Vấn đề là, nếu người lao động không được đào tạo một cách bài bản, không nắm chắc cơ sở lý thuyết và thực tế thì sẽ thiếu tính sáng tạo nghề nghiệp. Đây lại là nguyên nhân gây ra sự trì trệ sau khi khởi nghiệp. Những đánh giá về hoạt động nghiên cứu phát triển sản phẩm mới của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân nước ta cho đến nay cũng cho thấy bức tranh không mấy sáng sủa: khả năng đổi mới sản phẩm là rất thấp. Các doanh nghiệp sản xuất xe đạp, quạt điện Việt Nam chật vật nhiều năm để tìm đường đổi mới sản phẩm sang các mẫu mã mới thích hợp với thị trường mặc dù cũng chỉ là đổi sang các mẫu mã mà thị trường đang tiêu thụ các mẫu hàng tương tự của nước ngoài; các ngành dịch vụ như ngân hàng – tài chính chật vật chuyển từ kinh doah truyền thống (vay và cho vay) sang các sản phẩm mới hơn theo hướng kinh doanh đa ngành mà thế giới đã làm từ rất lâu rồi…
Trong nền kinh tế cạnh tranh toàn cầu ngày nay, khả năng đổi mới và sáng tạo từ sản phẩm mới, công nghệ mới, máy móc thiết bị mới, vật liệu mới và cách thức kinh doanh mới là chìa khóa hữu hiệu tránh cạnh tranh; chìa khóa cho sự phát triển. Những doanh nghiệp liên tục phát triển hàng thế kỷ nay của thế giới đều là những doanh nghiệp đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. Các doanh nghiệp này liên tục nghiên cứu và tung ra thị trường các mẫu sản phẩm mới, công nghệ mới, thiết bị mới, vật liệu mới cũng như tìm kiếm và đưa ra cách thức kinh doanh mới.
Người khởi nghiệp cần hiểu rõ đặc điểm này và có tư duy tốt trong phát triển nghề truyền thống – tư duy liên tục đổi mới sản phẩm theo đòi hỏi của thị trường để từ đó thiết kế công tác đào tạo, tổ chức nghiên cứu sản phẩm, tổ chức sản xuất kinh doanh… Có được tư duy này, có thể biến nguy cơ không phát triển nhiều ngành nghề thủ công truyền thống, doanh nghiệp chật vật trong kinh doanh hiện nay thành khả năng phát triển chúng trong nền kinh tế hội nhập. Những người khởi nghiệp cần có nhận thức, đổi mới sản phẩm là khó song rõ ràng đổi mới sản phẩm mà mình đã có nghề lâu năm còn dễ gấp nhiều lần so với sáng tạo hoặc đổi mới sản phẩm ở lĩnh vực mà mình còn ít có kiến thức.
Nếu người kinh doanh kết hợp tư duy này với quan niệm kinh doanh trong nền kinh tế toàn cầu họ sẽ đặt câu hỏi tại sao mình không phát triển từ những cái mình đang có trong khi mình có quyền bán hàng ở thị trường của mọi nước thành viên thuộc tổ chức thương mại thế giới khác!
Thứ năm, kinh doanh thiếu vắng hoặc hiểu và làm không đúng tính chất phường hội
Tính phường hội đã xuất hiện từ rất lâu ở thế giới và ở cả nước ta. Từ xưa, các cụ ta đã có câu: “Buôn có bạn, bán có phường”. Điều này có nghĩa là tư duy kinh doanh theo kiểu phường hội cũng đã có từ lâu ở nước ta. Tính phường hội hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là biết “bảo nhau” để có những đồng thuận trong kinh doanh. Hiểu theo đúng nghĩa, tính phườn ghội giúp cho những người kinh doanh nhỏ cùng nghành nghề liên kết, giúp đỡ nhau trong kinh doanh. Nếu chưa hoặc không am hiểu tính phường hội mà mở ra kinh doanh thì chắc chắn tự chuốc lấy thiệt hại và nếu gặp bất trắc sẽ khó bề xoay sở. Tuy nhiên, nếu quan sát kinh doanh ở khắp các làng nghề thủ công, các khu chợ nước ta ngày nay sẽ nhận thấy hầu như tính phường hội chỉ có được trong điều kiện thị trường bình thường; khi thị trường có biến động thì tính phường hội hay bị phá vỡ mặc dù đó mới là lúc những người kinh doanh cần tính phường hội nhất.
Khi xã hội phát triển nhà nước nhận thấy xuất hiện không ít trường hợp ở các phường hội người kinh doanh lại không chỉ bảo nhau để không bị thiệt hại trong kinh doanh mà họ còn có thể bảo nhau gây thiệt hại cho các đối tượng khác. Chính vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, luật pháp ở hầu hết các nước đều quy định hoạt động kiểu phường hội phải có giới hạn – không được làm tổn hại đến lợi ích của người thứ ba. Nước ta cũng giống các nước khác, cấm các thỏa thuận mang tính phường hội gây hại cho bên thứ ba. Mặc dù đã bị pháp luật cấm đoán nhưng chỗ này hay chỗ khác ở nước ta chúng ta lại vẫn bắt gặp những hội hay hiệp hội có những cái bắt tay để cùng bảo nhau dừng bán hàng, tăng giá…
Nếu hiểu và thực hiện không đúng tính phường hội, người kinh doanh tự chuốc sự thua thiệt và thất bại. Vì vậy, hiểu và tuân thủ luật pháp về phường hội là điều kiện không thể thiếu mà những người/những người muốn khởi nghiệp cần hiểu thấu đáo.
Thứ sáu, kinh doanh với trình độ quản trị thấp
Ngày nay, người ta khẳng định kinh doanh là một lĩnh vực rất cần thiết và người thực hiện các hoạt động kinh doanh là người làm nghề: nghiệp chủ hay doanh nhân làm nghề kinh doanh, còn các nhà quản trị thì làm “nghề quản trị”. Những người này có kiến thức cần thiết để khởi sự, triển khai và phát triển hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, không phải từ xa xưa mà cũng chỉ mới các đây hơn một trăm năm (cuối thế kỷ XIX) nghề quản trị với tư cách một nghề độc lập mới ra đời. Từ bấy đến nay, tri thức quản trị kinh doanh đã phát triển rất khác so với thuở ban đầu.
Tuy nhiên, không giống với những gì đã diễn ra trên thế giới; đến nay, hoạt động kinh doanh ở nước ta diễn ra với đủ màu sắc: có cả các doanh nghiệp mà ở đó nghiệp chủ và các nhà quản trị am hiểu kiến thức mới về kinh doanh và quản trị kinh doanh; có cả các doanh nghiệp mà ở đó nghiệp chủ và các nhà quản trị am hiểu kiến thức kinh doanh và quản trị kinh doanh đã lỗi thời và cũng có cả các doanh nghiệp mà ở đó doanh nhân còn rất ít am hiểu về kinh doanh và quản trị kinh doanh.
Xét chung trên thế giới thì bất kỳ nước nào cũng có ba loại doanh nhân và nhà quản trị đã chỉ ra ở trên; nếu khác nhau, chỉ là sự khác nhau về tỷ lệ. Tuy nhiên có thể đánh giá chung là tỷ lệ doanh nhân và nhà quản trị nước ta thiếu kiến thức kinh doanh và quản trị kinh doanh, đặc biệt là kiến thức kinh doanh và quản trị kinh doanh hiện đại, là rất cao.
Cũng cần nhận thức rằng nghề kinh doanh và quản trị kinh doanh có đặc điểm khác nhiều nghề khác là tính chất “nghề” không rõ ràng. Ở nước ta, tính chất “nghề” không rõ ràng ở ngay việc đến nay vẫn có quá nhiều người Việt Nam không quan niệm kinh doanh hay quản trị là một nghề. Vì tính chất “nghề” không rõ ràng nên nhiều người chưa biết nghề lầm tưởng mình đã biết nghề; chưa giỏi nghề đã lầm tưởng đã giỏi nghề và đặc biệt nghiêm trọng khi người ta nghĩ đơn giản: ai có vốn cũng có thể mở ra kinh doanh một loại sản phẩm/dịch vụ nào đó. Nếu tình trạng này không được khắc phục thì hiện tượng nền kinh tế thế giới vừa biến động, hàng loạt cơ sở kinh doanh nước ta đã phá sản hoặc kinh doanh thua lỗ như hai năm vừa qua là hiện tượng không có gì khó hiểu.
Trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi công dân là tuân thủ pháp luật. Đây là điều kiện tiền đề cho sự phát triển xã hội. Bên cạnh đó, ý thức trách nhiệm với xã hội cũng cần có ở mọi nghiệp chủ, doanh nhân cũng như mọi người lao động. Chính vì vậy, tuân thủ luật pháp và trách nhiệm xã hội là một vấn đề không mới, không khó đối với nhiều quốc gia.
Tuy nhiên, đây lại là vấn đề cần bàn đối với những người khởi nghiệp ở nước ta. Nhận thức chấp hành luật pháp và phát triển kinh doanh trên cơ sở tuân thủ pháp luật là điều kiện bất di bất dịch để có thể gặt hái thành công lâu dài. Những hiện tượng vi phạm pháp luật như làm hàng giả, hàng nhái, hàng gian; trốn tránh nghĩa vụ nộp bảo hiểm cho người lao động theo quy định pháp luật; xả nước thải, chất thải rắn, khí thải… gây ô nhiễm môi trường; trốn lậu thuế… đều là những hành vi chỉ có thể đem lại lợi ích rất ngắn hạn cho bản thân mà làm hại chính mình trong dài hạn. Đây chính là gốc rễ của vấn đề mà mỗi người/nhóm người khởi nghiệp cần nhận thức đúng. Nếu cứ kinh doanh và phát triển kinh doanh bằng con đường vi phạm pháp luật như làm hàng giả, hàng nhái, gian lận thương mại… thì đến bao giờ đất nước ta mới có sản phẩm cạnh tranh với doanh nghiệp các nước khác?
Khi đất nước có chiến tranh, cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung là một trong nhiều nhân tố giúp chúng ta chiến thắng kẻ thù. Sau chiến thắng 1975, đất nước thống nhất và chuyển sang giai đoạn hòa bình song chúng ta lại vẫn duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Cho đến đầu thập niên 90, nước ta mới chính thức bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – SCDRC
Nguồn tham khảo: Nguyễn Ngọc Huyền, Ngô Thị Viết Nga (đcb) – Giáo trình khởi sự kinh doanh – NXB ĐHKTQD 2016.