Chế độ phong kiến ở Liên Xô – Phần XVIII


Phần III

 Luật pháp thời nông nô

Nếu những người bảo vệ pháp luật và nhà nước lại không phải là những người như thế mà chỉ có vẻ như thế thì bạn sẽ thấy rằng họ sẽ phá tan hoang nhà nước và chỉ có họ mới có cơ hội chiếm được những chỗ tốt và thịnh vượng mà thôi.

(Platon. Nhà nước)

Chương 8. Nguồn gốc của pháp luật

Gần như tất cả các tác phẩm về luật học khi nói về nguồn gốc của luật pháp đều dùng những từ ngữ như nhau để nói về hệ thống các nguồn gốc của luật pháp “xã hội chủ nghĩa”:

  1. các văn bản pháp quy của các cơ quan nhà nước;
  2. án lệ;
  3. tập quán.

Từ thời Khrushchev, người tuyên bố giai đoạn chuyển tiếp sang chủ nghĩa cộng sản và chuyển hóa nhà nước thành xã hội tự quản, còn pháp luật thì biến thành tiêu chuẩn của lối sống xã hội chủ nghĩa[1], thì các “sáng kiến pháp lí và các văn bản pháp quy của các tổ chức của quần chúng lao động”[2] và “sáng kiến pháp lí trực tiếp của nhân dân, kết quả trưng cầu dân ý”[3] cũng được coi là nguồn gốc của pháp luật, mặc dù cho đến tận năm 1991 chưa có một cuộc trưng cầu dân ý nào[4].

Trước hết ta hãy xem xét nguồn gốc pháp quy của luật pháp và sau đó sẽ xem xét cái hệ thống đó trong thực tế cuộc sống.

Tất cả các học giả đều đặt LUẬT, nghĩa là văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất: Xô viết Tối cao Liên Xô, Xô viết Tối cao các nước cộng hòa liên bang và Cộng hòa tự trị, ở vị trí đứng đầu các văn bản pháp quy do các cơ quan nhà nước ban hành. Các học giả và các nhà báo đã dùng những từ ngữ hay ho nhất để vinh danh tính chất thượng đẳng không thể chối cãi của nó trong hệ thống tư pháp. Thời Stalin[5], thời Khrushchev, thời Brezhnev[6]rồi bây giờ đến thời Gorbachev[7] họ vẫn hát những bài hát xưa cũ ấy. Cần phải nói rằng trước hiến pháp Liên Xô năm 1936, tất cả các văn bản của các cơ quan trung ương đều được coi là luật cả, không có bất kì sự phân biệt nào. Thí dụ, nghị định của Ban chấp hành trung ương Liên Xô, tên gọi của nó đã cho thấy đây chỉ là văn bản của cơ quan hành pháp chứ không phải cơ quan lập pháp cũng được gọi là: “Luật ngày 7 tháng 8 năm 1932”.

Trong các văn bản pháp quy thì quan trọng nhất là HIẾN PHÁP[8].

Trở ngại lớn nhất của các nhà luật học nước ta là các SẮC LỆNH do Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao và bây giờ là của Tổng thống ban hành. Khi phê phán nền pháp chế “tư sản” các luật sư Xô viết thường khẳng định rằng “ở đấy” đang diễn ra quá trình từ bỏ nguyên tắc thượng tôn pháp luật[9], các sắc lệnh của chính quyền hành pháp “trên thực tế” đã vô hiệu hóa và thay thế luật[10], vai trò của quốc hội suy giảm trong khi vai trò của chính phủ và tổng thống lại đang gia tăng.

Không có điều kiện, cũng như giới hạn của cuốn sách không cho phép giới thiệu quan niệm của các học giả phương Tây về nền tư pháp Liên Xô, chỉ xin đưa ra ở đây ý kiến của ông R. David, một trong các nhà khoa học nổi tiếng nhất về nguồn gốc pháp luật của Liên Xô qua cuốn Droit sovietique (1954). Ông cho rằng luật thành văn là nguồn gốc duy nhất của luật pháp. Khi tiến hành cải tạo xã hội thì chỉ có luật mới thể hiện được ý chí của nhà nước, không áp dụng được án lệ và tập quán. Dễ nhận ra rằng David đã trình bày quan điểm chính thức của lí thuyết Xô viết về luật pháp, tuy có đưa ra một vài nhận xét có tính phê phán (thí dụ ông có nói đến sự bất mãn của phương Tây và việc sử dụng các trường hợp tương tự trong luật hình sự).

Nhưng ngay cả các luật sư của chúng ta cũng không thể nhắm mắt làm ngơ việc các sắc lệnh đã làm biến dạng và vô hiệu hóa không chỉ các đạo luật bình thường mà còn thay đổi cả các điều của hiến pháp nữa. Từ đó, một mặt, không thể không công nhận rằng các sắc lệnh “đôi khi đã làm biến dạng và vô hiệu hóa các đạo luật”[11] và mặt khác không thể không công nhận rằng điều đó không phù hợp với nguyên tắc thượng tôn pháp luật vẫn được người ta ra rả tuyên bố. “Vì vậy mà thời gian gần đây khoa học đã coi các sắc lệnh như là các đạo luật”[12]. Nhưng sắc lệnh của Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao trên thực tế là do ông chủ tịch và hiện nay thì do Tổng thống chính thức ban hành, chỉ một số rất ít các sắc lệnh đó là được “thông qua” tại các kì họp của Xô viết Tối cao và trở thành các đạo luật về mặt hình thức. Các nhà khoa học của chúng ta thật là tiến thoái lưỡng nan. Về lí thuyết, các sắc lệnh vẫn còn nằm đâu đó giữa luật và các văn bản dưới luật, do các cơ quan nhà nước ban hành.

b. Tập quán có được coi là nguồn gốc pháp luật hay không vẫn còn là một câu hỏi. Các quan niệm chủ yếu như sau: 1. sử dụng tập quán nếu nó được nhà nước công nhận, nhưng việc công nhận như thế ít khi xảy ra cho nên tập quán không có nhiều ý nghĩa[13], 2. sau khi một tập quán nào đó được nhà nước công nhận thì nó đã trở thành văn bản pháp quy và như vậy tập quán không còn là nguồn gốc pháp lí độc lập nữa[14].

c. Thực tiễn xét xử (án lệ) không được coi là nguồn gốc pháp luật[15]. Rất ít người coi các nghị quyết của Tòa án Tối cao là nguồn gốc của luật pháp[16].

d. Các văn bản của “các tổ chức xã hội của người lao động”. Người ta đã tốn rất nhiều giấy mực để viết về chuyện này, để chứng minh tính ưu việt của nhà nước và luật pháp “xã hội chủ nghĩa” cũng như tính dân chủ thực sự của nó. Đã có rất nhiều nghị định “liên tịch” của Ban chấp hành trung ương, Xô viết Tối cao, Hội đồng Bộ trưởng và Tổng liên đoàn lao động. Người ta thường làm như thế để “tăng uy tín và trọng lượng” cho văn bản. Trong các nghị định liên quan đến vấn đề lao động, đặc biệt là khi người ta muốn cắt xén quyền lợi của người lao động thì bao giờ cũng có chữ kí của Tổng liên đoàn lao động. Tổng liên đoàn lao động được quyền ban hành các văn bản pháp quy trong lĩnh vực lao động, mặc dù các văn bản này thường do Tổng liên đoàn cùng với Bộ lao động ban hành. Những bài tập “lí thuyết” phức tạp của các luật sư của chúng ta về bản chất của những văn bản đó sẽ được loại bỏ một cách dễ dàng nếu ta nhớ lại rằng cái gọi là các “tổ chức xã hội” ở nước ta là một phần của bộ máy nhà nước.

e. Quyền lập pháp trực tiếp của nhân dân chỉ là một trò mị dân không hơn không kém. Trưng cầu dân ý được đưa vào hiến pháp ngay từ năm 1936 nhưng chưa được tiến hành một lần nào. Hiến pháp Cộng hòa dân chủ Đức được thông qua bằng cách trưng cầu dân ý cũng đáng thuyết phục chẳng khác gì “những cuộc bầu cử dân chủ nhất” với chỉ một ứng viên, 99% cử tri đi bầu và trúng cử cũng với 99% số phiếu bầu. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý năm 1990 về số phận của Liên Xô cho thấy ý nghĩa của “ý chí của nhân dân”, nguồn gốc pháp lí “xã hội chủ nghĩa”. Đa số dân chúng bỏ phiếu ủng hộ việc bảo tồn Liên Xô, thế mà sau đó ba vị tổng thống tự ý quyết định thủ tiêu nó.

Đấy là cơ sở lí thuyết về nguồn gốc pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Bây giờ chúng ta xem xét hệ thống thang bậc của các nguồn gốc pháp luật xã hội chủ nghĩa trên thực tế:

  1. Chỉ thị của các “cơ quan lãnh đạo” (chỉ thị miệng);
  2. Tập quán;
  3. Thực tiễn xét xử;
  4. Văn bản pháp quy của các cơ quan nhà nước:
  5. Văn bản của các cơ quan quản lí;
  6. Các bộ luật;
  7. Học thuyết.

Thang bậc ấy được xây dựng trên cơ sở nào? Chiếm số lượng nhiều nhất (chỉ riêng lĩnh vực chất lượng sản phẩm đã là 999 văn bản, về khen thưởng – 500, về các chỉ tiêu kế hoạch là hơn 770 văn bản (Tin tức ngày 22 tháng 9 năm 1987), nhưng tôi nghĩ số lượng trên đây chỉ là gần đúng, vì việc thống kê các văn bản được thưc hiện rất sơ sài) là các văn bản của các cơ quan quản lí nhà nước (cơ quan hành pháp). Các văn bản này đóng vai trò chủ yếu trong việc điều chỉnh quan hệ giữa các đơn vị kinh tế và công dân và dĩ nhiên là có vai trò tương ứng trong thực tiễn pháp lí. Tuy nhiên, thang bậc quyền lực thì lại không được xây dựng trên cơ sở số lượng mà trên hiệu lực của văn bản trong thực tiễn pháp lí. Về mặt chính thức, theo lí thuyết thì luật vô hiệu hóa nghị định của chính phủ chứ không thể ngược lại; chính vì thế người ta mới cho rằng luật có hiệu lực tuyệt đối. Nhưng chúng ta khảo sát không phải là lí thuyết Xô viết mà khảo sát cuộc sống, khảo sát thực tiễn pháp lí đang diễn ra hàng ngày trong xã hội Liên Xô. Sơ đồ bên trên được xây dựng trên thực tế đó và sẽ được chứng minh dưới đây.

Xin nói một chút về quá trình làm luật: tất cả các sáng kiến đều xuất phát từ cơ quan “lãnh đạo”, nghĩa là xuất phát từ các cơ quan của Đảng, sau đó có thể là bất kì cơ quan nào đứng ra đệ trình dự thảo, đấy có thể là Hội đồng bộ trưởng, Tổng liên đoàn lao động hay Xô viết Tối cao…[17] Sau đó là quá trình ban hành (đối với luật thì đấy là thảo luận, thông qua, công bố) và đưa vào áp dụng, có hiệu lực.

(còn tiếp)

Người dịch: Phạm Nguyên Trường

———-

[1] Khả năng thấu thị của các nhà khoa học Liên Xô thật đáng kinh ngạc: 20 năm trước họ đã xác định được “Các quy luật phát triển đặc thù của pháp luật trong điều kiện của chủ nghĩa cộng sản. MLVNNPL, tập 4, M., trang. 592-619.

[2] Như trên, trang 330-336.

[3] Như trên, trang 336-340.

[4] Trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1990, đa số dân chúng ủng hộ bảo vệ sự toàn vẹn của Liên Xô. Năm 1991, ba vị tổng thống giải tán Liên Xô, bãi bỏ chức Tổng thống và Xô viết Tối cao Liên Xô được toàn dân bầu lên mà không thèm thảo luận với ai.

[5] “Luật giữ vị trí cao nhất, là văn bản có sức mạnh pháp lí đặc biệt”. Lí thuyết về nhà nước và pháp luật. М., 1949, trang 370.

[6] Sức mạnh “pháp lí tối thượng của các bộ luật được tất cả mọi ngưới thừa nhận một cách vô điều kiện”. MLVNNPL, T. 4, trang 379.

[7] “LUẬT PHÁP… có sức mạnh tối thượng so với các văn bản pháp quy khác (nghị định, chỉ thị v.v…)”. Từ điển pháp luật Liên Xô, in lần thứ 4, М., 1989. trang 451.

[8] “Đây là hiến pháp của nhà nước xã hội chủ nghĩa và của xã hội xã hội chủ nghĩa đã được nhân dân Liên Xô xây dựng nên, hiến pháp này được đặt tên là Hiến pháp Stalin để vinh danh người tạo lập ra nó. Pháp luật Liên Xô hiện hành dựa trên hiến pháp này.” Lí thuyết về nhà nước và pháp luật. М., 1949, trang 360.

[9] Luật dân sự và luật thương mại của các nước tư bản chủ nghĩa. М., 19бб, trang 19.

[10] Xem bên trên.

[11] MLVNNPL, tập 4, trang 383.

[12] Xem bên trên.

[13] “Trong các nước xã hội chủ nghĩa tập quán pháp lí không thịnh hành lắm.” MLVNNPL. tập, trang 340. “Tập quán pháp lí có ý nghĩa rất hạn chế”. Cơ sở lí thuyết về nhà nước và pháp luật, М., 1969, trang 252.

[14] “Trong xã hội Xô Viết hình thức soạn thảo luật như thế này đang chết dần”. Lí thuyết tổng quát về luật pháp Liên Xô. М., 1960 trang 144.

[15] “Phán quyết của các cơ quan xét xử không được coi là tiêu chuẩn pháp lí mới, bắt buộc phải theo khi giải quyết các vụ việc tương tự”. Lí thuyết về nhà nước và pháp luật. М., 1949, trang 385. “Các nước xã hội chủ nghĩa không công nhận án lệ như là một nguồn gốc của luật pháp vì nó sẽ dẫn tới việc xa rời tính pháp lí và phá hoại vai trò của các cơ quan dân cử trong hoạt động lập pháp.” MLVNNPL, tập 4, trang 325.

[16] S. Vilniansky. Những bài giảng về dân luật. Kharkov. 1958, trang 57-60.

[17] Việc chuẩn bị văn bản thường được giao cho bộ hoặc cơ quan ngang bộ tương ứng, cơ quan này trước hết quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của mình trong dự thảo. Vì vậy trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trên báo chí chuỵên về luật pháp đã công bố rất nhiều lời phàn nàn về việc khách hàng của ngành đường sắt, những người gửi hàng và nhận hàng đều gần như không có quyền hành gì trước ngành đường sắt, ngành này thường không những không bảo đảm thời hạn giao hàng mà còn không bảo đảm sự an toàn của hàng hóa, không cung cấp đủ toa chứa và nói chung chịu rất ít trách nhiệm. Mặc dù Điều lệ ngành đường sắt là do chính phủ ban hành, nhưng lại được Bộ giao thông vận tải soạn thảo, Bộ này chỉ quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của chính nó.
Sự thật là dự thảo văn bản thường được gửi cho các cơ liên quan xem xét, có đến hơn 100 cơ quan như thế. Khi có quá nhiều nhận xét và đề nghị đối chọi nhau thì sự thỏa hiệp chỉ có thể đạt được bằng các diễn đạt mù mờ và giữ nguyên nội dung chính của văn bản đã được chuẩn bị.
Các văn bản quan trọng, có ý nghĩa toàn liên bang (không chỉ luật mà nghị định của Hội đồng bộ trưởng cũng thế) được soạn thảo bởi các hội đồng, nhưng trước khi chính thức thông qua bao giờ cũng phải trình lên Ban chấp hành trung ương, nơi không phải lúc nào cũng có các luật sư có trình độ. Vì vậy các ủy ban soạn thảo thường vò đầu bứt tai khi nhận lại văn bản đã được “Trung ương xử lí”. Đấy cũng là một trong các lí do vì sao một số bộ luật quan trọng “thời cải tổ” như Luật về xí nghiệp quốc doanh, Luật về hợp tác xã đã phải sữa chữa ngay sau khi ban hành. Các bộ luật này đã không đáp ứng được kì vọng.

Advertisement