dõi bằng GPS. Nhưng trong suốt hành trình từ mỏ đến trạm điện, hệ thống theo dõi bị kẹt, và xe tải bị chuyển hướng hoặc bị cướp. Than tốt được bán ra ngoài, nơi mà kể từ sau chiến tranh Ukraine, nó có giá cao gấp ba lần. Các xe tải được chất lại bằng than bỏ đi, chủ yếu là đá, từ các mỏ không sử dụng và trọng lượng được tạo thành từ nước và phế liệu. Khi mảnh vụn này được đưa vào các trạm phát điện, nó sẽ dẫn đến phá hủy các hệ thống.

“Khi tôi được bổ nhiệm, một điều tra viên đến gặp tôi và nói: Xin chúc mừng, thật tuyệt khi trở thành người đứng đầu tổ chức tội phạm có tổ chức lớn nhất Nam Phi”. Ông De Ruyter nhớ lại: “Lúc đó tôi cảm thấy khá bị xúc phạm, nhưng khi nhìn lại, tôi nghĩ anh ấy có thể có lý”.

Tương lai của năng lượng tái tạo

Giả sử Eskom có thể xóa sạch hoạt động của mình, thì vẫn có những vấn đề khác cần giải quyết. Một là khuyến khích các công ty điện tư nhân tạo ra năng lượng tái tạo. Vào tháng 7, đối mặt với tình trạng cắt điện ngày càng trầm trọng, Tổng thống Ramaphosa đã tăng gấp đôi số tiền mua năng lượng tái tạo trong năm lên 5GW.

Ông cũng loại bỏ các giới hạn mà cho đến năm ngoái – hầu như không thể giải thích được, do tình trạng thiếu điện triền miên – đã hạn chế số lượng điện mà các nhà khai thác tư nhân có thể sản xuất. Các nhà phê bình đổ lỗi cho các hạn chế do chính phủ nghi ngờ khu vực tư nhân và ảnh hưởng từ việc “vận động” hành lang than mạnh mẽ. De Ruyter có một cách giải thích đơn giản hơn. Ông nói: “Rất khó để đánh cắp nắng và gió”.

Vấn đề tiếp theo là nguồn điện tái tạo nên được sản xuất ở đâu. Northern Cape, nơi mặt trời chiếu sáng nhất, cách xa Mpumalanga và đường truyền kém. Câu chuyện về điện gió cũng giống như vậy, sẽ tốn hàng tỷ USD để xây dựng các đường dây truyền tải điện mới để đưa điện đến các trung tâm đô thị lớn. Eskom đang khuyến khích các nhà khai thác năng lượng mặt trời và năng lượng gió thành lập ở Mpumalanga bằng cách bán đấu giá đất trống. Vòng đầu tiên đã được đăng ký vượt gấp ba lần và dẫn đến các hợp đồng cho 2GW điện.

Nam Phi hy vọng đến năm 2035 sẽ chuyển sang hỗn hợp năng lượng chủ yếu là năng lượng tái tạo nhưng có một phần sử dụng than, khí đốt và hạt nhân để đáp ứng nhu cầu cao điểm. Gav Hurford, Giám đốc kiểm soát quốc gia của Eskom, cho biết theo thời gian, hỗn hợp sẽ thay đổi nhiều hơn nữa. Được biết đến với biệt danh “Vua bóng tối”, vì vai trò của ông trong việc lên lịch cắt điện, ông Hurford cho biết, công nghệ lưu trữ – về cơ bản là pin tự nhiên khổng lồ – có thể giải quyết các vấn đề liên quan đến khả năng gián đoạn của năng lượng tái tạo.

Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp Ebrahim Patel nói rằng, để quá trình chuyển đổi hoàn tất, Nam Phi phải xây dựng một ngành công nghiệp xe điện – nếu không sẽ có nguy cơ bị đóng cửa khỏi các thị trường châu Âu. Ông cũng muốn xuất khẩu hydro xanh bằng cách biến ánh nắng mặt trời thành chất lỏng, một lĩnh vực mà Nam Phi có công nghệ độc quyền. Tuy nhiên, một số người đặt câu hỏi về sự khôn ngoan, hoặc thậm chí tính khả thi của việc xuất khẩu hydro từ Nam Phi đang thiếu năng lượng sang các thị trường xa xôi ở châu Âu.

Nhưng ông Patel không nản lòng. Ông nói, ban đầu, các quốc gia giàu có sẽ cần mua hydro xanh của Nam Phi ngay cả với giá không cạnh tranh như một phần của nỗ lực quốc tế để giúp kiểm soát quá trình chuyển đổi xanh của nước này.

Quan điểm của ông về việc hydro xanh sẽ được trợ cấp như thế nào, ít nhất là ban đầu, đi vào trọng tâm của mâu thuẫn giữa Pretoria và các bên cho vay của JETP. Một số người trong số này nói rằng, Nam Phi hoặc là cốt để giành quyền lực hoặc có những kỳ vọng không thực tế về những gì các nước giàu sẽ phải trả. Một người quen thuộc với vị trí của người cho vay cho biết: “Đổ lỗi cho chúng tôi có thể là nơi vui vẻ của họ, nhưng nó sẽ không giải quyết được vấn đề”.

Đối với Nam Phi, ngược lại, 8,5 tỷ USD được đề nghị là một khoản trả nhỏ cho một nghĩa vụ đạo đức lớn hơn nhiều. Phát biểu không chỉ đối với đất nước của mình, mà đối với các quốc gia đang phát triển nói chung, Bộ trưởng Patel nói: “Nếu chúng ta phải tự gánh vác chuyển đổi nền kinh tế, thì về cơ bản gánh nặng này sẽ không thể chi trả được”.

Nguồn: TLTKĐB – 21/11/2022

COP27: Chi phí cần để Nam Phi ngừng sử dụng than – Phần II


Ngoài ra, Nam Phi có thể sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ bổ sung. Châu Âu sẽ bắt đầu đánh thuế cái gọi là thuế carbon biên giới từ năm 2035, khi đó gần một nửa lượng khoáng sản và sản phẩm xuất khẩu của Nam Phi sẽ gặp rủi ro.

Với những nguy cơ này, năm ngoái, Nam Phi đã trình bày với Liên hợp quốc mục tiêu cải thiện về phát thải, cam kết cắt giảm tổng lượng khí nhà kính từ 550 triệu tấn xuống còn 420 triệu tấn đến 350 triệu tấn vào năm 2030. Phần trên của phạm vi đó tương thích với việc hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu đến 2oC, phần dưới cũng gần như phù hợp với 1,5oC. Bộ trưởng Môi trường Creecy nói: Để đạt được mức thấp nhất của phạm vi, chúng tôi cần sự giúp đỡ của cả thế giới”.

Phản hồi quốc tế là đề xuất JETP với trị giá 8,5 tỷ USD. Bà Mafalda Duarte, người đứng đầu Quỹ Đầu tư Khí hậu, một quỹ đa phương có trụ sở tại Mỹ, cho biết: “Chúng tôi tin rằng điều này sẽ đẩy nhanh quá trình ngừng hoạt động của than. Vào tháng 10, Quỹ CIF đã đồng ý khoản vay 500 triệu USD cho quá trình chuyển đổi năng lượng của Nam Phi, cũng như 500 triệu USD cho Indonesia”.

Tuy nhiên, kể từ khi thỏa thuận với Nam Phi được công bố, đôi khi, mỗi bên đều tuyên bố một cách riên ttư rằng bên kia đang hành động thiếu thiện chí.

Crispian Olver, giám đốc điều hành Ủy ban khí hậu thuộc Văn phòng Tổng thống Nam Phi nói: “Đây là 1 khoản rất nhỏ, khi đề cập đến thực tế rằng phần lớn 8,5 tỷ USD là tài chính ưu đãi và bảo lãnh cho vay, không phải viện trợ không hoàn lại”. Ông nói: “8,5 tỷ USD, ngay cả khi tất cả là khoản trợ cấp, sẽ không giải quyết được khoản nợ này”, ông cho rằng phía bắc toàn cầu, vốn xây dựng sự giàu có bằng nhiên liệu hóa thạch, phải trả giá cho quá trình chuyển đổi ở phía nam toàn cầu.

Nam Phi đã tỏ ra không hài lòng rằng tân Thủ tướng Anh Rishi Sunak, Chủ tịch nhóm JETP, ban đầu đã tuyên bố rằng ông sẽ không tham dự Hội nghị COP năm nay ở Sharm el-Sheikh, trước khi thay đổi quyết định vào trưa 2/11.

Các nhà cho vay phương Tây cho biết, ngay từ đầu đã nói rõ rằng tiền tài trợ sẽ bị hạn chế. Bà Duarte nói rằng, do thời gian ân hạn dài và lãi suất rất thấp, nên có đến một nửa các khoản vay CIF thực sự là một khoản tài trợ. Bà nói: “Điều này tiết kiệm chi phí hơn nhiều so với việc Nam Phi đi vay trên thị trường”.

Tuy nhiên, sự nghi ngờ vẫn còn, “Châu Âu đang vận hành hết công suất gas”, ông Tiro Tamenti, Tổng giám đốc của New Vaal Colliery, một mỏ lộ thiên khổng lồ, giống như hầu hết ngành công nghiệp than của Nam Phi, phần lớn là người da đen sở hữu, cho biết, “đang đưa ra những viên thuốc mà bạn không muốn nuốt phải không?”

Ở Nam Phi, các công nhân khai thác mỏ, lái xe tải, các công ty than và các tổ chức giống như mafia đã thâm nhập vào các bộ phận của ngành công nghiệp, phản đối sự chuyển đổi nhanh chóng sang năng lượng tái tạo.

Ông Gwede Mantashe, Bộ trưởng Năng lượng và là một cựu công nhân khai thác than, đã tự mô tả mình là một “người theo chủ nghĩa sử dụng than”, mặc dù ông thừa nhận nhu cầu chuyển đổi của Nam Phi.

Ngay cả những người ủng hộ việc áp dụng năng lượng tái tạo nhanh hơn, bao gồm cả Bộ trưởng Gordhan, khẳng định quá trình phải được xử lý cẩn thận. Ông nói: “Đây là một quá trình chuyển đổi “vừa phải”, nơi vừa có nghĩa là người lao động, vừa có nghĩa là cộng đồng, vừa có nghĩa là thợ mỏ”.

Các tổ chức cho vay quốc tế ủng hộ khái niệm “công bằng”. Tuy nhiên, một số người đặt câu hỏi về khả năng của Pretoria trong việc tiếp nhận các lợi ích được giao trong ngành than và đưa ra một kế hoạch nhạy cảm về mặt chính trị cho Quốc hội Nam Phi, vốn có mối liên hệ chặt chẽ với các công đoàn khai thác. Một quan chức phương Tây tham gia đàm phán tài chính cho biết: “Đối với Nam Phi, đó luôn là một vấn đề chính trị”.

Công việc rủi ro

Mpumalanga được coi là tỉnh than đá, nằm ở phía Đông Nam Phi với nhiều mỏ than và nhiều nhà máy nhiệt điện than, có khói mù mịt hơn phần còn lại của Nam Phi cộng lại. Tỉnh Mpumalanga nghèo hơn và có mức độ thất nghiệp cao hơn, thậm chí so với mức trung bình của cả nước là 34%, dựa vào than để tạo ra 100.000 việc làm trực tiếp, cộng với hàng nghìn việc làm khác trong các ngành công nghiệp phụ trợ.

Komati, một trong những nhà máy điện lâu đời nhất của tỉnh Mpumalanga đã được đưa vào hoạt động vào năm 1961, vào thời kỳ đỉnh cao cách đây một thập kỷ, nó đã tạo ra gần 1GW điện. Kể từ đó, 9 tổ máy của nhà máy đã dần ngừng hoạt động, và gần đây chỉ có một tổ máy còn hoạt động phát điện, nhưng ổn định. Vào ngày 01/11, đúng 12 giờ 41, tổ máy cuối cùng này cũng đã ngừng hoạt động.

Khi thời gian đếm ngược đến thời điểm ngừng hoạt động đã đến gần, Komati đang bận rộn với các chuyến thăm từ các nhân vật quan trọng và các chuyên gia tư vấn để cố gắng tìm hiểu xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. “Người duy nhất chưa đến thăm là Nữ hoàng”, Jurie Pieters, quyền tổng giám đốc của Komati, người đã giám sát việc đóng cửa vào ngày 01/11 với cảm xúc lẫn lộn.

Mandy Rambharos, người quản lý quá trình chuyển đổi năng lượng đơn thuần của Eskom, nói: “Chúng tôi lẽ ra có thể khóa cửa nhà máy và bước đi”. Nhưng thay vào đó, cô ấy nói, Komati đang được sử dụng để chứng minh cách các nhà máy điện cũ có thể được tái sử dụng và quá trình chuyển đổi công bằng được thực hiện. Đến năm 2035, Eskom có kế hoạch đóng cửa 9 nhà máy điện, hầu hết là ở Mpumalanga, chấm dứt nguồn điện 15GW và khiến 55.000 việc làm gặp rủi ro.

Trong số những du khách đến thăm Komati có Chủ tịch Ngân hàng Thế giới David Malpass, người sẽ đến trong tuần này, với một tấm séc trị giá 497 triệu USD để giúp tái sử dụng nhà máy. Eskom có kế hoạch lắp đặt 150 MW điện mặt trời, với một số tấm pin được đặt trực tiếp trên đống nền nhà máy cũ, cũng như 150 MW dự trữ pin và 70 MW điện gió. Eskom muốn trồng cây dưới một số tấm pin mặt trời theo một kỹ thuật được gọi là nông điện (công nghệ điện mặt trời trong nông nghiệp), mặc dù kế hoạch này đã bị đình trê bởi các quy tắc địa phương rườm rà. Cho đến nay, tất cả 193 nhân viên đã được Eskom bố trí các công việc thay thế.

Các kế hoạch cũng đang được thực hiện để mở một nhà máy tại địa điểm này để sản xuất lưới điên  siêu nhỏ, các đơn vị năng lượng mặt trời di động được xây dựng trên các container vận chuyển cũ. Ý tưởng là sử dụng 500 công nhân toàn thời gian để sản xuất 900 đơn vị mỗi năm. Nick Singh, người đứng đầu dự án cho biết: “Khi chúng tôi ngừng hoạt động các trạm phát điện này, chúng tôi sẽ tạo ra dòng máu mới”.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 21/11/2022

COP27: Chi phí cần để Nam Phi ngừng sử dụng than – Phần I


Tại Hội nghị COP 26 diễn ra tại Glasgow năm 2021, các nước Mỹ, Anh, Đức, Pháp và EU đã ký với Nam Phi thỏa thuận Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Công bằng (JETP) bền vững trị giá 8,5 tỷ USD để Nam Phi chuyển đổi sang nguồn năng lượng sạch. Nhưng theo ghi nhận của tờ Financial Times ngày 02/11/22, sau một năm trôi qua, tới thời hạn tổ chức COP 27 tại Ai Cập, các cuộc đàm phán về JETP đã trở nên căng thẳng.

Anh Dumisani Mahlangu ngồi trong cabin của một chiếc máy xúc, đào những gầu than từ một mỏ lộ thiên bên ngoài thành phố Johannesburg của Nam Phi. “Than đá đã tạo nên con người của tôi”, anh Mahlangu nói về công việc được trả lương cao của mình ở một đất nước mà cứ ba người thì có một người thiếu việc làm. “Tôi muốn trở thành một bác sĩ, nhưng Chúa đã đặt tôi vào hầm mỏ”.

Nam Phi là một trong những quốc gia phụ thuộc nhiều nhất vào than trên thế giới. Than chiếm khoảng 85% sản lượng điện, khiến đất nước 60 triệu dân trở thành quốc gia thải ra lượng carbon lớn thứ 13 thế giới, lớn hơn cả nước Anh.

Điều này khiến Nam Phi, với thu nhập bình quân đầu người khoảng 7000 USD, là một trong những quốc gia kém hiệu quả nhất trong việc biến nhiên liệu hóa thạch thành sản lượng kinh tế. Nhưng điều này cũng có nghĩa là sẽ có những chiến thắng nhanh chóng nếu nguồn tài chính có thể được tìm thấy để giúp Nam Phi – và các quốc gia khác như thế – chuyển đổi nhanh hơn sang năng lượng sạch.

Ông André De Ruyter, giám đốc điều hành của Eskom, Tập đoàn điện lực quốc gia Nam Phi, cho biết: “Giảm thiểu một tấn carbon ở Nam Phi bằng một phần mười chi phí giảm thiểu một tấn carbon ở châu Âu. Vì vậy, đề xuất giá trị cho người đóng thuế Đức hoặc các quốc gia giàu có khác là, do carbon là một hiện tượng toàn cầu, hãy cung cấp tiền cho chúng tôi, một quốc gia nơi bạn nhận được nhiều tấn khử carbon trên mỗi euro hơn bất kỳ nơi nào khác”.

Đề xuất đó đã được đưa ra một năm trước tại Hội nghị khí hậu của Liên hợp quốc COP 26 ở Glasgow khi một nhóm các nước giàu – Anh, Đức, Pháp và Mỹ – cũng như EU đã cùng nhau cam kết 8,5 tỷ USD thông JETP, để giúp Nam Phi chuyển từ than đá sang năng lượng xanh.

JETP được trình bày như một mô hình hợp tác Bắc-Nam và là khuôn mẫu cho quan hệ đối tác trong tương lai với các quốc gia phụ thuộc nhiều vào than như Indonesia, Việt Nam và Ấn Độ.

Một năm trôi qua, với COP 27 đã khai mạc tại Ai Cập vào ngày 6/11, mô hình của quan hệ đối tác Nam Phi đang hình thành. Nhưng các điều khoản của khoản tài trợ 8,5 tỷ USD đã được hủy bỏ. Trong khi đó, Nam Phi đưa ra kế hoạch chuyển đổi năng lượng trong 5 năm trị giá 95 tỷ USD, trong đó 8,5 tỷ USD sẽ đóng vai trò xúc tác bằng cách thu hút đầu tư của khu vực tư nhân.

Ông Daniel Mminele, cựu giám đốc ngân hàng Absa, người được Tổng thống Nam Phi Cyril Ramaphosa tuyển dụng để điều hành nhóm đặc trách tài chính khí hậu của Tổng thống, cho biết: “Đây là 5 năm đầu tiên trong hành trình nhiều thập kỷ. Ngoài việc thay thế dần than bằng năng lượng tái tạo, kế hoạch này cũng dự kiến sản xuất hydro và xe điện xanh”.

Tuy nhiên, các cuộc đàm phán giữa Nam Phi và các bên cho vay phương Tây đã trở nên căng thẳng. Quốc hội Nam Phi đang cảnh giác với việc làm tổn hại đến ngành công nghiệp than, một trong số ít ngành công nghiệp than ở đất nước do đa số người da đen làm chủ.

Ông Rudi Dicks, một cựu lãnh đạo công đoàn hiện đang cố vấn cho Tổng thống Ramaphosa, nói: “Chúng ta phải làm điều này một cách đúng đắn”.

Nam Phi cũng muốn tỷ lệ viện trợ không hoàn lại cao hơn, cảnh giác rằng các khoản vay sẽ chỉ làm tăng thêm nợ của nước này.

Pravin Gordhan, Bộ trưởng phụ trách các doanh nghiệp công của Nam Phi cho biết: “Một số quốc gia phải được ca ngợi vì sự sẵn sàng đặt tiền lên bàn cân, nhưng rất tiếc những quốc gia khác vẫn đang trong giai đoạn tuyên truyền”.

Pretoria cũng phàn nàn rằng, châu Âu đang làm chậm quá trình chuyển đổi năng lượng giống như họ đang thúc ép Nam Phi tăng tốc độ của riêng mình. “Châu Âu, vốn là nhân tố chính cảu ranh giới khó khăn nhất về khí thải, hiện đang gặp khó khăn”. Gordhan cho biết, châu Âu vẫn đang duy trì các nhà máy nhiệt điện than của mình và hoạt động và nhập khẩu than, kể cả từ Nam Phi.

Về cơ sở hạ tầng

Tuy nhiên, logic để Nam Phi chuyển sang năng lượng tái tạo là rất tốt. Các nhà máy nhiệt điện than đã mục nát, có tuổi đời trung bình là 42 năm, đang phải ngừng hoạt động. Hệ thống điện, với nhu cầu cao điểm là 38 gigawatt, đang hoạt động ở mức 58% công suất – không đủ để tiếp tục thắp sáng.

Việc cắt điện kéo dài tới 5 giờ một ngày, đang làm tê liệt ngành công nghiệp và khiến cuộc sống không thể chịu đựng nổi. Đèn giao thông ngừng hoạt động, làm ùn tắc các con đường. Lò mổ mất điện. Khi mất điện, bọn tội phạm ăn cắp cáp điện và phá hoại hệ thống nhiều hơn.

Giải pháp rõ ràng là bổ sung năng lượng tái tạo giá rẻ càng nhanh càng tốt. Với trung bình 2500 giờ nắng mỗi năm, Nam Phi nằm trong top 3 thế giới về tiềm năng năng lượng mặt trời. Người ta ước tính có đủ gió để tạo ra 6700 GW điện, gấp khoảng 175 lần nhu cầu hiện tại.

Nam Phi có nhiều kinh nghiệm đau thương từ sự tàn phá của thời tiết khắc nghiệt. Vào tháng 4, chỉ trong một ngày, khi lượng mưa 200 mm đổ xuống Durban, một thành phố ven biển, đã có hơn 250 người chết và các nhà máy ô tô ngập trong bùn và nước.

Nam Phi là một trong 17 quốc gia có diện tích rộng lớn, có nghĩa là biến đổi khí hậu ảnh hưởng khác nhau đến hệ sinh thái của nước này. Bộ trưởng Môi trường Nam Phi Barbara Creecy cho biết: “Phía Bắc KwaZulu Natal sẽ có lốc xoáy. Western Cape sẽ trở nên khô hạn hơn, điều này rất nghiêm trọng vì nó là lòng chảo của đất nước. Và phần còn lại của đất nước sẽ ẩm ướt và quá nóng, bạn sẽ không thể trồng ngô được nữa. Vậy bạn định đảm bảo lương thực cho người dân bằng cách nào?”

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 21/11/2022