Itamar Even-Zohar
Những động năng cho thay đổi, những quan hệ liên văn hóa, những tương nhượng giữa các nhóm, và cuộc đấu tranh cho việc tiếp cận nguồn là toàn bộ xu hướng của sự không đồng nhất. Con người tiếp nhận và trải nghiệm những khác biệt và đa dạng trong cuộc sống thường nhật ngay cả trong những môi trường nhỏ và khép kín. Tuy nhiên, những trải nghiệm cá nhân như vậy không phải bao giờ cũng chuyển dịch thành những khái niệm hiển hiện và hình ảnh tư thân, có thể vì chúng thường không thể rút gọn được, hoặc thậm chí va đập với những phóng chiếu đang diễn ra của những hình ảnh tập thể thông qua nhiều kênh truyền dẫn quyền lực từ trên xuống – tình trạng này tồn tại hoặc ít hoặc nhiều trong mọi xã hội. Kết quả hiển nhiên là trong khi sự không đồng nhất có thể là một thực tế không thể bàn cãi đối với một xã hội định hình thì sự tự nhận thức, tự hình dung của xã hội đó lại có xu hướng đặc thù hóa bởi tính đồng nhất và đồng dạng. Tiếc là việc tìm hiểu tính đồng nhất của các thực thể văn hóa lại nổi trội trong chính những nỗ lực nghiên cứu xã hội nhân văn và sản xuất văn hóa của chúng. Ở phạm vi rộng, xu hướng học thuật này có căn rễ trong những thái độ/hành xử phổ biến chung. Do vậy, các nhà nghiên cứu – những người trưởng thành và sống trong những xã hội mang một hình ảnh được tuyên truyền rất mạnh mẽ về sự đồng dạng – đương nhiên có xu hướng chối bỏ/phớt lờ tính không đồng nhất, hoặc coi nó hoặc là không liên quan hoặc ngoài lề. Tuy nhiên, tôi tin rằng nghiên cứu này cũng phần nào nảy sinh từ nhu cầu mang tính phương pháp luận nhằm giảm bớt tính phức tạp để xử lý ít hơn các thông số nhằm có được những công cụ làm việc chính xác cho việc khái niệm hóa và khảo sát thực tế. Về nguyên tắc, một giản ước như vậy dường như được đòi hỏi như một giai đoạn giao thời trước khi có thể có được sự tìm tòi công phu hơn. Tuy nhiên, rắc rối là giai đoạn giao thời mang tính giả định này thường biến thành một giai đoạn vĩnh cửu, cản trở hoặc dẫn đến phát triển những công cụ thích hợp hơn cho việc giải quyết tính phức tạp.
Khi tôi khởi động những nghiên cứu học thuật của mình vào cuối những năm 1960, thì những mô hình đồng nhất là một tín điều chủ lưu, trong khi những quan điểm thay thế thì bị coi gần như là dị giáo. Thực tế, những mô hình thay thế đã được đề xuất trước đó. Đáng chú ý là trường phái Prague về ngôn ngữ học và ký hiệu học hoạt động trong những năm 1930 đã phát triển quan điểm về sự đa dạng, đặc biệt là ở cấp độ ngôn ngữ. Tuy vậy, những nỗ lực tiên phong này không bao giờ được quan tâm như chúng đáng được như thế vào thời điểm bấy giờ, và dù có được tái khám phá vào những thập kỷ sau đó thì việc khuếch tán chúng cũng không thành công lắm. Nỗ lực nhỏ bé của tôi từ đầu những năm 1970 hướng đến một tiếp cận mang tính khuynh hướng không đồng nhất, thoạt đầu nhắm vào nghiên cứu văn chương, đã được tiếp nhận không nhiệt thành hoặc không được chấp nhận. Tôi đã đặt tên cho kiểu tiếp cận này là “đa hệ thống”. Với thuật ngữ này, tôi hy vọng bao chứa được cả tính đa dạng/đa chủng/không đồng nhất (biểu thị bằng tiếng Hy Lạp là “poly”, đa) và tính quy luật, tính lặp đi lặp lại/tính tổ chức (được biểu thị là “system”, hệ thống), rồi khái niệm hóa thành “chủ nghĩa cấu trúc động”, hay “trật tự bên trong phi trật tự”. Tôi không chắc việc thuật ngữ hóa này thành công ra sao, vì trong những truyền thống nhất định, thuật ngữ “hệ thống” chuyển tải một hàm nghĩa mang tính xác quyết về “trật tự nghiêm ngặt” hơn là hàm nghĩa “một tập hợp những chức năng tương thuộc” như đã ít nhiều được chấp nhận trong các lý thuyết hệ thống hiện đại. Một học giả xuất sắc về lý thuyết hệ thống như Pierre Bourdieu đã thích thuật ngữ “trường” (champ) và “định vị” (prise de positions) hơn là “hệ thống”, chính xác là tránh một lúng túng về khái niệm mang tính tiềm tàng trong truyền thống địa phương ông. Tuy vậy, khái niệm “đa hệ thống” đã được vận dụng trogn những lĩnh vực khác nhau của nghiên cứu, đáng chú ý là dịch thuật học và tiếp tục được cập nhật, khiến tôi nghĩ rằng chúng ta có thể sống với nó, đặc biệt là nếu chúng ta muốn tránh khúc quanh/sự thăng trầm của sự thay đổi thời trang thuật ngữ.
May thay, những thập kỷ gần đây, nhờ sự xuất hiện của những lý thuyết phức hợp và những đóng góp tương tự, các mô hình mang xu hướng không thuần nhất dường như trở nên khả dụng hơn và được chấp nhận về mặt khoa học nhiều hơn. Hơn thế, trong nhiều chuyên ngành khác nhau của Khoa học Xã hội chịu ảnh hưởng của tư tưởng “hậu hiện đại”, những khái niệm như “lai ghép”, “đa dạng”, và những khái niệm tương tự đã trở thành phẩm trật của thời đại. Theo tôi, đây không phải bao giờ cũng là điều may mắn, vì những tiếp cận này thường có xu hướng đánh đồng tính đa dạng với “hỗn loạn”, và từ bỏ cố gắng chẩn đoán những quy luật của sự phức tạp trong phạm vi quan hệ tồn tại bên trong một nền văn hóa. Nhưng nói chung, bất chấp những phát triển này gần đây, tính đồng nhất dường như vẫn tạo lập quan điểm mặc định được dạy cho sinh viên có thể đương đầu một cách nghiêm túc và hiệu quả với những thách thức về khái niệm do tính phức tạp của văn hóa đặt ra Hệ quả là, trong hầu hết các trường hợp, ngay cả các nhà nhân học và xã hội học vẫn bàn luận về các nền văn hóa với tư cách những thực thể đồng dạng. Hiện tượng này dễ nhận thấy nhất trong các nghiên cứu về xã hội tiền hiện đại, nơi mà “các bộ lạc” được miêu tả và phân tích như những tộc người có một nền văn hóa thống nhất cá thể. Song ngay cả “quốc gia/nhà nước” hiện đại thường có dân số vài triệu người, cũng vẫn thường được miêu tả và phân tích theo cách tương tự. Do vậy chúng ta vẫn sống trong một thế giới hình ảnh và khái niệm, nơi phân định mạch lạc các khối văn hóa cung cấp những phân loại bản đồ mang tính khái niệm của chúng ta về trái đất. Hệ quả là con người thường ngạc nhiên khi phát hiện ra, nếu họ ngẫu nhiên phát hiện ra chính mình ở bên ngoài lãnh thổ quê hương, rằng các nền văn hóa ở những lãnh thổ khác thật hác biệt với hình ảnh đồng phục mà họ đã có về các nền văn hóa đó. Ở cấp độ nghiên cứu, sai biệt về trải nghiệm này chưa đóng vai trò của nó trong việc thúc đẩy những chuyên ngành chủ lưu theo hướng chấp nhận sự phức hợp như một khung khổ mang tính khái niệm mặc định. Nó cũng chưa dẫn đến sự phân biệt tính đồng dạng do các khái niệm điển phạm về văn hóa áp đặt với trạng thái thực tế của tính không đồng nhất và thuyết động năng thẩm thấu mọi khung cảnh văn hóa, và không thể giản ước thành đồng dạng. Tôi cho rằng phương pháp tiếp cận theo hướng không đồng nhất hiện diện trong công trình của cá nhân tôi dưới khái niệm “đa hệ thống” vẫn còn phải qua một chặng đường dài trước khi có thể được chấp nhận là một khung khổ mặc định. Trạng thái công việc này hiển nhiên có nhiều dư ba trong khung cảnh nghiên cứu của cá nhân tôi. Những vấn đề chủ chốt như thay đổi và hoán vị văn hóa, quan hệ liên văn hóa, sự cạnh tranh các nguồn giữa hoàn cảnh văn hóa trung tâm và ngoại biên, viễn cảnh sinh tồn và phát triển của chúng, và nhiều nữa, đều thường được giải quyết bên trong những môi sinh hạn chế hoặc được tìm hiểu một cách ráo riết. Ngược lại với quan điểm mang tính không đồng nhất, những vấn đề đó cung cấp điểm tựa cho việc khái niệm hóa. Theo quan điểm này, mối quan hệ giữa các nhóm không được xem như sự kiện lịch sử bất thường mà như một nhân tố thay đổi không thể né tránh, và mô phỏng thường là nhu cầu để sống còn của một nền văn hóa nhất định. Tương tự, “thay đổi”, xin lấy thêm một ví dụ, được hiểu không như một quá trình lệ thuộc, mà như một đặc thù “có sẵn” của bất kỳ một “hệ thống” nào, và sau đó là một thông số không thể thiếu trong bất kỳ phân tích nào về một nền văn hóa khát khao hoàn bị. Lựa chọn mang tính khái niệm và mang tính phương pháp luận giữa các mô hình có khuynh hướng không thuần nhất và thuần nhất không nằm trên một cấp độ chung, nhưng nó hướng các chương trình khoa học của chúng ta theo những tuyến công việc rất khác nhau.
Nguồn: Itamar Even-Zohar – Lý thuyết đa hệ thống trong nghiên cứu văn hóa, văn chương – NXB TG 2014.