Tôi và chúng ta – Phần V


Không có cái gọi là xã hội

Không có gì ngạc nhiên khi những người phương Tây chúng tôi luôn hoài nghi đám đông, và cả những người có khả năng thao túng, điều khiển nó. Và chúng tôi xem thường sự tuyên truyền, cho dù đó là hoạt động chính trị (thứ ta chủ động thực hiện) hay thương mại (thứ ta không thể tránh).

Chúng tôi thà khư khư giữ lấy quan điểm Khai sáng tự do của mình về những cá nhân có quyền tự quyết, về những người đàn ông (và đàn bà) có lý trí, về sự hào hiệp của cá nhân đó, hơn là để mình chịu ảnh hưởng bởi những cảm xúc rồ dại của đám đông.

Đồng thời, chúng tôi tiếp tục chú trọng nhiều hơn đến cá nhân, cả ở cách cơ cấu xã hội lẫn cách dẫn dắt cuộc sống của chính mình. Chúng tôi bị ám ảnh về quyền cá nhân, về của cải, và hạnh phúc cá nhân.

Người cuối cùng bày tỏ về hệ tư tưởng này là Margaret Thatcher với tuyên bố nổi tiếng: “Không có cái gọi là xã hội, chỉ có những cá nhân và gia đình đơn lẻ”.

Có phải phần còn lại của thế giới thật sự sai lầm?

Bạn nghĩ thế nào? Hãy nhớ rằng Le Bon, Freud và Bernays là sản phẩm của nền văn hóa phương Tây chứ không phải những cá thể đầy quyền uy mà ta có thể hoàn toàn tin tưởng. Không thể phủ nhận rằng quan điểm giống loài chúng ta về con người ở phương Tây đã nhận được nhiều sự ủng hộ từ các nước bên ngoài. Liệu có phải tất cả họ đều sai còn quan điểm của chúng tôi về bản chất và hành vi con người lại quá đúng?

Có phải phương Tây không nhìn nhận sự việc theo cách như các nước khác trên thế giới? Đó có phải là do sự ngu dốt hay do bản tính ương ngạch? Liệu có phải bộ não của người phương Tây hoạt động theo một cơ chế khác hay chúng tôi chỉ đơn thuần là một giống loài khác?

Không, tôi tin rằng phần còn lại của thế giới đã đúng trong cách phân tích cơ bản của họ. Phần bầy đàn của hành vi con người là rất thật – dù có đáng sợ đến mức nào. Sự khác biệt giữa chúng tôi và họ, giữa người Anglo-Saxon và những người còn lại, không phải về mặt sinh học mà là về văn hóa. Như trong các nghiên cứu của Richard Nisbett về những người mẹ Mỹ gốc Hàn Quốc, ch1ung ta được dạy dỗ nhìn nhận hành vi con người qua lăng kính của chủ nghĩa cá nhân ngay từ những giây phút đầu đời. Nền văn hóa nơi chúng tôi sinh trưởng và học hỏi để nhìn nhận thế giới như những người xung quanh mình luôn dạy chúng tôi tư duy theo hướng “Tôi” thay vì “Chúng ta”. Tầng tầng lớp lớp giả định xuất hiện tràn ngập xung quanh chúng tôi suốt ngày, mỗi ngày, sẽ định hình thế giới của chúng tôi (hay nhận nhận thức của chúng tôi về nó và về chính mình).

Hệ tư tưởng “Tôi”

Vậy thì chúng tôi phải thật sự hiểu rõ vấn đề. Ít nhất là từ phong trào Cải cách (ở châu Âu thế kỷ 16), văn hóa phương Tây đã thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa cá nhân. Các phương tiện báo in cho phép vô số cá nhân được tự mình đọc và diễn giải Kinh thánh thay vì phụ thuộc vào giới tu sĩ cũng như chịu sự kiểm soát về mặt tôn giáo và trí tuệ của họ. Còn đối với những người mang tư tưởng bảo thủ hơn trong thế giới cũ, khi bị giới tu sĩ đàn áp, chính những kẻ lầm đường lạc lối này đã tìm đến một vùng đất mới. Đây chính là lý do vì sao chủ nghĩa cá nhân đã trở nên phổ biến hơn và có ý nghĩa trung tâm hơn trong nền văn hóa của các quốc gia theo đạo Tin Lành (như các nước Anglo-Saxon và đặc biệt là Mỹ) so với các nền văn hóa chính thống hay Thiên chúa giáo kiểu cũ.

Như Giáo sư Robert Farr đã lưu ý trong phần mô tả về nguồn gốc của tâm lý học xã hội, cá nhân chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với văn hóa phương Tây, đến mức nó đã trở nên rất rõ ràng – chúng tôi không còn thật sự nhận ra điều đó; chúng tôi tiếp nhận nó như một chân lý hiển nhiên về thế giới.

Đây chính là khía cạnh then chốt trong định nghĩa ban đầu của Durkheim về ý thức hệ: điều mà chúng tôi đón nhận như một sự thật hiển nhiên. Hậu quả là chúng tôi tự đánh lừa bản thân mình rằng nó rốt cuộc không phải là ý thức hệ. Thay vào đó, chúng tôi xem nó như một thực tế, một sự thật đơn giản về bản chất của thế giới. Ngược lại, chúng tôi giả định rằng những lối tư duy không thuộc chủ nghĩa cá nhân là những ý thức hệ thật sự.

Tâm lý học xã hội đã được đặc thủ hóa như thế nào

Cá nhân chủ nghĩa là một hệ tư tưởng văn hóa, lan tỏa và định hình thế giới quan của chúng ta. Điều này đặc biệt đúng trong các ngành học thuật như khoa học xã hội, những nơi đúng ra phải có sự am hiểu tốt hơn. Farr đã thể hiện rất rõ quan điểm rằng khoa học xã hội đã bị “Mỹ hóa”: tức là bị biến thành cách thức nhìn nhận về bản chất con người theo hướng cá nhân chủ nghĩa. Đặc biệt, ông xem anh em Allport (F.H và G.W.) như những người đi đầu trong phong trào này.

Một người là nhà nghiên cứu hành vi, người kia là nhà nghiên cứu nhận thức, cả hai cùng định hình nên một ngành học giúp chúng ta hiểu rõ về bản chất bầy đàn của mình: Tâm lý học xã hội. Thông qua các cuốn sách giáo khoa và cẩm nang chính thức suốt hơn 50 năm qua, niềm tin của họ đã định hình nên cách thức tư duy về hành vi con người của nhiều thế hệ nhà khoa học xã hội. Cuốn sách Social Psychology năm 1924 của F.H. Allport thể hiện rõ:

Về cơ bản, không có một tâm lý đám đông nào lại không hoàn toàn thuộc tâm lý của các cá nhân. Tâm lý học xã hội… là một phần thuộc tâm lý cá nhân, người có hành vi được nghiên cứu trong mối tương quan với môi trường nơi có sự tồn tại của những người khác… Xét về tất cả các phân nhánh của nó, tâm lý học là một bộ môn khoa học nghiên cứu về cá nhân.

Định nghĩa của G.W. Allport cũng mang tính cá nhân chủ nghĩa tương tự:

Với ít trường hợp ngoại lệ, các nhà tâm lý học xã hội xem ngành học của mình như một nỗ lực để hiểu và giải thích về mức độ ảnh hưởng đến suy nghĩ, cảm nhận và hành vi của các cá nhân bởi sự hiện diện có thật, sự hiện diện mang tính tưởng tượng hoặc ngụ ý của người khác.

Tương tự, mô hình hành vi đám đông của F.H. Allport định nghĩa công luận (quan điểm của công chúng) như một vấn đề cá nhân – bỏ qua sự tương tác giữa người với người theo luận điểm về loài khỉ quần thể:

Cụm từ “công luận” có nghĩa liên quan đến một tình huống gồm nhiều cá nhân, nơi các cá nhân sẽ thể hiện bản thân mình, hoặc có thể được yêu cầu thể hiện chính mình, ví dụ như yêu thích hay ủng hộ (hoặc phản đối) một điều kiện, một đối tượng hay một đề xuất quan trọng nào đó theo tỷ lệ về số lượng, cường độ cảm xúc và sự kiên định để làm tăng khả năng hành động gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến đối tượng được nói tới.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB THTPHCM 2012

Advertisement

Tôi và chúng ta – Phần IV


Tránh xa đám đông cuồng loạn

Vì sao ở phương Tây, chúng ta cảm thấy khó chịu về bản chất bầy đàn của mình? Ngày đầu tiên ở Ấn Độ, khi đã quen với cái nóng ở đây, tôi thấy nhiều người đang tụ tập lộn xộn trên đường, đó là lý do vì sao tôi, cũng như nhiều du khách lần đầu đặt chân đến đây, cảm thấy trải nghiệm ở Ấn Độ thật choáng ngợp. Dù là một người hâm mộ thể thao đã quen với những đám đông quy mô lớn nhưng tôi vẫn cảm thấy hoàn toàn choáng ngợp. Tôi cảm thấy hoảng sợ và căng thẳng trong chốc lát.

Rõ ràng, ở phương Tây, chúng tôi thường gán hình ảnh đám đông với nỗi sợ hãi; những nỗi sợ hãi rất gần bề mặt. Nếu tìm kiếm trên Google thuật ngữ “triết lý đám đông”, bạn sẽ thấy nhiều mô tả theo khía cạnh tiêu cực về đám đông.

Bản chất bạo lực và phi lý của đám đông luôn hiện hữu và luôn là điều cấm kỵ, ít nhất là trong nền văn hóa phương Tây. Điều này không chỉ xuất hiện trong những câu chuyện về đạo lý của ông bà đã dạy chúng ta “hãy là một người đàn ông”, “giữ vững lập trường của mình”, “thoát ra khỏi đám đông”, mà còn trong nạn bạo lực đường phố, diễu hành chính trị, bong bóng thị trường chứng khoán và sự cuồng tín tôn giáo. Tư duy đám đông không bao giờ được xem là có giá trị trong văn hóa phương Tây; nó đại diện cho những gì chúng ta không thích và cảm thấy không thoải mái. Thật vậy, chúng ta thường xem đây là đặc điểm ở loài vật. Ralph Waldo Emerson khẳng định rằng “Đám đông chính là loài người tự nguyện hạ cấp bản chất của mình xuống thành loài vật”.

Không, nỗi lo sợ đám đông của chúng ta xuất hiện ở khắp nơi: trong nghệ thuật, chính trị và giới học viện. Cả Juvenal lẫn Milton đều xỉ vả sự ngu dốt của đám đông. Cả ở Rome cổ đại lẫn thành cổ London, đám đông này là một nhóm gồm những kẻ hư hỏng và nguy hiểm cho đến những người sùng bái lý tưởng triết học hơn chính sách thực dụng. Trên thực tế, vở Coriolanus của Shakespeare là quá trình suy ngẫm về sự căng thẳng giữa cá nhân và đám đông. Mặc dù nhân vật chính trong tác phẩm này không thể nào được xem là biểu tượng hình mẫu nhưng vở kịch đã nói lên được phần lớn sự hoài nghi và căm ghét đám đông của chính chúng ta. Kết quả là Coriolanus trở thành một tác phẩm “quái vật nhiều đầu” (đúng như nguyên văn) bị chối bỏ. Như ta thường bắt gặp ở các tác phẩm của Shakespeare, không có bài học đạo đức đơn giản nào ở đây – ông không đứng về phía đám đông hay cá nhân. Shakespeare không phải là một người ủng hộ chế độ dân chủ bình thường. Ông biến những công dân Rome thành một đám đông hỗn loạn và hay thay đổi, và do đó tạo ra một thủ lĩnh tàn ác và không đáng tin cậy của con người. “Kẻ nào phụ thuộc vòa những đặc ân sẽ phải lặn ngụp với muôn vàn khó khăn”.

“Nếu…” của Rudyard Kipling – bài thơ được khắc trên lối vào Tòa án Trung tâm tại Wimbledon – không chỉ là một lời kêu gọi “đối mặt với Niềm vui chiến thắng và Tai ương/Và đối xử với hai “kẻ mạo danh” này theo cách ngang nhau”; nó cũng khuyên bạn nên duy trì nguyên tắc của riêng mình và lờ đi đám đông.

Nếu bạn có thể giữ vững tinh thần;

Khi tất cả những người khác đang mất bình tĩnh và đổ lỗi cho bạn;

Nếu bạn có thể tin tưởng vào chính mình khi tất cả những người khác nghi ngờ bạn,

Nhưng cũng nên xét đến sự nghi ngờ của họ.

Và nhiều thế hệ nhà văn nhạy cảm, từ các thánh nhân thời Trung cổ đến các nhà thơ lãng mạn, đều đã khuyến khích chúng ta thoát khỏi đám đông và sự ảnh hưởng đầy huyên náo, nguy hiểm của nó, để nghiền ngẫm và phản ánh lại những suy nghĩ của chính mình.

Hoạt động chính trị của chữ “Tôi”

Xét về nhiều khía cạnh, khái niệm của chữ “Tôi” đã chứng tỏ được vai trò chính trị hữu ích của nó đối với những người khởi xướng. Trong cuốn The Blank State, Stephen Pinker chỉ ra rằng, dù đúng hay sai, quan điểm về trí não của con người là tabula rasa (có nghĩa là không chứa đựng các ý tưởng bẩm sinh) là một phần quan trọng của luận điểm chống lại trật tự xưa cũ của vua chúa và giáo sĩ; nó biến một người được sinh ra trong kiếp sống nô lệ thành một người có vai vế ngang hàng với vua chúa, quan quyền. Những đặc quyền mang tính kế thừa không còn có thể trụ vững nếu bạn chấp nhận rằng vào thời điểm chúng ta được sinh ra, tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng ngang nhau; sức mạnh, địa vị và của cải được thừa kế chỉ là những gì mà con người sở hữu chứ không phải mang tính bẩm sinh hay được Thượng đế ban tặng.

Như vậy, sự quả quyết theo quan điểm cá nhân chủ nghĩa rằng chữ “Tôi” là yếu tố cơ bản thuộc bản chất loài người đã chứng tỏ được tính hữu ích của nó trong quá trình đấu tranh thoát khỏi sự ràng buộc của trật tự xã hội cũ. Những người sáng lập ra Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã sử dụng chữ “Tôi” để biện minh và thoát khỏi sự cương tỏa của Vương quốc Anh, và những nhà cải cách vĩ đại của thế kỷ 19 như Wilberforce và J.S. Mill đã sử dụng chữ “Tôi” như một nguyên tắc chủ đạo trong các tranh lậun ủng hộ những thay đổi trong việc bãi bỏ chế độ nô lệ và mở rộng quyền bầu cử của nam giới và sau đó là đến nữ giới. (Mill có suy nghĩ rất khác thường về quyền bầu cử – ông cho rằng việc từ chối quyền bầu cử ở phụ nữ cũng có nhiều ý nghĩa như việc từ chối quyền này ở nam giới – những người tình cờ cũng có mái tóc màu đỏ).

Tư duy tập thể

Khi chúng ta tư duy về hành vi đám đông theo quan điểm học thuật hay mang tính phi thực tế hơn, mọi thứ không còn tích cực nữa. Nội dung kinh điển của thế kỷ 19 về hành vi đám đông (The Madness of Crowds – Sự cuồng loạn của đám đông của Gustave le Bon, nhà tâm lý xã hội học người Pháp) cho rằng hành vi đám đông là thứ không đáng tin cậy vì khi một đám đông tụ tập, điều gì đó khác thường sẽ xảy ra.

Le Bon cho rằng các cá nhân tham gia vào một đám đông sẽ trải nghiệm một dạng hiệu ứng thôi miên từ đám đông đó và chịu sự tác động của một loại hành vi ám thị tập thể – thứ khiến họ dễ bị ảnh hưởng bởi những kẻ điên rồ, những “lãnh tụ” có uy tín và những thành viên khác của đám đông. Được bảo vệ bởi một thế lực vô hình đội lốt đám đông, các cá nhân sẵn sàng từ bỏ cái tôi lý trí, trách nhiệm của bản thân và tiến tới thực hiện đủ mọi hành động khủng khiếp mà tự bản thân họ chưa bao giờ dám nghĩ đến; đúng vậy, những hành động mà họ thường lên tiếng chỉ trích.

Sigmund Freud, một tác giả đương đại cùng thời với Le Bon, đã viết cuốn Mass Psychology như một cách hưởng ứng phong trào cách mạng Nga và sự trỗi dậy của quyền con người ở Áo cũng như khắp các quốc gia thuộc cộng đồng Đức ngữ. Giống như hầu hết những người tiên phong về văn hóa và các đồng nghiệp của mình tại Anh và Mỹ, Freud nhận thấy được mức độ dễ bị ảnh hưởng của các đám đông trước sự lôi kéo của những người đứng đầu có uy tín như các linh mục, giáo sĩ và chính trị gia, và xem đây là mối nguy hiểm thật sự khi chịu đựng hành vi đám đông, một nguyên nhân chủ yếu khiến ông căm ghét đám đông.

Một trong những người hâm mộ cuồng nhiệt tác phẩm của Le Bon là một người Áo trẻ tuổi, Adolf Hitler. Phần lớn nội dung của cuốn Mein Kampf đều dựa trên lý thuyết đám đông của Le Bon. Về sau, Joseph Goebbels, bậc thầy quan hệ công chúng của Hitler, đã tận dụng hầu hết tư duy của Le Bon để xây dựng cấu trúc và nội dung cho các cuộc họp của Đảng Nazi (được tìm thấy trong một hồ sơ ghi chép kỳ lạ về cuộc họp Nuremberg năm 1917). Các kiểu tuyên truyền nhằm kích động tinh thần và kêu gọi sự tuân thủ diễn ra khắp đất nước này đều xuất phát từ lối tư duy của Le Bon. Các trạng thái cảm xúc, hành động bắt chước, mô phỏng lẫn nhau và mặt nạ ẩn danh, tất cả đều được tận dụng để kích thích đám đông. Ngay cả việc lựa chọn thời điểm diễn ra vào ban đêm – cùng với những ngọn đuốc sáng lung linh – dường như cũng nằm trong kế hoạch này.

Edward Bernays, người sáng lập ra các mối quan hệ công chúng hiện đại (thực ra là có liên quan đến phương pháp của Freud), đã hệ thống hóa phương pháp này cho giới kinh doanh trong các nghiên cứu kinh điển của mình như Crystallizing Public Opinion (Kết tinh quan điểm cộng đồng). Một cách hơi có phần chỉ trích, ông cho rằng mặc dù việc giáo dục và tuyên truyền chứa đựng

những hàm ý đạo đức và ý nghĩa xã hội… nhưng điểm khác biệt duy nhất giữa [chúng] nằm ở quan điểm. Việc ủng hộ những điều chúng ta tin tưởng được gọi là giáo dục. Còn quá trình biện minh cho những thứ chúng ta không tin tưởng được gọi là tuyên truyền.

Thậm chí ở những dạng thức nhỏ lẻ hơn, hành vi đám đông vẫn được xme là điều cấm kỵ. Các quan điểm hiện đại về áp lực đồng đẳng (peer pressure) và tư duy nhóm (group think) hoặc sẽ thể hiện đặc tính văn hóa (những cá nhân ngốc nghếch và dễ bị tổn thương như trẻ em và người nghèo, vì thế họ cần được bảo vệ khỏi đám đông) hoặc chỉ được xem như dấu hiệu của sự suy đồi về đạo đức (trước sự coi khinh của giới truyền thông, các báo cáo của Cơ quan Điều tra Anh và Cơ quan Tình báo Hoa Kỳ được thực hiện trên đường đến các quốc gia vùng Vịnh tham chiến lần hai đều lên tiếng cáo buộc cả chính quyền Anh lẫn chính quyền Mỹ cũng như những chuyên gia cố vấn theo kiểu “tư duy nhóm” của họ).

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB THTPHCM 2012

Tôi và chúng ta – Phần III


Wo die Zitronen bulűhn

Có vẻ như chỉ ở những vùng đất lạnh giá của châu Âu Anglo-Saxon và giữa những hậu duệ bên kia đại dương người ta mới đề cao chữ “Tôi” hơn chữ “Ta”. Nam Âu – một nơi lạ kỳ nhưng đẹp đến mê hồn suốt nhiều thế kỷ qua, nơi “cây chanh trổ hoa” như Goethe mô tả – có một giả định khác về cách hiểu bản chất của con người.

Một nhóm các nhà xã hội học và chuyên gia nghiên cứu thị trường đến từ các quốc gia Địa Trung Hải (và một số khác đến từ khu vực Scandinavi) đã tập hợp lại để đề xuất một quan điểm của trường phái Latin (đối lập với Anglo-Saxon) về xã hội và tiêu dùng. Người nổi tiếng nhất trong thế giới kinh doanh ủng hộ cho quan điểm này là Bernard Cova đến từ Trường Quản lý châu Âu, Paris, và ông đã đề xuất mô hình sau:

Đối lập với mô hình cá nhân chủ nghĩa, sự quả quyết của Cova thể hiện qua lập luận rằng tất cả các hành vi hợp lý của con người đều xảy ra trong một bối cảnh xã hội, dù đó là tiêu dùng, kết đôi hay tôn giáo. Tương tự, ông cho rằng chỉ trong những nhóm có quy mô vừa phải thì bối cảnh xã hội mới thật sự tồn tại. Khi tôi và bạn cùng xem bóng đá, nếu bạn sống ở Madrid còn tôi sống ở London, chúng ta không thật sự chia sẻ một bối cảnh xã hội (dĩ nhiên Internet đang thay đổi điều này một cách đáng kể nhưng chỉ đến mức độ tạo ra mối liên kết xã hội giữa những người không gần gũi với nhau về mặt địa lý).

Hình minh họa 3.1 Mô hình phễu của Cova

Đó là lý do vì sao họ kết luận rằng, về cơ bản, nỗ lực của trường phái Anglo-Saxon nhằm hiểu về bản chất con người là sai lệch dù trên phạm vi nhỏ như các chứng bệnh thần kinh đặc trưng của từng cá nhân hay tính xác thực của môn thần kinh học và sinh vật học, hoặc trên phạm vi rộng như xã hội (hay cả hai – đây chính là bản chất của mô hình khoa học xã hội chuẩn). Thay vào đó, ông xem “bộ tộc” hay môi trường xã hội, nơi ta đang sống, là nơi thích hợp để nghiên cứu về hành vi con người và đặc biệt là hành vi tiêu dùng.

Với những ai đang cư ngụ trong một nền văn hóa Địa Trung Hải thì điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn. Thậm chí đời sống thành thị nơi đây cũng mang tính chất bộ lạc; có nghĩa là người ta thật sự sống theo những nhóm có quy mô trung bình, không phải một nhóm có quy mô lớn hơn hay từng cá nhân riêng lẻ. Nhưng điều này cũng đúng với cư dân ở một thành phố Anglo-Saxon rộng lớn như London, cho dù chúng ta không nhận ra – thực tế là dù không ở trên máy bay để dự họp ở một thành phố xa xôi nào đó, tôi cũng sống một “cuộc sống bộ lạc”. Có nghĩa là, tôi chỉ tương tác thật sự với một nhóm nhỏ mà thôi. London của tôi có thể trải rộng lên khắp thành phố, nhưng nó chỉ thật sự bao gồm một số ít khu vực địa lý mà tôi thường đến, trong khi đó, tôi lờ đi các khu vực khác (những nơi hoàn toàn khác so với London của nơi tôi sinh sống).

Bạn hãy thử trò này để xem nó đúng đến mức nào đối với cuộc sống thành thị hiện đại ở phương Tây. Hãy lấy một tờ giấy và đánh dấu vào nơi bạn đang sống. Giờ thì tiếp tục đánh dấu những nơi bạn thường lui tới – để mua sắm, giải trí hay làm việc. Đừng quên những người họ hàng hay bạn bè mà bạn thường ghé thăm nhé. Kẻ đường thẳng nối những nơi này với nhà bạn.

Giờ thì nhìn lại bức tranh. Đó chính là khu vực địa lý của riêng bạn – London, Manchester, Frankfurt hay New York của riêng bạn.

Nghiên cứu hành vi bộ lạc của người tiêu dùng

Dù mô hình của Cova có nguồn gốc từ trải nghiêm thực tế về cuộc sống ở Địa Trung Hải nhưng tính hiệu lực của nó không bị giới hạn trong một địa điểm cụ thể hay một vùng quê tiền công nghiệp nào. Thật vậy, là một chuyên gia về quản trị, Cova tìm được một số ví dụ về hành vi xã hội mà giới kinh doanh có thể cảm thấy thú vị – từ sự phát triển của môn trượt patin ở Pháp đến việc chấp nhận một cách gàn dở các loại máy ảnh công nghệ thấp như LOMO (Leningradskoy Optiko-Mekhanicheskoye Ob’edinyeniye). Mới đây, Cova đã chứng minh được cách thức mà các cơ chế giống nhau có thể tạo ra hành vi tương tự nhau đối với các loại sản phẩm tiêu dùng nhanh vốn ít liên quan hơn (như các loại bơ, mứt).

Điều này cho phép ông xây dựng một định nghĩa rõ ràng hơn về bộ lạc như bối cảnh xã hội nơi chúng ta thực hiện hành vi tiêu dùng. Ông đưa ra những điểm khác biệt giữa thứ ông gọi là b6ọ lạc “hậu hiện đại” và bộ lạc “cổ xưa” nhằm làm rõ điều này (những nhóm xã hội có tính truyền thống cao hơn mà bạn chỉ có thể tìm thấy trong xã hội “nguyên thủy”).

1/ Phù du và trường cửu

Các nhóm mau tan rã và không gắn kết. Các bộ tộc cổ xưa tồn tại lâu dài và gắn kết.

2/ Số đông và riêng biệt

Một người có thể thuộc nhiều bộ tộc hậu hiện đại. Trong bộ tộc cổ xưa, một người chỉ có thể thuộc về một bộ tộc.

3/ Thuộc khái niệm và hữu hình

Những ranh giới của một bộ tộc hậu hiện đại chỉ mang tính khái niệm, nhưng lại hiện hữu trong các bộ tộc cổ xưa.

4/ Cảm giác và quan hệ họ hàng

Thành viên của một bộ tộc hậu hiện đại gắn kết với nhau bằng những cảm xúc được sẻ chia và các dấu hiệu riêng. Thành viên của các bộ tộc cổ xưa gắn kết với nhau bằng quan hệ họ hàng và phương ngữ.

Hơn cả marketing

Điều này rất có ý nghĩa đối với những ai trong chúng ta đang gặp phải hiện tượng hành vi tiêu dùng ở các thương hiệu hấp dẫn hay đáng được nói đến. Cova hoàn toàn đúng khi cho rằng, xét về bản chất, phần lớn hành vi của người tiêu dùng đều mang tính quần thể. Hoạt động của chúng ta không chỉ diễn ra trong một bối cảnh xã hội (rõ ràng và ngay thời điểm hiện tại) mà còn do các nguyên nhân mang tính quần thể – tức đối tượng hay hành động chỉ là phương tiện để một nhóm hay một bộ tộc hình thành hay tương tác. Quan điểm này cũng gợi nhớ nhiều điều về những gì Douglas Atkin mô tả trong nghiên cứu của ông về những thương hiệu khởi đầu trào lưu – những thương hiệu xây dựng nên một “tôn giáo” (như Apple, và dòng xe bán tải Ford) có vẻ như còn thể hiện một nhu cầu xã hội tiềm ẩn trong mỗi cá nhân (giống như niềm tin tôn giáo): nhu cầu sở hữu. Sức quyến rũ thật sự có thể không phải là thương hiệu mà là… những người khác.

Tuy nhiên Cova tiếp tục giới thiệu một cảnh báo hữu ích chống lại giả định ngu ngốc của nhiều người trong giới truyền thông hiện đại, những người muốn chúng ta tin vào quan niệm cứng nhắc rằng bất kỳ thương hiệu nào cũng có thể xây dựng nên một cộng đồng xung quanh nó. Ông lưu ý rằng, như Shakespear đã nói, mỗi chúng ta đều giữ nhiều vai trò: đối với Cova, tư cách thành viên trong một bộ tộc hậu hiện đại thường mang tính manh động và dễ thay đổi (cả trong nội bộ một bộ tộc lẫn giữa các bộ tộc với nhau). Đời sống xã hội hiện đại của hầu hết chúng ta là sự di chuyển liên tục từ nhóm này sang nhóm khác; hầu hết chúng ta đều giữ nhiều vai trò quan trọng trong một nhóm tại nhiều thời điểm khác nhau.

Một số người, ví dụ như Alan Moore, sẵn sàng chấp nhận rằng chỉ một vài thương hiệu thật sự thú vị mới có thể làm được điều này còn những người tán thành thì không ngừng phô trương về những kế hoạch xây dựng trang web cho “cộng đồng thương hiệu” mà công ty muốn tin bằng sự mù quáng và ích kỷ của mình. Cho dù ví dụ về Nutella của chính Cova là một ngoại lệ chứ không phải quy tắc, nhưng sự thật là cuộc sống thực sự của loài người dựa trên những người khác chứ không phải dựa trên các thương hiệu. Các chuyên gia marketing cần nhớ rõ điểm này.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB THTPHCM 2012

Tôi và chúng ta – Phần II


Những người Hy Lạp thận trọng

Giả thiết cơ sở của ông để giải thích những khác biệt này là khá táo bạo (nếu không muốn nói là hoàn toàn không có thách thức): nền văn hóa phương Tây của chúng ta bắt nguồn từ nền văn hóa thương nghiệp và nghề đi biển của người Hy Lạp cổ đại. Sự khác biệt và chia cắt có ý nghĩa quan trọng. Những tư tưởng về sau hình thành nên thế giới phương Tây như dân chủ và nhân quyền đều xuất hiện trong bối cảnh sống động và đầy màu sắc này. Tính logic, hợp lẽ phải và thuật hùng biện là những kỹ năng cốt lõi được định hình trong xã hội nơi chúng được sinh ra. Nhưng ngược lại, ông cũng cho biết nền văn hóa chính thống của Trung Quốc – triết lý Khổng Tử – chính là sản phẩm của một môi trường, nơi tính thuần nhất, chứ không phải tính hỗn tạp, mới là quy phạm. Hiếm có ai ra khỏi làng minh; ít khi thấy người lạ, vì thế sự khác biệt chưa bao giờ có ý nghĩa quan trọng. Ở đây, tính qua lại và sự phụ thuộc lẫn nhau có ý nghĩa sống còn đối với những ai sinh sống trong nền văn hóa đó.

(Về chủ đề này, thật thú vị là dù trí tuệ Trung Hoa có thể vượt trội phương Tây cả vài thiên niên kỷ nhưng các nhà lý luận người Trung Quốc chưa bao giờ tìm ra cái mà trong logic học gọi là “luật bài trung” – một trong những nguyên tắc nền tảng của logic học cổ điển châu Âu. Quy luật này nói rằng một vật, không thể cùng lúc có và không có một thuộc tính. Một thứ không thể vừa là A vừa là –A. Nếu không có công cụ này thì phần lớn truyền thống tranh luận và hùng biện của phương Tây sẽ trở nên thừa thãi. Hầu hết những bài báo mà bạn đọc và tôi đọc hay sáng tác sẽ không thể đứng vững; thực tiễn khoa học như chúng ta đã biết với giả thiết và chứng minh giả thiết sẽ không thể tưởng tượng nổi; cho đến khi vật lý lượng tử và nguyên lý bất định xuất hiện).

Dù bạn nghĩ gì về lời giải thích bao quát của Nisbett về sự khác biệt giữa hai nền văn hóa Hy Lạp và Trung Hoa, thì những hiện tượng mà quá trình so sánh này đang cố gắng làm rõ – cách suy nghĩ và hành xử của những người ở hai nền văn hóa ấy – sẽ khá bất ngờ và có ý nghĩa trong nhiều lĩnh vực. Bằng kinh nghiệm của bản thân tôi biết sẽ khó khăn như thế nào khi thu thập ý kiến từ các nhóm khách hàng tập trung người Thái Lan hay Trung Quốc; dường như họ không có phương tiện bày tỏ ý kiến khác biệt; hay có vẻ như điều này không được xem là đúng đắn. Ngược lại, ở phương Tây, bạn chỉ cần bật máy ghi âm lên và hầu như ai cũng có thể nói cho bạn nghe ý nghĩ của họ (thậm chí họ huyên thuyên trên mức cần thiết), và bất đồng với người bên cạnh một cách khá thô lỗ.

Ubuntu

Không chỉ có các nền văn hóa Á Đông mới thách thức sự tập trung vào các cá nhân của văn hóa phương Tây. Những ai sinh trưởng trong các nền văn hóa châu Phi cũng có xu hướng tư duy về tập thể, về con người với tư cách một loài động vật quần thể chứ không phải những cá thể của một giống loài cá nhân chủ nghĩa. Từ “Ubuntu” được tìm thấy ở cả nền văn hóa Zulu lẫn Xhosa và nó có vai trò định hình cho cuộc sống ở châu Phi.

Ubuntu có nghĩa là “lòng nhân đạo được sẻ chia” hay “tình thương dành cho người khác”. Về bản chất, nó là một sự thừa nhận như Tổng giám mục Desmond Tutu đã nói:

[Rằng] Tình thương của tôi được tiếp nhận và gắn bó mật thiết với tình thương của bạn. Một người có ubuntu luôn tỏ ra niềm nở, thân thiện, ấm áp và hào phóng, sẵn sàng chia sẻ, cởi mở và giúp đỡ người khác; tin tưởng người khác; không cảm thấy lo sợ khi người khác có khả năng và giỏi giang, bởi người này có sự tự tin cần thiết xuất phát từ hiểu rằng họ thuộc về một tập thể lớn hơn và sẽ thấp kém đi khi người khác bị bẽ mặt hoặc bị hạ thấp.

Dù các cá nhân có thể nói rằng họ sở hữu hay thể hiện Ubuntu, nhưng ý nghĩa thực sự lại thiên về ý thức hệ; nó đại diện cho một nhu cầu thôi thúc phải hành động (như thành ngữ Zulu có câu: một người chỉ khẳng định sự tồn tại của mình thông qua người khác). Ubuntu làm sáng tỏ nguồn gốc của sự sẻ chia trong nhiều nền văn hóa châu Phi (dù nghèo khó nhưng chủ nhà vẫn sẵn sàng thiết đãi khách tất cả thức ăn mà họ có) và ý thức đoàn kết giúp các cộng đồng này vượt qua được những giai đoạn khó khăn nhất.

Ta sẽ dễ dàng xem đây là một tuyên bố nổi loạn nhưng yếu ớt về tính tương thuộc, về tình yêu và sự chia sẻ; dễ đánh giá thấp khoảng cách giữa quan điểm của chủ nghĩa thực dân và người bị trị về tính nhân đạo. Câu trích dẫn ở đầu bài, được trích ra từ tuyên bố chính sách của Đại hội Quốc gia châu Phi (ANC) năm 1944, đã thể hiện sự mâu thuẫn sâu sắc giữa quan điểm Ubuntu và phương Tây về mọi thứ. Một lần nữa, chỉ khi hiểu được quan điểm của người khác về mình, chúng ta mới hiểu được mình thật sự là ai và biết cách nhìn nhận về bản thân. Chúng ta hãy cùng suy ngẫm lại điều này.

Người da trắng xem… các cá nhân… (là)… những sinh vật bé nhỏ có cuộc sống và cái chết riêng: quyền lực cá nhân, thành công và danh vọng chính là những thước đo giá trị tuyệt đối, những thứ làm nên mục đích cuộc sống.

Những sinh vật nhỏ bé. Cuộc sống riêng. Và cái chết riêng. Không phải toàn bộ sự thật, bạn có thể nghĩ như thế. Nhưgn cũng không phải hàng triệu dặm cách xa thực tế cuộc sống ở một thành phố phương Tây hiện đại.

Hòa bình và hòa giải

Như đã nói, việc áp dụng ý tưởng Ubuntu có vai trò chính trị quan trọng giúp Nam Phi tránh được những cuộc tàn sát thảm khốc mà các quốc gia thời hậu thuộc địa trên lục địa này phải hứng chịu trên con đường đạt được quy tắc số đông. Việc chuyển giao chế độ được đánh giá không chỉ đơn thuần như trao chìa khóa một tủ rượu. Desmond Tutu, Nelson Mandela và về sau là Mbeki đều thực hiện những sáng kiến xây dựng chính sách dựa trên ý tưởng trung tâm này. Có thể thành quả quan trọng nhất, xét về quá trình chuyển biến trong hòa bình từ quốc gia giàu có nhất châu Phi thành một đất nước đa văn hóa, chính là Ủy ban Sự thật và Hòa giải, nơi Tutu giữ vị trí chủ tịch torng nhiều năm, dù vẫn bận bịu với các công việc hàng ngày.

Ủy ban này tận dụng tư tưởng về lòng nhân ái được sẻ chia để hàn gắn những vết thương giữa các nhóm dân tộc khác nhau trong xã hội Nam Phi, không chỉ giữa người da đen và da trắng, mà là giữa tất cả các khu vực khác nhau, bất kể nhóm này đã làm gì đối với nhóm kia. Xin trích lại lời của Tutu:

Tha thứ không chỉ là vị tha. Nó chính là hình thái tốt nhất của sự tư lợi. Những gì tha hóa bạn cũng sẽ tha hóa tôi. [Sự tha thứ] mang đến cho con người sự kiên cường, cho phép họ tồn tại và thoát khỏi hình ảnh con người trầm lặng, bất kể mọi nỗ lực đang tìm cách tha hóa họ”.

Chương trình này – hiện được áp dụng cho các quốc gia có xung đột khác như Rwanda và sau này là Bắc Ireland – có năm giai đoạn được cho là cần thiết để đạt được sự hòa giải lâu dài.

1/ Nhận biết tội lỗi

2/ Bày tỏ sự ăn năn, hối lỗi

3/ Yêu cầu và cam kết tha thứ

4/ Đầu tiên là bồi thường thiệt hại chiến tranh

5/ Hòa giải

Nhiều nhà tâm lý trị liệu và chuyên gia về mối quan hệ sẽ nói với bạn rằng nếu các cá nhân trong thế giới của chúng ta muốn tìm kiếm một giải pháp bền vững để khắc phục sự khác biệt giữa họ thì tính tương đồng là một trong những yếu tố cần thiết. Một thứ gì đó rất khác biệt nhưng khó đạt được hơn “sự tha thứ rẻ tiền” mà Bob Hoffman chế nhạo (tôi nghĩ ông muốn ám chỉ “chỉ đơn giản là quên đi” hay những tuyên bố phiến diện giống như thế về sự tha thứ).

Thực tế rằng Nam Phi vẫn gặp khó khăn không có gì đáng ngạc nhiên; đây là một quốc gia hùng mạnh với đa số dân cư sốn gtrong cảnh nghèo khó, tương phản với một số ít người được xếp vào loại giàu nhất hành tinh, và đây hoàn toàn không phải là thiên đường hạ giới. Đặc biệt, những người dân nghèo hơn và trình độ kém hơn dưới sự cai trị của nhóm Afrikaner vẫn thường cảm thấy khó thích nghi trong một quốc gia thời kỳ hậu hòa giải. Có nghĩa là, khó có thể chối bỏ sự thật rằng quốc gia này, xét theo nhiều phương diện, có tính thống nhất cao hơn các nước láng giềng, thoải mái với chính mình và với vị trí của mình trên thế giới; tránh được các cuộc thảm sát đẫm máu thời hậu thuộc địa mà nhiều nước láng giềng khác như Zimbabwe của Robert Mugabe phải hứng chịu. Bên cạnh nỗ lực và trách nhiệm của những người dẫn đầu quá trình này, niềm tin dành cho tư tưởng Ubuntu là hoàn toàn xứng đáng. Khi quốc gia cầu vồng (theo cách gọi của Tổng thống Nelson Mandela về nước Nam Phi hậu aparthai) có thể hợp nhất dưới một lá cờ và cùng nhau hát vang ca khúc Nkosi Sikelel iAfrika (Chúa ban phước cho châu Phi – Quốc ca Nam Phi từ năm 1994), những gì bạn thấy là một quốc gia được hàn gắn bởi chính tư tưởng Ubuntu (lòng nhân ái được sẻ chia) của mình. Ít nhất là trong thời điểm hiện tại.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB THTPHCM 2012

Tôi và chúng ta – Phần I


Phần còn lại của thế giới xem chúng ta như một giống loài có tính “bầy đàn”, quan điểm Á Đông, Ubuntu và châu Phi. Chủ nghĩa tập thể và tính tương thuộc. Trường phái Latin về xã hội và sự tiêu dùng. Nỗi lo sợ của chúng ta trước đám đông điên loạn. Văn hóa của cái “Tôi” và sự thiên vị của chúng ta dành cho các cá nhân, chuyên gia và các vị anh hùng. Chủ nghĩa cá nhân phần lớn xuất phát từ hệ tư tưởng Anglo-Saxon: xuất phát từ Thời kỳ Phục hưng và Khai sáng. Vì sao Bà Thatcher vừa đúng lại vừa sai. Làm thế nào các nhà tư tưởng cá nhân chủ nghĩa chủ động xây dựng được môn tâm lý học xã hội và những công cụ giúp chúng ta hiểu về hành vi đám đông. Điều này có ý nghĩa gì trong kinh doanh, nghiên cứu thị trường và các phương pháp hiện tại của chúng ta nhằm thay đổi hành vi đám đông.

Người da trắng xem.. các cá nhân… (là)… những sinh vật bé nhỏ có cuộc sống và cái chết riêng: quyền lực cá nhân, thành công và danh vọng chính là những thước đo giá trị tuyệt đối, những thứ làm nên mục đích của cuộc sống. Quan điểm về cuộc sống chia nhân loại thành nhiều thực thế đơn lẻ, nhỏ bé, luôn ở trong trạng thái xung đột triền miên và do đó, càng đẩy nhanh giây phút hủy diệt cuối cùng của chính mình.

Tuyên bố chính sách, năm 1944, Liên đoàn Tuổi trẻ, Đại hội quốc gia châu Phi

Một luồng gió nóng

Tôi còn nhớ rất rõ những bước chân đầu tiên của mình trên đất Ấn.

Tôi đến phi trường Goa mệt nhừ sau chuyến bay riêng (và hai giờ quá cảnh kỳ quái lúc nửa đêm ở Bahrain). Sau sự hỗn loạn thường thấy ở khu vực giao nhận hành lý cho du khách tứ phương, tôi và chị gái mình bước qua khu vực quản lý nhập cư để tiến về phía đám đông náo nhiệt bên ngoài những chiếc cửa tự động bắt mắt, và thứ ánh sáng như hun nóng của đất nước Ấn Độ.

Tôi còn nhớ trải nghiệm phấn khích đầu tiên của mình là đám đông người Ấn trong bộ sari màu sáng và vòng hoa cúc sặc sỡ trên người đều nhiệt tình chào đón bất kỳ ai – hay có vẻ là thế – đến với thiên đường du lịch của tiểu lục địa rộng lớn này. Tôi còn nhớ là bên ngoài, những chú bò thong thả dạo bước qua tòa nhà sân bay mà chẳng buồn để tâm đến đám đông lộn xộn kia; đối với chúng, những thứ như thế này là tầm thường và không có nghĩa gì đối với chu kỳ bất tận của sinh, tử và tái sinh. Nhưng hơn hết, tôi còn nhớ những luồng khi nóng xộc đến từ bên ngoài tòa nhà – một thứ không khí nóng bức và khô hanh đến kinh ngạc. Tôi sẽ không bao giờ quên được khoảnh khắc ấy, cảm xúc ấy, luồng khí nó khô hanh ấy tràn vào mũi, cổ họng và phổi của mình, cùng với cảm giác say nắng mà nó gây ra.

Cảm giác khi ta gặp gỡ một nền văn hóa khác là như thế đó. Quá nhiều thứ tương đồng như cũng có quá nhiều điểm khác biệt. Một số có thể rất đáng lo ngại nhưng số khác chỉ hơi kỳ quặc mà thôi. Nhưng bất kỳ lữ khách nào cũng nhận ra rằng chức năng chủ yếu của du lịch là giúp chúng ta khám phá bản thân. Nhờ hiểu và chấp nhận những khác biệt ở nhiều lối sống khác nhau, chúng ta hiểu về bản thân mình một cách rõ ràng hơn. Thật vậy, quá trình này có thể giúp ta nhận ra trong số những ý nghĩ đã dẫn dắt mình đâu là thứ không còn hữu ích và đâu là thứ ta muốn giữ lại.

Bài này sẽ bàn về quan điểm rằng, trong thế giới Anglo-Saxon, chúng ta đã sai. Hầu hết phần còn lại của thế giới đều xem giống loài của chúng ta đầu tiên và trước nhất là một “giống loài chúng ta” và điều này không chỉ ảnh hưởng đến cách suy nghĩ mà còn đến cách cư xử của họ. Ngược lại, chúng ta lại bị mắt kẹt đằng sau lăng kính của hệ tư tưởng “cá nhân chủ nghĩa” và điều này – thậm chí còn hơn cả cấu trúc não bộ của chúng ta – là một trong những nguyên nhân chính khiến ta không thể nhận ra sự thật về những cái bản thể trần trụi giống khỉ của mình: bản chất bầy đàn của mình.

Chu du thực sự

Dĩ nhiên, các nhà nhân chủng học đi du ngoại để kiếm sống. Họ tìm hiểu về các nền văn hóa xa lạ không chỉ nhằm mục đích để hiểu về những hành vi bề mặt mà còn về những quan điểm ẩn chứa đằng sau đó về thế giới. Gần đây, tôi tình cờ đọc được một nghiên cứu về vai trò của loài sói đối với các nền văn hóa khác nhau của con người, nó tiết lộ tất cả những giả định thú vị mà chúng ta mang theo bên mình. Trong hầu hết các nền văn hóa của con người, loài sói có một giá trị văn hóa cửa ngõ (liminal) thú vị; tức là nó đại diện cho mọi nguy hiểm nằm ngoài sự an toàn của nền văn minh, trong Khu rừng tăm tối (Dark Woods), trong đời thực sự hay chỉ mang tính hình tượng Na Uy đang tranh cãi về hành động tàn sát 25% quần thể sói tự nhiên (khoảng chừng 24 con) tại đất nước họ – những người làm việc tại các khu vực băng giá hẻo lánh xem đây là biện pháp an toàn cần thiết; còn cư dân thành thị thì cho rằng đó là tội ác đối với thế giới tự nhiên. Dù đúng hay sai (và các nhà nhân chủng học luôn cố không nghĩ đến việc đúng sai), cuộc tranh luận cho thấy một điều kỳ lạ về những giả định mà mỗi nhóm có được về chính họ cũng như vị trí của họ trong thế giới này.

Ngày càng có nhiều nhà tâm lý học thực hiện các phân tích xuyên văn hóa theo cách tương tự. Sẽ không có gì sai khi nói rằng hầu hết những gì chúng ta biết về các lĩnh vực tâm lý khác nhau đều dựa trên những sinh viên tâm lý học da trắng thuộc tầng lớp trung lưu (thường là người Mỹ); thậm chí các phương pháp bắt nguồn từ những giả định xuất phát từ các nền văn hóa địa phương. Chẳng hạn, từ lâu, các nhà tâm lý học và các nhà linh trưởng học đã xem trí thông minh là một chức năng riêng lẽ. Đây là lý do vì sao loài tinh tinh (và một số chủ thể con người) được cho là ngu ngốc – chúng thể hiện rất kém trong các bài kiểm tra IQ truyền thống. Mãi đến khi phát hiện quan trọng về trí tuệ xã hội của Nick Humphrey’s được thừa nhận thì một định nghĩa hữu ích hơn về trí thông minh mới được cân nhắc và cho phép áp dụng để thay đổi phương pháp đánh giá trí thông minh của con người và các loài vật khác. Chúng ta hiện rất đề cao những năng lực phi thường của trí thông minh mà các loài linh trưởng sử dụng để tương tác hiệu quả với nhau.

Vì vậy, các nghiên cứu xuyên văn hóa có thể hé mở nhiều cách nhìn nhận khác nhau cho cùng một vấn đề, tùy thuộc vào nền văn hóa nơi bạn sinh trưởng. Nó giúp ta nhận ra điều gì được quyết định trên phương diện văn hóa, điều gì không, đâu là ảo giác và đâu là sự thật.

Người tiên phong trong lĩnh vực này không ai khác ngoài Richard Nisbett. Những nghiên cứu tâm lý học xuyên văn hóa đồ sộ của ông cung cấp một tập hợp bằng chứng thật sự thú vị cho giả thiết rằng những người phương Tây suy nghĩ hoàn toàn khác so với những người họ hàng của mình trong các nền văn hóa phương Đông.

Người phương Tây suy nghĩ theo hướng cá nhân và thiên về các nguyên nhân; còn người phương Đông suy nghĩ theo hướng tập thể các mối quan hệ và hệ thống. Ví dụ như Nisbett ghi nhận một hiện tượng gọi là “giết người hàng loạt tại trung tậm mua sắm” bởi một học sinh trung học người Mỹ gốc Trung Quốc (do bất mãn nên cậu thanh niên này đã mang vũ khí bán tự động của bố mẹ đến trung tâm mua sắm và gây ra tấn thảm kịch). Nisbett lưu ý rằng những tờ báo tiếng Trung Quốc ở địa phương bày tỏ nỗi thất vọng với cộng đồng. “Vì sao xảy ra cớ sự này? Chúng ta đã làm gì sai để rồi sự việc lại khủng khiếp đến thế?”, họ than khóc. Trong khi các tờ báo tiếng Anh lại truy tìm bệnh thái nhân cách của cá nhân xấu xa ấy, nghiên cứu thời điểm nào linh hồn đen tối của hắn được giải thoát.

Nisbett xem mô tả này không chỉ đơn thuần là sự khác biệt giữa phong tục của hai nền văn hóa mà còn là sự khác biệt trong cách nhìn nhận về thế giới. Nói cách khác, ông cho rằng những ý niệm mà ta tiếp thu trên phương diện văn hóa sẽ đóng vai trò như một bộ lọc hay lăng kính cho cách chúng ta quan sát và tương tác với thế giới xung quanh; nền văn hóa nơi chúng ta sinh trưởng sẽ thay đổi cách tư duy của chính mình. Ông đánh dấu bằng chứng về sự tự tin thái quá của người phương Tây trong việc xác định các mối quan hệ nhân quả giữa biến cố và những khuynh hướng tương ứng nhưng đối lập ở người Trung Quốc. Họ thiếu tự tin khi xác định các nguyên nhân của sự việc, không phải bởi vì họ ngu ngốc hay thiếu hiểu biết mà vì họ xem thế giới là chuỗi hệ thống với nhiều biến số chứ không chỉ một cá nhân với các đặc điểm nhân quả riêng lẻ và đơn giản. Nisbett dẫn chứng về hành động vui đùa của người mẹ với đứa trẻ sơ sinh để khẳng định rằng thế giới quan về văn hóa của đứa trẻ sẽ được truyền từ người mẹ từ những năm tháng đầu đời, và sẽ được củng cố sau đó. Trong một nghiên cứu về các bà mẹ và trẻ sơ sinh mang hai dòng máu Mỹ-Hàn và Mỹ-châu Âu, ông chú ý rằng sự vui đùa giữa người mẹ và đứa con ở nhóm đầu tiên là về mối quan hệ giữa hai người; còn với nhóm thứ hai, sự vui đùa có xu hướng thiên về khách thể, các đặc điểm và sự khác biệt giữa các khách thể.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB THTPHCM 2012

Ảo tưởng về chữ “tôi” – Phần cuối


Trầm cảm và cái tôi bị bóp méo

Trầm cảm có thể là nhà tù kinh khủng nhất của mỗi cá nhân, dù ở trạng thái căng thẳng hay đơn độc và cách biệt. Không có gì diễn ra tương tự, không có gì đem lại cảm giác thoải mái, và không có gì mang lại hy vọng. Kỳ lạ là rất nhiều nhân vật vĩ đại trong lịch sử của chúng ta có dấu hiệu trầm cảm, Winston Churchill có lẽ là trường hợp điển hình nhất. Ông đặt tên cho trạng thái này là “con chó mực”. Những người gần gũi các cá nhân trầm cảm này đặc biệt dễ tổn thương bởi vì cá nhân ấy thay đổi hoàn toàn – người yêu, vợ/chồng của những bệnh nhân trầm cảm nhận xét rằng cứ như thể người họ yêu đã hoàn toàn biến mất.

Như vậy, trạng thái này là gì và nó được sinh ra như thế nào? Trước hết, trầm cảm là một sự rối loạn về nhận thức với nguồn gốc và ảnh hưởng thật sự nằm ở đặc tính hóa học của não bộ (có nghĩa là chúng có sự tương tác lẫn nhau). Một mặt, nó là trạng thái, nơi quan điểm của chúng ta về chính mình trong mối quan hệ tuyệt đối và tương đối với thế giới là tiêu cực và lòng tự trọng của chúng ta ở mức thấp. Mặt khác, nó bắt nguồn từ một sự rối loạn bên trong não bộ. Chất truyền dẫn thần kinh giúp chuyển tải thông điệp giữa các khớp thần kinh không vận hành đúng chức năng và điều này phá vỡ quá trình giao tiếp nội tại của não bộ. Thông thường, nó đi kèm với những thay đổi khác về chức năng cơ thể – giấc ngủ bị gián đoạn, ham muốn tình dục tan biến và hệ thống miễn dịch suy yếu.

Một số nguồn tin cho rằng chứng trầm cảm đã trở nên phổ biến hơn trong những năm gần đây, tăng gấp hai lần trong thập kỷ qua, một phần có thể là do kiến thức của các chuyên viên y khoa tăng lên cũng như việc các công ty được sản xuất ra một loại thuốc và họ cần phải xác định ra một thứ bệnh trạng mà loại thuốc đó có thể chữa trị. Những con số thống kê về bệnh trầm cảm thật đáng sợ – khoảng 7% – 12% ở nam giới và 20% – 25% ở nữ giới. Một nguồn tin khác cũng cho thấy vào bất kỳ thời điểm nào, 10% dân số trưởng thành ở Mỹ mắc chứng bệnh này. Trong khi nhiều người còn tin rằng con số thực tế có thể cao hơn nhiều.

Trong nỗ lực tìm hiểu căn bệnh này, một số nhà nghiên cứu nhận thấy sự khởi đầu là một phản ứng cần thiết và hợp lý trước các tình huống vào não trạng của mỗi cá nhân, khi cái trước thay đổi thì cái sau không còn hoạt động được nữa. Nhà tâm lý học Dorothy Rowe là người khởi xướng quan điểm này. Số khác thì nhìn nhận nó theo quan điểm của quy tắc ngón tay cái vốn không mấy thành công khi áp dụng cho bản thân và thế giới thơ ấu: Alice Miller thời hậu-Freud là một trong số những người này. Bà xem chứng trầm cảm là kết quả của các mô hình tìm kiếm sự chú ý được hình thành khi một đứa trẻ không được bố mẹ quan tâm hay yêu thương đúng mức. Ban đầu, những giả thiết của bà bị giới tâm lý trị liệu chế nhạo nhưng hiện đã được công nhận rộng rãi.

Phương pháp trị liệu

Có một số phương pháp trị liệu đã được kiểm nghiệm để chữa căn bệnh này, kể cả việc dùng thuốc để tái cân bằng đặc tính hóa học của não bộ. Tuy nhiên, phương pháp trị liệu dựa trên hành vi và nhận thức (CBT) ngày càng được ưa chuộng, đặc biệt là với các nhà cầm quyền, những người phải chi trả cho những khoản trị liệu này (không phải chỉ vì có thể đo lường được ảnh hưởng của phương pháp này mà người ta còn có thể thực hiện nó trong những khoảng thời gian nhất định với chi phí thấp). Một số khác thích sử dụng các phương pháp tâm lý trị liệu truyền thống để chữa chứng trầm cảm nhưng với bản chất của những liệu pháp này, rất khó để chứng minh hiệu quả ngoại trừ qua lời kể có tính chất giai thoại. Hầu hết các chuyên gia đều thừa nhận sự cần thiết của việc phối hợp hài hòa giúp các liệu pháp dược lý và liệu pháp trò chuyện tùy theo từng cá nhân cụ thể.

Căn cứ vào lập luận của tôi rằng chúng ta là một giống loài đặc biệt mang tính quần thể – một loài khỉ siêu quần thể – có thể sẽ thú vị khi biết rằng những triệu chứng trầm cảm thể hiện ở con người (xem nội dung bên trên) cũng được tìm thấy ở các loài tinh tinh và động vật hữu nhũ có tính quần thể khác. Cá thể bị trầm cảm ấy thường lẩn tránh xung quanh, trông bơ phờ và tác biệt (và dễ mắc bệnh).

Một số người khác (như Leahy) cho rằng trầm cảm đại diện cho phiên bản cực đoan của những gì cần thiết để duy trì hoạt động hiệu quả của một nhóm: hoạt động chính trị của nhóm sẽ không bao giờ tồn tại nếu chúng ta không tuân thủ vị trí của mình trong thang bậc xã hội và cảm nhận được sự phụ thuộc một cách mạnh mẽ và liên tục. Và thực sự cảm nhận nó để đảm bảo rằng chúng ta luôn tuân thủ. Một quan điểm khác (lý thuyết về địa vị xã hội) cho rằng trầm cảm là cần thiết để duy trì hoạt động liên tục của nhóm trong những thời điểm khó khăn. Những cá thể trầm cảm không cần nhiều thức ăn và không đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt từ các thành viên khác trong nhóm nhưng vẫn đóng góp vào chiến lược an ninh theo kiểu “an-toàn-theo-số-đông” của nhóm.

Trầm cảm có thể được xem là sự rối loạn chức năng về mặt xã hội, một phần do điều kiện sống và phương tiện giao tiếp của một cá nhân. Có lẽ tôi nghe nói rằng khi loại thuốc chống trầm cảm gốc (Prozac) được mang đến Trung Quốc để thử nghiệm lâm sàng, các bác sĩ Trung Quốc ngạc nhiên khi thấy chỉ có một thành viên trong nhóm xã hội cần sử dụng thuốc. Theo y học Trung Hoa, “trầm cảm” thường được xem là một căn bệnh của cá nhân nhưng cũng là dấu hiệu cho thấy rằng tập thể đó đang có vấn đề. Một giả thiết tương tự về chứng tâm thần phân liệt được đưa ra cách đây 40 năm bởi R.D. Laing, chuyên gia tâm thần học cấp tiến (dù rằng ngày nay nó không còn được thừa nhận bởi các đồng nghiệp của ông – những người quan tâm hơn đến khía cạnh dược lý của sức khỏe thần kinh).

Dù giả thiết này đúng đắn đến mức nào thì cũng thật sáng suốt khi xem xét khía cạnh xã hội của chứng bệnh trầm cảm. Cả dữ liệu chính thức lẫn không chính thức đều cho rằng đây là một trong những chứng bệnh nghiêm trọng nhất của thời đại ngày nay. Giới bác sĩ đa khoa ở Anh báo cáo rằng đây có lẽ là triệu chứng phổ biến nhất mà họ gặp trong giờ khám bệnh của mình. Nhiều người đổ lỗi cho lối sống cá nhân thay vì chung sống tập thể trong những năm gần đây. Một nghiên cứu ở Đức cho thấy tỷ lệ mắc chứng trầm cảm đã tăng 70% trong vài năm trở lại đây do những bất ổn về kinh tế và chính trị – và dữ liệu thu thập từ những khu vực nghèo khó của nước Mỹ cũng cho thấy những con số tồi tệ tương tự. Khi môi trường sống ngày càng không còn phù hợp với chúng ta – hay nếu bạn thích, tôi sẽ nói rằng có sự bất cân xứng giữa môi trường nơi ta đang sống và môi trường được thiết kế riêng cho chúng ta – chứng trầm cảm sẽ bắt đầu gia tăng. Càng ít sinh sống trong một thế giới có tính siêu quần thể thì chúng ta càng dễ bị trầm cảm.

Tóm tắt

Đến thời điểm này, tôi đã cố làm sáng tỏ vì sao phần lớn quan điểm thông thường của chúng ta về sự suy yếu của các cá nhân – nơi tốt nhất để bắt đầu suy nghĩ về giống loài của mình lại càng trở nên suy yếu bởi sự khác biệt giữa những gì chúng ta tin tưởng về trí óc và bộ não của mình với những gì mà tiến bộ khoa học đã chứng minh. Phần lớn những trải nghiệm của chính chúng ta về cuộc sống là ảo giác. Hãy cùng điểm lại các điểm chính sau:

1/ Ký ức – những thứ mang đến cho chúng ta nhận thức liên tục về bản thân, thường là ảo giác và hoàn toàn không đáng tin cậy trong vai trò một phương tiện giúp ta hiểu được một người đã làm gì và vì sao. Chúng ta hầu như không thể tiếp cận được sự thật về động lực của mình hay những gì mà chúng ta và người khác đã làm. Ý nghĩ rằng chúng ta hoàn toàn có thể tiếp cận được điều này cũng là ảo giác.

2/ Quá trình ra quyết định – ý thức về quá trình ra quyết định trước khi hành động cũng thường (nếu không muốn nói là đa phần) là ảo giác. Rất ít quyết định được đưa ra theo cách mà chúng ta muốn tin. Hầu như không có quá trình tính toán nào – chúng ta có xu hướng hành động theo trực giác mà không hề nhận ra. Mong muốn – hành động của ý chí – đa phần cũng là ảo giác và thường được tạo ra sau đó. Điều này khiến chúng ta dễ bị tác động bởi chính bản năng của mình và bởi người khác.

3/ Sau cùng, ý thức về cái “Tôi” – ý thức chủ quan về việc bản thân là một con người có ý thức – thường cũng là ảo giác. Không có cái “Tôi” nào theo ý nghĩa mà chúng ta muốn nghĩ về nó; không có chỗ nào trong bộ não là nơi các quyết định được thực thi, không có người điều khiển bé nhỏ nào; cũng không có ai nắm quyền cả. Dòng chảy ý thức không phải là dòng chảy liên tục. Nó có xu hướng nghiêng về bất kỳ loại ảo giác nào. Và bản thân nó có thể chỉ là một ảo ảnh dễ chịu giúp chúng ta tồn tại trogn tình trạng hỗn loạn của xã hội loài người.

Việc nhận biết những ảo giác này có ý nghĩa quan trọng bởi nếu không, chúng ta sẽ nhận thấy mình liên tục lặp lại quá trình nghiên cứu ảo giác về trải nghiệm của bản thân khi cố gắng quan sát cái sinh vật xã hội của chính mình. Chúng ta trở về với trải nghiệm của việc được là chính mình trong thế giới này và điều đó sẽ bóp méo mô hình hành vi con người của chúng ta. Chúng ta muốn trở về với cái “Tôi”. Một cách có ý thức hay ngược lại.

Dù hữu ích nhưng ảo giác vẫn chỉ là ảo giác. Mặc dù đối với mỗi chúng ta, có vẻ như cái “Tôi” là một quỹ tích của hành vi con người – liệu có phải tôi đang hành động như một người tìm cách thay đổi hành vi đám đông, với tư cách là đối tượng được nghiên cứu về hành vi đám đông của ai đó hay một công dân độc lập sống cuộc sống riêng tư của mình bên cạnh các cá nhân khác – nhưng bản thân điều này cũng là một ảo giác, cái thứ chết tiệt đã đánh lừa hàng tỷ người mỗi ngày. Nhưng một ảo giác vẫn tốt hơn con ma của Pepper.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB THTPHCM 2012

Ảo tưởng về chữ “tôi” – Phần V


Ảo giác về ý thức

Bên cạnh những mối hoài nghi về ký ức và ý thức trong quá trình quyết định của chúng ta, các nhà khoa học thần kinh ngày tiếp tục đặt ra nghi vấn xoay quanh trải nghiệm chủ quan của chúng ta về ý thức. Tôi xin lưu ý rằng toàn bộ chủ đề về trải nghiệm chủ quan về cái “Tôi” là một đề tài nóng bỏng đối với những bộ óc thông minh đang nghiên cứu về cơ chế hoạt động của não bộ. Trong một bài phát biểu tại hội nghị Tucson đầu tiên về ý thức, David Chalmers, nhà khoa học thần kinh người Australia có mái tóc dài đặc trưng, đã mô tả đây là một “vấn đề hóc búa” đối với các công trình nghiên cứu về ý thức. Nhà nghiên cứu nổi tiếng này vẫn chưa tìm ra được lối ra.

Chúng ta hiện biết rất ít về khía cạnh này của ý thức đối với bản thân và chỉ biết được một số điều về cách thức biến đổi của ý thức cũng như những ảnh hưởng của nó thông qua nghiên cứu về dược lý (lĩnh vực mà Susan Greenfield, nhà khoa học thần kinh hàng đầu người Anh, bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình). Tuy nhiên, có một sự đồng nhất đang xuất hiện.

Điều đầu tiên, những gì chúng ta biết về ý thức chính là nó không có quỹ tích, không có một địa điểm rõ ràng hay riên glẻ nào (nói một cách hình tượng, có một cậu bé tí hon nào đó đang ngồi ở một nơi nào đó trong bộ não của chúng ta, một người điểu khiển bé nhỏ nếu bạn thích gọi như thế).

Mỗi chúng ta đều cảm thấy rằng có một cái “Tôi” riêng lẻ đang được kiểm soát. Nhưng đó chỉ là một ảo giác mà bộ não cất công sản xuất… bộ não cũng có các hệ thống giám sát ở thùy não trước trán và vỏ não vành trước, thứ có khả năng phát động hành vi và lấn át những thói quen hay động lực thôi thúc. Nhưng những hệ thống này là các công cụ với nhiều đặc tính kỳ quặc và hạn chế; chúng không phải là những ứng dụng của tác nhân hành động tự do theo lý trí được đồng nhất với linh hồn hay bản thể.

Có thể mọi thứ sẽ phức tạp hơn một chút. Giống như ký ức, có thể ý thức cũng là một dạng chức năng phân tán của não bộ. Trong khi một số người như nhà sinh vật học phân tử Francis Crick khăng khăng rằng “các thể tương liên thần kinh của ý thức” có mặt ở đó để được khám phá thì chuyên gia thần kinh Susan Greenfield lại cho rằng chúng ta còn lâu, lâu lắm mới làm được điều đó. Chủ đề nghiên cứu hiện tại của bà là “trạng thái vật chất đặc biệt của bộ não – thứ luôn đồng hành với cảm xúc chủ quan”. Một tham vọng khiêm tốn nhưng thực tế giúp mở đường cho những nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực này.

Một phương pháp tiếp cập triệt để hơn với vấn đề trên chính là thừa nhận rằng cơ sở của nó có thể ở trong và ngoài bộ não (chứ không chỉ quanh quẩn bên trong đầu chúng ta). Nhiều nhà khoa học thần kinh tiến hành khái niệm hóa bộ não dựa trên toàn bộ hệ thống thần kinh, nơi có khả năng nuôi sống và tương tác với cơ quan mà chúng ta muốn nghĩ đến như “vị trí của ý thức”. Một số trải nghiệm kỳ lạ được ghi nhận ở các bệnh nhân cấy ghép tim là tính cách của họ thay đổi để phù hợp với tính cách của người hiến tặng quả tim.

Trong các ví dụ thường ngày, mỗi chúng ta đều cảm nhận khác nhau trong các tình huống khác nhau – đôi khi, sự căng thẳng được thể hiện qua các chức năng tiêu hóa, thỉnh thoảng nó lại xuất hiện trong các bộ phận khác của cơ thể. Có thể nào ý thức là một hiện tượng diễn ra khắp cơ thể?

Thứ hai, rõ ràng là rấ tkhó để xác định đâu là cội rễ hay khởi nguồn của ý thức – hay cơ chế tự nhiên của ý thức nếu bạn thích cách gọi này. Và thậm chí còn khó khăn hơn để lý giải điều chúng ta muốn nói về chính trải nghiệm chủ quan ngoại trừ theo cách vòng vo thường thấy (như kiểu nói “Nó là cảm giác về ý thức” chẳng hạn). Tuy nhiên, có lẽ đây là điều mà các triết gia có thể giúp chúng ta . “Là một con dơi thì như thế nào?” – công trình nghiên cứu nổi tiếng  của Thomas Nagel – vẫn chứng tỏ được mức độ khó khăn mà chúng ta gặp phải khi mô tả trải nghiệm về ý thức với người khác Nó giống như việc cố gắng giữ chặt một thanh xà phòng vậy.

Thứ ba, có nhiều bằng chứng để bẻ lại quan điểm thông thường cho rằng ý thức chứa đựng một dòng chảy liên tục các trải nghiệm thần kinh. Điều này không chỉ sai đối với hầu hết các buổi đêm – chỉ có một vài trạng thái say ngủ là khớp với bất kỳ định nghĩa hữu dụng nào về ý thức – mà rõ ràng là cái quan điểm thông thường ấy cũng không thể lý giải được nhiều tình huống. Susan Blackmore sử dụng ví dụ về việc lắng nghe giọng nói người khác để đưa ra quan điểm rằng bản thân dòng chảy ấy dường như có ý nghĩa khi hồi tưởng về những gì vốn không có ý nghĩa tại thời điểm chúng ta trải nghiệm chúng.

Bạn cần nghe nhiều âm tiết trước khi nhận ra ý nghĩa của câu. Như vậy, trong dòng chảy ý thức sẽ có gì sau âm tiết đầu tiên? Liệu nó sẽ chuyển từ lối hành văn cầu kỳ sang lối hành văn nửa vời? Có vẻ như không phải thế, có vẻ như bạn nghe thấy một câu có ý nghĩa khi người ta bắt đầu nói. Nhưng điều đó là không thể.

Thứ tư, ý thức của chúng ta cũng có thể sai lạc trong nhiều trường hợp: trí não của chúng ta có thể tạo ra được nhiều ảo giác rất đáng tin cậy về một thứ gì đó đang diễn ra dù nó không thực sự diễn ra. Hội chứng ảo giác về bộ phận chân/tay dù nó đã bị cắt bỏ một thời gian (phantom limb syndrome) được ghi nhận ở những người bị cụt chân/tay là một ví dụ. Wegner có một trò đánh lừa thị giác khá thúc vị, khi sử dụng gương để tạo ra cảm nhận về cánh tay của một ai đó, hay một cánh tay giả, mà cảm giác cứ như thể đó là cánh tay của bạn. Một ví dụ khác là thứ mà Blackmore gọi là “con thỏ da”:

Nếu vỗ nhanh vào cánh tay của một người với năm lần ở cổ tay, hai lần gần khuỷu tay, và sau cùng là ba lần ở bắp tay, tín hiệu thu nhận được không phải là từng lượt vỗ riêng biệt mà là một chuỗi tín hiệu di chuyển từ dưới lên – giống như một sinh vật nhỏ bé đang di chuyển trên cánh tay từ dưới lên vậy.

Cách hiểu đúng nhất về ý thức là nó là một trải nghiệm không đáng tin cậy về bản thân, nhưng ít ra không phải lúc nào cũng là ảo giác.

Một số người đi xa hơn (mà nhà linh trưởng học Dunbar là người khởi xướng) khi khẳng định rằng ý thức về bản thân là một công cụ cần thiết cho giống loài siêu quần thể của chúng ta, cùng với quay tương tác xã hội và các mối liên kết của nó. Nó giúp ta vững vàng. Dù có là ảo giác hay không, nó giúp chúng ta tồn tại trong các nhóm phức hợp cao như ta vẫn thường làm. Các nhà nghiên cứu khác như Dennett cho rằng ý thức chính là một sản phẩm phụ của các chức năng não bộ: không phải là sự thích nghi tiến hóa quan trọng như chúng ta vẫn tưởng.

Chúng ta biết rằng mỗi cá nhân trong giống loài của mình sẽ hoạt động kém hiệu quả trong thế giới mà họ có nhận thức sai lầm hay lệch lạc về bản thân. Nếu ký ức của chúng ta có sai sót – nếu không lưu giữ lại những trải nghiệm đã qua về các thành viên trong nhóm và về bản thân cũng như cơ sở để tương tác với họ – chúng ta sẽ trở nên căng thẳng vì không thể tương tác thành công với các cá nhân khác dù phần lớn cuộc sống của mình được xây dựng xung quanh họ.

Nếu ý thức về bản thân của chúng ta bị hủy hoại – do trầm cảm chẳng hạn – chúng ta sẽ khó có thể tiếp tục hoạt động hiệu quả trong môi trường sống tự nhiên của mình: sự có mặt của những người khác. Chúng ta hãy phân tích khía cạnh tiêu cực của chữ “Tôi” – một trường hợp rối loạn nhận thức về bản thân – thông thường thì trong trường hợp này, sự rối loạn nhận thức đó sẽ tiết lộ nhiều điều về bản chất cần có của một chức năng hợp lý (giống như cuộc thảo luận về bệnh tự kỷ đã làm sáng tỏ về bộ não xã hội được tìm thấy ở những cá nhân không mắc bệnh tự kỷ).

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB THTPHCM 2012

Ảo tưởng về chữ “tôi” – Phần IV


Kể lại câu chuyện

Dĩ nhiên, tôi có thể kể lại với bạn hay bất kỳ ai toàn bộ chi tiết câu chuyện về cách tôi đã can đảm tránh gây tai nạn cho đứa trẻ, theo cách như thể tôi quyết định làm thế (có lẽ còn mang màu sắc anh hùng nữa) nhưng đó hầu như chỉ là ảo giác. Sự thật lại hoàn toàn khác.

Bản thân hành động kể lại câu chuyện có thể quan trọng; có nhiều bằng chứng cho thấy chúng ta thay đổi các dữ kiện của mình sao cho phù hợp với những gì người khác có thể quan tâm hoặc những gì chúng ta muốn họ nghĩ về mình, và cả những gì chúng ta muốn nghĩ về bản thân nữa.

Khái niệm của Leo Festinger về mâu thuẫn nhận thức (cognitive dissonance) cho thấy rằng chúng ta thường giải quyết mâu thuẫn giữa niềm tin và hành vi để cảm thấy thoải mái với hành vi của mình. Nếu một dự án thất bại, chúng ta thay đổi câu chuyện của dự án đó theo kiểu tự nhủ là để bảo vệ quan điểm về bản thân mình (trừ khi chúng ta dễ bị trầm cảm, trong trường hợp đó, chúng ta có thể thấy mình gánh vác quá nhiều hay thậm chí toàn bộ trách nhiệm đối với kết quả cuối cùng). Nếu bị sa thải, bạn chuyển hóa niềm tin và cảm xúc về công ty, về sự phù hợp của nó đối với bạn và các kỹ năng của mình nhằm điều khiển nó. Nếu một mối quan hệ không tiến triển tốt đẹp, chúng ta cũng hành động theo cách tương tự. Tôi còn nhớ một mẫu quảng cáo cho Bovril hồi còn bé. Quảng cáo đó có nội dung về một người con gái bị bạn trai cho “leo cây”. Cô gái đứng khó dưới mưa bên ngoài rạp chiếu phim, nơi hai người hẹn gặp. Về sau, khi đã được sưởi ấm và phấn chấn hơn nhờ một loại bia đặc sánh, cô quyết định rằng mình thật sự không thích cậu bạn trai kia. Cô bình luận: “Anh ta có cái mũi to đùng”. Điều mà cô gái chưa từng nghĩ đến trước đây.

Nói một cách đơn giản: thái độ có xu hướng thay đổi sau hành vi (chứ không phải trước). Đây là một thách thức cơ bản đối với một trong những giả định phổ biến nhất của hầu hết những ai thu thập, báo cáo và sử dụng dữ liệu khảo sát thị trường về hành vi đám đông cho các tổ chức thương mại. Không chỉ liên quan đến cuộc sống riêng tư mà cả trong kinh doanh, chúng ta có xu hướng cho rằng mỗi cá nhân (như khách hàng chẳng hạn) đều suy nghĩ, quyết định và sau đó mới hành động.

Do đó, chúng ta lo lắng về quan điểm và suy nghĩ của người khác. Những mô hình hành vi có thể thay đổi những gì củng cố cho cách nghĩ này như mô hình AIDA (Awareness: Nhận thức; Interest: Quan tâm; Desire: Khao khát và Action: Hành động) vãn tiếp tục phổ biến trong giới kinh doanh (đặc biệt là với những chuyên gia nghiên cứu thị trường lão luyện và các chuyên gia tiếp thị, chính trị gia có phần ngây thơ). Dĩ nhiên, các nhân chứng sẽ ủng hộ cho quan điểm này: nếu bạn hỏi từng người tiêu dùng, những người mà bạn đang muốn tác động đến quá trình ra quyết định của họ, họ sẽ có xu hướng ủng hộ phiên bản nghĩ-trước-làm-sau của câu chuyện (ai dám nghiêm túc thừa nhận rằng mình mua thứ gì đó mà không suy nghĩ và rồi thích nó sau khi đã mua? Nhất là những thứ có giá trị cao như xe hơi chẳng hạn). Và họ sẽ điều chỉnh ký ức về những gì đã trải qua để khiến hành vi của mình có ý nghĩa tại thời điểm đó.

Ký ức về hành động của chúng ta thường không đáng tin cậy. Sự thật là dường như mỗi chúng ta đều gắn thái độ và những gì đã xảy ra để đồng nhất với những gì chúng ta vừa làm. Làm-thay đổi suy nghĩ – tin, nếu bạn thích nói theo cách đó.

Giáo sư Andrew Ehrenberg đã lưu ý ảnh hưởng này trong các tài liệu marketing về bất kỳ danh mục hay thị trường nào; mọi người có xu hướng điều chỉnh những gì họ nói về một thương hiệu nào đó, tùy thuộc vào việc liệu họ có phải là người nghiện sử dụng nó hay không. Họ có xu hướng đề cao một thương hiệu lớn hơn so với thương hiệu nhỏ vì thương hiệu lớn này là cái họ đang mua. Như ông trình bày, “Tôi phải nghĩ rằng bạn gái của mình quyến rũ, suy cho cùng, cô ấy vẫn là bạn gái của tôi”. (Tôi cho rằng bởi vì những người khác cũng nghĩ cô ấy quyến rũ, nhưng ta sẽ bàn thêm về điều này sau).

Đúng như bạn mong đợi, cái vòng lặp gia cố này có vẻ như khiến các thương hiệu lớn càng trở nên lớn mạnh hơn, còn thương hiệu nhỏ vẫn cứ nhỏ bé. Nó không ngăn cản các thương hiệu lớn đánh mất thị phần nhưng thật sự đem lại cho chúng một lợi thế đáng kế.

Thời điểm quan trọng

Đến thời điểm này, chúng ta đã chứng kiến nhiều ảo giác mà chính trí não của mình tạo ra. Ký ức về hành động của chúng ta rất hay thay đổi và không đáng tin cậy, nhận thức của chúng ta về thế giới không chính xác và toàn diện như ta vẫn nghĩ, và chúng ta thay đổi ý nghĩa của mình để phản ánh hành vi (thay vì ngược lại). Tuy nhiên, có một ảo giác quan trọng khác chạm đến điều cốt lõi của trải nghiệm chữ “Tôi” trong mỗi chúng ta. Chính cái cảm giác bạn có được khi đưa ra quyết định – thậm chí với những việc rất đơn giản như lúc lắc ngón tay hay đầu – sẽ khiến bạn lạc hướng.

Benjamin Libet ở Đại học Harvard đã dành cả sự nghiệp nghiên cứu của mình để chỉ cho chúng ta thấy rằng sự trải nghiệm về hành động quyết định một việc gì đó thật sự xuất hiện sau hoạt động của não bộ, nơi hành động đó được khơi nguồn. Cuốn sách mới nhất của ông cung cấp bảng tóm lược các nỗ lực không ngừng nghỉ của bản thân nhằm khám phá và đo lường hiện tượng này và công trình này về sau được đặt theo tên của Benjamin.

Bài kiểm tra Libet sử dụng thiết bị giám sát não và điện kế để ghi lại dòng điện xuất hiện trên da của những người tham gia thí nghiệm. Thông thường (như ví dụ của Susan Blackmore trong Conversations on Consciousness), người ta nghiên cứu chuyển động của ngón tay. Những người tham gia được yêu cầu quan sát một điểm chuyển động và các nhà nghiên cứu sẽ quan sát thời gian cũng như thời điểm họ quyết định chuyển động ngón tay.

Libet nhận thấy rằng cái mà ông gọi là “tiềm năng về sự sẵn sàng” trong não bộ – bộ não ra lệnh cho hệ thần kinh vận động khởi đầu các chuyển động – bắt đầu sớm hơn chuyển động đó 550 mili-giây. Tuy nhiên, những người tham gia thí nghiệm chỉ nhận ra ý định chuyển động ngón tay của mình khoảng 350 mili-giây sau đó, sớm hơn 200 mili-giây so với lúc cử động nhưng trễ hơn hành động sẵn sàng. Dĩ nhiên, cũng có thể 350 mili-giây khác biệt ấy là do sự chậm chạp của người tham gia trong việc quan sát và tường thuật chính mình. Nhưng Libet hoàn toàn bác bỏ điều này.

Vì sao hiện tượng gián đoạn Libet này lại quan trọng? Trước nhất, nó cho thấy quan niệm của chúng ta rằng quyết định cá nhân vào lúc khởi đầu một chuỗi sự kiện để cuối cùng dẫn đến hành động có chủ ý là sai, ít nhất là với những hành động đơn giản. Có vẻ như chính trí não vô thức đã thực hiện phần nặng nhọc là khiến cho các hành động xảy ra chứ không phải ý chí của cái “Tôi”. Thứ hai, vì nó mở ra khả năng rằng quan điểm quyết định hành động của chúng ta là hoàn toàn sai.

Daniel Wegner ở Học viện Công nghệ Massachusets (MIT) tiếp tục đào sâu hơn so với những gì Libet đã làm. Qua việc phân tích các ví dụ về những thời điểm khi chúng ta làm những việc mà ta không nghĩ rằng mình sẵn sàng (như chào thua khi người ta cứ cố mời mình ăn thêm một miếng bánh nữa), cũng như những ta sẵn sàng thực hiện một điều gì đó nhưng lại không làm (như nói cho sếp biết rằng ông/bà ấy đã sai), Wegner cho rằng đó thường là do ảo giác về ý chí (cụ thể, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của ảnh hưởng xã hội đến hành vi cá nhân, điều thường xuyên xảy ra dù chúng ta không nhận thấy).

Tuy nhiên, sau nhận xét quả quyết của Isaiah Berlin’s về chủ đề nêu trên, ông tiếp tục cho rằng ảo giác này là “cần thiết với con người”. Ông cho rằng chúng ta cần phải cảm thấy như thể mình đang quyết định mọi thứ để tồn tại trong các nhóm phức hợp nơi ta đang sống, và ông thừa nhận rằng chúng ta thực sự có thể quyết định mọi thứ và hành động, nhưng rất hiếm hoi.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB THTPHCM 2012

Ảo tưởng về chữ “tôi” – Phần III


Khỉ nhìn thấy

Tuy vậy, sự thiếu chính xác này còn được bắt gặp ở những năng lực thuộc về nhận thức của chúng ta. Chúng ta chỉ thấy những gì mình muốn thấy và hy vọng được nhìn thấy – không giống như nhiều loài động vật khác vốn nhìn mọi thứ đến từng chi tiết (điều này được đề xuất bởi Temple Grandin, những người tự kỷ). Chúng ta không phải là những thiết bị quét ảnh có độ chính xác cao như những gì mà trải nghiệm của bản thân đã nói cho ta biết. Đôi mắt có thể và thường xuyên đánh lừa chúng ta (và đây chính là những gì mà các chuyên gia hiệu ứng ảo giác trên sân khấu thường xuyên tận dụng ở khán giả).

Danniel Simons thuộc Phòng thí nghiệm Viscog (viết tắt của: nhận thức hình ảnh) đã nhiều lần chứng minh điều này. Ông và cộng sự của mình, Christopher Chabris, đã phát biểu như sau:

Tất cả chúng ta đều có những trải nghiệm xấu hỏ như không để ý thấy khi bạn bè hay đồng nghiệp của mình cạo râu, cắt tóc hay bắt đầu đeo kính áp tròng. Chúng ta cảm thấy rằng mình nhận thức và ghi nhớ mọi thứ xung quanh, và xem hiện tượng mất khả năng nhìn thấy các chi tiết này (hiện tượng mù ngẫu nhiên) là một ngoại lệ bất thường.

Nhưng không phải vậy. Bộ não của chúng ta liên tục loại bỏ các thông tin hình ảnh vốn không liên quan đến công việc hiện tại hay những gì chúng ta quan tâm ở một thời điểm nhất định, nhưng lại có ý thức hoàn toàn trái ngược về chúng. Sự phong phú của trải gnhiệm hình ảnh khiến chúng ta tin rằng những mô tả hình ảnh của mình sẽ bao gồm và giữ gìn được cùng một lượng chi tiết. Nói cách khác, có vẻ như chúng ta nhận thức về thế giới đến từng chi tiết, nhưng hệ thống hình ảnh của chúng lại lọc bỏ những gì không quan trọng. (Xin được nói rõ: không phải vì mắt chúng ta không nhìn thấy các dữ liệu; mà chính hệ thống nhận thức đã loại bỏ những dữ liệu ấy).

Công trình nổi tiếng nhất của Simons được biết đến với tên gọi “Những con khỉ đột ngay giữa chúng ta”. Trong thí nghiệm này, các đối tượng tham gia được xem một đoạn phim về các học sinh đang chơi bóng rổ. Những người tham gia thí nghiệm được chia làm ba nhóm: nhóm được yêu cầu quan sát một đội bất kỳ; nhóm được yêu cầu đếm tổng số đường chuyền; và nhóm chỉ ngồi xem mà không có bất kỳ hướng dẫn nào. Simons và Chabris phát hiện ra rằng chỉ có nhóm sau cùng mới nhận ra trong suốt trận đấu, có một sinh viên mặc bộ đồ khỉ đột bước ra sân, vỗ ngực và bỏ đi. Có thể bạn sẽ tự hỏi, “Làm thế nào chúng ta có thể bỏ qua những chi tiết rõ ràng như thế?”

Bởi vì chúng ta không tìm kiếm nó, đó là nguyên nhân khiến ta không nhìn thấy. Chúng ta tìm kiếm một thứ khác.

Nhưng chúng ta dường như cảm thấy điều ngược lại. Có vẻ như nhận thức của chúng ta rất toàn diện và chính xác (chúng ta không có một cái đèn đỏ hay chuông báo động để nhắc nhở khi nào mình đã bỏ lỡ một điều gì đó, ít nhất là theo nghĩa đen).

Không phải thế. Hiện tượng “điểm mù lơ đễnh” này – theo cách gọi của Simons và Chabris – tiết lộ một ảo giác khác về cách chúng ta trải nghiệm trí não của mình.

Trí não lười biếng

Trí não của chúng ta rất lười biếng chứ không phải là thiết bị xử lý thông tin nhạy bén như bạn vẫn nghĩ. Trí não của chúng ta không ngừng đánh lừa để giúp ta không phải suy nghĩ quá nhiều.

Có lẽ, người vĩ đại nhất ủng hộ quan điểm “trí não lười biếng” này là Daniel Kahne-mann. Dù là một nhà tâm lý học nhưng ông đã đoạt giải Nobel kinh tế vào năm 2002 với công trình nghiên cứu trọn đời rất sâu sắc và hữu ích.

Về cơ bản, thông qua nhiều thí nghiệm thực tiễn, Kahnemann đã khẳng định rằng lối tư duy hàng ngày của chúng ta không hợp lý như ta vẫn tưởng hay mong muốn được như thế. Thay vào đó, ông đề xuất một mô hình 2 bước gợi ý một số nguyên tắc hoạt đọng cơ bản cho trí não con người (Minh họa 2.1).

+ Chúng ta thích sự tương đối (chúng ta sử dụng quy tắc ngón tay cái hay “phương pháp giải quyết vấn đề bằng đánh giá kinh nghiệm” như “tính tương đồng” – liệu điều này có giống với những gì tôi đã biết không?  – để đơn giản hóa nhận thức và tư duy của chúng ta về thế giới).

+ Phần lớn tư duy và nhận thức của chúng ta là theo trực giác (về mặt cá nhân, chúng ta hầu như không biết nó là gì hay vận hành như thế nào).

+ Chúng ta hiếm khi thực hiện các phép tính (cho dù chúng ta rất giỏi việc này – một thí nghiệm nổi tiếng cho thấy cả bác sĩ lẫn bệnh nhân đều dở ngang nhau khi tính toán khả năng sống sót).

+ Tất cả điều này đều do cảm xúc chi phối – tức cách chúng ta cảm nhận trong một tình huống nào đó.

Tầm quan trọng của mô hình này không phải ở khả năng giải thích những điều ngu ngốc mà chúng ta, thậm chí những người thông minh nhất, vẫn làm. Chẳng hạn như John Allen Paulos, thiên tài toán học người Mỹ, phải thua mất chiếc áo sơ mi ở WorldCom bởi dù sở hữu những năng khiếu đặc biệt nhưng ông vẫn là nạn nhân của lỗi nhận thức cố hữu trong cấu trúc não bộ của mình hơn là làm toán như người ta vẫn nói. Trong lần thú nhận đầy thận trọng, ông mô tả về việc mình đã đầu hàng trước sự kỳ quặc của quy trình trí não con người, hết lần này đến lần khác, từ lỗi đóng khung đến lỗi thay thế… Quả thật là một câu chuyện có tính cảnh tỉnh cao.

Nó cũng lý giải nhiều điều về thành công của chúng ta với tư cách một giống loài. Chúng ta có thể tiếp nhận và xử lý khối lượng thông tin khổng lồ về bối cảnh mình đang sống, về ý định của người khác, về bất kỳ nguy cơ hay phần thưởng nào trong môi trường của mình, mà không cần sự hỗ trợ từ hệ thống máy tính của NASA, điều mà lẽ ra là mang tính bắt buộc nếu chúng ta nghĩ về mọi thứ nhiều như ta vẫn tưởng – sàng lọc dữ liệu riêng lẻ một cách có ý thức. Không, tính áng chừng của chúng ta rất hiệu quả, dù đôi khi nó khiến ta gặp rắc rối.

Đừng nghĩ quá nhiều

Tuy nhiên, một nguyên nhân khác khiến công trình của Kahnemann trở nên quan trọng là vì nó tháo gỡ được ý tưởng khai sáng cổ xưa về Con người kinh tế (Homo economicus), một cá nhân biết tính toán và có lý trí. Tôi chắc chắn đây là lý do thực sự khiến Ủy ban trao giải Nobel đã tôn vinh Kahnemann.

Liên quan đến hầu hết hành vi của mình, chúng ta gần như không suy nghĩ nhưng lại muốn tin rằng mình có làm điều đó. Ý tôi là, chúng ta chỉ hành động mà không có bất kỳ sự cân nhắc cẩn trọng và thực sự ý thức về những gì đang diễn ra. Không có sự đánh đổi lợi ích; không tính toán thiệt hơn. Không, hầu hết chúng ta cứ để cuộc đời mình trôi qua thay vì suy nghĩ về điều cần làm tiếp theo. Quả thật, chúng ta sẽ không thể sống nếu lúc nào cũng suy tính những thứ này.

Hãy giả sử rằng bạn và tôi đang lái xe xuống phố. Chúng ta trò chuyện vui vẻ về ai đang làm gì cho ai trong nhóm bạn của chúng ta; tôi giảm âm lượng radio để nghe bạn rõ hơn. Tôi có thể vừa làm việc này vừa lái xe một cách an toàn, dù điều này đòi hỏi sự tham gia của một chức năng truyền động phức tạp. Tôi hầu như không chú ý đến quá trình lái xe cũng như những gì nằm trên đường… cho đến khi có điều gì đó đập vào mắt và buộc tôi phải chú ý, chẳng hạn như một đứa trẻ đang rượt đuổi bóng từ phía sau một chiếc xe đang đỗ. Tôi quên hết mọi chuyện – bạn và câu chuyện của chúng ta – khi đạp thắng và tránh đứa bé. Tim tôi đập nhanh hơn và cả cơ thể tôi ở trong tình trạng báo động (có vẻ chất cortiso được bơm đi khắp cơ thế khiến tôi cảm thấy tỉnh táo và hơi toát mồ hôi!). Dĩ nhiên, sau khi mọi chuyện kết thúc, tôi sẽ quở trách nhẹ nhàng rằng đứa bé đã ngu ngốc thế nào, không lâu sau, cơ thể và tim tôi trở tlại bình thường và chúng ta sẽ tiếp tục câu chuyện. Chắc chắn tôi sẽ xin lỗi bạn vì khoảnh khắc gián đoạn đột ngột đó. Về sau nhìn lại, không một lúc nào tôi hành động có lý trí cả. Tôi chỉ thấy một tình huống mà mình nhận ra (hay tôi nghĩ rằng mình nhận ra) và hành động theo nó. Cả cơ thể tôi đều tham gia chứ không phải trí não có lý trí của tôi.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB THTPHCM 2012

Ảo tưởng về chữ “tôi” – Phần II


Tôi thức dậy sáng nay…

…và nhận ra rằng mình vẫn là Mark, cùng một Mark như trước khi tôi đi ngủ. Những ý nghị tương tự luẩn quẩn trong đầu mình. Quan điểm tương tự của tôi về ngày hôm nay vẫn còn đó (có lẽ là hơi mờ nhạt hơn) với cùng một hệ thống ký ức và kiến thức về những người khác trong cuộc sống, về bạn bè, gia đình. Những lo lắng tương tự về các hợp đồng, thời hạn và những gì có vẻ như là ký ức chính xác về bộ phim mà tôi xem tối qua – A Cock and Bull Story. Và khi hồi tưởng, tôi chắc rằng trong hai diễn viên, tôi thích Rob Bryden hơn Steve Coogan, giống như thời điểm trước khi xem bộ phim. Tôi nhận điện thoại từ cấp trên và chúng tôi bắt đầu tại điểm nơi chúng tôi dừng lại hai tuần trước; không ai trong chúng tôi hoài nghi rằng người kia đã khác đi rất nhiều. Tôi quyết định tiếp tục viết nốt bài này và sẽ quay trở lại với ông ta sau.

Đây là một ví dụ thực tế về kiểu tranh luận từ trải nghiệm mà nhiều người sử dụng để điều chỉnh ý thức của mình về chữ “Tôi”. Không chỉ những triết gia vĩ đại (ví dụ như Descartes cũng sử dụng phương pháp tự nhận thức tương tự), mà khi đứng trước thử thách, mỗi chúng ta đều sẽ chấp nhận rằng mình vẫn không thay đổi dù cơ thể già nua, tóc rụng hay mọc, tăng hay giảm cân. Đó là do cách chúng ta trải nghiệm bộ não của mình. Nếu xăm mình hay nhuộm tóc, liệu chúng ta có thay đổi không? Không, đây là sự tiếp diễn của những năng lực thần kinh vốn khẳng định với chúng ta mỗi ngày rằng chúng ta vẫn là chính mình.

Nhưng liệu tôi có thể tin tưởng những bằng chứng tạm thời hay kiểu lập luận theo lý lẽ thông thường ấy không? Tôi có thể tin vào nhận thức về sự đồng nhất liên tục của bản thân? Tôi có thể tin tưởng những ký ức làm nên ý thức về sự đồng nhất ấy không? Tôi có thể tin tưởng ý thức về chữ “Tôi” vốn xuất phát từ cảm giác rằng mình đã quyết định làm như thế? Tôi có thể tin tưởng ý thức về chữ “Tôi” vốn xuất phát từ quá trình trải nghiệm tư duy và cảm giác của mình theo bất kỳ cách nào? Câu trả lời là “đôi khi” – và tôi phải làm như thế để có thể tồn tại trong thế giới này – nhưng thật ra, trải nghiệm chủ quan của ký ức của tôi, ý thức về sự sẵn sàng và trải nghiệm về ý thức của mình, là những nguồn chỉ dẫn sai lầm về những điều thực sự xảy ra trong cuộc sống và hành vi của bản thân. Và vì thế, chúng là những thứ không nên đưa vào bất kỳ mô hình hành vi đám đông nào.

Nó là gì – ôi, tôi quên rồi

Ký ức của chúng ta thật không đáng tin cậy. Chúng ta đều biết rằng, với tư cách là những cá nhân đơn lẻ, chúng ta đều có thể quên một thứ gì đó (chẳng hạn như “Chùm chìa khóa sáng nay đâu rồi?”) và trong một số điều kiện hay hoàn cảnh nhất định, điều này còn tồi tệ hơn. Tôi biết rằng những con người khác nhau sẽ có ký ức khác nhau về cùng một sự kiện (cuộc tranh cãi nội bộ nào không thể phơi bầy sự thật này?). Tuy nhiên, việc ký ức của chúng ta tỏ ra không đáng tin cậy không chỉ ở những việc tầm thường mà còn ở cách chúng ta nghĩ về chúng. Chúng không phải là những trải nghiệm theo kiểu truy tìm tập tin-thông tin như máy tính.

Tôi từng đạt kết quả xuất sắc trong thi cử. Với khả năng ghi nhớ các sự kiện, ngày tháng, luận điểm, tôi có thể hoàn thành bài thi một cách hoàn hảo. Khoảng 20 năm sau khi học về lịch sử quân đội La Mã, tôi chợt nhận ra mình đang trích dẫn lại những ghi chú về cuộc cải cách quân sự của Marius trong khi đang trong tình trạng kẹt xe ở ngoại ô Rome, và tôi ước gì lúc này mình cũng có thể nhớ được mọi thứ vanh vách như thế.

Nhưng thật sai lầm khi cho rằng ký ức chỉ là một hệ thống lưu trữ và truy tìm dữ liệu; quả thực, cách mô tả này sẽ không thể hiện được nhiều chức năng của nó. Tôi buộc tội tất cả những nhà khoa học máy tính nào đã thâm nhập vào khoa tâm lý học trong thập niên 50, 60 để duy trì quan điểm cho rằng ký ức là thông tin trong nền văn hóa của chúng ta.

Ánh sáng bất diệt và tâm hồn thuần khiết

Bộ phim duy nhất của Jim Carey mà tôi thích xem là External Sunshine of the Spotless Mind, trong đó có một giả thuyết cho rằng ta có thể tránh được khổ đau khi kết thúc mối quan hệ với một người bằng cách loại bỏ hết những ký ức về người đó ra khỏi đầu. Một giả thuyết có vẻ thú vị trong phim nhưng thực sự không thể chứng minh bằng khoa học.

Ký ức không phải là một chức năng của máy vi tính hay một chiếc máy chụp ảnh Polaroid cho dù có vẻ đúng như thế. Giống như hầu hết các năng lực thần kinh khác, ký ức là kết quả của một hệ thống bị phân tán trong bộ não của chúng ta. Ký ức không hề ngự trị ở một “module” riêng lẻ trong bộ não; phần lớn bộ não tham gia vào các chức năng ghi nhớ. Các tế bào thần kinh liên kết với nhau trong ký ức và mỗi khi ký ức được gợi nhớ thì một mạng lưới ký ức hơi khác biệt sẽ được kích hoạt. Hương vị của cảm xúc và thực tế – những gì thực sự diễn ra – sẽ bị bóp méo và thay đổi mỗi khi chúng ta gợi nhớ đến chúng, tùy thuộc vào bối cảnh và cảm xúc của quá trình gợi nhớ.

Điều này có nghĩa là về cơ bản, ký ức của chúng ta rất linh hoạt nhưng đồng thời cũng sai lệch. Những gì chúng ta nhớ đã xảy ra nhưng thực sự lại không phải; những gì chúng ta cảm nhận được không phải là cảm nhận thực sự của chúng ta, cho dù có vẻ là đúng như vậy. Điều này áp dụng đối với các sự kiện nhỏ lẫn những biến cố đau thương – những thứ có thể hủy hoại một con người, thường ở mức không thể hồi phục được.

Ký ức sai

Có lẽ, ví dụ tiêu cực nhất về ký ức sai được tìm thấy trong lĩnh vực tâm lý trị liệu lâm sàng. Suốt 20 năm qua, rất nhiều trường hợp như thế xuất hiện trong cộng đồng, như một người chợt nhớ lại ký ức khi bị lạm dụng tình dục hồi bé – những ký ức mà họ đã kìm nén trước đây. Một số kỹ thuật trị liệu có thể khôi phục lại những ký ức này – thôi miên, hồi tưởng, tưởng tượng theo dẫn dắt,…, và một số nhà trị liệu “xôi thịt” dường như đang tận dụng những ký ức này để kiếm tiền từ bệnh nhân. Tức là họ tiếp cận những triệu chứng khác (suy sụp, căng thẳng) thông qua lăng kính của những ký ức bị lạm dụng này.

Dĩ nhiên, đôi lúc, những ký ức được phục hồi về việc bị lạm dụng là chính xác – luôn có những người lạm dụng chính con đẻ của mình, một tội ác đáng ghê tởm – nhưng các chuyên gia tâm lý trị liệu đã thức tỉnh trước mức độ không đáng tin cậy của “ký ức được phục hồi” đpồng thời phải ban hành hướng dẫn cho các đồng nghiệp khác cũng như cho cộng đồng. Chẳng hạn như vào năm 1993, Hiệp hội Tâm thần Mỹ đã tuyên bố, “Chúng ta chưa biết cách phân biệt một cách hoàn toàn chính xác những ký ức dựa trên những sự kiện có thực với những ký ức phát sinh từ các nguồn khác (như được sáng tác hay do người khác gợi ý)”. Và giới chức Anh phản ánh một cảnh báo chung về cái mà đôi khi được gọi là kỹ thuật tăng cường trí nhớ:

Các chuyên gia trị liệu không được sử dụng bất kỳ “kỹ thuật khắc phục trí nhớ” nào nhằm gợi lại những ký ức có khả năng liên quan đến các vụ lạm dụng tình dục trong quá khứ mà bệnh nhân không hề nhớ. Những kỹ thuật này có thể bao gồm các cuộc phỏng vấn có sử dụng thuốc làm chất xúc tác, thôi miên, liệu pháp hồi tưởng, tưởng tượng có dẫn dắt, “ký ức cơ thể”, đọc giấc mơ và sổ nhật ký. Không hề có bằng chứng nào cho thấy những kỹ thuật thay đổi nhận thức nói trên có thể tiết lộ hay mô tả chính xác bất kỳ trải nghiệm đã qua nào”.

Những kẻ lạm dụng thường bị công luận và luật pháp lên án, và thường quyết liệt phủ nhận tội danh của mình. Rõ ràng, cả hai phía đều tin vào ký ức của mình về các biến cố nhưng không bên nào nhất trí về nội dung thực tế. Người Canada chỉ ra rằng: “Các nhà tâm lý học đều biết là ta không thể đưa ra một kết luận chính xác rằng ký ức được dựa trên một thực tế khách quan, trừ khi có bằng chứng xác thực không thể chối cãi”.

Điều này cũng đúng đối với ký ức hàng ngày. Chúng giúp ta sống một cuộc đời thành đạt hơn dù chúng có thiếu chính xác đến mức nào. Là một loài khỉ có tính siêu quần thể sống trong môi trường xã hội phức hợp cao, chúng ta cần có ký ức để sử dụng như niềm tin tạm thời về thế giới và đồng loại, bất kể mức độ thô sơ hay sẵn sàng của chúng, bởi nếu không có những ký ức này, chúng ta sẽ không bao giờ có thể bắt kịp những điều đang xảy ra xung quanh và phản ứng lại một cách nhanh chóng.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB THTPHCM 2012