Công khai thông tin tình báo sớm, nên hay không?


Amy B. Zecart

Tại sao Mỹ lại hăng hái tới vậy trong việc công khai các thông tin tình báo bí mật khi Nga chuẩn bị tấn công Ukraine? Bởi không gian mạng cũng là một mặt trận, và dữ liệu là một vũ khí.

Cuộc tấn công của Nga vào Ukraine giống như một cuộc Chiến tranh Lạnh kinh hoàng đang trở lại. Một lần nữa, xe tăng Nga lại lăn bánh qua biên giới, và một quốc gia có chủ quyền đang chiến đấu cho sự tồn tại của mình, ban đầu chẳng được trang bị gì ngoài những chai bom xăng thô sơ và một niềm tin mãnh liệt vào tự do. Đối với tất cả các cuộc thảo luận về các công nghệ mới nổi và những mối đe dọa mới, thì bạo lực ở Ukraine mang lại cảm giác thô sơ và công nghệ thấp, và thế giới đột nhiên trong cũ kỹ trở lại.

Tuy nhiên, giữa tất cả những dư âm này của quá khứ, cuộc tấn công của Nga đã mở ra một bước phát triển hoàn toàn mới và có thể thay đổi đáng kể địa chính trị trong tương lai: công khai các thông tin tình báo tuyệt mật vào ngay thời điểm sự việc đang diễn ra.

Chưa bao giờ Chính phủ Hoa Kỳ tiết lộ nhiều, chi tiết, nhanh chóng và liên tục về một kẻ thù như vậy. Mỗi ngày dường như đều có những cảnh báo mới, không phải kiểu cảnh báo mơ hồ “Nga có thể có hoặc có thể không”, mà là kiểu cảnh báo “đây là hình ảnh vệ tinh hiển thị lên đến 175.000 quân Nga tại các địa điểm cụ thể gần biên giới”. Ngay cả khi nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin tuyên bố rằng ông không có kế hoạch xâm lược và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky phàn nàn rằng Hoa Kỳ đang thổi phồng mối đe dọa và làm chao đảo nền kinh tế của nước ông, các thông tin tình báo vẫn tiếp tục được tung ra – nêu chi tiết về số lượng và địa điểm quân được cập nhật, lịch trình xâm lược, thương vong ước tính và hơn thế nữa. Cảm giác như đang xem một trận cuồng phong sắp đổ bộ vào đất liền.

Thông tin tình báo được tiết lộ không chỉ về các hoạt động quân sự, mà còn về các kế hoạch bí mật là nòng cốt trong hoạt động tình báo của Nga. Các sĩ quan tình báo của Mỹ và Anh đã gióng lên hồi chuong cảnh báo về những âm mưu dàn dựng một cuộc đảo chính ở Kyiv, dựng lên chế độ bù nhìn và tiến hành các chiến dịch “treo cờ giả” để tạo ra những cái cớ giả tạo nhằm biện minh cho một cuộc xâm lược thực sự. Theo các quan chức Mỹ, có một kế hoạch của Nga liên quan đến việc cử những kẻ phá hoại đến miền Đông Ukraine để tấn công lực lượng ly khai Nga ở đó, khiến Ukraine có vẻ như là kẻ gây hấn và quân đội của Putin sẽ đến giải cứu. Một kế hoạch khác liên quan đến việc tạo một video giả mô tả sự bàn bạo của người Ukraine, được hoàn chỉnh với các diễn viên và xác chết.

Ba cách giải thích

Sẽ không dễ để nói quá về mức độ thay đổi mà điều này thể hiện. Tình báo là một thế giới được bảo vệ chặt chẽ, trong đó các quan chức không thích công khai những gì họ biết, hoặc làm thế nào họ biết, vì sợ đặt các nguồn tin vào rủi ro hoặc tiết lộ cho đối  thủ biết họ có bao nhiêu thông tin. Trong quá khứ, Hoa Kỳ chỉ công khai chia sẻ thông tin tình báo với những đồng minh thân cận nhất và hạn chế việc sử dụng các thông tin này. Lần này tại sao Nhà Trắng lại cởi mở như vậy? Cho đến nay, chính quyền Biden không nói gì nhiều về mục tiêu của chiến lược tình báo thẳng thắn đầy cấp tiến này. Nhưng dường như có ba cách giải thích.

Cách lý giải đầu tiên cho hành động này là phải truyền bá thông tin ra thế giới để chống lại chiến tranh thông tin bằng cách đưa ra sự thật trước khi những lời nói dối xuất hiện. Bản chất của các tiết lộ tình báo của Hoa Kỳ và đồng minh là “Đừng tin một lời nào mà Điện Kremlin sẽ nói với bạn. Tất cả chỉ là trò lừa bịp”. Người Nga là những chuyên gia trong lĩnh vực này, và trong các sự kiện trước đây – như gần đây là việc sáp nhập Crimea năm 2014 và cuộc bầu cử Hoa Kỳ năm 2016 – họ đã chiếm ưu thế. Chiến lược của Putin là làm tràn ngập khu vực với các thông tin giả, lan truyền thông tin sai lệch từ sớm và thường xuyên. Nghiên cứu tâm lý học cho thấy lý do tại sao cách này lại hiệu quả như vậy. Một khi đã tin những lời nói dối, chúng sẽ khó lay chuyển được, ngay cả khi đối mặt với những sự thật áp đảo. Lợi thế của người đi đầu trong chiến tranh thông tin là rất lớn. Đưa sự thật ra ánh sáng trước kẻ lừa đảo sẽ giúp tập hợp các đồng minh và tăng cường sự hỗ trợ ở Hoa Kỳ và ở nước ngoài.

Việc tiết lộ thông tin tình báo cũng tạo thêm khó khăn cho Putin, khiến ông ta mất thăng bằng. Thay vì làm chủ cuộc chơi và xử lý cuộc khủng hoảng Ukraine theo lịch trình của mình, Putin phải đáp trả với Washington. Và thay vì hành động mà không bị trừng phạt, ông ta phải dành tài sản quý giá nhất của mình – là thời gian – để lo lắng về những điểm yếu tình báo của chính mình. Làm thế nào mà Hoa Kỳ và các đồng minh biết được những gì họ biết? Họ sẽ làm gì với những thông tin có được từ sớm này? Những lỗ hổng tình báo nào của Nga phải được sửa chữa? Putin càng lo lắgn về các lỗ hổng tình báo của mình thì ông ta càng ít chú ý đến việc làm tổn thương người khác.

Bộ Tư lệnh không gian mạng Hoa Kỳ đã áp dụng một cách tiếp cận tương tự vào năm 2018 và gọi đó là “sự tham gia bền bỉ”. Ý tưởng rất đơn giản nhưng mạnh mẽ: Làm suy yếu hành vi tấn công của đối phương bằng cách khiến nó phải hoạt động nhiều hơn rất nhiều trong việc phòng thủ. Putin là một mục tiêu lý tưởng cho loại chiến lược này. Ông ta là một cựu đặc nhiệm tình báo có chút hoang tưởng và bị ám ảnh về các kẻ thù ở cả trong nước, chứ không chỉ riêng kẻ thù ở nước ngoài. Bạn có thể đưa người đàn ông đó ra khỏi KGB, nhưng không thể đưa KGB ra khỏi ông ta.

Cuối cùng, việc chủ động tiết lộ thông tin tình báo khiến các quốc gia khác khó đứng ngoài cuộc xung đột hoặc hỗ trợ thầm lặng cho Putin bằng cách ẩn sau những câu chuyện che đậy của ông ta. Hãy thử nghĩ nếu ngược lại, đó là một hành động bí mật – bắt buộc phải công khai những gì đang thực sự diễn ra để mọi người phải chọn bên.

Trong kiểu hành động bí mật, các chính phủ che giấu sự tham gia chính thức của họ vào một hoạt động nào đó. Một trong những lợi ích chính của hành động bí mật là nó cho phép các quốc gia khác giúp đỡ những “kẻ ranh mãnh”. Ngay cả khi tất cả mọi người đều biết sự thật, họ vẫn giả vờ như không biết, và lịch sử cho thấy ngay cả những cái cớ mỏng manh nhất cũng có thể cho các quốc gia một cơ hội đáng ngạc nhiên. Ví dụ, khi Liên Xô tấn công Afghanistan năm 1979, Hoa Kỳ đã tiến hành một chiến dịch bí mật khổng lồ để trang bị cho các mujahid (chiến binh thánh chiến) Afghanistan. Liên Xô biết Hoa Kỳ đang làm gì, và Hoa Kỳ biết rằng Liên Xô biết. Nhưng hành động bí mật cho phép Pakistan và Ai Cập âm thầm giúp đỡ các nỗ lực của Mỹ mà không sợ bị Liên Xô trả đũa. Nó cũng mang lại lợi ích cho Liên Xô, giữ cho một cuộc chiến ủy nhiệm ở Afghanistan không trở thành một cuộc chiến nóng bỏng chống lại Hoa Kỳ và kho vũ khí hạt nhân của nước này.

Trong cuộc khủng hoảng Ukraine hiện nay, các tiết lộ thông tin tình báo đang làm điều ngược lại. Bằng cách loại bỏ tấm màn che đậy, Washington và các đồng minh đang để lại khoảng trống quý giá rất nhỏ cho các nước khác có thể đứng bên lề hoặc dễ dàng hỗ trợ Putin. Thụy Sĩ, một quốc gia nổi tiếng về tính trung lập và sẵn sàng giao dịch với “kẻ xấu”, đã ký vào các lệnh trừng phạt của Liên minh châu Âu. Nước Đức không còn lung lay nữa, cuối cùng đã từ chối đường ống dẫn khí Nord Stream 2 và trong nháy mắt đã chuyển từ một nước tụt hậu về chi tiêu quốc phòng của NATO thành một nước dẫn đầu. Cách đây không lâu, khoảng một trăm nhà ngoại giao đã quay lưng lại với Nga theo đúng nghĩa đen, bước ra khỏi cuộc họp của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc khi Ngoại trưởng Nga Sergey V. Lavrov phát biểu.

Chiến thuật có thể phản tác dụng

Chắc chắn là sự thống nhất của thế giới về bất kỳ cuộc khủng hoảng nào cũng không bao giờ kéo dài. Trung Quốc vẫn nghiêng nhiều về Moscow trong hầu hết mọi việc. Và tình báo chỉ là một trong số nhiều yếu tố trong cuộc chơi. Không quốc gia nào muốn bị cuốn vào làn sóng của các lệnh trừng phạt toàn cầu, bị coi là mắt xích yếu trong NATO, hoặc bị coi là chọn sai bên trong lịch sử. Nhưng việc tiết lộ thông tin tình báo đã trở thành một công cụ mới rất mạnh mẽ. Các quốc gia sẽ khó trốn tránh sau câu chuyện giả dối của Nga hơn rất nhiều khi câu chuyện bị bóc trần trước khi nó được Putin nói ra.

Chiến lược tình báo này rất mới và thông minh, nhưng không phải là không có rủi ro. Sử dụng bí mật lúc này có thể đồng nghĩa với việc bị mất bí mật sau này. Bất cứ khi nào thông tin tình báo được tiết lộ công khai, sẽ có nguy cơ đối phương phát hiện ra các nguồn tin và phương pháp, đe dọa tính mạng và gây nguy hiểm cho khả năng tiếp tục thu thập thông tin tình báo từ các nguồn kỹ thuật và con người trong tương lai. Đó là lý do tại sao các cơ quan tình báo luôn quyết liệt chống lại việc tiết lộ thông tin.

Tiết lộ thông tin tình báo cũng có thể khiến các cuộc khủng hoảng khó xử lý hơn. Công khai những ý định và khả năng bí mật của kẻ thù còn có thể gây bẽ mặt. Điều đó có thể khiến bạn cảm thấy vui, nhưng chìa khóa để giải quyết khủng hoảng không phải là khiến kẻ thù của bạn bị dồn vào chân tường; mà là tìm các lối thoát để giữ thể diện. Ngoại giao tức là mang lại cho bên kia một lối thoát ngay cả khi bạn ghét anh ta vì những gì anh ta đã làm.

Cuối cùng, trong một thế giới tiết lộ triệt để, những thành công trong lĩnh vực tình báo có thể bị hiểu nhầm là thất bại. Ví dụ, hãy tưởng tượng rằng những tiết lộ tình báo về kế hoạch xâm lược của Putin đã khiến ông ta thay đổi suy nghĩ và quyết định không tấn công Ukraine nữa. Thông tin tình báo lẽ ra đã chính xác và hiệu quả  nhưng lại có vẻ sai lầm và vô ích. Nhiều người sẽ kết luận rằng ban đầu Putin hẳn là không bao giờ có ý định xâm lược, và các cơ quan gián điệp của Mỹ – từng bị chỉ trích về cuộc chiến Iraq, về sự thất bại trong việc ngăn chặn vụ 11/09 và vô số những bước đi sai lầm khác – lại mắc sai lần lần nữa. Niềm tin vào cộng đồng tình báo của Mỹ sẽ bị xói mòn, mặc dù điều đó không nên xảy ra.

Tuy nhiên, cho đến nay, bằng chứng từ cuộc chiến tranh ở Ukraine cho thấy thành tựu của chiến lược tiết lộ thông tin tình báo này lớn hơn nhiều so với rủi ro. Từ trước tới nay, sự lừa dối nhờ có không gian mạng dường như đang chiếm ưu thế. Cuộc chiến Ukraine đã dạy chúng ta rằng sự thật và tiết lộ vẫn có thể là vũ khí mạnh mẽ, ngay cả trong thời đại kỹ thuật số.

Người dịch: Minh Thư

Nguồn: Tạp chí Phương Đông – số 45 – 09/2022

Vai trò của truyền thông nhà nước – Phần cuối


Ở Nga, các vấn đề công chính được phát sóng trên các kênh truyền hình chính yếu – Channel One, Rossiya và NTV, đều đề cao tính chất đáng tin cậy của các học giả được chính phủ thừa nhận. Các nhân vật đối lập, các nhà hoạt động chính trị và những người chỉ trích xã hội có chăng cũng hiếm khi được mời lên sóng. Số ít các nhà hoạt động chính trị, bao gồm những người đứng đầu phe đối lập như Boris Nemtsov và Lyudmila Alexeyeva được biết đến vì quá trình hoạt động đoàn thể của họ trước khi bắt đầu thời đại Putin. Nhưng vẫn không ai nắm giữ được nhiều quyền lực ảnh hưởng đối với công chúng Nga – họ đã bị các phương tiện truyền thông đại chúng cấm cửa từ rất lâu. Các nhà hoạt động chính trị trẻ tuổi hơn cũng thường xuyên bị tách biệt khỏi các chương trình truyền hình có lượng khán giả phổ rộng. Phát biểu trên Đài phát thanh Ekho Moskvy ngày 22/5/2013, Vladimir Posner, cựu thành viên phụ trách công tác tuyên giáo của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Xô viết, hiện là người dẫn chương trình cho một chương trình tọa đàm nổi tiếng trên kênh truyền hình Channel One thuộc quyền sở hữu của nhà nước, đã thừa nhận “Tôi biết có một số người tôi không thể mời” hiện diện trên sóng truyền thông. Trong danh sách này có tên những người đứng đầu phe đối lập như Nemtsov, Navalny, và Vladimir Ryzhkov. Các phương tiện truyền thông dưới quyền kiểm soát của nhà nước đang tạo ra những rào cản cao vời khiến xã hội dân sự và các phe nhóm đối lập nhận thấy bản thân họ khó có thể vượt qua trong nỗ lực tiếp cận số đông đối tượng truyền thông với cách nhìn nhận đối ngược về nguyên tắc trị lý và đời sống chính trị.

Truyền thông nhà nước ở các nền dân chủ yếu kém

Mô hình truyền thông do nhà nước kiểm soát đang đạt đến hình thái uy lực lớn nhất, hiệu quả nhất trong bối cảnh chủ nghĩa độc tài chuyên chế. Song một vài đặc tính và phương cách đặc thù của nó vẫn đang được chứng minh là có sức hấp dẫn đối với chính quyền dân cử ở các quốc gia có nền dân chủ yếu kém hoặc có nguy cơ suy biến thành chủ nghĩa độc tài. Ở Ecuador, Nicaragua, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine, chính quyền đang thực thi quyền kiểm soát hiệu quả đối với các phương tiện truyền thông điện tử truyền thống, đồng thời theo đuổi những nỗ lực ngăn cản các phát ngôn chính trị trực tuyến. Những động thái như vậy sở hữu những hàm nghĩa quan trọng đối với triển vọng dân chủ ở các quốc gia này.

Ở Thổ Nhĩ Kỳ, nơi Đảng Công ý và Phát triển (AKP) của Thủ tướng Recep Tayyip Erdogan đã chi phối đời sống chính trị và chính thể trong hơn một thập kỷ, phạm vi ảnh hưởng sâu rộng của nhà nước đối với các phương tiện truyền thông quảng bá đã được phơi bày trong các cuộc biểu tình quy mô lớn chống đối chính phủ hồi tháng 6/2013. Khi các nhà hoạt động chính trị xuất hiện đông kín Quảng trường Taksim ở Thành phố Istanbul, các kênh truyền thông chịu ảnh hưởng chính yếu của nhà nước ở quốc gia này lại cho công chiếu các phim tài liệu về việc huấn luyện chim cánh cụt và cá heo. Thủ tướng Erdogan gọi Twitter là một “mối đe dọa” và giới chức cầm quyền đã tiến hành đàn áp thẳng tay những người sử dụng mạng xã hội này, bắt giữ hàng chục người với tội danh công bố “thông tin sai lệch”. Các kênh truyền thông thân chính phủ ở Thổ Nhĩ Kỳ đã quy trách nhiệm tổ chức các cuộc biểu tình cho những địch quân ẩn danh ở nước ngoài. Các phương tiện truyền thông ở Thổ Nhĩ Kỳ đã nhận thấy tình trạng dần mất đi tính độc lập của mình khi các mối quan hệ làm ăn không tương hợp giữa chính phủ và các chủ sở hữu phương tiện truyền thông chính yếu ngày càng phát triển. Những thỏa hiệp để kết thân này đã khiến yêu cầu phục tùng chính trị khó có thể xem thường. Các phương tiện truyền thông đã trở thành kẻ đồng lõa trong việc làm gia tăng tính bất dung chính trị trong giới chức cầm quyền.

Nicaragua đã hướng đến sự thống trị của nhà nước đối với truyền thông từ khi Tổng thống Daniel Ortega tái đắc cử năm 2007. Ông Ortega hiện kiểm soát gần một nửa các hãng tin truyền hình của đất nước; các con ông đang vận hành ba hãng trong số đó. Tổng thống Ortega đã đưa vào hoạt động ít nhất hai trang mạng thông tin, và được cho là đang vận hành bí mật các trang nhật ký cá nhân trên mạng (blog) được nhà nước hậu thuẫn và các “trung tâm gây rối” truyền thông xã hội nhằm đe dọa các địch thủ và lực lượng phi đảng phái. Giới phân tích chính trị cho rằng, tài lực truyền thông này đã mang lại cho ông Ortega một công cụ để hạ thấp danh tín những kẻ chỉ trích, và rằng việc công khai các thông tin truyền thông xác thực đã giúp ông thắng lớn với 63% phiếu bầu hồi tháng 11/2011, tăng đáng kể so với đa số tương đối 38% phiếu bầu ông giành được 5 năm trước đó.

Từ khi tái đắc cử Tổng thống Ukraine hồi năm 2010, Viktor Yanukovich đã theo đuổi cách tiếp cận truyền thông đại chúng nỗ lực tìm cách học theo những phương diện cốt yếu trong chiến lược của Điện Kremlin. Các hãng tin truyền hình tầm cỡ quốc gia hoặc được chính phủ trực tiếp kiểm soát hoặc chịu tùy thuộc vào các thủ lĩnh chính trị có quan hệ mật thiết với chính phủ. Ngoại lệ duy nhất là TVi, một hãng truyền thông tuy vẫn duy trì được tính độc lập nhưng đã phải trả qua một quá trình chuyển đổi quyền sở hữu không minh bạch hồi giữa năm 2013. Trong suốt khoảng thời gian chuẩn bị cho cuộc bầu cử Quốc hội tháng 10/2012, TVi đã phải chịu rất nhiều sự phiền nhiễu. Trong tháng 7, cảnh sát thuế đã bất ngờ kiểm tra các trụ sở làm việc của hãng này. Trong khi đó, việc đưa tin về các hoạt động của chính phủ của các kênh thông tin truyền thông có ảnh hưởng thống trị lại mang tính xu nịnh nhiều hơn và ít có khả năng thực thi bất kỳ một sự kiểm soát thực sự nào đối với các chính sách và hành động của chính giới.

Tổng thống Rafael Correa của Ecuador đã trở nên nổi tiếng với các chính sách kiểm soát chặt chẽ (thường thông qua các vụ kiện cáo yêu cầu phải trả những khoản bồi thường thiệt hại khổng lồ) đối với các kênh truyền thông dám chỉ trích chính quyền của ông. Năm 2012, ông đã hủy bỏ bản quyền truyền thông của kênh truyền hình Telesangay và đóng cửa Đài phát thanh Morena, cũng là một kênh truyền thông của phe chống đối. Tổng thống Correa kêu gọi tẩy chay các phương tiện truyền thông tư nhân “sai lạc”. Trong bài phát biểu hôm 29/5/2012, ông đã công khai xé bỏ một số báo của tờ La Hora, và la lớn “Cứ để cho họ kêu oan!”. Ông đang triển khai các chương trình phát thanh và truyền hình lên sóng hàng tuần mà bản thân vốn phải gánh vác nhiều khoản chi phí, đồng thời vận dụng có chọn lọc, khắt khe các điều luật để tấn công những kẻ chỉ trích ông trong xã hội dân sự và phe đối lập, cảnh báo các địch thủ và quân đồng minh, cho họ thấy ai sẽ là người thắng và ai sẽ là kẻ thua theo quan điểm của Tổng thống.

Tất cả điều đó có nghĩa gì?

Một người tuân phục chế độ độc tài đương thời đã bị xúi giục giao phó các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát vào tay những nhân vật đã lỗi thời. Nhưng đó là một sai lầm: Thông tin về sự chuyển nhượng các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát với tính cách là một thế lực chính trị quan trọng thấy rõ là đã quá vội vàng. Tính đa dạng phổ rộng hơn của truyền thông ngày nay có nghĩa nó ngày càng được biết đến ít hơn khi trở thành công cụ biểu đạt chính trị cốt yếu: Truyền hình vẫn giữ ngôi vị thống trị tối cao, và thông qua đó, các chế độ độc tài đã học cách định hình nghị trình chính trị và ngăn cản sự phát triển lớn mạnh các mối liên hệ giữa xã hội dân sự và dân chúng nói chung.

Giới cai trị độc tài hiểu họ cần có các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát để tồn tại; bởi vậy quá trình tự do hóa toàn diện của chúng không được mong đợi sẽ xảy ra. Các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát đang tồn tại trong một kiểu nhà tù thể chế: chúng không thể tự do cho đến khi ở đó có sự thay đổi mang tính cách mạng. Sự kiểm soát của nhà nước đối với các phương tiện truyền thông, một khi đã siết chặt, không thể dễ dàng được nới lỏng mà không cần mở cửa tử và đánh liều với bản thân chế độ. Mickhail Gorbachev, vị Tổng thống cuối cùng của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (USSR) đã nhận ra điều này với chính sách galsnost (công khai). Ông nghĩ mình đã cứu nguy cho hệ thống Xô viết bằng những cuộc cải cách như vậy, song trên thực tế, ông đã ký giấy chứng tử cho nó.

Trong thời đại thông tin lưu truyền ở một phạm vi rộng lớn với tốc độ chớp nhoáng ở cả trong và ngoài các giới tuyến quốc gia, thật khó có thể chấp nhận quan điểm cho rằng thông tin và các dữ kiện chính trị có thể được khoanh vùng một cách thành công. Ai đó đã quên không nói với một số nhân vật độc tài ngoan cố trên thế giới rằng con đường dẫn đến sự khai mở hơn nữa của truyền thông là tất yếu. Các chế độ độc tài chỉ chú trọng bản năng tự bảo toàn; họ sẽ không đành bỏ mặc bản thân cho những dòng chảy thông tin chính trị tự do, cũng không từ bỏ những nỗ lực chi phối truyền thông nội quốc. Họ đòi hỏi các phương tiện truyền thông phải ghi khắc một cách thường xuyên và có hệ thống vào tâm trí của các đối tượng truyền thông cốt yếu quan niệm cho rằng, không tồn tại một đối án có thể chấp thuận để thay thế giới chức đương quyền. Internet có thể mang lại một đối án tự do hơn cho các phương tiện truyền thông truyền thống do nhà nước thống trị, nhưng những đặc tính chính yếu vốn mang lại cơ hội này (đặc tính đa dạng và phân quyền của thế giới trực tuyến) cũng khiến Internet trở thành một đối thủ yếu kém trước một chính thể độc tài chú trọng công nghệ laser với những thông điệp mang tính kỷ luật khắt khe. Các thế lực chống đối có thể được tự do trong phát ngôn trực tuyến, nhưng liệu họ có thể đưa ra một đối án mạch lạc thay thế các thuyết dẫn của hệ thống cai trị?

Có lẽ cán cân sẽ thay đổi. Sự cách tân các phương tiện truyền thông mới có thể làm giảm tính phân đoạn và cho phép các nhà cải cách lái câu chuyện chính trị theo một hướng đi mạch lạc hơn và cố kết hơn, nhưng điều này chưa hẳn rõ ràng. Một viễn cảnh khác đáng lo ngại hơn là các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát sẽ tồn tại như một thế lực ưu việt trong khi các chế độ độc tài theo đuổi quyết đoán hơn “năng lực quy tụ” – thuần phục các phương tiện truyền thông mới như họ đã thuần phục các phương tiện truyền thông truyền thống. Trong kịch bản khắc nghiệt này, các giá trị phi tự do của các phương tiện truyền thông truyền thống do nhà nước kiểm soát giành phần thắng và làm lu mờ những giá trị phi tự do của các phương tiện truyền thông mới tự do hơn. Thiếu vắng sự thay đổi về mặt chính trị vừa đủ để cải thiện truyền thông xác tín, các phương tiện truyền thông mới liệu có đủ can đảm chống cản quyền lực kiểm soát độc tài để duy trì sự tồn tại của nghị trình chính trị nhiều hàm nghĩa? Và nếu họ làm được, các thông tin và dữ kiện chính trị độc lập mà các phương tiện truyền thông mới cung cấp liệu có thể có những cuộc thâm nhập đủ sâu và đủ nhiều để tạo ra sự thay đổi trong các chế độ ở đó nhiều người dân vẫn là một loại đối tượng truyền thông bất đắc dĩ của các phương tiện truyền thông truyền thống do nhà nước điều hành?

Ngày nay, các chính thể độc tài đang chủ tâm cướp đoạt của hàng trăm triệu con người nhiều nguồn thông tin và nội dung phân tích xác thực và độc lập. Những nỗ lực hiện tại trong các bước quá độ dân chủ ở Bắc Phi và châu Á sẽ nói cho chúng ta biết nhiều về những triển vọng cải tổ các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát để dẫn đến sự thay đổi dân chủ. Khả năng và cách thức các phương tiện truyền thông truyền thống do nhà nước điều hành ngưng hoạt động và các phương tiện truyền thông mới phát triển bén rễ ở Ai Cập, Libya, Tunisia và Myanmar sẽ trở thành vấn đề tất yếu đối với vận mệnh dân chủ phổ rộng hơn của họ và đối với sự hiểu biết sâu rộng hơn về vấn đề này.

Thomas Jefferson tin rằng, nhu cầu sở hữu “nguồn thông tin toàn diện về các vấn đề của con người thông qua các kênh ấn phẩm công khai” vì một nền dân chủ lành mạnh sẽ tùy thuộc vào những người công dân có tri thức, mong muốn được tiếp cận với dòng chảy tư tưởng tự do và được luận bàn về những vấn đề có ý nghĩa dân sự quan trọng. Trái ngược hoàn toàn, chủ nghĩa độc tài thành danh lại lôi kéo báo chí về phe chính phủ (hoặc trên giấy tờ hoặc trên thực tế), và tồn tại bằng cách thu hẹp dòng chảy tư tưởng về hệ vấn đề quan trọng nhất nhằm đảm bảo rằng các công dân của họ vẫn giữ nguyên tình trạng thụ động do vô thức.

Người dịch: Bùi Hồng

Hiệu đính: Mai Chi

Nguồn: Christopher Walker & Robert W. Orttung – The role of State-Run Media, Journal of Democracy – January 2014. Vol.25, No.1

TN 2014 – 69

Vai trò của truyền thông nhà nước – Phần IV


Bất chấp tính phổ toàn bề ngoài của Internet, môi trường chính trị và truyền thông khác biệt của mỗi quốc gia đều định hướng và kiềm chế ảnh hưởng vốn có của truyền thông trực tuyến. Môi trường chính trị nhìn chung ở Nga và Trung Quốc đều bao hàm những nhân tố khích lệ khả năng tự kiểm duyệt thường thấy ở những nhà báo làm việc cho các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát. Nhà nước cũng có thể cấm phạt những người viết nhật ký cá nhân trên mạng (blogger) và những người sử dụng Internet khác khi họ thể hiện trực tuyến những quan điểm “trái chiều”. Trường hợp thí dụ của Alexei Navalny – một blogger và nhà hoạt đọng chính trị nổi tiếng đã tố giác nạn tham nhũng phổ biến trong giới chức Nga, và đã phải đối mặt với những tôi danh hình sự nghiêm trọng – cũng là bịa đặt theo quan điểm của nhiều người – vì những hành động bị cho là có sai phạm tài chính, đã minh chứng cho xảo thuật thô sơ nhưng hiệu quả này. Việc thiếu vắng những phiên tòa độc lập đã khiến tất cả những hành động áp chế như vậy đều trở nên quá dễ dàng.

Nhưng thật trớ trêu bởi tính công khai và đa chiều rộng mở của Internet đối với vô số các quan điểm chính luận và phản luận lại có thể làm tê liệt khả năng của các phương tiện truyền thông mới giúp nới lỏng sự kìm kẹp của giới elite độc tài chính tắc quyết tâm nắm giữ quyền lực. Các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát luôn tán dương hiện trạng. Nội dung đối án trực tuyến có thể thách thức phát ngôn chính thống của nhà nước bằng những phương cách đặc thù như nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến môi trường, quan hệ dân tộc, tham nhũng, các sai phạm pháp luật, sai sót trong việc cung cấp dịch vụ y tế, và vân vân. Nhưng những chuyện kể và những lời chỉ trích hỗn tạp này – ngay cả khi có gạt sang một bên việc chúng sẽ khó nhọc ra sao để đến với số đông khán giả thực thụ – cũng không nhất thiết sẽ hợp thành một lập luận chặt chẽ để phản kháng chính quyền. Chẳng hạn, người Nga đang tổ chức đòi hỏi quyền lợi của mình trong những trường hợp cụ thể – phản đối việc bỏ hoang một kho tàng kiến trúc hay một khu công viên đáng được trân trọng, hoặc yêu cầu chăm sóc sức khỏe cho dân thường – nhưng họ không liên hợp để thay đổi tổng thể hệ thống chính trị, đặc biệt là sau những vụ đàn áp thẳng tay mà ông Putin đã ra lệnh thực thi hồi năm 2012.

Ở Trung Quốc, các nhà chức trách đã làm tốt công việc kiểm duyệt Internet của họ bằng cách loại bỏ mọi nội dung (dù với bất kể hàm ý gì) có vẻ như có khả năng thúc đẩy sự huy động xã hội. Kế hoạch hành động là trì hoãn hoặc ngăn chặn các hành động, quy trình hành động liên hợp tự thân. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa nỗ lực này lên một cấp độ mới vào tháng 9/2013 khi họ bắt đầu một cuộc đàn áp thẳng tay trên máy tính đối với các trang nhật ký cá nhân của những người định hướng quan điểm.

Phần lớn các cơ quan kiểm duyệt Internet của Trung Quốc đều bao gồm những cổng thông tin tư nhân như Sina.com luôn thực hiện chỉ huấn của chính thể độc đảng bằng cách kiểm soát các trang mạng của bản thân để tuân thủ (hoặc thậm chí là thúc đẩy) các đường hướng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các chế độ độc tài cựu phái muốn tự thân vận động; còn các chế độ độc tài tân phái lại muốn thuê ngoài, ở nơi có thể lợi dụng các lực lượng thị trường để tăng cường năng lực kiểm duyệt. Bắc Kinh vẫn có sự kiểm duyệt chính thức. Nhưng họ biết nguồn nhân lực đó là không đủ, nên đã thuê các công ty tư nhân thực hiện phần lớn các việc làm bất chính để đảm bảo rằng sự thành công về mặt thương mại và thậm chí cả sự đòi hỏi sống còn những nỗ lực kiên định đều phục tùng đường lối của chính đáng. Trong nỗ lực đáp ứng các mục tiêu của giới chức cầm quyền, các công ty được khuyến khích đổi mới. Twitter và các công ty nước ngoài khác vốn từ chối tuân thủ các chuẩn mẫu kiểm duyệt ở địa phương đơn thuần nhận thấy bản thân họ bị loại trừ khỏi thị trường rộng lớn của Trung Quốc.

Hơn nữa, Bắc Kinh, Moscow và các chính thể độc tài khác đều đang tăng cường vận dụng các giải pháp thao túng công phu trực tuyến để tạo thành “nhiễu trắng” với tính cách là một phương thức gây nhiễu loạn cho các địch thủ tiềm tàng ở phe đối lập. Các tài khoản tự động hóa, hay những công cụ tìm kiếm “bot”, vốn được hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các chính thể này đều nhằm mở rộng phạm vi truyền thông của chính phủ, công kích các phong trào dân sự độc lập và các phe phái chính trị đối lập với mục đích “bùn hóa nước trong” khi các vấn đề hệ quả chính trị đang được đặt trên bàn thảo luận.

Cách đây không hẳn đã lâu, tồn tại một giả định phổ biến cho rằng, Internet sẽ khởi động các mạch phun thông tin ở khắp mọi nơi, đảm bảo kéo theo sự thay đổi về mặt chính trị. Thay vì thế, có vẻ như phương pháp thuần hóa cách biểu đạt chính trị trên các phương tiện truyền thông truyền thống đang được chỉnh sửa và vận dụng cho các phương tiện truyền thông mới với ảnh hưởng tăng cường. Xu hướng “quy tụ phản nghịch”, ở đó không gian dành cho sự biểu đạt trực tuyến hàm nghĩa chính trị đang thu hẹp và dịch chuyển theo hướng các phương tiện truyền thông truyền thống kém tự do hơn, đã hàm chứa những ẩn ý thật sự đáng lo ngại. Trong số hàng loạt các giải pháp hạn định, một số mang tính công khai, số khác tinh vi và phức tạp hơn mà Bắc Kinh, Moscow và những chính thể học theo họ đã thực hiện chí ít cũng sẽ khiến chung ta đặt câu hỏi, liệu Internet có thể chịu đựng sự xâm phạm độc đoán và tự trụ giữ bản thân với tính cách là một diễn đàn mở cho hoạt động luận bàn chính trị ở các quốc gia độc tài.

Phe nhóm đối lập và xã hội dân sự, ở các quốc gia dân chủ, truyền thông khai mở là nhân tố huyết mạch của xã hội dân sự và phe nhóm chính trị đối lập. Ở các chế độ cai trị độc tài, các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát luôn tìm cách cô lập các tổ chức xã hội dân sự  trong xã hội nói chung với ý đồ cản bước mọi sự hợp tác chính trị giữa các tổ chức cũ và mới. Hướng đích mục tiêu này, các phương tiện truyền thông do nhà nước điều hành đang nỗ lực gây nghi ngờ trong tư duy của dân chúng về mọi ý niệm về một đối án chính trị đối với chế độ hiện tồn. Các hoạt động công kích truyền thông đều nhằm giải hợp pháp hóa xã hội dân sự và phe nhóm đối lập, mở đường cho các biện pháp đàn áp khác. Chẳng hạn, khi một chế độ độc tài muốn kết tội một nhà lãnh đạo xã hội dân sự với những tội danh hình sự gán ép, trước hết họ thường sẽ “xoa dịu đối tượng” bằng cách khiến nhà lãnh đạo đó trở thành mục tiêu của vùng phủ sóng truyền thông bất lợi.

Các phương tiện truyền thông do nhà nước điều hành thường buộc tội phe đối lập luôn muốn gây ra tình trạng hỗn loạn, một lời buộc tội có lẽ sẽ sở hữu tầm ảnh hưởng sâu rộng trong các xã hội có lịch sử bất ổn chính trị. Cùng với nó, những phát ngôn chỉ trích chế độ có thể được mô tả là những công cụ có chủ ý hoặc không chủ ý của phương Tây, một thủ đoạn phổ biến ở nhiều quốc gia khác nhau như Trung Quốc, Zimbabwe, Azerbaijan, và Nga. Các hãng truyền thông quốc tế như BBC, Radio Free Europe/Radio Liberty, và Radio Free Asia thường bị khóa chặn, để từ đó loại bỏ các kênh truyền thông cốt yếu của xã hội dân sự nhằm thu nhận các nguồn tin độc lập và giao tiếp với các đối tượng truyền thông quốc nội.

Người phát ngôn của phe đối lập thường không bao giờ có được quyền tiếp cận trực diện với số khán giả được bảo vệ nghiêm ngặt của các phương tiện truyền thông do nhà nước điều hành. Khi nó có vẻ giống như một thứ mánh khóe chiến thuật – có lẽ là lúc việc công khai lên án một người sẽ không chỉ làm gia tăng tính công khai hoặc thậm chí là đồng thuận – hệ thống cai trị sẽ khiến phát ngôn chỉ trích không còn hiện diện rõ ràng trong công luận. Mạng lưới truyền hình do nhà nước kiểm soát của Nga, đặc biệt là NTV [đài truyền hình phủ sóng ở Liên bang Nga, Tây Âu, Trung Đông và Bắc Mỹ – ND] đã nhiều lần tăng thời lượng phát sóng toàn quốc cho chương trình gây rúng động hàm ý các nhà hoạt động xã hội vì quyền con người và các nhà cải cách khác đang hành động vì những lợi ích ngoại biên, nếu không nói là đang tìm cách gây hại cho nhà nước Nga. Trong số các chương trình này có “Giải phẫu một cuọc biểu tình” (Anatomy of a Protest), một bộ phim tài liệu nổi tiếng được công chiếu hồi năm 2012 nhằm hạ nhiệt các cuộc biểu tình diễn ra tại Moscow và các thành phố khác sau các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống còn nhiều sai phạm. Các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát đã tìm cách hạ thấp danh tính của những kẻ chuyên bới xấu như Navalny và Magnitsky vì tội nhận hối lộ (Magnitsky vẫn đang chịu sự phỉ báng sau khi đã chết ở trong tù) ngay cả khi những nhân vật này đã dũng cảm để đưa ra ánh sáng những việc làm sai trái của chính quyền. Đã thấy rõ bài học dành cho bất kỳ ai có hướng suy nghĩ về việc học theo họ.

Phải chăng cách đối xử hà khắc như vậy đã được cấp trên ra lệnh trực tiếp? Rất có thể là không, chỉ bởi vì không cần thiết phải có chỉ lệnh công khai. Các phương tiện truyền thông do nhà nước điều hành, giống như những con người tùy tùy của Vua Henry II, luôn ở trong tư thế sẵn sàng tấn công mọi con chiên thời nay của Thánh Thomas Becket và có lẽ thậm chí không cần phải nghe khẩu lệnh của nhà cầm quyền “Liệu có ai giúp ta thoát khỏi tên thầy tu ngỗ nghịch này không?” ở Nga và các quốc gia tương tự hiện thời, chế độ cai trị dường như nhận thấy tự kiểm duyệt là cách thức kiểm duyệt tốt nhất, và các cuộc tấn công “tự phát” nhằm vào những kẻ chỉ trích là những cuộc tấn công hiệu quả nhất. Trong hoạt động kiểm duyệt, tinh thần của nhà nước đã được quốc nội hóa, còn trong các cuộc tấn công nhằm vào những kẻ chỉ trích, giới quan chức không bao giờ phải chỉ tay hay tuyên bố buộc tội – những gì họ muốn hoàn tất hoàn toàn được thấu hiểu và không cần phải bàn cãi.

Ở Trung Quốc ngày nay, tất cả các tòa báo và các hãng truyền thông lớn đều có đăng ký hành nghề với nhà nước hoặc Đảng Cộng sản Trung Quốc và vẫn chịu phụ thuộc vào các thể chế nhà nước (quan trọng nhất là Ban Tuyên giáo) vốn có thẩm quyền chỉ huấn các đường hướng truyền thông. Khi đề cập đến những vấn đề nhạy cảm như Tây Tạng, chỉ những tác giả thân tín với chính quyền mới nhận được đường truyền phát sóng.

Quyền hành được chính giới thực thi đối với nội dung truyền thông được minh họa ấn tượng bằng trường hợp của Lưu Hiểu Ba. Là một trí thức uyên bác bị bỏ tù vì những lập luận kiên định chống lại nguyên tắc một đảng liên tục cầm quyền, ông không được nhiều người biết đến ngoại trừ số ít các nhà hoạt động xã hội vì quyền con người và các chuyên gia Trung Quốc. Cũng không nhiều người ngoài Vương triều Trung Hoa từng nghe nói về ông. Điều đó đã được thay đổi vào ngày 08/10/2010 khi Ủy ban Nobel ở Oslo công bố Lưu Hiểu Ba được trao tặng Giải Nobel Hòa bình vì “sự đấu tranh lâu dài và phi bạo lực vì các quyền con người căn bản ở Trung Quốc”. Thật bất ngờ, tin tức thế giới tràn ngập những đề mục về nhân vật chống đối yêu hòa bình và dũng cảm này, người bị bỏ tù chỉ vì dám nói ra chủ kiến của mình và ủng hộ cho những quyền hạn mà công dân ở các quốc gia dân chủ vốn được thụ hưởng một cách trọn vẹn.

Lưu Hiểu Ba bị buộc tội một năm trước đó vì tội “kích đột lật đổ chính quyền nhà nước”, một điều khoản trong Bộ luật Hình sự của Trung Quốc thường được vận dụng để bịt miệng những người chỉ trích tính ưu việt của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hành động để quy tội ở đây là sự tham gia của ông trong việc soạn thảo và truyền bá Hiến chương 08 với những tuyên ngôn ủng hộ dân chủ. Thế giới rộng lớn hơn có lẽ đang tôn vinh dũng khí của Lưu Hiểu Ba và kích động việc cam kết thực thi cách hành xử nhân đạo, cao thượng, nhưng khán giả truyền hình Trung Quốc lại không hề nghe được tin tức gì về ông. Chỉ cộng đồng trực tuyến Trung Quốc mới có khả năng né tránh hành động kiểm duyệt và che giấu nguồn tin chính thống để có được thông tin về người Trung Quốc đầu tiên giành Giải Nobel Hòa bình.

(còn tiếp)

Người dịch: Bùi Hồng

Hiệu đính: Mai Chi

Nguồn: Christopher Walker & Robert W. Orttung – The role of State-Run Media, Journal of Democracy – January 2014. Vol.25, No.1

TN 2014 – 69

Vai trò của truyền thông nhà nước – Phần III


Dân chúng nói chung. Các phương tiện truyền thông do nhà nước chi phối khiến đa số các đối tượng truyền thông tôn trọng và kính sợ hệ thống cai trị, nhưng nhiệm vụ không kém phần quan trọng chính là nuôi dưỡng thái độ thờ ơ và thụ động. Cách thức chủ yếu của các phương tiện truyền thông của hệ thống cai trị ở đây là kết hợp các hành động làm trệch hướng, xuyên tạc và gây hoang mang để cổ động cho cái mà học giả theo quan điểm dân chủ Ivan Krastev gọi là “chủ nghãi độc tài xác sống”.

Để duy trì quyền lực, chế độ độc tài buộc phải khiến đại đa số người dân không thể can thiệp vào các hoạt động chính trị. Các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát có thể giúp sức bằng cách nhấn mạnh những lợi ích của bối cảnh hiện tồn theo những cách thức tương đồng và bôi xấu mọi sự đối ngược với hiện trạng. Tồn tại những cảnh báo cho rằng, chi phí để theo đuổi sẽ vượt hơn mức bình thường và những lợi ích hão huyền của nó sẽ có hiệu ứng bình giảm và trở kháng. Truyền thông độc tài do nhà nước kiểm soát hiện thời thường thực hành truyền thông bằng nhiều phép dụng từ mà Albert O. Hirschman đã phân tích từ vài thập niên trước trong nghiên cứu kinh điển của ông về phép dụng từ phản nghịch. Các chương trình truyền thông hiện có nhiều nỗ lực đa dạng để chứng tỏ sự thay đổi về mặt chính trị sẽ có cái kết bằng không hay thậm chí bằng những hệ quả trái ngược với dự định, và nó sẽ buộc xã hội phải gánh chịu những khoản chi phí hoặc những hậu quả không thể chấp nhận.

Từ sau những cuộc biểu tình phản kháng cuộc bầu cử Thượng viện thiếu minh bạch diễn ra ở Nga hồi tháng 12/2011, chiến lược truyền thông của hệ thống cai trị đã hướng đích giảm trừ các động thái tích cực của dân chúng thông qua hoạt động giải trí. Tại sao lại phải tổ chức một cuộc mít tinh đường phố hay tham gia một nhóm dân sự trong khi những thứ hấp dẫn như Dom-2, một phiên bản của serie chương trình truyền hình thực tế Big Brother đang trình chiếu? Bằng cách xử sự như vậy với đại đa số dân chúng, chính quyền Putin đã bắt đầu học theo các phương thức ở giai đoạn cuối thời kỳ Xô viết, chú trọng hoạt động giải trí hơn là động thái chính trị.

Các kênh truyền hình do nhà nước kiểm soát là công cụ chính yếu, ở các quốc gia độc tài, truyền hình vốn thu hút 3/4 hoặc hơn thế lượng công chúng quan tâm đến các tin tức chính trị. Ở Trung Quốc, ngay cả khi tồn tại sự phát triển bùng nổ của Internet, nhu cầu tin tức vẫn được đáp ứng chủ yếu thông qua mạng lưới truyền hình quốc gia. Ở Nga, 88% số người được hỏi trong cuộc thăm dò ý kiến của Trung tâm Levada hồi tháng 6/2013 đều trả lời họ đã thu nhận tin tức về quốc gia và thế giới thông qua truyền hình. Không một kênh truyền thông nào khác nhận được hơn mức 25% lượng câu trả lời. Cũng trong cuộc khảo sát này, 51% số người trả lời khẳng định niềm tin vào các chương trình phát sóng. Tỷ lệ này vẫn có nghĩa, ngay cả khi nó là kết quả của mức giảm mạnh từ tỷ lệ 79% số người bày tỏ sự tin tưởng vào các kênh truyền hình của Nga trong một cuộc khảo sát hồi tháng 8/2009. Dẫn chứng từ các quốc gia khác nhau như Azerbaijan, Belarus, Campuchia, Iran và Việt Nam đều vẽ nên một bức tranh về tính ưu trội và tầm ảnh hưởng của các kênh truyền hình do nhà nước kiểm soát không hề khác so với những gì được nhận thấy ở Nga.

Mặc dù vậy, như tỷ lệ giảm 28% mức độ tin tưởng đã chỉ ra, nhiều người Nga vốn tín nhiệm các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát đang hoài nghi về những gì họ nhìn thấy. Nghiên cứu của Ellen Mickiewicz về khán giả truyền hình Nga cho thấy, họ không đơn thuần chấp nhận mọi thứ hiện diện trên các kênh truyền hình do Điện Kremlin kiểm soát, thay vì thế, họ thu nhận chúng theo những phương cách phức tạp vốn khác biệt so với ý định của giới cầm quyền. Thái độ bất tín ngày càng tăng đối với các kênh truyền hình do nhà nước kiểm soát ở Nga có lẽ đã cảnh báo những rào cản đối với hình mẫu thụ động do các phương tiện truyền thông nuôi dưỡng.

Tuy nhiên, truyền hình và các kênh truyền thông chính thống khác cũng chứng minh tính hiệu quả trong việc chuyển tải rõ ràng thông điệp cho rằng việc tích cực tranh luận với các nhà cầm quyền sẽ có hậu quả tai hại. Đại đa số mải mê với ý tưởng cho rằng họ có thể ít nhiều thay đổi hiện trạng. Họ vẫn giữ thái độ lãnh đạm và thờ ơ. Chính quyền Bắc Kinh, Moscow và các thủ phủ độc tài khác đã mạo danh các hệ thống truyền thông do nhà nước kiểm soát để gợi mở những động thái phù hợp với những gì Barbara Geddes và John Zaller đã quan sát thấy liên quan đến chế độ độc tài quân sự tồn tại ở Brazil từ năm 1964 đến năm 1985. Đặc biệt, họ lưu ý, “mục đích chính yếu của việc bảo vệ truyền thông ủng hộ chính phủ là thuyết phục những người thờ ơ với chính trị chí ít cũng trở thành những nhân vật thụ động ủng hộ chính sách của chính phủ”. Nói cách khác, ngay cả khi khán giả của hệ thống truyền hình quốc gia không hẳn tin tưởng vào những gì họ thấy, họ vẫn phải xử sự theo cách vốn có.

Sau cùng, nó hàm nghĩa nhiều chế độ độc tài đã nhận ra những nền tảng hỗ trợ căn cốt của mình trong nhóm cư dân nông thôn và nhóm thị dân ít học – với các nhóm này, các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát đã chứng tỏ bản thân có cách tiếp cận đặc biệt hiệu quả. Ở Trung Quốc, những người dân này vẫn là đối tượng truyền thông chính yếu của CCTV trong khi các công dân Trung Quốc trẻ hơn và được giáo dục tốt hơn bị thu hút về hướng Internet. Truyền hình quốc gia Nga đang cẩn trọng nuôi dưỡng dân chúng ở mọi vùng miền bằng một chế độ truyền thông bất biến, vốn mô tả việc Nga luôn bị bủa vây bởi các mối đe dọa từ nước ngoài mà đặc biệt là Mỹ. Những khán giả không có nhiều học thức hoặc trải nghiệm vốn có thể nói khác về những mối đe dọa từ Mỹ lại có khuynh hướng đặt niềm tin vào mạng lưới truyền thông quốc gia khi nó đưa ra những phán xét (khắt khe) các định ý và chính sách của Mỹ. Không hề ngoa ngôn khi nói rằng chủ nghĩa chống Mỹ, bằng nhiều phương cách khác nhau, chính là thứ gần cận nhất với “hệ tư tưởng” hợp nhất mà Điện Kremlin hiện sở hữu, cũng đồng thời nắm giữ vai trò chính thống trọng yếu đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Những người nhiệt tình “kết nối” với Internet. Giống như truyền hình, Internet là thứ mà giới chức độc tài và những kẻ dưới quyền hiện nhận ra rằng họ cần phải nỗ lực kiểm soát. Thế giới tự do của truyền thông và nghị trình trực tuyến khiến họ ngày càng thêm lo ngại. Để nắm quyền quản lý, các cơ quan tuyên giáo và kiểm duyệt của nhà nước đang trở lại với các phương thức được chứng minh là hữu dụng trong việc “quản lý” các phươg tiện truyền thông truyền thống. Song không có sự tương đồng về nhiệm vụ: Thực hiện kiểm soát đối với nội dung chính trị cốt yếu của một mạng lưới truyền hình trung ương dễ dàng hơn nhiều so với việc kiểm soát nguồn tin trực tuyến tương tự. Nhưng các chế độ độc tài đang thể hiện sự quyết tâm cao độ và chú trọng đổi mới để đạt đến mục tiêu. Giống như với các phương tiện truyền thông truyền thống, các giải pháp hạn chế đang được thử nghiệm vốn không được thiết kế để khóa chặn mọi thứ, nhưng thay vào đó, nó chủ yếu hướng đích ngăn cản các nguồn tin chính trị hoặc những vấn đề nhạy cảm khác vốn luôn hướng tới các đối tượng truyền thông chính yếu. Khi việc sử dụng và phổ cập Internet gia tăng ở các quốc gia độc tài – và với dẫn chứng sinh động sẵn có từ Nga và thế giới Arab về năng lực hữu dụng của các công cụ sử dụng công nghệ web trong việc tổ chức những hành động phản kháng quy mô lớn – các chế độ độc tài đang làm việc tích cực hơn bao giờ hết để tìm cách cản trở dòng lưu chuyển thông tin chính trị xác tín thông qua không gian số.

Tính phổ truyền của Internet thật đáng để chú tâm, và nhiều hệ thống độc tài hiện là cấu phần tạo thành xu hướng – thực tế, các chính phủ của họ không có nhiều lựa chọn ở đây trừ khi họ muốn thử chi phối một Bắc Triều Tiên khác. Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đòi hỏi phải được “nối mạng”. Vì vậy, ở một Việt Nam tăng trưởng nhanh nhưng chuyên chế, 40% người dân đã truy cập Internet. Ở Belarus (vốn mang danh là “chế độ độc tài cuối cùng của châu Âu”), Kazakhstan, và Saudi Arabia, tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn, xấp xỉ 55%. Trung Quốc là quốc gia có mức phổ cập Internet là 45% và hiện có gần 600 triệu người sử dụng Internet, có hơn 330 triệu người sử dụng mạng xã hội, hầu hết họ đều dùng Sina Weibo, phiên bản Twitter của Trung Quốc. Ở Nga, quốc gia mới đây đã vượt mức truy cập Internet 50%, các phương tiện truyền thông sử dụng công nghệ web như TV Rain đang giúp phe đối lập tiếp cận với lượng khán giả lớn hơn.

Khi Internet hiện diện hoành tráng hơn, động thái can thiệp chính trị mang tính độc tài đối với nó cũng có quy mô tương ứng. Cho đến gần đây Nga mới sử dụng các kỹ thuật tương đối tinh vi và phức tạp “được thiết kế để định hướng và gây ảnh hưởng đến thời điểm và cách thức thu nhận thông tin của người dùng tin mà không phủ nhận hoàn toàn quyền truy cập”. Theo đó, luật định 2012 của Nga cho phép chính phủ đóng cửa các trang web có nội dung không phù hợp – tương tự nội dung một nghị định do Bộ Truyền thông và Tổng cục An ninh Liên bang Nga (đơn vị kế nhiệm của ủy ban An ninh quốc gia Xô viết) ban hành, dự kiến có hiệu lực vào năm 2014, yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet giám sát mọi động thái trên Internet, bao gồm các địa chỉ IP, các số điện thoại và tên người dùng, đánh dấu một bước thụt lùi thấy rõ xét về quyền tự do trên Internet. Ngày 01/09/2013, Việt Nam thực thi Nghị định 72, một giải pháp đầy tham vọng mong muốn ngăn cấm người dùng trực tuyến của đất nước này luận bàn về các sự kiện thời sự và chia sẻ các tin tức báo chí. Trong khi đó, chính phủ Trung Quốc lại dẫn đầu trong công tác kiểm duyệt trực tuyến và cũng trở thành chuyên gia hàng đầu về những phương thức tinh vi trấn áp truyền thông chính trị trực tuyến. Bắc Kinh sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn với các hệ thống cai trị khác, như ở Belarus, Việt Nam và Zimbabwe. Ngay cả khi các quốc gia như Belarus, Việt Nam, Iran, Saudi Arabia và các quốc gia vùng Vịnh khác nhận thấy sự gia tăng nhanh chóng quyền truy cập Internet, Tổ chức Nhân quyền Freedom House vẫn xếp họ vào danh sách những quốc gia có mức tự do trực tuyến thua kém hơn. Sự xếp hạng như vậy cho thấy, ở những quốc gia này, khả năng “quy tụ phản nghịch” có thể diễn ra, trong đó nội dung thông tin của các phương tiện truyền thông mới đang chịu sự kiểm soát ngày càng giống như tình trạng từng xảy ra đã lâu của các phương tiện truyền thông truyền thống.

(còn tiếp)

Người dịch: Bùi Hồng

Hiệu đính: Mai Chi

Nguồn: Christopher Walker & Robert W. Orttung – The role of State-Run Media, Journal of Democracy – January 2014. Vol.25, No.1

TN 2014 – 69

Vai trò của truyền thông nhà nước – Phần II


Truyền hình vẫn chưa có đối thủ cạnh tranh xứng tầm. Việc truy cập và sử dụng Internet đang gia tăng, và gia tăng nhanh chóng ở một số quốc gia; các công nghệ mới giúp những người dân bình thường có thể tiếp cận một lượng thông tin đa dạng phổ rộng, giúp họ giao tiếp với nhau một cách nhanh chóng và không tốn kém. Truyền thông xã hội có lẽ cũng giúp hình thành những thuyết dẫn, đặc biệt có liên quan đến nỗi bất bình của nhiều người, và đang làm thay đổi cơ chế hành động tập thể. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông mới vẫn đang tồn tại trong cái có thể gọi là “thời kỳ trỗi dậy” thuộc tiến trình phát triển, và vẫn còn một chặng đường dài để đi trước khi chúng có thể thách thức vị thế hạng nhất của truyền hình trong các xã hội độc tài.

Ở những phương tiện truyền thông khác, thế giới trực tuyến phải chịu sự phân tách nhiều hơn. Các chế độ độc tài, theo bản chất, chú trọng hết mức vào việc duy trì quyền lực và do vậy luôn sử dụng truyền thông nhà nước một cách có hệ thống để hướng đích mục tiêu này. Hệ thống truyền hình do nhà nước kiểm soát luôn gửi đến các khán giả của mình thông điệp về trạng thái không bị kìm giữ. Trái lại, Internet là một tạp thể của nhiều âm giọng không tương hòa – không phải là nền tảng tốt nhất để thúc đẩy một phe chống đối hợp nhất, cố kết trước các thế lực hiện tồn.

Nhà nước kiểm soát hoạt động truyền thông như thế nào

Những giải pháp nào cho phép các hệ thống truyền thông nhà nước – bao gồm không chỉ truyền hình mà cả báo chí, đài phát thanh và các phương tiện truyền thông mới, tất cả đều được hậu thuẫn bởi lực lượng cảnh sát và tòa án dưới danh nghĩa chính trị – tồn tại trong thời đại hiện nay với những tiến bộ nhanh chóng về công nghệ và truyền thông, đặc biệt là trong các lĩnh vực Internet và truyền thông xã hội? Để đạt được sự thống trị hiệu quả, các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát trong các chế độ độc tài đã nỗ lực tìm cách gây ảnh hưởng đến bốn đối tượng truyền thông khác nhau. Được liệt kê theo trình tự vị thế quan trọng đối với hệ thống cai trị, các đối tượng truyền thông này bao gồm: 1) giới elite trong liên minh của bản thân hệ thống cai trị; 2) dân chúng nói chung; 3) những người sử dụng Internet thường xuyên của quốc gia; và 4) nhóm phái chính trị đối lập và xã hội dân sự độc lập.

Giới elite trong liên minh hệ thống cai trị. Các chế độ độc tài luôn phải lo lắng về chính giới elite của mình, những người vừa đảm nhận trách nhiệm lớn lao về tiền đồ tốt xấu của chế độ vừa có khả năng hơn mức tiêu chuẩn để “luôn thắng thế” bằng cách “tiến bước linh hoạt” theo bổn phận. Các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát phải đặt thành nhiệm vụ bảo đảm những rường cột của chế độ chính yếu này, bao gồm nhà chức trách đương quyền (hoặc giới cầm quyền) luôn ở thế vững vàng, khiến cho tinh thần đoàn kết không ngừng nghỉ và sự trung thành với chế độ luôn được “phát huy mạnh mẽ”.

Những dấu hiệu chi phối truyền thông minh bạch về những thành viên liên minh cầm quyền chủ chốt hiện đào tẩu sẽ bị thanh trừng, trong đó có việc thanh trừng bằng các chiến dịch bôi nhọ truyền thông. Trong bối cảnh này, mọi điều truyền thông hiện đề cập ở mọi thời điểm đều không quan trọng bằng năng lực của giới chức cầm quyền chứng tỏ họ có thể áp đặt mọi thông điệp theo ý muốn. Các nhà độc tài đều nhận thức rõ ràng, như Guillermo O’Donnell và Philippe Schmitter đã chỉ ra, các chế độ phi dân chủ có thể bắt đầu phá sản nếu một lúc nào đó những người theo chế độ ôn hòa định vị và tiếp cận được phe đối lập bằng những nhân vật mà họ có thể tiến hành đàm phán. Ngăn giữ các cấu phần của giới elite cai trị không bị phân tách và tìm kiếm lối thoát là một mục tiêu thống trị cốt yếu, và do vậy là một nhiệm vụ quan trọng của các phương tiện truyền thông do hệ thống cai trị điều hành.

Ở Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc sử dụng quyền thống trị truyền thông của mình để gửi gắm chỉ hiệu đến một số đối tượng truyền thông thuộc giới elite cốt yếu. Họ bao gồm chính các thành viên của ban lãnh đạo Đảng cũng như của bộ máy hành chính nhà nước, và cộng đồng các doanh nghiệp đang phát triển lớn mạnh và gắn bó mật thiết với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Anne-Marie Brady đã nhận định vai trò vô cùng quan trọng của các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát của Trung Quốc là “nhánh bộ thứ tư của chính phủ” (hơn là “giới báo chí”) cũng như lợi thế của nó trong việc chuyển tải tới giới elite những thông điệp ủng hộ hệ chính thể độc đảng.

Tổng thống Nga Vladimir Putin đã sử dụng truyền thông để phô diễn quyền lực của mình đối với các phe nhóm chủ chốt. Ông đặc biệt muốn duy trì quan hệ với Silovik (những nhân vật có thế lực), những người phục vụ trong quân đội, trong lực lượng cảnh sát, và cơ quan an ninh quốc gia. Các đối tượng truyền thông mục tiêu khác mà các show diễn sức mạnh có tiếng của ông Putin hướng đến (trong đó có việc tham gia cổ vũ một trận đấm bốc tay trần cùng ngôi sao phim hành động người Bỉ Jean-Claude Van Damme, cùng với những hình ảnh được truyền phát rộng rãi chụp ông Putin cởi trần cưỡi ngựa và khi ông đeo một khẩu súng trường đi săn chó sói) bao gồm các cơ quan nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty năng lượng và các nhà cung cấp tài nguyên thiên nhiên khác vốn nắm giữ vai trò vô cùng to lớn trong nền kinh tế Nga. Quyền chi phối của ông Putin đối với các kênh sóng truyền thông nhắc nhở các phe nhóm chủ chốt rằng, họ đang được hưởng lợi từ vị thế của ông với tư cách một nhân vật lãnh đạo tối cao, cũng nên dè chừng thái độ không hài lòng và cả những gì có thể xảy ra khi ông rời bỏ chính trường.

Dự luật Magnitsky được Quốc hội Mỹ thông qua hồi cuối năm 2012 đã đặt thành một thách thức cho sức ảnh hưởng của Putin đối với giới elite. Được đặt theo tên gọi của Sergei Magnitsky, một luật sư người Nga đã chết trong một nhà tù ở Moscow năm 2009 sau khi bị bỏ tù vì tội vạch trần hành vi tham nhũng của giới chức chính quyền, đạo luật này đã áp đặt các lệnh trừng phạt của giới chức Mỹ (cấm các hoạt động liên quan đến ngân hàng và việc đi lại) đối với đích danh một số quan chức người Nga. Việc thông qua đạo luật này là một nỗ lực để chứng tỏ với từng thành viên thuộc giới elite của Putin rằng, họ có thể phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với hành động vi phạm nhân quyền nội quốc. Sau khi chính phủ Mỹ công bố danh sách 18 người Nga bị áp dụng lệnh trừng phạt hồi tháng 4/2013, các quan chức của chính quyền Putin đã xuất hiện trên các chương trình truyền hình quốc gia nổi tiếng để tỏ thái độ xem thường và bác bỏ các lệnh trừng phạt. Mặc dù việc ban hành đạo luật này của Mỹ có thể khích lệ một số nhân vật trong giới elite Moscow cảm thấy việc ủng hộ Putin sẽ không còn có lợi cho lợi ích của họ, nhưng việc những nhân vật này xuất hiện trên kênh truyền hình quốc gia đã báo hiệu cho những nhân vật có liên can chính yếu rằng Điện Kremlin của Putin có lẽ sẽ không chịu quy hàng trong việc đòi hỏi sự tiếp tục trung thành của họ.

Tương tự, Điện Kremlin có thể sử dụng các phương tiện truyền thông đã quy phục của mình như một cách thức để duy trì quan hệ với các quan chức địa phương. Trong suốt cuộc đàn áp thẳng tay phe đối lập sau lễ nhậm chức Tổng thống nhiệm kỳ III của ông Putin hồi tháng 5/2012, các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát đã có vô số những lời lẽ tán dương đặc biệt dành cho các quan chức địa phương đã ra lệnh bắt giữ những nhân vật hoạt động tích cực ở phe đối lập.

(còn tiếp)

Người dịch: Bùi Hồng

Hiệu đính: Mai Chi

Nguồn: Christopher Walker & Robert W. Orttung – The role of State-Run Media, Journal of Democracy – January 2014. Vol.25, No.1

TN 2014 – 69

Vai trò của truyền thông nhà nước – Phần I


Christopher Walker & Robert W. Orttung

Mặc dù sự gia tăng của các phương tiện truyền thông mới, và của các môi trường truyền thông nhìn chung là đa dạng và mang tính cạnh tranh nhiều hơn so với trước kia, song các chế độ độc tài vẫn đang tìm kiếm những phương thức sử dụng truyền thông gây ngạc nhiên (và có hiệu ứng đáng lo ngại) để giúp duy trì quyền lực của bản thân. Các kênh truyền thông nhà nước kiểm soát một cách chính thống hoặc phi chính thống đều trở thành thứ thiết yếu đối với tính bền vững của các chính thể phi dân chủ trên toàn thế giới. Thông điệp mà các kênh truyền thông đó phát ra – và thái độ thờ ơ của công chúng được chúng cổ động – đã giúp giới elite chủ chốt của chế độ hạn chế sai lầm và ngăn cản sự trỗi dậy của các trung tâm quyền lực đối án trong xã hội.

Các kênh truyền thông được nói đến ở đây có thể được sở hữu và điều hành bởi nhà nước, hoặc có thể là tư nhân trên danh nghĩa nhưng thực tế vẫn thuộc quyền kiểm soát của chính phủ. Hầu hết các chế độ độc tài – bao gồm cả ở Nga và Trung Quốc, những người vận dụng mẫu mực kiểu chế độ này – đều tận dụng cả truyền thông nhà nước thuộc sở hữu lẫn truyền thông tư nhân để thực thi mệnh lệnh của mình.

Nói đến Bắc Kinh và Moscow ở đây có thể gây ấn tượng là các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát là một hiện tượng cộng sản hay hậu cộng sản, nhưng không phải vậy. Azerbaijan, Belarus, Campuchia và Việt Nam có các phương tiện truyền thông do nhà nước quản trị, nhưng Ethiopia, Iran, Mozambique, Rwanda, và Zimbabwe cũng vậy (Venezuela cũng đang nhanh chóng đi theo hướng đó). Ở tất cả các quốc gia này, cộng sản, hậu cộng sản, và phi cộng sản đều như nhau, đều là các hệ thống được thiết lập để định hướng tin tức và thông tin cho số đông đối tượng truyền thông và định hình các thuyết dẫn chính trị có ảnh hưởng chi phối. Hơn thế nữa, một số chính phủ được bầu chọn theo hình thức dân chủ có khuynh hướng độc tài như ở Ecuador, Nicaragua, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine cũng sử dụng phương cách tương tự.

Để hiện thực hóa ý chí của mình, các nhà độc tài cựu phái đã dựa vào các thiết chế cưỡng bức khổng lồ cùng với các tổ chức đảng phái mạnh mẽ, kiểm soát tập trung và thấm nhuần về hệ tư tưởng. Dĩ nhiên, cả Nga và Trung Quốc đều giữ lại những bộ máy hành chính quan liêu cồng kềnh do nhà nước bảo hộ, nhưng đều không sở hữu một đảng phái kiểu cổ điển. Đảng Cộng sản Liên Xô không còn tồn tại, trong khi Đảng Cộng sản Trung Quốc dù vẫn là đảng cầm quyền nhưng được tự do vi chỉnh hệ tư tưởng của mình cho “phù hợp với những quyết sạch được đưa ra trên cơ sở phi tư tưởng hệ”. Sự cưỡng bức đều đóng vai trò cốt yếu trong cả hai trường hợp, nhưng không ở một quốc gia nào chủ nghĩa độc tài có thể được duy trì chỉ bằng vũ lực – và những kẻ thống trị đều biết điều đó.

Đây là nơi mà các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát hiện diện. Không tồn tại hệ tư tưởng dẫn đường như chủ nghĩa cộng sản để làm chỗ dựa, các hệ thống cai trị đã lấy truyền thông để lấp đầy khoảng trống, đề xuất một tổ hợp bao gồm việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chủ nghĩa dân tộc, phản đối sự thân Mỹ, và những chiều hướng tư tưởng khác giúp hệ thống cai trị gắng sức chiếm được sự ủng hộ của số đông.

Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát không đơn thuần tồn tại chỉ để phụng sự các cơ quan quyền lực như vậy. Chức năng đồng hành quan trọng sống còn chính là bài xích và hạ thấp uy thế của các lựa chọn đối án thách thức hiện trạng độc tài trước khi chúng có thể có được sức hút đối với số đông dân chúng. Theo cách này, truyền thông nhà nước là một công cụ để cô lập mọi phe phái chính trị đối lập hoặc phong trào dân sự tiềm ẩn. Không thể tiếp cận toàn diện với sóng truyền thông, các phe nhóm đối lập khó có thể tiếp cận với những nhân vật ủng hộ tiềm năng hay trở thành những tiếng nói quan trọng trong các cuộc thảo luận công khai.

Mặc dù các nhà độc tài đương quyền vẫn nhìn nhận khả năng kiềm chế bất đồng quan điểm bằng vũ lực của họ là quan trọng cốt yếu và không có kế hoạch từ bỏ, nhưng Trung Quốc, Nga và các nước khác hiện đang hướng tới một cách tiếp cận cẩn trọng hơn đối với việc sử dụng vũ lực. Lý do của họ rất thực tế: ước vọng hiện đại hóa kinh tế và phát triển thịnh vượng không thể tồn tại song hành cùng sự trấn áp hàng loạt, tàn bạo và những rào cản về lưu lượng thông tin được yêu cầu.

Ngoại trừ những nhân vật ngoài cuộc như Cuba, Bắc Triều Tiên, Turkmenistan, các chế độ độc tài ngày nay không hề cố công sở hữu sự thống trị tuyệt đối tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng. Thay vào đó, cái họ muốn là thứ mà ta có thể gọi là “sự kiểm soát truyền thông hiệu quả” – đủ để họ chuyển tải sức mạnh và thổi phồng các yêu sách về tính hợp pháp, đồng thời ngầm phá bỏ các đối án tiềm tàng. Địa vị thống trị của nhà nước như vậy – dù được tận dụng thông qua các kênh truyền thông do nhà nước điều hành công khai hay chỉ chịu sự tác động của nhà nước – đều cho phép các hệ thống cai trị đưa các thuyết dẫn ủng hộ chính phủ lên vị trí chính diện và trung tâm, đồng thời vận dụng quyền chỉnh loại biên tập để hạn chế những phê phán mang tính hệ thống các chính sách và hành động của nhà cầm quyền.

Khi nói đến vấn đề này, Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu. Lực lượng tuyên truyền viên của Bắc Kinh là những người giỏi tư lợi, biết học hỏi phương pháp quan hệ công chúng thường được vận dụng trong chính giới phương Tây để ứng dụng vào điều kiện Trung Quốc. Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) vốn thu hút một lượng khán giả khổng lồ, hàng trăm triệu người, là một công cụ quản lý nhà nước, đang dẫn dắt ý thức cộng đồng trước các tin tức và sự kiện, đồng thời điều khiển các thông điệp trong lĩnh vực giải trí đại chúng. CCTV biểu trưng cho một thực thể truyền thông độc tài đã đạt được sự thành công về mặt thương mại khi kết hợp với hành động trấn áp có hệ thống, thậm chí đã được định chuẩn. Nó là một tập đoàn truyền thông (với những chi nhánh hiện đang hoạt động cả ở bên trong lẫn bên ngoài Trung Quốc) sinh lợi tài chính, tự chủ hành động, và đáng tin cậy về tư tưởng hệ. Tính ưu trội của CCTV có được phần nhiều là nhờ những việc làm mà các nhà lãnh đạo chính phủ Trung Quốc đã thực thi để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Đơn vị quảng cáo của nó là các doanh nghiệp nhà nước hoặc công ty tư nhân mong muốn nịnh cầu các quan chức nhà nước. Kết quả cuối cùng là tồn tại một môi trường truyền thông bán thương mại, trong đó chính thể động đảng nắm quyền phê duyệt chính yếu.

Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta thừa nhận tính ưu trội của CCTV: phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát có thể và đã tồn tại ở nhiều dạng thức, nhưng truyền hình vẫn là số một. Giống như tên cướp ngân hàng tài danh Willie Sutton – kẻ nổi tiếng với câu nói rằng, hắn cướp ngân hàng vì “đó là nơi có tiền”, các chế độ độc tài chú trọng truyền hình bởi lẽ đó là nơi tập trung đa số nhãn cầu. Ở hầu hết các xã hội, đó là nguồn lực chủ yếu để con người nắm bắt thông tin và dữ kiện. Phạm vi phủ sống của truyền hình – cả việc thể hiện nội dung gì lẫn việc thể hiện như thế nào – đều quyết định và định hướng nội dung chủ luận chính trị. Hơn nữa, mọi thứ tồn tại trên truyền hình đều định rõ nhận thức của công chúng về quyền lực sở hữu của một hệ thống cai trị lớn mạnh đến mức nào.

(còn tiếp)

Người dịch: Bùi Hồng

Hiệu đính: Mai Chi

Nguồn: Christopher Walker & Robert W. Orttung – The role of State-Run Media, Journal of Democracy – January 2014. Vol.25, No.1

TN 2014 – 69

Báo chí đa nền tảng – Phần cuối


Bên cạnh đó, một trong những chiến lược nổi bật của báo mạng điện tử là chiến lược nội dung. Nhà báo Meredith Artley của CNN nhấn mạnh tại hội nghị cấp cao Mạng lưới các Tổng Biên tập Toàn cầu (GEN) vào tháng 6/2016 rằng: “Đúng là có những thuật toán trên Facebook và các nền tảng truyền thông xã hội khác. Chúng ta không kiểm soát được chúng. Nhưng chúng ta kiểm soát những bài báo mà chúng ta viết ra, cách thức chúng ta thực hiện, chúng ta cũng kiểm soát vị trí và thời điểm chúng ta đăng tải những bài báo đó”. Thông tin trên báo mạng điện tử không còn chỉ nhanh mà còn sâu rộng, đáp ứng mọi nhu cầu thông tin của độc giả. Dường như trước đây, nội dung là thế mạnh của các tờ báo mạng điện tử có thu phí như The New York Times, Wall Street Journal thì nay, rất nhiều tờ báo mạng điện tử lớn trên thế giới đã đi theo con đường tăng nội dung thông tin. Người đọc có thể tìm thấy tất cả mọi thứ chỉ bằng những đường link và những lần nhấp chuột. Gói tin tức, siêu tác phẩm báo chí, longorm (những bài báo dài, phân tích chuyên sâu về một vấn đề nào đó), dữ liệu… là những hình thức mới rất hấp dẫn của báo mạng điện tử. Đặc biệt, nhanh, chính xác không còn là tiêu chí hàng đầu của các tờ báo mạng điện tử. Cách thức triển khai bài báo hấp dẫn, đầy tính sáng tạo trên sự hỗ trợ của công nghệ cao đã trở thành một hướng mới được rất nhiều tờ báo chú trọng. “The Russia Left Behind: A journey through a hearland on the slow road to ruin” của Ellen Bary đăng trên The New York Times dựa trên một bản đồ tương tác, là một câu chuyện dài xuyên suốt nước Nga, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chữ viết, bản đồ, hình ảnh, video… tạo nên một tác phẩm vô cùng cuốn hút. “Washington: A world apart” đăng tải trên Washington Post cả bài báo là một kho dữ liệu vô cùng lớn đòi hỏi sự đầu tư vô cùng công phu. “Orlando El Duque” Hernandez in la Granfuga” đăng tải trên tờ Victoryjournal là một tác phẩm vô cùng độc đáo. Cả bài báo không có một bức ảnh hay một video, audio nào nhưng kết hợp nhuần nhuyễn của chữ viết, đồ họa cùng lối kể chuyện cuốn hút của tác giả đã mang đến một tác phẩm thu hút, không thể trộn lẫn…

Đặc biệt, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ, công nghệ web 2.0 được dự báo sẽ là xu hướng phát triển tất yếu của các tờ báo mạng điện tử. Về cơ bản, Web 2.0 trao quyền nhiều hơn cho người dùng đặc biệt, người dùng có thể đưa lên mạng bất cứ thông tin gì họ muốn… Wikipedia là một ví dụ điển hình. Với Web 2.0, người tiêu dùng đang dần trở thành người sản xuất ra những nội dung thông tin cho chính mình, chính vì vậy, đây có thể coi như là khởi nguồn của một tờ báo công dân. Mặc dù vẫn còn đang được tiếp nhận một cách chưa thực sự cởi mở, một số tập đoàn báo chí nhanh nhạy với công nghệ trên thế giới đã tiến hành áp dụng Web 2.0 như tờ The Sun (Anh), News24.com (Nam Phi), The Asashi Shimburi (Nhật Bản), Sinchew-i.com (Malaysia), Sanoma (Phần Lan), Los Angeles Times (Mỹ), Gatehouse Media (Mỹ), The New Straits Times (Singapore)… và thu được những thành công đáng ghi nhận.

5/ Những nền tảng khác

Ngoài ba nền tảng cơ bản là nền tảng xã hội, di động và web, nhiều tờ báo còn tìm kiếm những nền tảng phi báo chí khác như các màn hình công cộng tại các quảng trường, nhà ga, trên các phương tiện công cộng như tàu điện, tàu hỏa, xe buýt, máy bay, hệ thống truyền hình trong các khách sạn… Tuy nhên, đây là những nền tảng nhỏ, chỉ mang tính mở rộng, không có những chiến lược lâu dài và tập trung.

Có thể kể ra một số hình mẫu thành công trên thế giới nhờ sớm áp dụng chiến lược đa nền tảng, như FT Group và TMG đều đến từ nước Anh.

FT Group là một bộ phận thuộc tập đoàn Pearson PLC, sở hữu tờ Financial Times (FT) kể từ năm 1957 và có nhiều hoạt động kinh doanh khác liên quan đến phân tích tài chính. Vốn phát hành báo tại London nhưng giờ đây có tầm bao phủ toàn cầu, FT được coi là tờ báo sáng tạo hàng đầu và liên tục về online trong thế giới các nhật báo. Họ ra mắt trang FT.com vào tháng 5/1995 và áp dụng việc thu phí vào năm 2002. Tháng 7/2006, FT công bố dự định tích hợp tờ báo in sâu hơn với FT.com, và việc này diễn ra đồng thời với một chương trình cắt giảm nhân sự tự nguyện. Hệ thống thu phí metered paywall được áp dụng vào năm 2007, rồi tiếp theo là ứng dụng mobile sử dụng công nghệ HTML5 vào năm 2011.

Điều đặc biệt quan trọng là các nguồn thu đã thay đổi. Vào năm 2006, nguồn thu từ nội dung số chỉ chiếm 14% nhưng vào năm 2011, con số này đã tăng lên 47%. Tính chung số người trả tiền đọc tờ Financial Times (gồm cả báo in và điện tư vào tháng 10/2013 đạt 629.000, cao hơn nhiều so với mốc đỉnh cao phát hành của báo in và là mức cao nhất trong lịch sử 125 năm hoạt động của báo này.

Trong khi đó TMG, sở hữu tờ Telegraph, vào năm 2013 đã hợp nhất hoạt động nội dung thành một hoạt động thống nhất, phục vụ các sản phẩm in và nội dung số 24 giờ mỗi ngày. Giờ đây, thu nhập của Telegraph là 50% từ quảng cáo và 50% từ phát hành. Số phát hành báo in hằng ngày là 571.000 trong khi số người trả tiền nội dung số là 320.000. Trong số 61 triệu người dùng đơn lẻ mỗi năm, chỉ có 23 triệu từ Anh, có nghĩa Telegraph đã trở thành một trang web toàn cầu. Tại quê hương mình, Telegraph là tờ báo đứng thứ 7 và nhận được khoảng 20.000 bình luận của độc giả mỗi ngày. Lượng truy cập website tăng gấp 10 lần kể từ năm 2006, khi hoạt động sản xuất báo in và nội dung số lần đầu tiên được tích hợp.

Còn tại Việt Nam, sự tác động của mạng xã hội đến báo chí đã bước đầu được nhận thức, tuy nhiên, đa phần các cơ quan báo chí Việt Nam vẫn còn đang loay hoay với báo chí đa phương tiện và mô hình tòa soạn hội tụ, chưa đầu tư thích đáng cho sự tương tác với mạng xã hội hay báo chí di động. Rất nhiều tờ báo đã có fanpage trên Facebook và có số lượng chia sẻ bài viết khá cao – ví dụ Fanpage của VnExpress đưa lên trang mạng gần 30 tin/bài/ngày; xu hướng “distributed content” đã bắt đầu hình thành và được nhiều tờ báo ứng dụng. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, báo chí Việt Nam chưa thật sự tập trung cho nền tảng xã hội, sự tương tác chưa nhiều, hầu hết các tờ báo đã khóa comment của độc giả và việc chia sẻ thông tin trên mạng xã hội chưa thực sự mang lại hiệu quả như mong đợi. Đối với nền tảng di động, nhiều tờ báo vẫn đang tiếp tục xây dựng phiên bản mobile, các app đọc báo trên di động đã có khá nhiều như Moza (Tinh Vân), Socbay Media (Naiscorp), Tin ngắn (Viettel), Báo mới (ePi), Thanh niên (báo Thanh niên), Người đưa tin (Netlink), Tuổi trẻ (báo Tuổi trẻ), VnExpress (báo VnExpress), Dân trí (báo Dân trí)… và được dự báo sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian tới cùng với sự bùng nổ của thiết bị di động. Tuy nhiên, cách sử dụng nền tảng di động hiện nay của các tờ báo mạng điện tử Việt Nam vẫn là thu nhỏ trang báo cho vừa với màn hình di động, chưa có những bước đột phá về nội dung.

Trên thực tế, dù được coi là xu hướng tất yếu cho tương lai, báo chí đa nền tảng cũng đang gặp phải những thách thức không nhỏ, đặc biệt là tại những thị trường đang phát triển như Việt Nam bởi phải đầu tư cả về tiền bạc lẫn công nghệ, phải có một đội ngũ nhân lực mạnh cùng những chiến lược bài bản và lâu dài… Tuy vậy, khi đã nắm bắt được xu hướng và có những bước đi đúng đắn, các tòa soạn báo chắc chắn sẽ gặt hái được “quả ngọt” cho sự đầu tư của mình.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Nguyễn Thị Trường Giang – Báo chí và truyền thông đa phương tiện – NXB ĐHQG HN 2017

Báo chí đa nền tảng – Phần III


3/ Nền tảng di động

Cả thế giới thu gọn lại trong lòng bàn tay là điều mà người ta vẫn thường dùng để nói về các thiết bị di động. Cùng với nền tảng xã hội, nền tảng di động đã khiến báo chí trên thế giới hoàn toàn thay đổi, từ chỗ thờ ơ đã phải vội vã tiến hành điều chỉnh, bởi chỉ với một điện thoại thông minh và wifi hay 3G, 4G công chúng có thể tiếp cận thông tin mọi lúc, mọi nơi, nhanh, tiết kiệm và tiện lợi.

Trước đây, nhiều người vẫn nhầm tưởng rằng, phiên bản mobile chỉ là sự thu gọn trang báo cho vừa cỡ với điện thạoi nhưng trên thực tế, làm báo cho thiết bị di động hoàn toàn khác biệt. Màn hình điện thoại di động dù lớn đến mấy đi chăng nữa cũng không thể bằng màn hình của laptop, người đọc báo trên di động cũng có những điểm khác biệt về thời gian, độ chú ý, thói quen sử dụng… Chính vì vậy, báo chí trên nền tảng di động không đơn thuần chỉ là thu nhỏ trang báo lại cho vừa với màn hình điện thoại mà còn là hàng loạt điều thay đổi về cách viết, cách chụp ảnh, cách ghi video, cách đặt tít, cách bài trí lại các bài viết trên trang báo. Đặc biệt, độ tập trung của người đọc sẽ có nhiều khác biệt khi họ không dùng điện thoại để đọc báo cố định một khoảng thời gian mà chia làm nhiều lần trong một ngày, khi đang di chuyển trên đường, thậm chí đọc báo để giết chết thời gian. Chính vì vậy, làm thế nào để người đọc dừng lại lâu hơn ở trang báo của mình, click vào đường link để đọc bài báo thay vì chỉ đọc lướt tiêu đề là một điều hoàn toàn không hề dễ dàng.

Sản xuất thông tin cho di động đã trở thành một “hạng mục” đầu tư được chú ý của nhiều tòa soạn báo trên thế giới. Trên thực tế, để thu hút được công chúng là hoàn toàn không dễ dàng bởi có rất nhiều thứ hấp dẫn trên điện thoại như Facebook, YouTube hay game, chưa kể tâm lý thiếu kiên nhẫn và tập trung của người đọc. Tuy nhiên, khó khăn không có nghĩa là không thể. Có thẻ thấy rõ sự “lột xác” của nhiều tờ báo dành riêng cho phiên bản báo mạng điện tử trên mobile: nội dung thông tin ngắn gọn, đưa thông tin nổi bật trong ngày, thân thiện, thuận tiện cho người sử dụng, giao diện bắt mắt… Nhiều tòa soạn báo bắt đầu có xu hướng viết nội dung dành cho mobile, hoàn toàn độc lập với báo giấy hay bản điện tử. Cụ thể, thông tin trên bản mobile sẽ được đảm bảo sự đầy đủ, nhanh nhưng cực kỳ ngắn gọn, thông tin chi tiết sẽ được đăng tải trên phiên bản điện tử hoặc báo giấy. Về giao diện, đa phần các tờ báo mạng đều sử dụng giao diện “1 cột” cho phiên bản mobile với những tin tức nổi bật được xếp ở vị trí trên cùng và lần lượt sau đó là những tin tức ít quan trọng hơn xếp theo một hàng dọc từ trên xuống dưới.

Cùng với đó, các tờ báo đều chú tâm đầu tư cho ứng dụng đọc báo trên di động (app), có thể kể đến CNN App, The Guardian, AP Mobile, BBC News, News Republic, Apple News, BuzzFeed, Smartnews, The New York Times… Chỉ cần tải ứng dụng đọc báo của các trang báo mạng điện tử này trên kho lưu trữ là có thể cập nhật được tin tức từ các tờ báo đó. Giao diện thân thiện và thông minh, tóm tắt tin tức quan trọng hàng ngày cho người dùng, cung cấp đầy đủ thông tin về mọi mặt của đời sống xã hội… là bí quyết của những ứng dụng đọc báo này để giữ chân khách hàng không rời mắt khỏi màn hình di động để đọc tin tức. Chưa hết, khi sử dụng các App, tính năng Push Notification Service còn thường xuyên cập nhật thông tin đến màn hình di động ngay cả khi người đọc không truy cập, giúp người đọc không bỏ qua những thông tin mới nóng nhất. Ngoài ra, các tờ báo đều cố gắng xây dựng Atheo xu hướng “một cột” như thường thấy mà xây dựng theo chiều ngang, chỉ hiển thị ảnh và tít trên màn hình chính. CNN tạo màu sắc đặc trưng, đặt tít rất ngắn, trình bày bài viết thuận tiện cho người đọc, The Guardian mang lại cho người đọc một App đọc báo thân thiện và mạch lạc…

Tại Việt Nam, có thể thấy sự phân tầng rõ rệt với sự đầu tư cho báo chi di động. Một số tờ báo đã xây dựng phiên bản web dành cho mobile từ rất sớm và không ngừng nâng cấp App đọc báo trên di động như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Dân Trí, VnExpress… Trong đó, App đọc báo của Thanh Niên được đánh giá rất cao và đã đạt nhiều giải thưởng quốc tế. Tuy nhiên, phần lớn, báo chí di động vẫn mới chỉ là “xu hướng”, chưa phải là mối quan tâm hàng đầu của nhiều tờ báo hiện nay. Thậm chí đến nay, nhiều tờ báo vẫn chưa có phiên bản web dành riêng cho mobiel hay bản điện tử mới ở dạng e-paper, thậm chí, tệ hơn, nhiều tờ báo còn không có bản điện tử.

Theo Nguyễn Thị Trường Giang, khi tiếp nhận thông tin báo mạng điện tử trên máy vi tính, công chúng thường có thói quen khám phá thông tin một cách tự do, dàn trải thì ngược lại, vì người sử dụng thiết bị di động có thể trong trạng thái di chuyển nên việc tiếp nhận các thông tin phải chọn lọc cụ thể hơn, tránh bị phân tán sang hướng khác… Báo mạng điện tử dành cho thiết bị di động có các đặc điểm sau: Chủ động tìm công chúng khi thông itn được cập nhật; Ngắn gọn, cô đọng, tiết giản tối đa chi tiết; Đưa tin nổi bật, theo dòng sự kiện; Dễ sử dụng, thân thiện với người dùng.

Tuy nhiên, kể cả ở những tòa soạn báo hàng đầu thế giới, có thể thấy rõ một điều là báo chí trên mobile phần nhiều vẫn là “bình mới, rượu cũ”. Mặc dù đã rất nỗ lực và có nhiều ứng dụng hiện đại, việc sản xuất thông tin dành cho thiết bị di động mới dừng lại ở thay đổi giao diện trang báo, lược bỏ những phần không cần thiết (như hình ảnh, các chi tiết đồ họa…) để giúp tăng tốc độ khi tải còn tiêu đề, nội dung các bài viết vẫn được giữ nguyên như khi phát hành trên máy vi tính, kể cả những tờ báo hàng đầu như The New York Times, Washington Post, BBC News… Nói một cách khác, cũng giống như báo mạng điện tử trước đây là phiên bản điện tử của báo giấy, báo chí trên di động hiện nay mới chỉ dừng lại ở phiên bản mobile của báo mạng điện tử mà thôi. Dù vạy, với tốc độ phát triển một cách chóng mặt của các thiết bị di động tạo ra một thị trường mới rộng lớn và có sự cạnh tranh quyết liệt, báo chí dành riêng cho mobile chắc chắn sẽ được các tòa soạn báo đầu tư tương xứng trong tương lai.

4/ Nền tảng web

Dù mạng xã hội, điện thoại di động thông minh đã làm thay đổi thói quen tiếp cận thông tin của công chúng nhưng không thể phủ nhận rằng, web vẫn là nền tảng quan trọng mà các tờ báo cần phải chiếm lĩnh.

Trên thực tế, các cơ quan báo chí trên toàn thế giới tập trung cho báo mạng điện tử thay vì các ấn phẩm in ấn đã không còn là xu hướng mà thực sự là điều hiển nhiên. Sự sụt giảm về doanh thu khi số lượng phát hành và quảng cáo bị suy giảm nghiêm trọng trước sự cạnh tranh khốc liệt của các trang tin tức trên Internet đã khiến cho một làn sóng đóng cửa báo in nổi lên trên toàn cầu. Hàng loạt tờ báo lớn như Independent, NewsWeek… đã tiến hành đóng cửa ấn phẩm báo in, chỉ tập trung cho bản điện tử. Nhiều người bi quan đã phải dự báo, báo in đã đến thời điểm “cáo chung”.

Tuy nhiên, dù định hướng rõ tập trung cho báo mạng điện tử, việc làm báo không còn đơn thuần là cố gắng tìm kiếm thật nhiều thông tin nổi bật và đưa lên trang báo một cách nhanh nhất. Tính tức thời và phi định kỳ không còn là thế mạnh độc tôn của báo mạng điện tử trước tốc độ phát triển vượt bậc của mạng xã hội, chính vì vậy, các tòa soạn báo cũng đã có những sự thay đổi đáng kể. Tòa soạn hội tụ, báo chi đa phương tiện, nhà báo đa phương tiện… không còn được coi là những xu hướng “nóng” mà đã trở thành điều tất yếu. Có thể dễ dàng thấy, mỗi bài báo được đăng tải đều được tích hợp các yếu tố đa phương tiện: Chữ viết, hình ảnh tĩnh, hình ảnh động, video, audio, đồ họa, liên kết… Thậm chí, trong một bài báo có đầy đủ các yếu tốt trên, mỗi yếu tố phản ánh một góc độ của sự kiện, từ đó tạo thành một tác phẩm báo chí hoàn chỉnh. Có rất nhiều mô hình tòa soạn hội tụ, báo chi đa phương tiện thành công trên thế giới như The New York Times, BuzzFeed của Mỹ, The Daily Telegraph của Anh, Straits Times của Singapore… và xu hướng này tiếp tục lan rộng trên toàn thế giới.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Nguyễn Thị Trường Giang – Báo chí và truyền thông đa phương tiện – NXB ĐHQG HN 2017

Báo chí đa nền tảng – Phần II


2/ Nền tảng mạng xã hội

“Chung sống” hay “hợp tác” với mạng xã hội không còn là điều quá mới mẻ nữa, để tồn tại và phát triển, báo chí không còn cách nào khác là phải biến mạng xã hội trở thành “đồng minh” của mình. Sử dụng Fanpage để chia sẻ đường link từ các bài viết từ báo mạng điện tử, sử dụng các ứng dụng chia sẻ tin tức trên nền tảng mạng xã hội, chọn mạng xã hội là phương tiện đầu tiên truyền tải thông tin đến bạn đọc… là cách mà các tờ báo đang làm.

Hãy lấy Facebook – mạng xã hội có số người dùng đã lên tới hơn 1,9 tỷ mỗi tháng trên toàn cầu tính tại thời điểm tháng 3/2017 làm ví dụ điển hình cho việc báo chí phát triển nền tảng xã hội. Hiện nay, khi đưa thông tin lên Facebook, các tờ báo vẫn giữ 2 cách làm cơ bản. Một là chia sẻ các đường link bài viết của tờ báo lên Fanpage – thường là các bài báo đỉnh nhằm thu hút được sự quan tâm của độc giả, khi người đọc sử dụng máy tính hoặc điện thoại bấm vào thì sẽ link đến trang chủ của tờ báo và đọc nguyên văn bài báo trên trang báo này. Nhờ đó, người đọc có thể tìm đọc các nội dung khác trên tờ báo, tuy nhiên, cách này thường chậm do phải mất thời gian tải trang web. Một cách khác đó là sử dụng tính năng Instant Articles khi nguòi đọc sử dụng thiết bị di động. Tháng 5/2015, Facebook ra mắt tính năng này, chỉ sau đó không lâu, 9 đơn vị báo chí xuất bản lớn trong đó có The New York Times, NBC News, BBC, BuzzFeed… đã phổ biến các bài viết của mình trên nền tảng Facebook tại ứng dụng Instant Articles. Khi sử dụng Instant Articles, nội dung các bài viết được giữ nguyên, chỉ có các tính năng được nâng cấp để người dùng sử dụng thuận tiện hơn rất nhiều. Khi người đọc nhìn thấy bài viết, chỉ cần bấm vào là toàn bộ các nội dung sẽ hiện ra ngay lập tức với tốc độ tải nhanh hơn. Chưa hết, người đọc còn có thể tương tác với chính các nội dung trong bài viết như xem ảnh chất lượng cao, video tự động chạy khi cuộn tới, phóng to thu nhỏ hình trong bài viết, có thể lướt để đọc các bài báo khác trên cùng tờ báo, có thể tương tác với bản đồ, nghe các đoạn audio có trong bài và thậm chí là ấn nút like, tiến hành bình luận, chia sẻ vào từng đoạn của bài viết nếu thích.

Việc bắt tay này nằm trong xu hướng về những loại tin tức được sản xuất, phát hành và tạo doanh thu gọi là “distributed content” – hình thức các cơ quan báo chí trao đổi nội dung cho các nền tảng như Facebook hay Twitter mà không gắn kết trở lại với website của mình để người dùng mobile có thể truy cập nhanh chóng. Trên thực tế, Snapchat mới là nền tảng đầu tiên khơi mào cho xu hướng này với tính năng Discover được tung ra vào tháng 1/2015. Snapchat đã thu hút được những nguồn tin rất đa dạng, từ CNN, NatGeo, Buzzfeed, Mashable, DailyMail cho đến Vice, People, Cosmopolitan, MTV, Food Network… Cuộc đua trở nên sôi động khi ngay sau đó Google, Instagram và Apple cũng nhanh chóng vào cuộc.

Với sự hợp tác này đã mang lại những hiệu quả rõ rệt. Đơn cử như The New York Times, là đối tác của Instant Articles từ tháng 10/2015, các bài báo của The New York Times đăng trên Facebook có số chia sẻ trung bình cao gấp 3,5 lần, like gấp 2,5 và con số bình luận (comment) gấp 5,5 lần so với trên các đường link thông thường, theo khảo sát của Newswhip. Tổng giám đốc BBC World Service Francesca Unsworth trong bài phát biểu tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền ngày 28/3/2017 cũng chia sẻ, vào tháng 2/2017, ban BBC Tiếng Việt bắt đầu thử chức năng Instant Articles của Facebook và ngay lập tức nó đem lại một phần tư số độc giả. Nhờ đó, đến tháng 3, nội dung của BBC Tiếng Việt đã đến được với 4 triệu người.

Một ví dụ điển hình khác của việc báo chí ngày càng coi trọng nền tảng mạng xã hội là câu chuyện của hãng tin AP. Tối 19/12/2016, tay súng Mevlut Mert Altintas đã bắn chết Đại sứ Nga tại Thổ Nhĩ Kỳ Andrey G. Karlov khi ông đang phát biểu tại một triển lãm tranh. Phóng viên Burhan Ozbilici của AP đã ghi lại được toàn bộ sự cố đó và thay vì đưa tin lên mạng, sau hơn 2h vụ việc xảy ra, tài khoản chính thức chuyên về ảnh của AP trên Facebook đã đăng tải bức ảnh chụp tay súng đang đứng cạnh thi thể và giơ tay tỏ ý chiến thắng. Bức ảnh ngay lập tức khiến thế giới chấn động, chỉ sau 6h được đăng tải, đã có đến 9 triệu lượt xem, được chia sẻ lại hơn 45000 lần với 5600 bình luận và 28000 lượt bày tỏ cảm xúc. Trang tin tức truyền thông xã hội Mashable đã dẫn lới một thành viên Newswhip cho rằng, bức ảnh vụ ám sát này thu hút sự chú ý cao gấp 175 lần mức trung bình dành cho trang ảnh của AP.

Đầu tháng 9/2016, hai mạng xã hội hàng đầu thế giới Facebook và Twitter đã “bắt tay” với nhiều hãng thông tấn quốc tế trong nỗ lực ngăn chặn những thông tin sai lệch và cải tiến chất lượng tin tức trên mạng xã hội. Liên minh mang tên First Draft News ngày 13/9 thông báo sẽ có khoảng 20 hãng thông tấn, báo chí đã tham gia mạng lưới chia sẻ thông tin về thực hành báo chí trong thời đại công nghệ thông tin này.

Sự “bắt tay” của báo chí và mạng xã hội đã tạo ra một cú nhảy vọt lớn, làm thay đổi hoàn toàn cách thức truyền tải thông tin. Có thể nói rằng nền tảng xã hội, báo chí đã tìm được con đường đến với độc giả nhanh nhất, hiệu quả nhất. Tuy nhiên, không phải mọi thứ đều là màu hồng, nền tảng xã hội cũng đã tạo ra những nguy cơ mà không tỉnh táo, các cơ quan báo chí có thể đánh mất mình. Thông thường, các tờ báo chỉ đưa một phần thông tin lên mạng xã hội, như là một cách để thu hút độc giả, tuy nhiên, càng ngày việc “giao phó” nội dung cho các mạng xã hội  càng phổ biến, thậm chí Washington Post đưa 100% thông tin lên mạng xã hội. Cho đến nay, sau 2 năm, “distributed content” không còn là xu hướng mới mà đã trở nên rất phổ biến và thực sự đang tạo nên một “cuộc chiến” giữa các nhà nghiên cứu về việc lợi hay hại khi báo chí chạy theo xu hướng này. Ngả về “distributed content”, báo chí sẽ đánh mất tầm ảnh hưởng, thay vì tìm đến báo chí, người đọc có thể chọn các mạng xã hội làm nguồn tin chính, thậm chí báo chí sẽ trở thành các công ty sản xuất nội dung phục vụ các nền tảng xã hội và tình trạng đốc quyền  thông tin của các mạng xã hội hoàn toàn có thể xảy ra. Thậm chí, nhiều tờ báo sẽ đứng trước nguy cơ “chết” bởi doanh thu từ quảng cáo sụt giảm, bản thân người đọc cũng không quan tâm bài báo đó do tờ báo nào viết, tác giả nào viết và một khi Facebook thay đổi thuật toán của họ, các tờ báo bắt buộc phải chạy theo trong tư thế đánh mất mình. Trong bài viết chuyên đề “Chiến lược nào cho báo chí khi truyền thông xã hội phát triển mạnh mẽ”, VietnamPlus đã đưa ra những mối nguy mà báo chí gặp phải khi bắt tay với các mạng xã hội như sau:

“Các nền tảng đặt luật chơi cho hệ sinh thái của họ và thực thi quyền lực khi họ muốn (ví dụ Facebook kiểm duyệt bức hình em bé Napal khi tờ báo lớn nhất Na Uy Aftenposten đăng tải vì thuật toán chỉ nhận diện được hình khỏa thuân mà không hiểu đực bối cảnh là sự khủng khiếp của cuộc chiến tranh ở Việt Nam).

Các nền tảng tung ra các sản phẩm hoặc tính năng mới và lôi kéo các đối tác tham gia, nhưng rồi họ đổi ý và đơn phương hủy bỏ các sản phẩm này (ví dụ như Facebook thuyết phục các nhà xuất bản tin tức đầu tư vào các ứng dụng tin tức timeline hồi năm 2011 rồi ngưng dự án vào năm 2012).

Các nền tảng tung hô đối tác lên tận mây xanh rồi lại nhấn xuống bùn đen nếu muốn (ví dụ nước Zynga, một công ty sản xuất social game, trở thành nhà phát triển và đối tác kinh doanh hàng đầu của Facebook vào năm 2010 nhưng sự hợp tác này đã chấm dứt vào năm 2012).

Tại Việt Nam, cuối năm 2015, Facebook đưa một số báo và trang web vào danh sách triển khai Instant Articles đợt đầu tiên và cho phép tất cả các tờ báo sử dụng tính năng này kể từ ngày 12/04/2016. Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều tờ báo vẫn từ chối sử dụng tính năng này hoặc sử dụng một cách không triệt để.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Nguyễn Thị Trường Giang – Báo chí và truyền thông đa phương tiện – NXB ĐHQG HN 2017

Báo chí đa nền tảng – Phần I


Trong khi báo chí đa phương tiện vẫn đang được nhắc đến như một xu thế không thể khác đối với báo chí trên toàn thế giới, thì báo chí đa nền tảng (multi platform journalism) đã được dự đoán sẽ trở thành tất yếu trong tương lai. Trước thời điểm báo chí bị tác động mạnh mẽ bởi mạng xã hội và điện thoại thông minh, thuật ngữ báo chí đa nền tảng thường chỉ dùng trong lĩnh vực máy tính hay ngành công nghiệp phần mềm, nó chỉ bắt đầu được nhắc nhiều tại các hội thảo báo chí quốc tế vào khoảng năm 2010, thời điểm mang tính bước ngoặt của báo chí truyền thông thế giới. Giống như Thomas L. Friedman từng thốt lên: “Khi tôi viết “Thế giới phẳng” (2004), Facebook chưa tồn tại, Twitter là một âm thanh; mây thì ở trên trời; 4G là bãi đỗ xe, “ứng dụng” là những gì bạn gửi đến trường đại học, LinkedIn hầu như không ai biết đến và hầu hết mọi người nghĩ rằng đó là nhà tù, Big Data là cái tên hay cho một ngôi sao nhạc rap, và Skype, đối với hầu hết mọi người, là một lỗi đánh máy sai…”, tất cả đã thay đổi chỉ trong vòng 6 năm.

1/ Báo chí đa nền tảng là gì?

Hiểu một cách đơn giản nhất, báo chí đa nền tảng là xu hướng báo chí mà người đọc có thể tiếp cận tin tức trên tất cả các nền tảng khác nhau: Máy tính, thiết bị di động cầm tay (smartphone, iPad, Notebook…); báo giấy, báo mạng điện tử; các ứng dụng xã hội như Facebook, Snapchat, Twitter… Hay nói cách khác, trong tương lai, để có thể tồn tại, một tờ báo buộc phải “biến đổi” để công chúng có thể tiếp cận thông tin bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào họ muốn, trên bất cứ nền tảng nào mà họ có. Thậm chí, các chuyên gia đã đưa ra viễn cảnh, nếu công chúng đang đọc một bài báo trên máy tính xách tay và bỏ dở khi mở điện thoại di động, máy tính bảng, hay chiếc đồng hồ đeo tay có thể đọc tin tức, họ phải đọc tiếp được đúng đoạn đó trên các thiết bị này.

Vì sao báo chí đa nền tảng lên ngôi trong khi báo chí đa phương tiện và báo chí hội tụ vẫn còn đang là câu chuyện nóng bỏng? Có thể thấy rằng, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị di động cũng như sự lên ngôi của mạng xã hội trong bối cảnh Internet đang phát triển như vũ bão trên toàn cầu đã buộc báo chí phải thay đổi.

Theo bản khảo sát World Press Trend 2016 (Các xu hướng báo chí thế giới thường niên năm 2016) của Hiệp hội Báo chí và các Nhà xuất bản tin tức thế giới (WAN-IFRA), 51% dân số thế giới đang sử dụng điện thoại di động và 31% sử dụng mạng xã hội, 30% dân số thế giới sở hữu một điện thoại thông minh và gần 90% người Mỹ truy cập tin tức bằng điện thoại thông minh và các thiết bị di động khác.

Nghiên cứu này dẫn số liệu của Hiệp hội Báo chí Mỹ cho biết, hơn nửa số công chúng báo mạng điện tử của nước này chỉ sử dụng thiết bị di động để đọc tin hàng ngày. Theo trang cung cấp số liệu ComScore, 37% công chún của 10 hãng truyền thông kỹ thuật số của Mỹ truy cập tin tức bằng thiết bị di động và 31% khác đọc tin bằng cả thiết bị di động lẫn máy tính bàn. Tại các thị trường như Pháp, Đức, Nhật Bản, Australia và Canada, hơn 1/3 số người trưởng thành sử dụng thiết bị di động để đọc tin tức. Đặc biệt, số lượng ngày càng tăng của điện thoại thông minh và máy tính bảng cũng thúc đẩy việc sử dụng ứng dụng dữ liệu lớn trên báo mạng điện tử, ví dụ như video. Theo thống kê, khoảng một nửa người tiêu dùng Internet tải lên video của riêng họ, 8 – 9 tỷ video mỗi ngày được theo dõi trên Facebook, 8 tỷ video/ngày được xem qua Snapchat và 4 tỷ được xem qua YouTube, hơn 50% lượng truy cập YouTube bây giờ là điện thoại di động, tăng từ 6% trong năm 2011. Nhờ xu hướng tiếp cận tin tức qua mạng, phương thức thu lợi nhuận từ phát hành kỹ thuật số cũng phát triển theo. Doanh thu phát hành kỹ thuật số thu tiền từ công chúng tiếp tục tăng trưởng 2 con số, tăng 30% trong năm 2015 và 547% trong 5 năm qua.

Báo cáo Global mobile media consumption: a “new wave” takes shape (Tiêu thụ truyền thông di động toàn cầu: Một làn sóng mới đang hình thành) được tiến hành vào năm 2014 của InMobi – mạng quảng cáo di động độc lập lớn nhất thế giới cũng cho thấy, tính trên toàn cầu, các khách hàng dành trung bình gần 2,2 giờ mỗi ngày dùng điện thoại di động (97 phút) và máy tính bảng (37 phút), chiếm 37% thời gian sử dụng các phương tiện truyền thông, bỏ xa xử dụng tivi (81 phút), máy tính để bàn (70 phút), radio (44 phút) và báo in (33 phút). Trong đó, có đến 60% người dùng truy cập Internet từ mobile, 30% số đối tượng hàng tháng của các kênh truyền thông là người dùng điện thoại di động.

Cùng với điện thoại di động, vài năm trở lại đây, mạng xã hội đã trở thành một hiện tượng toàn cầu, theo nghiên cứu của trang ComScore, cứ 5 phút online thì người dùng sẽ dành một phút cho mạng xã hội. Riêng với Facebook, trang này đánh giá, người dùng trên toàn thế giới tiêu tốn đến 35 phút mỗi ngày để lướt Facebook, cứ 3 trong 4 phút truy cập vào mạng xã hội là để dành cho Facebook. Trong khi đó, theo báo cáo của chính Facebook, người Mỹ tiêu tốn đến 50 phút mỗi ngày cho mạng xã hội này.

Không chỉ có tốc độ phát triển đáng kinh ngạc, vượt qua cả yếu tố kết nối đơn thuần, hơn bao giờ hết, các nền tảng xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc phối hợp truyền bá thông tin. Rất nhiều tin tức lan truyền trên mạng xã hội trước khi chính thức có mặt trên mặt báo, rất nhiều bài báo có nguồn tin từ mạng xã hội. Năm 2015, khi xảy ra vụ khủng bố đẫm máu khiến cho hơn 200 người thương vong. Paris sử dụng hashtag Twitter #PorteOuvert (cửa mở) để cung cấp nơi trú ẩn trong khi Facebook triển khai tính năng an toàn (I’m safe) khuyến khích người dân ở Paris thông báo mình an toàn thông qua tài khoản cá nhân của họ – lần đầu tiên ngoài một thảm họa tự nhiên. Đến nay, những tính năng này được sử dụng thường xuyên hơn khi xảy ra các thảm họa, ví dụ như vụ khủng bố ở khu chợ Giáng Sinh Berlin, vụ động đất ở Nepal hay sau cơn bão Dianmu đổ bộ vào Việt Nam tháng 8/2016, Facebook đều tự động kích hoạt tính năng an toàn.

Mạng xã hội cũng tiến đến gần hơn với báo chí, Twitter cho ra mắt ứng dụng xem video trực tiếp có tên Periscope và nó đã nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt từ giới phóng viên. Chưa dừng lại ở đó, mạng xã hội này còn tiếp tục cho ra mắt ứng dụng Project Lightning, một sáng kiến mới được đánh giá là rất hữu ích khi giúp thu thập và sắp xếp một cách có hệ thống các tin tức xung quanh nhiều sự kiện trong đời sống. Facebook cũng giới thiệu thanh trượt mới trên giao dịch có tên Trending Now, là nơi cập nhật những nội dung, tin tức hiện đang được thảo luận nhiều nhất trên Facebook. Cùng với đó là các tính năng như Instant Articles và Live Video giúp truyền tải tin tức gần như ngay lập tức. Ngoài ra còn có thể kể đến các ứng dụng nổi tiếng khác như Snapchat Discover, Apple News, Twitter Moments…

Báo cáo xu hướng truyền thông 2017 của Viện Nghiên cứu Reuters thống kê từ phản hồi của 143 tổng biên tập, CEO và các “nhà lãnh đạo kỹ thuật số” được điều tra trên 24 quốc gia cho thấy những con số đáng suy ngẫm. 70% cho rằng các mối lo ngại về tình trạng lan truyền các tin tức giả/tin không chính xác trên các mạng xã hội sẽ củng cố vị thế của họ, 46% lo ngại nhiều hơn về vai trò của các nền tảng so với năm ngoái, 56% cho biết Facebook Messenger sẽ là một phần quan trọng hoặc rất quan trọng trong các sáng kiến bên ngoài website của họ trong năm nay, 53% nói điều tương tự về WhatsApp và 49% về Snapchat.

Sự lên ngôi của truyền thông xã hội, truyền thông di động trong thời đại của kỹ thuật số đã khiến cho báo chí cũng phải thay đổi, không còn đơn điệu riêng rẽ ở một loại hình, một phương tiện để tiếp cận công chúng, báo chí bắt buộc phải tiến đến hình thức đa nền tảng, trong đó, thứ tự ưu tiên là nền tảng xã hội (social), nền tảng di động (mobile) và cuối cùng mới là web.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Nguyễn Thị Trường Giang – Báo chí và truyền thông đa phương tiện – NXB ĐHQG HN 2017