Báo chí đa nền tảng – Phần cuối


Bên cạnh đó, một trong những chiến lược nổi bật của báo mạng điện tử là chiến lược nội dung. Nhà báo Meredith Artley của CNN nhấn mạnh tại hội nghị cấp cao Mạng lưới các Tổng Biên tập Toàn cầu (GEN) vào tháng 6/2016 rằng: “Đúng là có những thuật toán trên Facebook và các nền tảng truyền thông xã hội khác. Chúng ta không kiểm soát được chúng. Nhưng chúng ta kiểm soát những bài báo mà chúng ta viết ra, cách thức chúng ta thực hiện, chúng ta cũng kiểm soát vị trí và thời điểm chúng ta đăng tải những bài báo đó”. Thông tin trên báo mạng điện tử không còn chỉ nhanh mà còn sâu rộng, đáp ứng mọi nhu cầu thông tin của độc giả. Dường như trước đây, nội dung là thế mạnh của các tờ báo mạng điện tử có thu phí như The New York Times, Wall Street Journal thì nay, rất nhiều tờ báo mạng điện tử lớn trên thế giới đã đi theo con đường tăng nội dung thông tin. Người đọc có thể tìm thấy tất cả mọi thứ chỉ bằng những đường link và những lần nhấp chuột. Gói tin tức, siêu tác phẩm báo chí, longorm (những bài báo dài, phân tích chuyên sâu về một vấn đề nào đó), dữ liệu… là những hình thức mới rất hấp dẫn của báo mạng điện tử. Đặc biệt, nhanh, chính xác không còn là tiêu chí hàng đầu của các tờ báo mạng điện tử. Cách thức triển khai bài báo hấp dẫn, đầy tính sáng tạo trên sự hỗ trợ của công nghệ cao đã trở thành một hướng mới được rất nhiều tờ báo chú trọng. “The Russia Left Behind: A journey through a hearland on the slow road to ruin” của Ellen Bary đăng trên The New York Times dựa trên một bản đồ tương tác, là một câu chuyện dài xuyên suốt nước Nga, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chữ viết, bản đồ, hình ảnh, video… tạo nên một tác phẩm vô cùng cuốn hút. “Washington: A world apart” đăng tải trên Washington Post cả bài báo là một kho dữ liệu vô cùng lớn đòi hỏi sự đầu tư vô cùng công phu. “Orlando El Duque” Hernandez in la Granfuga” đăng tải trên tờ Victoryjournal là một tác phẩm vô cùng độc đáo. Cả bài báo không có một bức ảnh hay một video, audio nào nhưng kết hợp nhuần nhuyễn của chữ viết, đồ họa cùng lối kể chuyện cuốn hút của tác giả đã mang đến một tác phẩm thu hút, không thể trộn lẫn…

Đặc biệt, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ, công nghệ web 2.0 được dự báo sẽ là xu hướng phát triển tất yếu của các tờ báo mạng điện tử. Về cơ bản, Web 2.0 trao quyền nhiều hơn cho người dùng đặc biệt, người dùng có thể đưa lên mạng bất cứ thông tin gì họ muốn… Wikipedia là một ví dụ điển hình. Với Web 2.0, người tiêu dùng đang dần trở thành người sản xuất ra những nội dung thông tin cho chính mình, chính vì vậy, đây có thể coi như là khởi nguồn của một tờ báo công dân. Mặc dù vẫn còn đang được tiếp nhận một cách chưa thực sự cởi mở, một số tập đoàn báo chí nhanh nhạy với công nghệ trên thế giới đã tiến hành áp dụng Web 2.0 như tờ The Sun (Anh), News24.com (Nam Phi), The Asashi Shimburi (Nhật Bản), Sinchew-i.com (Malaysia), Sanoma (Phần Lan), Los Angeles Times (Mỹ), Gatehouse Media (Mỹ), The New Straits Times (Singapore)… và thu được những thành công đáng ghi nhận.

5/ Những nền tảng khác

Ngoài ba nền tảng cơ bản là nền tảng xã hội, di động và web, nhiều tờ báo còn tìm kiếm những nền tảng phi báo chí khác như các màn hình công cộng tại các quảng trường, nhà ga, trên các phương tiện công cộng như tàu điện, tàu hỏa, xe buýt, máy bay, hệ thống truyền hình trong các khách sạn… Tuy nhên, đây là những nền tảng nhỏ, chỉ mang tính mở rộng, không có những chiến lược lâu dài và tập trung.

Có thể kể ra một số hình mẫu thành công trên thế giới nhờ sớm áp dụng chiến lược đa nền tảng, như FT Group và TMG đều đến từ nước Anh.

FT Group là một bộ phận thuộc tập đoàn Pearson PLC, sở hữu tờ Financial Times (FT) kể từ năm 1957 và có nhiều hoạt động kinh doanh khác liên quan đến phân tích tài chính. Vốn phát hành báo tại London nhưng giờ đây có tầm bao phủ toàn cầu, FT được coi là tờ báo sáng tạo hàng đầu và liên tục về online trong thế giới các nhật báo. Họ ra mắt trang FT.com vào tháng 5/1995 và áp dụng việc thu phí vào năm 2002. Tháng 7/2006, FT công bố dự định tích hợp tờ báo in sâu hơn với FT.com, và việc này diễn ra đồng thời với một chương trình cắt giảm nhân sự tự nguyện. Hệ thống thu phí metered paywall được áp dụng vào năm 2007, rồi tiếp theo là ứng dụng mobile sử dụng công nghệ HTML5 vào năm 2011.

Điều đặc biệt quan trọng là các nguồn thu đã thay đổi. Vào năm 2006, nguồn thu từ nội dung số chỉ chiếm 14% nhưng vào năm 2011, con số này đã tăng lên 47%. Tính chung số người trả tiền đọc tờ Financial Times (gồm cả báo in và điện tư vào tháng 10/2013 đạt 629.000, cao hơn nhiều so với mốc đỉnh cao phát hành của báo in và là mức cao nhất trong lịch sử 125 năm hoạt động của báo này.

Trong khi đó TMG, sở hữu tờ Telegraph, vào năm 2013 đã hợp nhất hoạt động nội dung thành một hoạt động thống nhất, phục vụ các sản phẩm in và nội dung số 24 giờ mỗi ngày. Giờ đây, thu nhập của Telegraph là 50% từ quảng cáo và 50% từ phát hành. Số phát hành báo in hằng ngày là 571.000 trong khi số người trả tiền nội dung số là 320.000. Trong số 61 triệu người dùng đơn lẻ mỗi năm, chỉ có 23 triệu từ Anh, có nghĩa Telegraph đã trở thành một trang web toàn cầu. Tại quê hương mình, Telegraph là tờ báo đứng thứ 7 và nhận được khoảng 20.000 bình luận của độc giả mỗi ngày. Lượng truy cập website tăng gấp 10 lần kể từ năm 2006, khi hoạt động sản xuất báo in và nội dung số lần đầu tiên được tích hợp.

Còn tại Việt Nam, sự tác động của mạng xã hội đến báo chí đã bước đầu được nhận thức, tuy nhiên, đa phần các cơ quan báo chí Việt Nam vẫn còn đang loay hoay với báo chí đa phương tiện và mô hình tòa soạn hội tụ, chưa đầu tư thích đáng cho sự tương tác với mạng xã hội hay báo chí di động. Rất nhiều tờ báo đã có fanpage trên Facebook và có số lượng chia sẻ bài viết khá cao – ví dụ Fanpage của VnExpress đưa lên trang mạng gần 30 tin/bài/ngày; xu hướng “distributed content” đã bắt đầu hình thành và được nhiều tờ báo ứng dụng. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, báo chí Việt Nam chưa thật sự tập trung cho nền tảng xã hội, sự tương tác chưa nhiều, hầu hết các tờ báo đã khóa comment của độc giả và việc chia sẻ thông tin trên mạng xã hội chưa thực sự mang lại hiệu quả như mong đợi. Đối với nền tảng di động, nhiều tờ báo vẫn đang tiếp tục xây dựng phiên bản mobile, các app đọc báo trên di động đã có khá nhiều như Moza (Tinh Vân), Socbay Media (Naiscorp), Tin ngắn (Viettel), Báo mới (ePi), Thanh niên (báo Thanh niên), Người đưa tin (Netlink), Tuổi trẻ (báo Tuổi trẻ), VnExpress (báo VnExpress), Dân trí (báo Dân trí)… và được dự báo sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian tới cùng với sự bùng nổ của thiết bị di động. Tuy nhiên, cách sử dụng nền tảng di động hiện nay của các tờ báo mạng điện tử Việt Nam vẫn là thu nhỏ trang báo cho vừa với màn hình di động, chưa có những bước đột phá về nội dung.

Trên thực tế, dù được coi là xu hướng tất yếu cho tương lai, báo chí đa nền tảng cũng đang gặp phải những thách thức không nhỏ, đặc biệt là tại những thị trường đang phát triển như Việt Nam bởi phải đầu tư cả về tiền bạc lẫn công nghệ, phải có một đội ngũ nhân lực mạnh cùng những chiến lược bài bản và lâu dài… Tuy vậy, khi đã nắm bắt được xu hướng và có những bước đi đúng đắn, các tòa soạn báo chắc chắn sẽ gặt hái được “quả ngọt” cho sự đầu tư của mình.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Nguyễn Thị Trường Giang – Báo chí và truyền thông đa phương tiện – NXB ĐHQG HN 2017

Báo chí đa nền tảng – Phần III


3/ Nền tảng di động

Cả thế giới thu gọn lại trong lòng bàn tay là điều mà người ta vẫn thường dùng để nói về các thiết bị di động. Cùng với nền tảng xã hội, nền tảng di động đã khiến báo chí trên thế giới hoàn toàn thay đổi, từ chỗ thờ ơ đã phải vội vã tiến hành điều chỉnh, bởi chỉ với một điện thoại thông minh và wifi hay 3G, 4G công chúng có thể tiếp cận thông tin mọi lúc, mọi nơi, nhanh, tiết kiệm và tiện lợi.

Trước đây, nhiều người vẫn nhầm tưởng rằng, phiên bản mobile chỉ là sự thu gọn trang báo cho vừa cỡ với điện thạoi nhưng trên thực tế, làm báo cho thiết bị di động hoàn toàn khác biệt. Màn hình điện thoại di động dù lớn đến mấy đi chăng nữa cũng không thể bằng màn hình của laptop, người đọc báo trên di động cũng có những điểm khác biệt về thời gian, độ chú ý, thói quen sử dụng… Chính vì vậy, báo chí trên nền tảng di động không đơn thuần chỉ là thu nhỏ trang báo lại cho vừa với màn hình điện thoại mà còn là hàng loạt điều thay đổi về cách viết, cách chụp ảnh, cách ghi video, cách đặt tít, cách bài trí lại các bài viết trên trang báo. Đặc biệt, độ tập trung của người đọc sẽ có nhiều khác biệt khi họ không dùng điện thoại để đọc báo cố định một khoảng thời gian mà chia làm nhiều lần trong một ngày, khi đang di chuyển trên đường, thậm chí đọc báo để giết chết thời gian. Chính vì vậy, làm thế nào để người đọc dừng lại lâu hơn ở trang báo của mình, click vào đường link để đọc bài báo thay vì chỉ đọc lướt tiêu đề là một điều hoàn toàn không hề dễ dàng.

Sản xuất thông tin cho di động đã trở thành một “hạng mục” đầu tư được chú ý của nhiều tòa soạn báo trên thế giới. Trên thực tế, để thu hút được công chúng là hoàn toàn không dễ dàng bởi có rất nhiều thứ hấp dẫn trên điện thoại như Facebook, YouTube hay game, chưa kể tâm lý thiếu kiên nhẫn và tập trung của người đọc. Tuy nhiên, khó khăn không có nghĩa là không thể. Có thẻ thấy rõ sự “lột xác” của nhiều tờ báo dành riêng cho phiên bản báo mạng điện tử trên mobile: nội dung thông tin ngắn gọn, đưa thông tin nổi bật trong ngày, thân thiện, thuận tiện cho người sử dụng, giao diện bắt mắt… Nhiều tòa soạn báo bắt đầu có xu hướng viết nội dung dành cho mobile, hoàn toàn độc lập với báo giấy hay bản điện tử. Cụ thể, thông tin trên bản mobile sẽ được đảm bảo sự đầy đủ, nhanh nhưng cực kỳ ngắn gọn, thông tin chi tiết sẽ được đăng tải trên phiên bản điện tử hoặc báo giấy. Về giao diện, đa phần các tờ báo mạng đều sử dụng giao diện “1 cột” cho phiên bản mobile với những tin tức nổi bật được xếp ở vị trí trên cùng và lần lượt sau đó là những tin tức ít quan trọng hơn xếp theo một hàng dọc từ trên xuống dưới.

Cùng với đó, các tờ báo đều chú tâm đầu tư cho ứng dụng đọc báo trên di động (app), có thể kể đến CNN App, The Guardian, AP Mobile, BBC News, News Republic, Apple News, BuzzFeed, Smartnews, The New York Times… Chỉ cần tải ứng dụng đọc báo của các trang báo mạng điện tử này trên kho lưu trữ là có thể cập nhật được tin tức từ các tờ báo đó. Giao diện thân thiện và thông minh, tóm tắt tin tức quan trọng hàng ngày cho người dùng, cung cấp đầy đủ thông tin về mọi mặt của đời sống xã hội… là bí quyết của những ứng dụng đọc báo này để giữ chân khách hàng không rời mắt khỏi màn hình di động để đọc tin tức. Chưa hết, khi sử dụng các App, tính năng Push Notification Service còn thường xuyên cập nhật thông tin đến màn hình di động ngay cả khi người đọc không truy cập, giúp người đọc không bỏ qua những thông tin mới nóng nhất. Ngoài ra, các tờ báo đều cố gắng xây dựng Atheo xu hướng “một cột” như thường thấy mà xây dựng theo chiều ngang, chỉ hiển thị ảnh và tít trên màn hình chính. CNN tạo màu sắc đặc trưng, đặt tít rất ngắn, trình bày bài viết thuận tiện cho người đọc, The Guardian mang lại cho người đọc một App đọc báo thân thiện và mạch lạc…

Tại Việt Nam, có thể thấy sự phân tầng rõ rệt với sự đầu tư cho báo chi di động. Một số tờ báo đã xây dựng phiên bản web dành cho mobile từ rất sớm và không ngừng nâng cấp App đọc báo trên di động như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Dân Trí, VnExpress… Trong đó, App đọc báo của Thanh Niên được đánh giá rất cao và đã đạt nhiều giải thưởng quốc tế. Tuy nhiên, phần lớn, báo chí di động vẫn mới chỉ là “xu hướng”, chưa phải là mối quan tâm hàng đầu của nhiều tờ báo hiện nay. Thậm chí đến nay, nhiều tờ báo vẫn chưa có phiên bản web dành riêng cho mobiel hay bản điện tử mới ở dạng e-paper, thậm chí, tệ hơn, nhiều tờ báo còn không có bản điện tử.

Theo Nguyễn Thị Trường Giang, khi tiếp nhận thông tin báo mạng điện tử trên máy vi tính, công chúng thường có thói quen khám phá thông tin một cách tự do, dàn trải thì ngược lại, vì người sử dụng thiết bị di động có thể trong trạng thái di chuyển nên việc tiếp nhận các thông tin phải chọn lọc cụ thể hơn, tránh bị phân tán sang hướng khác… Báo mạng điện tử dành cho thiết bị di động có các đặc điểm sau: Chủ động tìm công chúng khi thông itn được cập nhật; Ngắn gọn, cô đọng, tiết giản tối đa chi tiết; Đưa tin nổi bật, theo dòng sự kiện; Dễ sử dụng, thân thiện với người dùng.

Tuy nhiên, kể cả ở những tòa soạn báo hàng đầu thế giới, có thể thấy rõ một điều là báo chí trên mobile phần nhiều vẫn là “bình mới, rượu cũ”. Mặc dù đã rất nỗ lực và có nhiều ứng dụng hiện đại, việc sản xuất thông tin dành cho thiết bị di động mới dừng lại ở thay đổi giao diện trang báo, lược bỏ những phần không cần thiết (như hình ảnh, các chi tiết đồ họa…) để giúp tăng tốc độ khi tải còn tiêu đề, nội dung các bài viết vẫn được giữ nguyên như khi phát hành trên máy vi tính, kể cả những tờ báo hàng đầu như The New York Times, Washington Post, BBC News… Nói một cách khác, cũng giống như báo mạng điện tử trước đây là phiên bản điện tử của báo giấy, báo chí trên di động hiện nay mới chỉ dừng lại ở phiên bản mobile của báo mạng điện tử mà thôi. Dù vạy, với tốc độ phát triển một cách chóng mặt của các thiết bị di động tạo ra một thị trường mới rộng lớn và có sự cạnh tranh quyết liệt, báo chí dành riêng cho mobile chắc chắn sẽ được các tòa soạn báo đầu tư tương xứng trong tương lai.

4/ Nền tảng web

Dù mạng xã hội, điện thoại di động thông minh đã làm thay đổi thói quen tiếp cận thông tin của công chúng nhưng không thể phủ nhận rằng, web vẫn là nền tảng quan trọng mà các tờ báo cần phải chiếm lĩnh.

Trên thực tế, các cơ quan báo chí trên toàn thế giới tập trung cho báo mạng điện tử thay vì các ấn phẩm in ấn đã không còn là xu hướng mà thực sự là điều hiển nhiên. Sự sụt giảm về doanh thu khi số lượng phát hành và quảng cáo bị suy giảm nghiêm trọng trước sự cạnh tranh khốc liệt của các trang tin tức trên Internet đã khiến cho một làn sóng đóng cửa báo in nổi lên trên toàn cầu. Hàng loạt tờ báo lớn như Independent, NewsWeek… đã tiến hành đóng cửa ấn phẩm báo in, chỉ tập trung cho bản điện tử. Nhiều người bi quan đã phải dự báo, báo in đã đến thời điểm “cáo chung”.

Tuy nhiên, dù định hướng rõ tập trung cho báo mạng điện tử, việc làm báo không còn đơn thuần là cố gắng tìm kiếm thật nhiều thông tin nổi bật và đưa lên trang báo một cách nhanh nhất. Tính tức thời và phi định kỳ không còn là thế mạnh độc tôn của báo mạng điện tử trước tốc độ phát triển vượt bậc của mạng xã hội, chính vì vậy, các tòa soạn báo cũng đã có những sự thay đổi đáng kể. Tòa soạn hội tụ, báo chi đa phương tiện, nhà báo đa phương tiện… không còn được coi là những xu hướng “nóng” mà đã trở thành điều tất yếu. Có thể dễ dàng thấy, mỗi bài báo được đăng tải đều được tích hợp các yếu tố đa phương tiện: Chữ viết, hình ảnh tĩnh, hình ảnh động, video, audio, đồ họa, liên kết… Thậm chí, trong một bài báo có đầy đủ các yếu tốt trên, mỗi yếu tố phản ánh một góc độ của sự kiện, từ đó tạo thành một tác phẩm báo chí hoàn chỉnh. Có rất nhiều mô hình tòa soạn hội tụ, báo chi đa phương tiện thành công trên thế giới như The New York Times, BuzzFeed của Mỹ, The Daily Telegraph của Anh, Straits Times của Singapore… và xu hướng này tiếp tục lan rộng trên toàn thế giới.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Nguyễn Thị Trường Giang – Báo chí và truyền thông đa phương tiện – NXB ĐHQG HN 2017

Báo chí đa nền tảng – Phần II


2/ Nền tảng mạng xã hội

“Chung sống” hay “hợp tác” với mạng xã hội không còn là điều quá mới mẻ nữa, để tồn tại và phát triển, báo chí không còn cách nào khác là phải biến mạng xã hội trở thành “đồng minh” của mình. Sử dụng Fanpage để chia sẻ đường link từ các bài viết từ báo mạng điện tử, sử dụng các ứng dụng chia sẻ tin tức trên nền tảng mạng xã hội, chọn mạng xã hội là phương tiện đầu tiên truyền tải thông tin đến bạn đọc… là cách mà các tờ báo đang làm.

Hãy lấy Facebook – mạng xã hội có số người dùng đã lên tới hơn 1,9 tỷ mỗi tháng trên toàn cầu tính tại thời điểm tháng 3/2017 làm ví dụ điển hình cho việc báo chí phát triển nền tảng xã hội. Hiện nay, khi đưa thông tin lên Facebook, các tờ báo vẫn giữ 2 cách làm cơ bản. Một là chia sẻ các đường link bài viết của tờ báo lên Fanpage – thường là các bài báo đỉnh nhằm thu hút được sự quan tâm của độc giả, khi người đọc sử dụng máy tính hoặc điện thoại bấm vào thì sẽ link đến trang chủ của tờ báo và đọc nguyên văn bài báo trên trang báo này. Nhờ đó, người đọc có thể tìm đọc các nội dung khác trên tờ báo, tuy nhiên, cách này thường chậm do phải mất thời gian tải trang web. Một cách khác đó là sử dụng tính năng Instant Articles khi nguòi đọc sử dụng thiết bị di động. Tháng 5/2015, Facebook ra mắt tính năng này, chỉ sau đó không lâu, 9 đơn vị báo chí xuất bản lớn trong đó có The New York Times, NBC News, BBC, BuzzFeed… đã phổ biến các bài viết của mình trên nền tảng Facebook tại ứng dụng Instant Articles. Khi sử dụng Instant Articles, nội dung các bài viết được giữ nguyên, chỉ có các tính năng được nâng cấp để người dùng sử dụng thuận tiện hơn rất nhiều. Khi người đọc nhìn thấy bài viết, chỉ cần bấm vào là toàn bộ các nội dung sẽ hiện ra ngay lập tức với tốc độ tải nhanh hơn. Chưa hết, người đọc còn có thể tương tác với chính các nội dung trong bài viết như xem ảnh chất lượng cao, video tự động chạy khi cuộn tới, phóng to thu nhỏ hình trong bài viết, có thể lướt để đọc các bài báo khác trên cùng tờ báo, có thể tương tác với bản đồ, nghe các đoạn audio có trong bài và thậm chí là ấn nút like, tiến hành bình luận, chia sẻ vào từng đoạn của bài viết nếu thích.

Việc bắt tay này nằm trong xu hướng về những loại tin tức được sản xuất, phát hành và tạo doanh thu gọi là “distributed content” – hình thức các cơ quan báo chí trao đổi nội dung cho các nền tảng như Facebook hay Twitter mà không gắn kết trở lại với website của mình để người dùng mobile có thể truy cập nhanh chóng. Trên thực tế, Snapchat mới là nền tảng đầu tiên khơi mào cho xu hướng này với tính năng Discover được tung ra vào tháng 1/2015. Snapchat đã thu hút được những nguồn tin rất đa dạng, từ CNN, NatGeo, Buzzfeed, Mashable, DailyMail cho đến Vice, People, Cosmopolitan, MTV, Food Network… Cuộc đua trở nên sôi động khi ngay sau đó Google, Instagram và Apple cũng nhanh chóng vào cuộc.

Với sự hợp tác này đã mang lại những hiệu quả rõ rệt. Đơn cử như The New York Times, là đối tác của Instant Articles từ tháng 10/2015, các bài báo của The New York Times đăng trên Facebook có số chia sẻ trung bình cao gấp 3,5 lần, like gấp 2,5 và con số bình luận (comment) gấp 5,5 lần so với trên các đường link thông thường, theo khảo sát của Newswhip. Tổng giám đốc BBC World Service Francesca Unsworth trong bài phát biểu tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền ngày 28/3/2017 cũng chia sẻ, vào tháng 2/2017, ban BBC Tiếng Việt bắt đầu thử chức năng Instant Articles của Facebook và ngay lập tức nó đem lại một phần tư số độc giả. Nhờ đó, đến tháng 3, nội dung của BBC Tiếng Việt đã đến được với 4 triệu người.

Một ví dụ điển hình khác của việc báo chí ngày càng coi trọng nền tảng mạng xã hội là câu chuyện của hãng tin AP. Tối 19/12/2016, tay súng Mevlut Mert Altintas đã bắn chết Đại sứ Nga tại Thổ Nhĩ Kỳ Andrey G. Karlov khi ông đang phát biểu tại một triển lãm tranh. Phóng viên Burhan Ozbilici của AP đã ghi lại được toàn bộ sự cố đó và thay vì đưa tin lên mạng, sau hơn 2h vụ việc xảy ra, tài khoản chính thức chuyên về ảnh của AP trên Facebook đã đăng tải bức ảnh chụp tay súng đang đứng cạnh thi thể và giơ tay tỏ ý chiến thắng. Bức ảnh ngay lập tức khiến thế giới chấn động, chỉ sau 6h được đăng tải, đã có đến 9 triệu lượt xem, được chia sẻ lại hơn 45000 lần với 5600 bình luận và 28000 lượt bày tỏ cảm xúc. Trang tin tức truyền thông xã hội Mashable đã dẫn lới một thành viên Newswhip cho rằng, bức ảnh vụ ám sát này thu hút sự chú ý cao gấp 175 lần mức trung bình dành cho trang ảnh của AP.

Đầu tháng 9/2016, hai mạng xã hội hàng đầu thế giới Facebook và Twitter đã “bắt tay” với nhiều hãng thông tấn quốc tế trong nỗ lực ngăn chặn những thông tin sai lệch và cải tiến chất lượng tin tức trên mạng xã hội. Liên minh mang tên First Draft News ngày 13/9 thông báo sẽ có khoảng 20 hãng thông tấn, báo chí đã tham gia mạng lưới chia sẻ thông tin về thực hành báo chí trong thời đại công nghệ thông tin này.

Sự “bắt tay” của báo chí và mạng xã hội đã tạo ra một cú nhảy vọt lớn, làm thay đổi hoàn toàn cách thức truyền tải thông tin. Có thể nói rằng nền tảng xã hội, báo chí đã tìm được con đường đến với độc giả nhanh nhất, hiệu quả nhất. Tuy nhiên, không phải mọi thứ đều là màu hồng, nền tảng xã hội cũng đã tạo ra những nguy cơ mà không tỉnh táo, các cơ quan báo chí có thể đánh mất mình. Thông thường, các tờ báo chỉ đưa một phần thông tin lên mạng xã hội, như là một cách để thu hút độc giả, tuy nhiên, càng ngày việc “giao phó” nội dung cho các mạng xã hội  càng phổ biến, thậm chí Washington Post đưa 100% thông tin lên mạng xã hội. Cho đến nay, sau 2 năm, “distributed content” không còn là xu hướng mới mà đã trở nên rất phổ biến và thực sự đang tạo nên một “cuộc chiến” giữa các nhà nghiên cứu về việc lợi hay hại khi báo chí chạy theo xu hướng này. Ngả về “distributed content”, báo chí sẽ đánh mất tầm ảnh hưởng, thay vì tìm đến báo chí, người đọc có thể chọn các mạng xã hội làm nguồn tin chính, thậm chí báo chí sẽ trở thành các công ty sản xuất nội dung phục vụ các nền tảng xã hội và tình trạng đốc quyền  thông tin của các mạng xã hội hoàn toàn có thể xảy ra. Thậm chí, nhiều tờ báo sẽ đứng trước nguy cơ “chết” bởi doanh thu từ quảng cáo sụt giảm, bản thân người đọc cũng không quan tâm bài báo đó do tờ báo nào viết, tác giả nào viết và một khi Facebook thay đổi thuật toán của họ, các tờ báo bắt buộc phải chạy theo trong tư thế đánh mất mình. Trong bài viết chuyên đề “Chiến lược nào cho báo chí khi truyền thông xã hội phát triển mạnh mẽ”, VietnamPlus đã đưa ra những mối nguy mà báo chí gặp phải khi bắt tay với các mạng xã hội như sau:

“Các nền tảng đặt luật chơi cho hệ sinh thái của họ và thực thi quyền lực khi họ muốn (ví dụ Facebook kiểm duyệt bức hình em bé Napal khi tờ báo lớn nhất Na Uy Aftenposten đăng tải vì thuật toán chỉ nhận diện được hình khỏa thuân mà không hiểu đực bối cảnh là sự khủng khiếp của cuộc chiến tranh ở Việt Nam).

Các nền tảng tung ra các sản phẩm hoặc tính năng mới và lôi kéo các đối tác tham gia, nhưng rồi họ đổi ý và đơn phương hủy bỏ các sản phẩm này (ví dụ như Facebook thuyết phục các nhà xuất bản tin tức đầu tư vào các ứng dụng tin tức timeline hồi năm 2011 rồi ngưng dự án vào năm 2012).

Các nền tảng tung hô đối tác lên tận mây xanh rồi lại nhấn xuống bùn đen nếu muốn (ví dụ nước Zynga, một công ty sản xuất social game, trở thành nhà phát triển và đối tác kinh doanh hàng đầu của Facebook vào năm 2010 nhưng sự hợp tác này đã chấm dứt vào năm 2012).

Tại Việt Nam, cuối năm 2015, Facebook đưa một số báo và trang web vào danh sách triển khai Instant Articles đợt đầu tiên và cho phép tất cả các tờ báo sử dụng tính năng này kể từ ngày 12/04/2016. Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều tờ báo vẫn từ chối sử dụng tính năng này hoặc sử dụng một cách không triệt để.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Nguyễn Thị Trường Giang – Báo chí và truyền thông đa phương tiện – NXB ĐHQG HN 2017

Báo chí đa nền tảng – Phần I


Trong khi báo chí đa phương tiện vẫn đang được nhắc đến như một xu thế không thể khác đối với báo chí trên toàn thế giới, thì báo chí đa nền tảng (multi platform journalism) đã được dự đoán sẽ trở thành tất yếu trong tương lai. Trước thời điểm báo chí bị tác động mạnh mẽ bởi mạng xã hội và điện thoại thông minh, thuật ngữ báo chí đa nền tảng thường chỉ dùng trong lĩnh vực máy tính hay ngành công nghiệp phần mềm, nó chỉ bắt đầu được nhắc nhiều tại các hội thảo báo chí quốc tế vào khoảng năm 2010, thời điểm mang tính bước ngoặt của báo chí truyền thông thế giới. Giống như Thomas L. Friedman từng thốt lên: “Khi tôi viết “Thế giới phẳng” (2004), Facebook chưa tồn tại, Twitter là một âm thanh; mây thì ở trên trời; 4G là bãi đỗ xe, “ứng dụng” là những gì bạn gửi đến trường đại học, LinkedIn hầu như không ai biết đến và hầu hết mọi người nghĩ rằng đó là nhà tù, Big Data là cái tên hay cho một ngôi sao nhạc rap, và Skype, đối với hầu hết mọi người, là một lỗi đánh máy sai…”, tất cả đã thay đổi chỉ trong vòng 6 năm.

1/ Báo chí đa nền tảng là gì?

Hiểu một cách đơn giản nhất, báo chí đa nền tảng là xu hướng báo chí mà người đọc có thể tiếp cận tin tức trên tất cả các nền tảng khác nhau: Máy tính, thiết bị di động cầm tay (smartphone, iPad, Notebook…); báo giấy, báo mạng điện tử; các ứng dụng xã hội như Facebook, Snapchat, Twitter… Hay nói cách khác, trong tương lai, để có thể tồn tại, một tờ báo buộc phải “biến đổi” để công chúng có thể tiếp cận thông tin bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào họ muốn, trên bất cứ nền tảng nào mà họ có. Thậm chí, các chuyên gia đã đưa ra viễn cảnh, nếu công chúng đang đọc một bài báo trên máy tính xách tay và bỏ dở khi mở điện thoại di động, máy tính bảng, hay chiếc đồng hồ đeo tay có thể đọc tin tức, họ phải đọc tiếp được đúng đoạn đó trên các thiết bị này.

Vì sao báo chí đa nền tảng lên ngôi trong khi báo chí đa phương tiện và báo chí hội tụ vẫn còn đang là câu chuyện nóng bỏng? Có thể thấy rằng, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị di động cũng như sự lên ngôi của mạng xã hội trong bối cảnh Internet đang phát triển như vũ bão trên toàn cầu đã buộc báo chí phải thay đổi.

Theo bản khảo sát World Press Trend 2016 (Các xu hướng báo chí thế giới thường niên năm 2016) của Hiệp hội Báo chí và các Nhà xuất bản tin tức thế giới (WAN-IFRA), 51% dân số thế giới đang sử dụng điện thoại di động và 31% sử dụng mạng xã hội, 30% dân số thế giới sở hữu một điện thoại thông minh và gần 90% người Mỹ truy cập tin tức bằng điện thoại thông minh và các thiết bị di động khác.

Nghiên cứu này dẫn số liệu của Hiệp hội Báo chí Mỹ cho biết, hơn nửa số công chúng báo mạng điện tử của nước này chỉ sử dụng thiết bị di động để đọc tin hàng ngày. Theo trang cung cấp số liệu ComScore, 37% công chún của 10 hãng truyền thông kỹ thuật số của Mỹ truy cập tin tức bằng thiết bị di động và 31% khác đọc tin bằng cả thiết bị di động lẫn máy tính bàn. Tại các thị trường như Pháp, Đức, Nhật Bản, Australia và Canada, hơn 1/3 số người trưởng thành sử dụng thiết bị di động để đọc tin tức. Đặc biệt, số lượng ngày càng tăng của điện thoại thông minh và máy tính bảng cũng thúc đẩy việc sử dụng ứng dụng dữ liệu lớn trên báo mạng điện tử, ví dụ như video. Theo thống kê, khoảng một nửa người tiêu dùng Internet tải lên video của riêng họ, 8 – 9 tỷ video mỗi ngày được theo dõi trên Facebook, 8 tỷ video/ngày được xem qua Snapchat và 4 tỷ được xem qua YouTube, hơn 50% lượng truy cập YouTube bây giờ là điện thoại di động, tăng từ 6% trong năm 2011. Nhờ xu hướng tiếp cận tin tức qua mạng, phương thức thu lợi nhuận từ phát hành kỹ thuật số cũng phát triển theo. Doanh thu phát hành kỹ thuật số thu tiền từ công chúng tiếp tục tăng trưởng 2 con số, tăng 30% trong năm 2015 và 547% trong 5 năm qua.

Báo cáo Global mobile media consumption: a “new wave” takes shape (Tiêu thụ truyền thông di động toàn cầu: Một làn sóng mới đang hình thành) được tiến hành vào năm 2014 của InMobi – mạng quảng cáo di động độc lập lớn nhất thế giới cũng cho thấy, tính trên toàn cầu, các khách hàng dành trung bình gần 2,2 giờ mỗi ngày dùng điện thoại di động (97 phút) và máy tính bảng (37 phút), chiếm 37% thời gian sử dụng các phương tiện truyền thông, bỏ xa xử dụng tivi (81 phút), máy tính để bàn (70 phút), radio (44 phút) và báo in (33 phút). Trong đó, có đến 60% người dùng truy cập Internet từ mobile, 30% số đối tượng hàng tháng của các kênh truyền thông là người dùng điện thoại di động.

Cùng với điện thoại di động, vài năm trở lại đây, mạng xã hội đã trở thành một hiện tượng toàn cầu, theo nghiên cứu của trang ComScore, cứ 5 phút online thì người dùng sẽ dành một phút cho mạng xã hội. Riêng với Facebook, trang này đánh giá, người dùng trên toàn thế giới tiêu tốn đến 35 phút mỗi ngày để lướt Facebook, cứ 3 trong 4 phút truy cập vào mạng xã hội là để dành cho Facebook. Trong khi đó, theo báo cáo của chính Facebook, người Mỹ tiêu tốn đến 50 phút mỗi ngày cho mạng xã hội này.

Không chỉ có tốc độ phát triển đáng kinh ngạc, vượt qua cả yếu tố kết nối đơn thuần, hơn bao giờ hết, các nền tảng xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc phối hợp truyền bá thông tin. Rất nhiều tin tức lan truyền trên mạng xã hội trước khi chính thức có mặt trên mặt báo, rất nhiều bài báo có nguồn tin từ mạng xã hội. Năm 2015, khi xảy ra vụ khủng bố đẫm máu khiến cho hơn 200 người thương vong. Paris sử dụng hashtag Twitter #PorteOuvert (cửa mở) để cung cấp nơi trú ẩn trong khi Facebook triển khai tính năng an toàn (I’m safe) khuyến khích người dân ở Paris thông báo mình an toàn thông qua tài khoản cá nhân của họ – lần đầu tiên ngoài một thảm họa tự nhiên. Đến nay, những tính năng này được sử dụng thường xuyên hơn khi xảy ra các thảm họa, ví dụ như vụ khủng bố ở khu chợ Giáng Sinh Berlin, vụ động đất ở Nepal hay sau cơn bão Dianmu đổ bộ vào Việt Nam tháng 8/2016, Facebook đều tự động kích hoạt tính năng an toàn.

Mạng xã hội cũng tiến đến gần hơn với báo chí, Twitter cho ra mắt ứng dụng xem video trực tiếp có tên Periscope và nó đã nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt từ giới phóng viên. Chưa dừng lại ở đó, mạng xã hội này còn tiếp tục cho ra mắt ứng dụng Project Lightning, một sáng kiến mới được đánh giá là rất hữu ích khi giúp thu thập và sắp xếp một cách có hệ thống các tin tức xung quanh nhiều sự kiện trong đời sống. Facebook cũng giới thiệu thanh trượt mới trên giao dịch có tên Trending Now, là nơi cập nhật những nội dung, tin tức hiện đang được thảo luận nhiều nhất trên Facebook. Cùng với đó là các tính năng như Instant Articles và Live Video giúp truyền tải tin tức gần như ngay lập tức. Ngoài ra còn có thể kể đến các ứng dụng nổi tiếng khác như Snapchat Discover, Apple News, Twitter Moments…

Báo cáo xu hướng truyền thông 2017 của Viện Nghiên cứu Reuters thống kê từ phản hồi của 143 tổng biên tập, CEO và các “nhà lãnh đạo kỹ thuật số” được điều tra trên 24 quốc gia cho thấy những con số đáng suy ngẫm. 70% cho rằng các mối lo ngại về tình trạng lan truyền các tin tức giả/tin không chính xác trên các mạng xã hội sẽ củng cố vị thế của họ, 46% lo ngại nhiều hơn về vai trò của các nền tảng so với năm ngoái, 56% cho biết Facebook Messenger sẽ là một phần quan trọng hoặc rất quan trọng trong các sáng kiến bên ngoài website của họ trong năm nay, 53% nói điều tương tự về WhatsApp và 49% về Snapchat.

Sự lên ngôi của truyền thông xã hội, truyền thông di động trong thời đại của kỹ thuật số đã khiến cho báo chí cũng phải thay đổi, không còn đơn điệu riêng rẽ ở một loại hình, một phương tiện để tiếp cận công chúng, báo chí bắt buộc phải tiến đến hình thức đa nền tảng, trong đó, thứ tự ưu tiên là nền tảng xã hội (social), nền tảng di động (mobile) và cuối cùng mới là web.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Nguyễn Thị Trường Giang – Báo chí và truyền thông đa phương tiện – NXB ĐHQG HN 2017

Văn hóa tin tức quốc gia và công dân có thông tin – Phần cuối


Kết luận

Rất dễ chỉ ra rằng, với lượng thông tin ồ ạt hiện nay và những quảng cáo cường điệu chứa đầy những thông tin, chúng ta ngày càng dễ bị mờ mắt, chúng ta ngày càng đầu hàng trước những sức mạnh phê bình của chính chúng ta hoặc không bao giờ nghĩ đến nó, coi “tất cả các nhà chính trị đều là những kẻ lừa đảo” hoặc coi “tất cả mọi thứ đều gây ra ung thư”. Nhưng, bất chấp tất cả, mọi người vẫn thấy cuộc sống của họ có ý nghĩa, dù vẫn cảm thấy cáu kỉnh, buồn chán, tức giận và bị thao túng. Sẽ là sai lầm nếu chúng ta chỉ nhận xét thị hiếu mọi người qua cách tiêu dùng của họ. Có một xu hướng tin rằng nếu các đoạn tin ngắn rút ngắn từ một phút xuống 10 giây (và thực tế điều này đã diễn ra được 20 năm), thì khả năng chú ý liên tục của mọi người cũng giảm đi tương ứng. Nhưng điều này không đồng nghĩa với mức độ căng thẳng trong công việc kinh doanh, sự phát triển của kiểu gia đình với hai nguồn thu nhập chính, sức sống của những phong trào ủng hộ và chống đối phá thai, sự quay lại của phục hưng tôn giáo, và thậm chí cả xu hướng tăng điểm SAT.

Vậy thì sự bão hòa truyền thông có nghĩa là gì? Hãy thử dùng phép suy luận tương tự qua đồ ăn nhanh. Hầu hết những người tôi biết đều ăn món Big Macs nhiều hơn cá hồi trong bữa tối ở những nhà hàng sang trọng. McDonald là món ăn nhanh hơn, rẻ hơn, dễ biết trước hơn, để dễ dồn sức vào những phần còn lại của cuộc sống hơn. Điều này không có nghĩa là mọi người thích Big Macs hơn cá hồi. Theo phép lập thừa kinh tế học thì nó cũng không có nghĩa là mọi người “đánh giá” cao Big Macs. Nó cũng không có nghĩa là khẩu vị của mọi người bị nhàm chán. Nó có nghĩa là mọi người đã có những quyết định cho sở thích của mình, và như vậy việc ăn một bữa ăn ngon được lựa chọn sau việc giảm bớt cơn đói. Tôi không cho rằng thành công ngày càng tăng của tờ USD Today nhất thiết phải chỉ ra một sự khác biệt nào đấy; nó không có nghĩa là mọi người coi McPaper là “món ăn” “tốt nhất” hay “món ăn” duy nhất mà họ tìm kiếm; đơn giản chỉ là họ tìm thấy ở nó những gì họ cần ngay ở một tờ báo, vào một thời điểm nào đó với những hạn chế trong cuộc sống thường nhật. Với thời gian và thế giới chung quanh vừa đủ, hay với một vấn đề quan trọng ở địa phương, hay với một cuộc chạy đua vào chiếc ghế tổng thống nóng bỏng, thì lựa chọn của mọi người có thể khác nhau. Lựa chọn của mọi người, trong bất kỳ trường hợp nào, ở bất kỳ thời điểm nào, đều chứa đựng một tập hợp những nguồn thông tin khác nhau.

Nếu chúng ta không thể suy ra thị hiếu cá nhân từ lựa chọn của mọi người thì liệu chúng ta có thể nhìn nhận những gì liên quan đến những giới hạn kho tàng văn hóa hay định hình những cơ hội nhận thức hay không? Có thể, nhưng hãy cẩn thận. Sự phát triển của McDonald buộc các nhà hàng khác phải thay đổi món ăn hoặc đóng cửa. Sự hình thành của McDonald đã giúp các công dân, đặc biệt là giới trẻ, trong vấn đề đồ ăn nào là ngon, thế nào là đồ ăn, thế nào là một bữa ăn. Đây có thể không phải là “người hướng dẫn” mà chúng ta ưa thích nhất cho con cái chúng ta. Đồng thời, người Mỹ ngày nay ăn ít thịt bò hơn trước kia khi McDonald là một tia sáng yếu ớt trong con mắt của Ray Krock: McDonald không phải là “người hướng dẫn” duy nhất trong văn hóa. Bản thân McDonald cũng không được hướng dẫn bởi sự chuyển biến xã hội và văn hóa rộng lớn hơn; hãy nhìn vào sự sẵn có cúa salad và lời tuyên bố rằng món thịt rán sẽ không có mỡ động vật nữa. Một lần nữa, việc đánh giá thói quen hay cơ chế sinh hoạt của người Mỹ từ những yếu tố hiện hữu nhất trong tiêu dùng đại chúng phải được tiến hành thật cẩn thận.

Công dân Mỹ ngày nay có nhiều thông tin hơn so với cách đây một thế hệ. Nhiều thông tin đáng tin cậy hơn. Nhiều nguồn thông tin quốc gia hơn. Nhiều mâu thuẫn được kiểm chứng về thông tin và dư luận hơn. Nhiều thông tin hơn đến với người dân nói chung qua truyền thông chứ không qua chuyên gia trung gian. Nếu tạp chí y học New England Journal of Medecine xuất bản những nghiên cứu thu hút được sự quan tâm của người dân nói chung thì những nghiên cứu đó không được sàng lọc qua những thầy thuốc gia đình mà đến thẳng báo chí, tạp chí, các phóng viên khoa học phát thanh truyền hình và sau đó nhanh chóng được đăng trên các tạp chí phụ nữ và người tiêu dùng. Chí ít đối với những người trung lưu đọc các tạp chí phụ nữ hay bài viết của Jane Brody trên New York Times và được công nhận bởi trình độ giáo dục và địa vị xã hội để chỉ dẫn bạn bè, gia đình và thuật lại cho bác sĩ của họ, thì loại thông tin này là có ích và được sử dụng.

Từ vấn đề này, tôi không kết luận rằng chúng ta có thông tin cần có vào thời điểm thích hợp hay thông tin sẵn có được phân phối công bằng hoặc công dân có thông tin được thông tin đầy đủ. Thư viện thông tin của chúng ta ngày càng làm hoa mắt và chỉ đem lại một ảo tưởng về tri thức và triển vọng nhầm lẫn về năng lực công dân nếu trật tự xã hội không trang bị cho mọi người đủ để sử dụng thông tin, nếu những người trẻ tuổi hay hoài nghi, nếu người nghèo không có hy vọng, nếu tầng lớp trung lưu quá ích kỷ, và nếu sự cướp phá đời sống xã hội vẫn đang làm nản lòng mọi người và làm cho những theo đuổi cá nhân được tưởng thưởng hơn lợi ích tập thể.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.

Văn hóa tin tức quốc gia và công dân có thông tin – Phần VI


Sự suy giảm kiểm soát trực tiếp của nhà quảng cáo đối với truyền hình còn nhỏ hơn so với sự mất đi kiểm soát của giới kinh doanh đối với chương trình nghị sự chính trị. Những năm 1960 đã tạo ra một môi trường cho hàng loạt những vấn đề và định chế nhìn giới kinh doanh bằng ánh mắt lạ lùng trong những năm 1970. Bắt đầu từ những năm 1960, Quốc hội, đặc biệt là Thượng viện, đã phải chịu ảnh hưởng của những người Dân chủ miền Bắc, những người đã thách thức một cách thành công những gì thuộc lĩnh vực của những người Dân chủ bảo thủ miền Nam. Điều này đã đẩy nhanh việc thông qua chương trình lập pháp tự do trong giai đoạn cuối những năm 1960 và 1970, bao gồm việc thành lập các cơ quan chính phủ mới để kiểm soát hoạt động kinh doanh – Cơ quan bảo vệ môi trường (năm 1970), Ủy ban cơ hội tuyển dụng công bằng (1965). Ủy ban xem xét an toàn và sức khỏe nghề nghiệp (1970) và Ủy ban an toàn sản phẩm cho người tiêu dùng (1973), đấy là chưa nói đến một Ủy ban thương mại liên bang mới và có sức chiến đấu. Báo giới, luôn được dùng cho việc ủng hộ chính phủ, đã ủng hộ các cơ quan mới này và do vậy chiếu ánh sáng lên giới kinh doanh với thái độ chỉ trích và theo dõi chặt chẽ hơn so với trước đây.

Sự ác cảm của giới kinh doanh đối với truyền thông cũng là một lời đáp lại cho thành công của Ralph Nader, người đã tạo ra sự đối lập mới của công chúng đối với giới kinh doanh. Nader sử dụng một số phương pháp truyền thông cũ kỹ trong bước đường thăng tiến trở thành nhân vật nổi bật. Đầu tiên ông công bố một bài viết về sự an toàn của ô tô trên tờ The Nation trong năm 1959. Cuốn Không an toàn ở bất kỳ tốc độ nào của ông đã thúc đẩy quá trình lập pháp năm 1966, biến chính quyền liên bang thành người bảo lãnh cho an toàn ô tô và đường cao tốc, và dẫn đến việc “gợi nhớ lại” các ô tô với những khuyết tật về độ an toàn. Trong những năm tiếp theo, Nader đã tạo ra một loạt vận động hành lang vì lợi ích của công chúng và thành lập các tổ chức nghiên cứu ở Washington và khắp đất nước. Chính quyền liên bang, bằng việc thành lập những cơ quan mới để bảo vệ sức khỏe nghề nghiệp và an toàn cho người tiêu dùng, cùng với các ngành tư hữu, bằng việc tham gia vào xử lý tồi những vụ việc bên bờ thảm họa (Đảo Ba dặm) và những thảm họa nghiêm trọng (Bhopal), đã thực thi phần còn lại. Quốc hội, mặc dù vẫn là trung tâm cho những hoạt động lập pháp ở Washington, ngày càng trở thành “người tiêu thụ” những sáng kiến chính sách không chỉ từ Nhà Trắng mà từ cả một loạt dài những kẻ vận động hành lang. Mặc dù các nhóm công dân và các nhóm lợi ích công chúng vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ trong toàn bộ nỗ lực vận động hành lang ở Washington, nhưng chúng đã phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 1960 – 1980.

Và như vậy truyền thông, tiếp theo Washington, đã chuyển sang cánh tả trong những năm 1970; một lần nữa, theo chân Washington và việc thâu tóm quyền lực của chính quyền Reagan, họ chuyển sang cánh hữu trong những năm 1980. Quá nhiều nhà phê bình truyền thông, thuộc cánh tả hay cánh hữu, đã cường điệu tính độc lập của truyền thông và giảm nhẹ sức mạnh của tập quán truyền thông, xuất hiện lặp đi lặp lại trong những nghiên cứu của Edward Epstein, Herbert Gans, Todd Gitlin, Daniel Hallin, Stephen Hess, Michael Robinson, Leon Sigal, Gaye Tuchman và những người khác. Những gì thay đổi từ những năm 1960 đến những năm 1970 rồi những năm 1980 là môi trường chính trị mang lại xu hướng lập pháp phân biệt cho những nguồn khác nhau. Truyền thông, dường như đóng vai trò trung gian giữa hàng loạt những âm điệu khác nhau, có ít tài nguyên trí tuệ cho phán xét độc lập và không có hậu thuẫn chính trị cho bút chiến độc lập.

 Những năm 1960 đã thay đổi văn hóa bên trong của các nhà báo hoạt động. Các bản tin truyền hình về vận động tranh cử lại tiêu cực hơn những gì chúng đã từng dành cho các ứng viên Cộng hòa cũng như Dân chủ trước đây. Các phóng viên, giống như bệnh nhân tìm sự tư vấn về thuốc men, lại có khả năng tìm những quan điểm nhiều chiều hơn so với trước đây. Những định chế rất thành thạo trong việc đưa ra quan điểm nhiều chiều đã phát triển nhanh chóng và chung quanh Washington. Giờ đây có một “kỹ nghệ phong trào xã hội” (social movement industry), như Mayer Zald và John McCarthy viết, với nhiều nguồn lực hơn bao giờ hết. Trên truyền thông quốc gia, kết quả là một bức tranh thế giới không nghiêng về cánh tả cũng không nghiêng về cánh hữu nhưng lại lộn xộn và đa khuynh hướng hơn (và lạc hậu hơn, nếu quan điểm của bạn trùng với thuật ngữ này).

Sự tồn tại – và phát triển – của in ấn

Vẫn cần phải nói đôi chút về phương tiện không thể bỏ qua mà bài này xuất hiện trong đó – sách. Có một thực tế rất quan trọng trong việc điển hình hóa những thay đổi văn hóa đương đại, đó là thực tế vào năm 1960 chỉ có 41% số người trưởng thành (từ 25 tuổi trở lên) tốt nghiệp trung học trong khi năm 1988 là 76%. Năm 1960, 7,7% số người trưởng thành đã học ít nhất 4 năm ở trường cao đẳng: đến năm 1988 con số này tăng vọt lên 20,3%. Mặc dù phần lớn giáo dục cao đẳng là về kỹ thuật và chuyên môn nghiệp vụ nhưng nhiều tổ chức nhấn mạnh “giáo dục tự do” và các nhóm “giáo dục tự do” tồn tại ngay ở những trường chuyên về kỹ thuật, tạo ra cơ hội cho điều tra phê bình mà các trường trung học hiếm khi mang lại. Tỷ lệ biết chữ không vì thế mà giảm đi. Trên thực tế, ngày nay sách được xuất bản bởi nhiều nhà xuất bản hơn và được phân phối qua nhiều hiệu sách hơn bao giờ hết. Bất chấp nhiều vụ sáp nhập và mua lại trong ngành xuất bản, tổng số nhà xuất bản vẫn tăng lên – đến mức không gì thuộc về “chế bản văn phòng” mà máy tính cá nhân không thể làm được. Trong năm 1960, khoảng 15.000 cuốn sách và ấn phẩm mới được xuất bản, năm 1970 là 36000, năm 1980 là 42.000 và năm 1990 là 47.000. Năm 1963 có 993 cơ sở xuất bản, con số này tăng lên 2264 trong năm 1987.

Tuy vậy, sách đến với công chúng qua một mạng lưới phân phối ngày càng tập trung. Năm 1980, B. Dalton có hơn 500 hiệu sách và khi Barnes và Noble mua lại năm 1987 thì con số này đã tăng lên gần 1000; Waldenbooks có hơn 700 hiệu sách năm 1980, 1100 năm 1994. Năm dây chuyền của hiệu sách lớn nhất chiếm 34% tổng số sách bán ra và B. Dalton và Waldenboos chiếm được ảnh hưởng cực kỳ to lớn đến toàn bộ ngành sách.

Sách, với tư cách là một hàng hóa, ngày càng chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ về nhu cầu giải trí – không chỉ từ truyền hình mà cả các dịch vụ giải trí gia đình. Số cửa hàng bán video cao hơn hai lần so với số hiệu sách. Nhưng việc sử dụng chữ in ấn vẫn tăng lên. Các báo cáo cho rằng thời đại chúng ta là thời đại của truyền hình đã cường điệu quá mức.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.

Văn hóa tin tức quốc gia và công dân có thông tin – Phần V


Truyền hình trong hệ thống truyền thông

Kể câu chuyện về những bước tiến nổi bật trong truyền thông tin tức ở thế hệ trước như là một câu chuyện về quốc gia hóa, tin tức hóa, và trọng tâm mang tính biểu tượng ngày càng cao của cái gọi là “tin tức” có nghĩa là phân biệt về bản chất với những bài báo phổ cập khác. Có lẽ câu chuyện phổ biến nhất là câu chuyện kể rằng “truyền hình” là câu trả lời một chữ giản đơn cho câu hỏi: Điều gì đã xảy ra cho truyền thông trong 30 năm qua? Về khía cạnh này, truyền hình đã phổ biến khắp xã hội, thúc đẩy tình trạng suy giảm tỷ lệ biết chữ, sự suy giảm tính nghiêm túc, và sự suy giảm việc tham gia chính trị.

Nhưng hãy thử xem xét cái gì có thể là một ví dụ đơn giản: do tin tức truyền hình đã phát triển và do mức độ phụ thuộc đã được thừa nhận của công chúng vào tin tức truyền hình đã tăng lên, nên sự “thâm nhập” của báo chí đã giảm xuống. Lượng độc giả đọc báo trong giới trẻ đặc biệt thấp. Cái gì có thể là mối quan hệ nhân quả đơn giản hơn? Truyền hình rẻ tiền chính là mối quan hệ trong đó nền báo viết trung thực. Điều này thường dẫn cứ như là bằng chứng không phải bàn cãi cho những hiểm họa của truyền hình. Nhưng trong một so sánh 20 nước phương Tây (và Nhật Bản) từ năm 1964 đến năm 1984, Leo Bogart không tìm thấy mối quan hệ tổng thể giữa sự phát triển của truyền hình và sự thâm nhập của báo chí. Trong khi số tivi màu trên đầu người và tổng thời gian dành để xem truyền hình đều rất lớn trong các nước phương Tây thì lượng báo chí lưu hành trên 1000 người dân lại thay đổi mạnh từ Nhật Bản (562 báo trên 1000 người) sang Thụy Điển (521 báo), Anh (414 báo), Mỹ (268 báo), Canada (220 báo) và Italy (96 báo). Trong thời gian này, khi sự tham nhập của truyền hình tăng lên ở khắp mọi nơi thì lượng báo chí lưu hành tính theo đầu người cũng tăng ở Nhật Bản và Thụy Điển, giảm nhẹ ở Canada (1%), Italy (5%), và giảm mạnh ở Mỹ (16%) và Anh (21%). Truyền hình hiển nhiên có vai trò sống còn đối với tin tức ở Mỹ ngày nay, mặc dù tính trọng yếu của nó có thể (và thường xuyên) được thổi phồng quá đáng. Các nhà báo Mỹ đánh giá thấp lượng thời gian mọi người dành cho đọc báo nhưng lại đánh giá quá cao thời gian mọi người dành để xem tin tức truyền hình. Họ hiểu nhầm rằng càng làm cho báo in giống hơn với truyền hình, với các mục tin ngắn hơn và nhiều câu chuyện hơn, thì càng thu hút được nhiều độc giả. Trên thực tế, trong những năm gần đây, những tờ báo có lượng lưu hành lớn cũng không thể hiện sự khác biệt đáng kể nào về mặt nội dung so với những tờ báo có lượng lưu hành thấp. Công tác phát hành, chứ không phải nội dung, chính là nguyên nhân suy giảm lượng độc giả. Điều này có nghĩa là sự suy giảm chủ yếu trong lưu hành báo ở các khu đô thị lớn nằm ở lượng bán lẻ từng tờ chứ không phải ở số lượng giao tận nhà, và vấn đề ở đây dường như không phải là mọi người cảm thấy thỏa mãn hơn với truyền hình mà ở chỗ việc ngoại ô hóa đời sống Mỹ, sự suy tàn của các khu vực lân cận đô thị và tình trạng thất nghiệp, y tế kém, giáo dục thấp và tâm lý chán nản của người nghèo đô thị đã khiến cho việc tham gia vào một cộng đồng thông qua báo chí trở nên bất hợp lý. Mặt khác của vấn đề này, như Ben Bagdikian đã nghiên cứu, cũng rất quan trọng: tính kinh tế của sản xuất báo đã dẫn đến những tờ báo cạnh tranh trong một thành phố tranh giành cùng một lượng độc giả thượng lưu để thu hút cùng một lượng các nhà quảng cáo. Quá trình này, vốn tạo ra ngày càng nhiều thành phố báo chí độc quyền, làm cho nội dung tin tức ngày một kém phù hợp đối với những người lao động chân tay, những người đã từng là khách hàng mua báo tin cậy.

Truyền hình là phương tiện truyền thông quan trọng hàng đầu trong nền văn hóa Mỹ, nhưng bản thân nó không phải là lời giải thích cho môi trường thông tin đang đổi thay của người dân Mỹ.

Các phương tiện thông tin đại chúng đang dịch chuyển sang tả hay hữu?

Một câu chuyện khác vốn là diễn biến chủ yếu trong các phương tiện thông tin đại chúng chính là sự chuyển biến mạnh mẽ nội dung tin tức sang phía hữu khuynh (một lý thuyết tả khuynh được ưa chuộng), hay các phương tiện truyền thông quốc gia đã bị nắm giữ bởi một tập đoàn được trả lương hậu hĩnh, sung túc, mang tính cách phương Đông, thuộc nhóm các trường đại học danh tiếng và gồm các nhà báo tự do (một lý thuyết hiển nhiên được ưa chuộng ở phía hữu khuynh).

Năm 1969, một nhà kinh tế học làm việc tại Cục dự trữ liên bang tên là Reed Irvine đã sáng lập tổ chức mang tên Độ chính xác trong truyền thông (Accuracy in Media – AIM), một tổ chức với nhiệm vụ chỉ ra mọi định kiến thực tế, suy đoán và nghiêng về cánh tả trong cái mà Irvine gọi là “Truyền thông lớn” (Big Media), nghĩa là các mạng lưới, một số ít tờ báo với ảnh hưởng quốc gia, các tạp chí mới và các dịch vụ truyền hình. Đến năm 1990, AIM có hơn 25000 thành viên, ngân sách hàng năm đạt 1,5 triệu USD, một văn phòng phát ngôn, một bản tin với lượng lưu hành hơn 30.000 bản, một chương trình phát thanh 3 phút hàng ngày được phát trên 200 đài trên toàn quốc và một cột báo tuần trên khoảng 100 tờ báo. Đã có rất nhiều bài phê bình khác của cánh hữu trên các phương tiện truyền thông khi AIM xuất hiện. Chẳng hạn, Robert và Linda Lichter, những học giả truyền thông bảo thủ, đã sáng lập Trung tâm truyền thông và các vấn đề xã hội (Center for Media and Public Affairs) năm 1986 với nhiệm vụ điều tra hoạt động truyền thông và phân tích ảnh hưởng của truyền thông đối với công luận. Năm 1986, Tổ chức về đưa tin công bằng và chính xác (Fairness and Accuracy in Reporting – FAIR), một đối trọng cánh tả của AIM, được thành lập.

Mặc dù các tổ chức cánh hữu có dao động trước quan điểm của truyền thông cánh tả nhưng sự tồn tại vững chắc của chúng cùng với xu thế chung thiên về cánh hữu trong tư tưởng chính trị của tầng lớp tinh hoa trong những năm 1980 đã đẩy nhanh ý tưởng chuyển sang cánh hữu của báo giới. FAIRR đã chuyển sang chương trình danh sách khách mời “Nightline” cho giai đoạn 1985 – 1988 và tìm ra một lượng lớn các quan chức chính phủ mà phần lớn là đàn ông và người da trắng. Như vậy ở đây cái gì là mới? FAIR cũng nghiên cứu sự phát triển mạnh mẽ của các chương trình đối thoại chính trị do những người bảo thủ đạo diễn – chương trình “Firing Line” của William Buckley là chương trình đầu tiên, tiếp theo là các chương trình của John McLaughlin, Patrick Buchanan, Rowland Evans và Robert Novak. Không có chương trình nào trong thời gian nghiên cứu của FAIR do một người tự do đạo diễn.

Nếu truyền thông có sự dịch chuyển sang cánh hữu trong những năm 1980 thì cũng có sự ngạc nhiên trong giới kinh doanh trong những năm 1970 chung quanh thực tế là dường như truyền thông có xu hướng chống lại giới kinh doanh. Hãng Mobil bắt đầu các chương trình quảng cáo trong những năm 1970 trên tờ New York Times [và các thuật ngữ mới là quảng cáo ủng hộ (advocacy advertising) và tin tức mang tính quảng cáo (advertorial) được đưa ra]. Năm 1975, các công ty tốn 100 triệu USD cho quảng cáo ủng hộ, hoàn toàn nhằm mục đích là một phần ba tổng chi phí quảng cáo của họ hướng đến “các công dân” hơn là “người tiêu dùng”. Các tập đoàn kinh doanh bắt đầu tìm mọi cách tác động đến truyền thông tin tức bằng cách đặt ra những giải thưởng cho báo cáo kinh tế, xây dựng các chương trình đào tạo cho báo cáo kinh doanh ở trường đại học, tài trợ các chương trình văn hóa nghệ thuật trên truyền hình, tạo ra thêm hoặc ủng hộ các nhà tư tưởng tân bảo thủ và duy trì các cuộc đàm phán với các nhà báo, và kêu ca ầm ĩ rằng họ bị báo chí “tự do” bôi nhọ.

Có lẽ mong muốn tác động đến truyền thông này đã phần nào làm mất đi sự kiểm soát trực tiếp lên các phương tiện truyền thông, đáng kể nhất là truyền hình. Trong những năm 1950, các nhà tài trợ chương trình truyền hình có ảnh hưởng quan trọng lên nội dung chương trình, đến mức được xét duyệt nội dung trước khi phát. Nhưng sau vụ bê bối chương trình đối vui năm 1959 (khi người ta phát hiện ra rằng các chương trình đố vui đã được “sắp đặt trước”), thì các mạng lưới tự đặt ra sự kiểm soát chặt chẽ hơn. Hơn nữa, do thời lượng quảng cáo ngày càng tăng nên chi phí và sự cạnh tranh trên truyền hình cũng tăng lên, loại chương trình với duy nhất một nhà tài trợ đã biến mất trên màn ảnh. Giữa năm 1967 và 1981, số các chương trình quảng cáo thương mại trên mạng hàng tuần tăng từ 1856 lên 4079, trong khi số các đoạn quảng cáo thương mại giảm từ 60 giây xuống 30 giây. Rõ ràng là gần đây hãng General Motors, và một số hãng khác, đã yêu cầu phải có điều gì mới mẻ cho biệt ngữ quảng cáo – “vỏ bọc che chở” (pod protection). Đó là GM muốn trở thành hãng quảng cáo ô tô duy nhất trong một tập đoàn quảng cáo thương mại được phát sóng liên tục trong một đoạn thời lượng quảng cáo chen vào một chương trình nào đó.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.

Văn hóa tin tức quốc gia và công dân có thông tin – Phần IV


Nhờ các đạo luật cải cách vận động tranh cử đầu những năm 1970 mà các đảng có được những hình thức mới cho việc huy động tiền cho vận động, nhất là quảng cáo trực tiếp bằng thư. Với danh sách gửi thư được vi tính hóa và định hướng tinh vi vào các địa điểm mã vùng điện thoại có khả năng lớn nhất cung cấp tên của những người quyên góp giàu có, các chuyên gia gửi thư trực tiếp đã làm đổi thay việc huy động tiền vì mục đích chính trị. Một thượng nghị sĩ có 150.000 cái tên trong danh sách được vi tính hóa của mình, chia thành 1000 hạng mục theo các khía cạnh mối quan tâm, lĩnh vực hoạt động hay nghề nghiệp (117 cái tên xuất hiện trên danh sách những người quan tâm đến các vấn đề của phụ nữ, 8 cái tên trên danh sách những người quan tâm đến phụ nữ trong ngành khai thác mỏ). Những danh sách này được sử dụng vào việc huy động tiền và tự quảng cáo bản thân sao cho thông tin cần gửi được gửi đến đúng người.

Trong khi ảnh hưởng bất cân đối của truyền thông và tính đại chúng đương nhiên nằm trong tay những quyền lực vững chắc, thì truyền thông du kích (guerilla media) vẫn được nhiều người tài tình sử dụng. Chương trình “Ngày Trái đất” đầu tiên (năm 1970), một chương trình của Thượng nghị sĩ Gaylord Nelson thuộc bang Wisconsin nhằm thu hút sự chú ý, đặc biệt là thông qua các cuộc hội thảo ở trường đại học (một sáng kiến của phong trào chống chiến tranh), đối với các vấn đề môi trường, là một “sự chắp vá các luận chứng và hoạt động cộng đồng” mặc dù sự chắp vá này thu hút được rất nhiều sự chú ý của truyền thông và sự quan tâm của công chúng. Kế hoạch cho Ngày Trái đất năm 1990 được hai nhóm triển khai, một nhóm với 38 nhân viên, và nhận được hậu thuẫn từ người lao động, các doanh nghiệp và các phương tiện truyền thông. Ngay từ những tuần trước Ngày Trái đất năm 1990, tờ Los Angeles Times đã đăng tải không chỉ về Ngày Trái đất mà còn về việc đưa tin sự kiện này như thế nào. Như trong chiến dịch bầu cử năm 1988, các phương tiện truyền thông bị cuốn vào câu chuyện về tin tức truyền thông với mức độ không kém gì các câu chuyện mà truyền thông đang đăng tải. Nền văn hóa tin tức có xu hướng tự tiêu thụ những sản phẩm của chính mình.

Việc tin tức hóa văn hóa đại chúng

Một hệ quả quan trọng của việc quốc gia hóa tin tức là việc quốc gia hóa các vấn đề công cộng và quốc gia hóa một lượng độc giả cho những vấn đề đó. Hầu hết các nhà nghiên cứu truyền thông đều phàn nàn rằng những định chế tin tức nghiêm túc biến tin tức thành giải trí, nhưng có chiều hướng lớn hơn trong viêc giải trí đã biến thành tin tức. Nếu chương trình “60 phút”minh chứng cho một chiều hướng làm cho tin tức mang tính giải trí, thì chương trình “Donahue” lại là mô hình tạo ra sự giải trí nuôi dưỡng tin tức.

“Donahue” lần đầu tiên được phát ở dạng syndicate ngoài Chicago năm 1979; Chương trình “Oprah Winfrey Show” được phát năm 1984, và trong vòng ít năm qua một vài đối thủ cạnh tranh khác đã nhảy vào cuộc. Những chương trình này đôi khi là những chương trình nhỏ lẻ được phát sóng truyền hình, thể hiện tinh thần nước Mỹ trước chúng ta với sự tự giác bản thân một cách thái quá và đồng bóng. Đồng thời, rẻ hơn tâm lý liệu pháp và luôn sẵn sàng có mặt hơn so với một người bạn thân, những chương trình này thông tin cho mọi người về một phạm vi rộng lớn các vấn đề xã hội, tâm lý, sức khỏe và đôi khi là chính trị (ít nhất là chương trình “Donahue”). Những người sản xuất chương trình “Donahue” nhận thức về chủ đề của họ như là “những vấn đề nghiêm túc”, hay chính xác hơn, “những vấn đề nghiêm túc mà có trong tin tức”. Văn hóa tin tức trở thành kho lưu trữ trọng yếu cho các cuộc đối thoại quốc gia khác nhau trong xã hội Mỹ.

Truyền hình không những không xấu hổ, mà thậm chí thực tế còn lấy làm tự hào, khi phát những chính kịch, hài kịch và những câu chuyện tình ái rẻ tiền, vốn vay mượn những tranh cãi đương thời làm cốt truyện. Điều này không giống các chương trình “gián điệp” đầu những năm 1960 phản ánh lý tưởng chung của cuộc Chiến tranh Lạnh; đây là những chương trình mà người sản xuất thường nghiên cứu cẩn thận để hình tượng hóa một tình tiết cố truyện sau một sự kiện tin tức vừa mới xảy ra hay một tiểu phẩm hài kịch tình huống để bắt chước những luận điệu đang thịnh hành quanh một vấn đề xã hội hiện có. Điều này bắt đầu với chương trình “Tất cả trong gia đình” (All in the Family) năm 1971. Trải qua một quá trình chỉ vài tháng mà những vở hài kịch tình huống sđã đề cập tình dục đồng giới, sống như vợ chồng, nòi giống và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, quyền của phụ nữ và nạo thai. Vào cuối giai đoạn 1971 – 1972, đây là chương trình hàng đầu trên truyền hình và nhà sản xuất Norman Lear đã phát triển đủ mạnh để giữ lại sự độc lập từ các nhà kiểm duyệt mạng lưới. Khi một nhóm người với tên gọi Viện Dân số, một tổ chức vận động hành  lang cho việc nâng cao sự kiểm soát dân số, tổ chức hội nghị năm 1971 với các nhà điều hành truyền hình để khuyến khích họ giải quyết các vấn đề dân số, cá nhân Lear đã trở nên quan tâm đến việc tạo ra một trường đoạn có thể giải quyết vấn đề này. Đoạn “Maude đã nạo thai” trong phim “Maude” (một sản phẩm phụ của chương trình “Tất cả trong gia đình”) năm tiếp theo đã gây rất nhiều tranh cãi. “M.A.S.H” đề cập về cuộc chiến ở Việt Nam (thay cho Triều Tiên), và loạt phim “có vấn đề” được sản xuất cho truyền hình đề cập những vấn đề từ lạm dụng trẻ em đến ô nhiễm hóa chất trong môi trường và vợ giết chồng ngược đãi. “Lou Grant”, một vở kịch nổi tiếng trong những năm 1970 và đầu những năm 1980, được dựng cảnh trong một phòng tin tức ở đô thị và nó trực tiếp vay mượn ý tưởng từ những sự kiện tin tức vừa xảy ra. Tạp chí Mother Jones trở nên nổi tiếng trong việc cho độc giả biết rằng vào ngày 19 tháng Giêng 1981, vở “Lou Grant”, đề cập việc Mỹ bán phá giá các sản phẩm nguy hiểm cho Thế giới thứ ba, được xuất phát từ một số phát hành đặc biệt năm 1979 trên tạp chí, sau đó sử dụng màn ảnh truyền hình để hợp pháp hóa tính báo chí của nó. Năm 1989, sau khi một ban bồi thẩm đưa ra phán quyết có lợi cho các bị cáo trong một vụ dùng sai thuốc ở Florida, luật sư cảu bên nguyên đã yêu cầu xử lại vì, theo ông ta, một đoạn trong phim “Luật pháp Los Angeles” mới được trình chiếu trong đó các bác sĩ thắng trong một vụ kiện dùng sai thuốc đã trở thành “lời tuyên truyền” có thể tác động tới ban bồi thẩm này.

Sự tin tức hóa văn hóa đại chúng này chắc chắn xuất phát từ tính đạo đức chủ nghĩa đã có từ lâu đời, đó là ngờ vực đối với giải trí trừ phi nó mang tính chỉ dẫn. Những sự rò rỉ tin tức trong hài kịch và chính kịch trong những thập kỷ qua cũng bắt nguồn từ lý tưởng mang tính đương thời hơn. Từ những năm 1960 đến nay, các nhà phê bình văn hóa đại chúng đã lập luận một cách thuyết phục rằng giải trí là một hình thức chỉ dẫn, dù nó có nghĩa như vậy hay không. Trước đây đã từng có sự phê phán rằng việc các phương tiện truyền thông miêu tả tội phạm và bạo lực lại khuyến khích tội phạm và bạo lực, và sự phê phán này được thay đổi trong những năm 1960 với truyền hình là đích ngắm. Sẽ là mới mẻ hơn và thách thức hơn khi phàn nàn rằng tình trạng lệ thuộc của phụ nữ và dân tộc thiểu số trong xã hội đương thời được khuyến khích bằng sự rập khuôn của các phương tiện truyền thông. Sự phê bình này được Chương trình hành động vì truyền hình cho trẻ em chuyển hướng một cách hiệu quả sang chính trị bằng các cuộc công kích không ngừng vào việc xây dựng chương trình truyền hình dành cho trẻ em và đã nhận được sự hỗ trợ của Quỹ Ford cho Hội thảo truyền hình cho trẻ em và chương trình “Seasame Street”. Chương trình “Seasame Street” có quan điểm e dè một cách đáng buồn đối với sự rập khuôn về giới tính và chủng tộc và, theo các nhà phê bình, nó không đạt được thái độ tự giác cần thiết khi nó phải phục tùng trước những bước đi quá nhanh và những tia hy vọng của phát thanh truyền hình thương mại. Nhưng nó mang lại cho các bậc cha mẹ một nơi ẩn náu truyền hình an toàn để tránh khỏi những quảng cáo và chương trình bạo lực, tình dục, phân biệt chủng tộc bắt nguồn từ các đài thương mại.

Những ảnh hưởng văn hóa, chứ không phải chính trị, của việc tin tức hóa có thể còn quan trọng hơn. Chúng ta sống với hiểu biết sâu sắc và mạnh mẽ về các sự kiện chung quanh hơn bao giờ hết. Chúng ta sống cuộc sống “thực” của chính mình, ở nhà, nơi làm việc của chúng ta và trên đường phố của chúng ta. Nhưng đồng thời chúng ta cũng sống bên cạnh những siêu thực trên màn ảnh truyền hình, trên sóng phát thanh và trên báo của chúng ta. Cuộc sống đương đại trở thành một loại khoa học viễn tưởng, hai thế giới song song luôn đi cạnh nhau, không nối kết thường xuyên, chỉ đôi khi, và sau đó có lẽ tiếp xúc với nhau đầy mâu thuẫn.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.

Văn hóa tin tức quốc gia và công dân có thông tin – Phần III


Những tờ báo lớn nhất và phát triển nhất cố gắng hết sức đưa ảnh hưởng khu vực vượt ra khỏi những giới hạn thành phố. Los Angeles Times thách thức tờ Orange County Register ở chính Quận Cam. Tại Santa Cruz, California, nhật báo địa phương, tờ Sentinel (do Ottaway Newspapers, một công ty thuộc tập đoàn Dow-Jones, sở hữu), chỉ là một trong số ít các tờ báo có dịch vụ giao tận nhà: ngoài ra còn có New Yor Times, San Francisco Chronicle, San Jose Mercury-News (một tờ báo của Knight-Ridder) và Wall Street Journal.

Tất cả những điều này cần được nhấn mạnh khi tờ báo mang tính quốc gia rõ ràng nhất lại là tờ USA Today lòe loẹt và bị chê bai khắp mọi nơi. Bắt đầu vào năm 1982, đến năm 1987 nó đã lưu hành được hơn 1,5 triệu bản. Được in ấn tại 32 địa điểm khác nhau và khuôn mẫu xuất bản được thực hiện qua đường truyền vệ tinh, tờ báo này là một thành tựu công nghệ chiếm thị phần to lớn. Một số câu hỏi được đặt ra cho thành tựu về mặt báo chí của tờ báo này, mặc dù ít ai bàn cãi về ảnh hưởng của nó đối với hình thức và phong cách của những tờ báo khác trong nước. Chẳng hạn, tờ báo này bắt đầu sử dụng rất nhiều màu sắc. Việc tập trung vào dự báo thời tiết gần như bệnh hoạn của nó đã khuyến khích báo cáo thời tiết toàn diện hơn ở các tờ báo khác.

Trong khi ngày nay một công dân bình thường có thể tiếp cận nhiều nguồn tin tức quốc gia hơn, chính xác hơn, mang tính phê bình hơn và phong phú hơn thế hệ trước, thì điều nghịch lý là việc kiểm soát tin tức lại nằm trong tay của ngày một ít các định chế do ngày càng nhiều kế toán viên điều hành. Báo chí tập đoàn không mang nặng tính bảo thủ chính trị mà thiên về mục đích chống rủi ro kinh tế, dù kết quả hai mục đích đều như như nhau. (Năm 1986 có 1657 nhật báo, giảm một chút từ con số 1763 năm 1960 – và số thành phố có nhật báo tăng mạnh. Nhưng chỉ tính riêng 14 công ty đã chiếm hơn một nửa lượng nhật báo lưu hành). Mặc dù chất lượng về mặt báo chí thường là tăng lên hơn là giảm đi ở những cộng đồng mà các tớ báo độc lập bị các tập đoàn mua đứt, nhưng cơ hội thể hiện bài viết/quan điểm riêng cho một chủ báo có đầu óc độc lập hay một cá nhân lập dị lại ngày càng ít đi. Có sự quan ngại hợp lý rằng sở hữu tập đoàn tất yếu sẽ loại trừ sự đa dạng hóa. Trang phản biện (op-ed page), một bước tiến trởo thành chuẩn mực trong những năm 1970 để nâng cao tính đang dạng của các ý kiến, dường như ngày càng giống nhau giữa các tờ báo. Trong các định chế tin tức hàng đầu, việc dựa vào những nguồn chính thức từ chính phủ ngày một phổ biến, tình trạng thiếu vắng các nhà phê bình hay bình luận của cánh tả vẫn tiếp tục tồn tại, và dù là một tờ báo miền Trung Tây, miền Nam hay miền Tây, thì định hướng hành lang bên trong vùng Đông Bắc là thứ rất khó bỏ qua.

Văn hóa tin tức quốc gia

Song song với việc quốc gia hóa các định chế tin tức là việc quốc gia hóa văn hóa trong phòng tin tức. Các nhà quản lý những chương trình tin tức nhỏ trên báo hay truyền hình khắp đất nước hơn bao giờ hết nhận thức được điều gì đang diễn ra trên các mạng lưới, trong tờ USA Today, trong tờ New York Times. Nhân viên của họ cũng vậy. Kết quả là người da đen và phụ nữ, và trong một số trường hợp là các cộng đồng thiểu số khác (chẳng hạn người gốc Mexico ở Los Angeles), có thể gây sức ép lên các định chế của họ, buộc chúng phải đối xử công bằng hơn trong phòng tin tức và được thể hiện hợp lý hơn trên các trang tin tức đối với các nhóm mà họ thuộc về. Có thể là khó tìm lại những thay đổi như vậy trong thời gian gần đây. Trước những năm 1960, các nhà báo nữ viết về thời trang và xã hội – và hiếm khi viết những thứ khác. Câu lạc bộ báo chí quốc gia chỉ chấp nhận phụ nữ trong năm 1971. Năm 1966, trưởng văn phòng Chicago của Newsweek có thể loại bỏ công việc của một phóng viên nữ từ UPI với giải thích rằng: “Tôi cần một người mà tôi có thể phái đi bất cứ nơi nào, kể cả tới những vụ bạo loạn. Và ngoài ra, cô sẽ làm gì nếu đội tượng mà cô đang viết lại lẩn ngay vào phòng vệ sinh?” Ngày nay vẫn chưa thể vứt bỏ suy nghĩ này.

Tuy nhiên, sự đa dạng hóa phòng tin tức lại có thể có mức độ không lớn như bề ngoài của nó. Trong tin tức truyền hình, phụ nữ và các nhóm người thiểu số thường xuất hiện trong các chương trình cuối tuần, mà trong nghề gọi là “mớ lụp xụp cuối tuần” (weekend ghetto). Mặc dù Max Robinson và Barbara Walters nằmt rong số những người đồng dẫn chương trình tại trường quay của ABC giữa những năm 1970, nhưng không một phụ nữ hay nhóm người thiểu số nào khác thường xuyên được bổ nhiệm là người dẫn chương trình trên một chương trình thời sự buổi tối của lưới truyền hình cho đến khi có Connie Chung năm 1993. Vậy mà có bằng chứng giai thoại chỉ ra rằng phụ nữ (và trong chừng mực nhỏ hơn là nhóm người thiểu số) trong phòng tin tức đã tạo nên sự khác biệt thực sự trong việc quyết định tin gì được đưa và nên nhấn mạnh vào cái gì. Các nhân viên nữ ở tờ Los Angeles Times đã trở thành những nhà báo xung kích trong một serie phóng sự 10 kỳ về lao động nữ năm 1984; một cây bút nữ đã viết xã hội ở Seattle Times khẳng định rằng hầu hết các bài xã luận về những chủ đề liên quan đến trẻ em đều được thực hiện “vì tôi ở đây”.

Những tờ báo ở các định chế tin tức quốc gia được đào tạo tốt hơn bao giờ hết, thường xuất phát từ những nền tảng giáo dục được ưu tiên hơn so với trước đây và được trả lương tương đối ưu đãi hơn. Họ ngày càng chịu ảnh hưởng về quan điểm từ những nhà báo khác, chứ không chỉ từ chủ bút hay chủ báo của họ. Họ có thể chia sẻ cái mà Herb Gans gọi là quan điểm “Cấp tiến” – một niềm tin vào hệ thống hai đảng, chủ nghĩa tư bản có trách nhiệm, những điều tốt đẹp của cuộc sống tỉnh lẻ, chủ nghĩa cá nhân, các biện pháp dung hòa trong mọi hoàn cảnh và một vài khái niệm mơ hồ về lợi ích công cộng. Độ vững chắc của những giá trị này ngày càng tăng khi có ngày càng nhiều tin tức được đưa ra từ một địa điểm duy nhất – Washington, D.C. Tại Washington có nhiều cái gọi là diễn đàn chính trị cho văn hóa viết báo hơn bao giờ hết. Năm 1961 có khoảng 1500 nhà báo làm việc ở Washington – nhưng đến năm 1987 con số này đã là hơn 5300. Các nhà báo có thể đối thoại với nhau và hiển nhiên đã làm như vậy.

Đây không phải để nói rằng giờ đây chúng ta đã có một nền văn hóa viết báo quốc gia không chắp vá và gắn kết chặt chẽ. Chẳng hạn, hãy thử nhìn vào sự phát triển của truyền thông băng tiếng Tây Ban Nha. Năm 1974, có 55 trạm phát thanh bằng tiếng Tây Ban Nha; ngày nay là hơn 200. Năm 1970, chỉ có một vài trạm truyền hình phát các chương trình bằng tiếng Tây Ban Nha. Ngày nay, Univision, mạng lưới truyền hình bằng tiếng Tây Ban Nha lớn nhất, nắm giữ hơn 600 công ty con về phát thanh và truyền hình cáp trong khi con số này của Telemundo là hơn 500. HIện nay có hàng trăm tờ báo bằng tiếng Tây Ban Nha, với hơn 80 tờ tập trung tại “10 thành phố có tỷ lệ người gốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cao nhất”: Los Angeles, New York, San Francisco, Houston, Dallas, San Diego, Brownsville-McAllen, San Atonio, Miami và Chicago.

Sự đa dạng về chủng tộc và ngôn ngữ thể hiện khá rõ trong truyền thông ở Mỹ, cả in ấn lẫn phát sóng. Các phương tiện truyền thông phát triển rực rỡ cũng đã thu hút các nhóm tôn giáo khác nhau, rõ ràng nhất là sự gia tăng các “nhà truyền đạo trên phát thanh truyền hình” (televangelists). Những khả năng về công nghệ tạo nên một nền văn hóa tin tức quốc gia nổi trội cũng là nhân tố then chốt cho quyền lực lớn mạnh của “những cộng đồng tiêu dùng” mang tính chất tôn giáo nhiều hơn nhưng dựa trên nền tảng quốc gia. Việc quốc gia hóa các phương tiện truyền thông không có nghĩa là đồng nhất hóa kinh nghiệm truyền thông mà là tạo ra một tập hợp các diễn đàn quốc gia mới cho hàng loạt thị hiếu dưới cấp độ văn hóa khác nhau. Chẳng hạn, một phần nhờ máy tính và chế bản văn phòng mà có khoảng 100.000 bản tin (ước tính) ở trong nước được lưu hành miễn phí hoặc chỉ là một phần trong hoạt động của các tổ chức, hiệp hội hay doanh nghiệp. Thậm chí có cả một ngành công nghiệp bản tin với các hiệp hội công đoàn của riêng nó; Cuốn Các bản tin in ấn (Newsletters in Print) có liệt kê hơn 10.000 loại bản tin. Chủ nghĩa đa nguyên không phải là không có vấn đề. Những trường hợp như Klu Klux Klan sử dụng việc dễ dàng truy cập bản tin trên máy tính hay những kẻ truyền giáo vô đạo đức trên các chương trình cáp của riêng họ làm nảy sinh những vấn đề khó khăn. Các phương tiện truyền thông quốc gia mới làm tăng khả năng xảy ra chủ nghĩa đa nguyên hơn là nó nhấn mạnh vào việc đồng nhất hóa.

Trong thế giới thông tin, người nghèo trở nên giào có nhưng người còn giàu có nhanh hơn (giả thuyết “chênh lệch kiến thức”, như các nhà nghiên cứu truyền thông gọi). Người giàu có nhiều thông tin hơn và có nhiều động lực hơn trong việc thu thập và sử dụng hiệu quả thông tin. Chẳng hạn, lấy ví dụ của nhóm nghiên cứu đối lập năm 1984 của Ủy ban quốc gia Đảng Cộng hòa. Nhóm này bắt đầu thu thập dữ liệu và trích dẫn về các đối thủ đảng Dân chủ hàng đầu ngay từ những cuộc bầu cử sơ bộ. Vào thời điểm mà đại hội Đảng Dân chủ khai mạc thì máy tính của phe Cộng hòa đã có 75.000 mục thông tin về Walter Mondale, gồm 45.000 trích dẫn trong suốt sự nghiệp của ông ta. Cơ sở dữ liệu được cập nhật hàng ngày trong suốt thời gian vận động tranh cử. Có thể truy cập dữ liệu qua một từ điển tham khảo, và máy tínhđược kết nối với 50 văn phòng đảng bộ ban, 50 trụ sở vận động tranh cử ở các bang và những người phát ngôn của Đảng Cộng hòa ở tất cả 208 thị trường xếp hạng trên phát thanh truyền hình (broadcast rating markets). Điều này thật ấn tượng. Nhưng ấn tượng hơn là các hệ thống tương tự được lắp đặt sẵn sàng cho tất cả ứng cử viên Đảng Cộng hòa chạy đua vào Hạ viện năm 1986 thông qua Mạng lưới thông tin của Đảng Cộng hòa (Republican Information Network). Nếu một ứng cử viên đang vận động chống lại một người đương nhiệm thuộc Đảng Dân chủ thì anh ta ngay lập tức có thể tìm hiểu được hồ sơ bỏ phiếu của người đương nhiệm đó ngược trở về năm 1974 về bất cứ vấn đề gì. Giờ đây, việc này không làm thay đổi kết quả bầu cử năm 1984; những người Cộng hòa vẫn chỉ là một bộ phận thiểu số trong Hạ viện, thậm chí cả sau năm 1986. Nhưng nó mang lại cảm giác về mức độ tinh vi của những công nghệ thông tin mới trong các vấn đề liên quan chặt chẽ đến trọng tâm của tiến trình dân chủ.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.

Văn hóa tin tức quốc gia và công dân có thông tin – Phần II


Quốc gia hóa các phương tiện thông tin đại chúng, 1960 – 1990

“Quốc gia hóa” không phải lúc nào cũng diễn ra cùng một lúc. Trên thực tế, Godfrey Hodgson đã lập luận rằng việc “quốc gia hóa nhận thức của người dân Mỹ” là chiều hướng đầu tiên của truyền thông trong những năm 1950 và đầu những năm 1960. Nhưng trong năm 1960 và kể cả năm 1963, cơ chế quốc gia hóa chỉ diễn ra một phần, những hậu quả chính trị và xã hội của việc quốc gia hóa văn hóa vẫn chỉ dừng ở bên lề của sự hiểu biết, và cảm giác là người dân biết rất nhiều về những thứ mà họ hầu như không thể tác động vẫn chưa được trải nghiệm.

Một hệ thống tin tức truyền hình quốc gia, xuất hiện trong những năm 1950, đã chứng tỏ được tầm quan trọng mới trong những năm 1960 và sau đó. Dạng chương trình dài 30 phút (thay vì 15 phút) đã trở thành dạng chuẩn trong năm 1963. Cũng trong năm này, cuộc thăm dò ý kiến Roper lần đầu tiên đã phát hiện ra rằng có nhiều người dân Mỹ đòi hỏi truyền hình chứ không phải báo chí phải là nguồn thông tin cơ bản cho họ. Ba hệ thống chương trình điểm tin tối được cộng thêm chương trình “60 Phút” (năm 1968) và các chương trình bắt chước theo như chương trình “20/20” (năm 1978) và các chương trình khác. Hãng tin ABC bắt đầu chương trình điểm tin đêm năm 1979 với tên gọi “Con tin Mỹ bị cầm giữ” (American Held Hostage), cập nhật hàng ngày tin tức về cuộc khủng hoảng bắt cóc con tin ở Iran. Năm 1980, chương trình này được đổi tên thành “Tín điện đêm” (Nightline) và nó trở thành một thực đơn không thể thiếu trong chương trình tin tức phát thanh.

Chỉ trong những năm 1970 tin tức trên truyền hình mới chiếm một vị trí trọng tâm trong suy nghĩ của bản thân các tập đoàn phát sóng do chương trình “60 phút” trở thành chương trình được đánh giá cao nhất trong nước và các đài tin tức địa phương bắt đầu kiếm được nhiều tiền. Chương trình “60 Phút” làm cho tin tức truyền hình trở nên thú vị và mang lại lợi nhuận. Việc tin tức truyền hình bắt đầu mang lại lợi ích kinh tế này trùng hợp với thời đại chính trị của nó. Kkhi Tổng thống Kennedy bắt đầu chủ trì các cuộc họp báo được truyền hình trực tiếp thì truyền hình, với tư cách là một nguồn tin tức thường xuyên, đã chính thức giành được sự thừa nhận (các chương trình Murrow nói về McCarthy nổi tiếng đầu những năm 1950 là một ngoại lệ; tin tức truyền hình nhìn rất hời hợt, không nhìn thấy và quá ngắn). Không phải đến khi có cuộc Chiến tranh Việt Nam thì các chương trình tin tức trên truyền hình mới chiếm vị trí trung tâm đối với cả giới tinh hoa Washington lẫn đại bộ phận công chúng. Khi đó tin tức buổi tối trở thành trọng tâm mang tính biểu trưng cho chương trình nghị sự quốc gia và ý thức quốc gia. Các nhà vận động chính trị đánh giá thành công của mình bằng thời gian xuất hiện trên bản tin tối cũng chính xác như bằng số phiểu ủng hộ trong các cuộc thăm dò ý kiến; các vị tổng thống – đáng chú ý là Johnson và Nixon – trở nên bị ám ảnh bởi màn ảnh truyền hình.

Trong khoảng thời gian hai thập kỷ khi mà mạng lưới tin tức truyền hình đóng vai trò chủ đạo trong đời sống nước Mỹ thì việc nắm giữa mạng lưới này trở nên một thách thức lớn. Các mạng lưới trong năm 1970 không có sự cạnh tranh; chỉ số 10% số gia đình ở Mỹ có truyền hình cáp. Đến năm 1989 con số này là 53%. Tỷ lệ người xem truyền hình của các mạng lưới giảm dần, đến mức trong năm 1990 các mang lưới này phải thành lập các công ty phụ trách dân vận riêng để cùng nhau chống lại sự cạnh tranh của truyền hình cáp (và các loại truyền hình khác). Trong việc thu thập tint ức trong những năm gần đây, những công nghệ mới đã khéo léo giúp các đài địa phương giành được vị thế trên các mạng lưới. Khả năng của các đài địa phương hàng đầu, được trang bị bằng địa vệ tinh kết hợp với chi phí ngày một tăng cho các chương trình tin tức dạng syndicate,… đã tạo ra một vài consotium nối với vệ tinh của các đài địa phương để phát các sự kiện tin tức quốc gia trên các đài đó. Toàn bộ lượng khán giả của ba chương trình tin tức buổi tối nói trên đã giảm gần 25% kể từ năm 1980.

Năm 1979, ngành công nghiệp truyền hình cáp bắt đầu chương trình C-SPAN như là một động thái để phục vụ công chúng. Lượng khán giả ít ỏi của C-SPAN trong Quốc hội đã tác động đến việc hành xử các công việc công cộng. Hạ viện xuất hiện trên C-SPAN trong Quốc hội đã tác động đến việc hành xử các công việc công cộng. Hạ viện xuất hiện trên C-SPAN ngay từ buổi ban đầu; Thượng viện tiếp theo đó vào năm 1986. Mạng tin tức truyền hình cáp (Cable News Network – CNN) bắt đầu hoạt động từ năm 1980; nó cung cấp tin tức 24/24 giờ và nhanh chóng gây dựng được uy tín về việc đưa tin đầy trách nhiệm. Cũng không được nhắc đến dưới thời Tổng thống Kennedy là tin tức truyền hình trên truyền hình công cộng; cho đến năm 1975. Hệ thống phát thanh truyền hình công cộng đã đem chương trình MacNeil-Lehrer đến với hầu hết các cộng đồng.

Do tin tức truyền hình phát triển nên tin thức trên phát thanh cũng một phần có được uy tín. Năm 1970, những người được cấp phép hoạt động phát thanh vì mục đích phi thương mại và giáo dục đã thành lập Đài phát thanh công cộng quốc gia (National Public Radio – NPR) và một năm sau đó đưa vào hoạt động chương trình tin tức trên mạng đầu tiên của mình mang tên “Mọi thứ đều được xem xét” (All Things Considered). Lượng thính giá của NPR tương đối nhỏ (khoảng 7 triệu người) nhưng rất hết lòng; đối với những người thuộc giới học thuật, nhắc đến một cuộc phỏng vấn trên chương trình “Mọi thứ đều được xem xét” thời gian vừa qua cũng phổ biến như nhắc đến một sự thành công ở Hollywood.

Tin tức đồng nghĩa với tiền bạc trên phát thanh cũng như trên truyền hình. Đã có một số cuộc điều tra thực nghiệm về hình thức mọi tin tức (all-news format) trong những năm 1950 nhưng chỉ đến năm 1964, khi WINS ở New York trở thành trạm phát mọi tin tức (all-news station), thì hiện tượng này mới thu hút được sự chú ý rộng rãi. Năm 1967, WCBS gia nhập để trở thành trạm phát mọi tin tức thứ hai ở New York. Hàng chục thành phố nhanh chóng có trạm phát mọi tin tức. Một nhà quản lý trạm nói: “Khi bạn muốn nước, bạn vặn vòi. Khi bạn muốn tin tức, hãy bật đài của chúng tôi”.

Cũng quan trọng như vậy, “phát thanh đối thoại” được phát trực tiếp và trở nên phổ biến. Năm 1978, chương trình dạnh syndicate trên phạm vi quốc gia của Larry King khởi đầu trên 28 trạm nhưng cuối cùng đã phục vụ hơn 350 trạm. Năm 1985 CNN chấp nhận truyền hình chương trình này và đến năm 1990 chương trình được phát cả đêm trênn cả sóng phát thanh lẫn sóng truyền hình. Trước chương trình của Larry King cũng có những chương trình phỏng vấn nhưng phát minh của ông ta (bắt đầu ở Miami năm 1960) là bổ sung các cuộc điện thoại đặt câu hỏi cho hình thức phỏng vấn. Tin tức, hay “làm chương trình cho thực tế” (reality programming), đã trở thành một thói quen văn hóa rộng rãi.

Trong những năm 1990, nếu tôi muốn có một tờ New York Times hay Wall Street Journal ở quên hương San Diego thì tôi chỉ việc mở cửa trước và nhặt lấy bản giao tận nhà trên đường lái xe vào nhà. Cuối năm 1971, khi Anthony Russo có động lực mạnh mẽ đọc New York Times vì thời báo này đang phát hành Các văn bản Lầu Năm Góc mà ông đã giúp Daniel Ellsberg sao chụp, có thể tìm thấy những tài liệu đó tại rất ít địa điểm ở Los Angels. Vượt ra khỏi quy mô rộng lớn của đất nước, công nghệ truyền thông qua vệ tinh và các hệ thống in ấn được vi tính hóa đã làm cho tờ báo khu vực và quốc gia này trở thành điều trong tầm tay.

Wall Street Journal đã xuất hiện trên khắp đất nước từ lâu nhưng ở thế hệ trước tạp chí này chỉ tăng mạnh lượng ấn bản với danh nghĩa là một tờ báoo tổng hợp chứ không phải là một bản tin kinh doanh độc quyền. Năm 1980, nó phát triển thành hình thức hai phần. Tờ Los Angeles Times, khi Otis Chandler trở thành chủ báo năm 1960, có một văn phòng ở nước ngoài và hai phóng viên ở văn phòng Washington. Đây là một tờ tin tức tỉnh lẻ, bảo thủ mà trong vòng một thập kỷ đã phát triển thành một tờ báo chuyên ngành nổi bật. Điều tương tự cũng xảy ra với tờ Washington Post. Khi Howard Simons (quá cố) gia nhập tờ báo này vào đầu những năm 1960 thì nó mới chỉ có một phóng viên thường trú ở nước ngoài và một phóng viên kinh doanh duy nhất. Theo chủ bút Ben Bradlee, mãi đến khi phát hành Các văn bản Lầu Năm Góc thì tờ báo này mới tạo ra được “một hình thức cam kết cuối cùng nào đó để trở thành tờ báo hạng nhất”.

Một dấu hiệu nữa của việc quốc gia hóa là dịch vụ tin tức của các tờ báo hàng đầu bắt đầu cạnh tranh với các dịch vụ tiêu chuẩn của các hãng tin Associated Press (AP) và United Press Internationa (UPI). Dịch vụ tin tức của Los Angeles TimesWashington Post bắt đầu năm 1961 và đến năm 1980 có được hơn 350 khách hàng. Dịch vụ tin tức của New York Times bắt đầu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất nhưng mãi đến cuối năm 1960 mới có 50 khách hàng; đến năm 1980 có 500 khách hàng. Các dịch vụ tin tức này không phải là những sự thay thế bằng sợi bậc cao cho các dịch vụ hữu tuyến truyền thống mà chỉ là sự bổ sung các chất độn, thêm vào những tin tức chi tiết và có phân tích cho người mua báo địa phương. Do vậy, trong khi các nhật báo đô thị tiếp tục biến mất thì những nguồn tin tức quốc gia mới lại trở nên sẵn có. TimeNewsweek phát triển thành những ấn bản chuyên ngành và các tạp chí khác mang đến những nguồn tin tức xã hội mới, và cả bình luận, trong đó có ấn bản hàng tuần quốc gia của tờ Washington Post (năm 1983) và một vài tạp chí có được thị trường rộng lớn – đáng chú ý là Rolling Stone Mother Jones.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.