Các phương tiện truyền thông và quá trình dân chủ – Phần III


Đây không phải là một cấp tiến cực đoan. Đây là một nhà khoa học chính trị theo dòng chủ lưu, là chủ tịch Hiệp hội khoa học chính trị Mỹ năm 1981. Ông không cỏ vũ cho hệ thống chính trị nào khác nhưng sự lên án của ông về những điều trên gây xúc phạm nhiều người.

Vai trò của truyền thông đại chúng trong tất cả những điều này là cái gì? Lindblom giống như Huntington viết về khả năng điều hành và giống như các nhà lý luận của các đảng phái chính trị, không đặt truyền thông đại chúng vào trung tâm. Ông ít chú ý vào truyền thông hơn và chú giảng rằng vai trò kinh doanh vượt quá cả truyền thông đại chúng. Không phải là không có tiếng xấu đối với việc kinh doanh trên báo chí, không phải là doanh nghiệp không thực sự can dự vào những việc mà đôi khi bị phơi bày trên báo chí, nhưng những tranh cãi xung quanh việc kinh doanh trên các phương tiện truyền thông luôn quan tâm đến các vấn đề thứ hai mà các nhà doanh nghiệp hàng đầu vẫn thường không nhất trí. Mặc dù các tập đoàn và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp lớn không thường xuyên đóng vai chính diện trong các bộ phim của công chúng hay giải trí truyền hình, song các câu hỏi chủ yếu về vai trò của doanh nghiệp tư nhân và sự ủy thác quyền lực của chính phủ đối với doanh nghiệp nằm ngoài lĩnh vực thảo luận chính trị hợp thức.

Vậy những đánh giá khác về nền dân chủ Mỹ – vốn tất cả đều ảm đạm – hiện đặt chúng ta ở đâu? Và về mặt giả thuyết, chúng đặt các phương tiện truyền thông đại chúng có chức năng cải thiện được tiến trình dân chủ ở vị trí nào?

Vai trò của truyền thông

Nếu ai đã từng đọc những nhận xét của Walter Lippmann về phương diện ý kiến công chúng, Gerald Pomper và những người khác nữa về các đảng phái chính trị, Samuel Huntington và những người khác về sự mất khả năng điều hành của các nước dân chủ tự do hiện đại và Charles Lindblom về vai trò không tương xứng của doanh nghiệp trong hệ thống chính trị cầm quyền của Mỹ, không dễ để nắm bắt hết quan niệm tầm thường về nền dân chủ vốn là điểm mấu chốt của lĩnh vực nằm trong và xung quanh báo chí. Các nhà báo và những người giảng dạy báo chí vẫn trung thành với lý tưởng dân chủ cổ điển vốn được phác họa một cách lỏng lẻo. Song bản thân lý tưởng đó không phải là không tốt. Những đánh giá thực tế hơn về nền dân chủ xác định tình thế ảm đạm đến nỗi họ bắt đầu giải quyết trước dựa trên khái niệm về khả năng thay đổi. Họ có lẽ dường như hài lòng với việc làm cho khoa học chính trị, chứ không phải là kinh tế, trở thành một chuyên ngành ảm đạm.

Quả thực, việc báo chí không nắm bắt được lối quan niệm hiện tại trong khoa học chính trị về nền dân chủ lại có một lợi ích nhất định. Nó có lợi cho truyền thông, làm cho truyền thông hoạt động như thể chúng là các công cụ giáo dục phổ biến trong một nền dân chủ hồi sinh và phong phú. Rốt cuộc, bất chấp có môn khoa học chính trị, điều này đôi khi là sự thật. Trong một số bang hay thành phố nào đó, xét đến một số vấn đề hay các chiến dịch nào đó, trong suốt thời gian nhận thức chính trị tăng cao nào đó, đó lại là nơi nền dân chủ đang tồn tại – có một quá trình dẫn tới bình đẳng chính trị, sự tham gia tương đối hiệu quả của một lượng người lớn và thảo luận công cộng linh hoạt hơn và sôi nổi hơn giữa những người tham gia nhằm đạt đến sự hiểu biết thỏa đáng về các vấn đề thảo luận.

Tôi đề xuất rằng các phương tiện truyền thông nên tự ý thức được những cư xử bất thường trong những nỗ lực nhằm thể hiện chức năng chính trị dân chủ. Các phương tiện truyền thông nên ủng hộ nền dân chủ mà khoa học chính trị cho rằng chúng ta không có nhiều cơ hội để vươn tới và đồng thời họ nên đáp lại thực tế giàu tưởng tượng về nền chính trị tạm thời mà các học giả đã quan sát thấy. Tôi sẽ lần lượt đề cập mỗi chiến lược, thảo luận cả phần triết học đại cương mà báo chí đòi hỏi lẫn một vài thay đổi cần phải có trong báo chí.

Hướng tới hình thức dân chủ cổ điển: Cung cấp cho công chúng có lý trí những thông tin có ích hơn

Giả sử công chúng là những người có lý trí, quan tâm đến lĩnh vực công và có quyền tham gia một cách hiệu quả vào các hoạt động chính trị. Học thuyết dân chủ cổ điển giả định rằng điều đó hiển nhiên đúng. Quan niệm cổ điển về báo chí cũng cho điều đó là đúng. Do đó, nhiệm vụ của giới truyền thông là giúp công chúng có được cái mà Robert Dahl gọi là “đầy đủ thông tin” về các vấn đề chính trị. “Nắm bắt đầy đủ thông tin” luôn phải là mục tiêu hàng đầu của truyền thông.

Điều này có hàm ý gì? Khi Dahl sử dụng khái niệm “nắm bắt đầy đủ thông tin” như là một tiêu chí đánh giá nền dân chủ, ông nhấn mạnh rằng, trong một nền dân chủ, người dân phải có đủ sự hiểu biết để “khám phá” những sở thích và ưu tiên của riêng họ. Ông không cho rằng công chúng khi hình thành những sở thích của họ đã không biết rằng sở thích của mình là gì. Do đó giáo dục chính trị không chỉ đơn thuần là nêu ra thực trạng chính trị để công chúng có thể tìm một nhân vật chính trị thích hợp, có sở thích và thị hiếu trùng với sở thích và thị hiếu vốn có của người đó. Đó cũng là nhiệm vụ định hình sở thích chính trị của công chúng của truyền thông.

Điều kỳ lạ là chúng ta quên mất điều này. Chúng ta thường có khuynh hướng cho rằng người giàu sẽ phản đối đánh thuế vào những người có thu nhập cao, người da đen sẽ bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ và những người thuộc tầng lớp trung lưu nghiêng về các chính sách giảm lạm phát hơn là các chính sách giảm tỷ lệ thất nghiệp. Có thể nhiều người, nhưng không phải là tất cả nghĩ như vậy. Các nhà xã hội học và các nhà tư vấn marketing chính trị có thể chỉ và giải thích cho chúng ta những giả định này đúng ở mức độ nào. Chính trị – nghệ thuật xây dựng liên minh, tạo nên các thỏa hiệp, thuyết phục người dân rằng những lợi ích của họ rồi sẽ thay đổi khi họ thắng cử – đã trở thành thứ yếu; những lợi ích này chỉ tồn tại khi các nhà xã hội học và các nhà marketing chính trị không còn quyền lực. Nếu người ta luôn luôn chỉ bỏ phiếu cho những người thuộc cùng đảng phái hay chủng tộc với họ thì chúng ta luôn biết trước kết quả bầu cử. Lúc đó, chính trị sẽ không còn thú vị nữa. Tuy nhiên, chính trị vẫn tồn tại và hấp dẫn bởi vì không thể nào biết trước đượoc sở thích của mọi người, người dân có thể chuyển từ ủng hộ bên này sang ủng hộ bên kia, họ có thể bị thuyết phục (và có thể là bị lừa phỉnh); và họ sẵn sàng tiếp nhận các ảnh hưởng chính trị. Trên thực tế, vấn đề cốt lõi của chính trị không phải là khéo léo nắm bắt những sở thích đã có từ trước, mà là hình thành và lựa chọn những giá trị dựa trên những tiêu chuẩn đạo đức.

Một xã hội dân chủ được hình thành dựa trên chính điều này. Đó là niềm tin được củng cố theo năm tháng bằng kinh nghiệm của bất cứ ai đã từng hơn một lần thành công trong việc thuyết phục người khác thay đổi quyết định, hay bởi chính kinh nghiệm của một người thay đổi ý kiến của mình vì bị ảnh hưởng bởi những nỗ lực chính trị có tính toán của một người khác. Tuy nhiên, niềm tin này cũng có một trở ngại, kẻ thù hùng mạnh – đó là học thuyết quyết định. Học thuyết này khẳng định con người có những sở thích có thể xác định được, họ biết những sở thích đó, do đó họ sẽ bỏ phiếu cho những điều họ thích. Có hai cách để báo chí chống lại quan điểm của học thuyết này.

Thứ nhất, báo chí có thể phủ nhận học thuyết này và mỗi khi đưa ra những thông tin cung cấp cho công chúng và báo chí sẽ làm một số người nhìn nhận vấn đề theo cách khác. Thứ hai, báo chí không ủng hộ mù quáng cho những đồng minh mạnh nhất của học thuyết quyết định. Trong những năm gần đây, một trong những đồng minh đáng tin cậy của học thuyết quyết định là các cuộc thăm dò dư luận. Bản thân việc thăm dò ý kiến không sai trái nhưng người ta luôn vật chất hóa nó khiến cho việc thăm dò ý kiến tạo nên sức ảnh hưởng vượt quá thực tế. Họ cho rằng thăm dò ý kiến có nghĩa là người dân đã có những sở thích từ trước, vì vậy giáo dục chính trị hay khả năng lãnh đạo chính trị không tác động được đối với ý chí của con người. Đương nhiên là điều này hết sức vô nghĩa. Khi Nixon ra lệnh đổ bộ quân vào Campuchia năm 1970, chỉ có 7% dân Mỹ ủng hộ quyết định này. Sau khi tổng thống vẫn tiến hành việc đổ bộ quân, số người ủng hộ tăng lên tới 50%. Như Charles Lindblom đã nói, “ý chí” của công chúng thay đổi “nhanh chóng và dễ dàng theo hành động và lời khuyên của các nhà lãnh đạo”.

Hơn thế nữa, nếu các nhà chính trị hiểu sai về các cuộc thăm dò dư luận, thì công chúng cũng có thể như vậy. Chúng ta phải hình dung là bản thân những người dân bình thường cũng bị ảnh hưởng phần nào bởi kết quả của các cuộc thăm dò dư luận như thể “ý kiến” mà họ nhận được có một mức độ vĩnh cửu nào đó. Một điều mà báo chí có thể làm là thông báo kết quả các cuộc thăm dò dư luận một cách khôn ngoan hơn. Chẳng hạn như báo chí nên cố gắng đặt các cuộc thăm dò dư luận trong bối cảnh lịch sử, không nên chỉ đưa ra kết quả các cuộc thăm dò dư luận gần nhất mà phải so sánh kết quả với những lần trước đó. Và không nên thông báo như cách thông báo chỉ số Down Jones hay tỷ số thể thao. Các cuộc thăm dò đơn thuần không quan trọng và có độ chính xác cao như một bản báo cáo về tình hình thế giới – ngay cả nếu chỉ cho một ngày – cũng như chẳng mang tính chất quyết định hay đáng tin cậy như hướng dẫn hành động. Báo chí nên hết sức thận trọng, không công bố cẩu thả các số liệu thăm dò ý kiến để không làm ảnh hưởng xấu đến việc giáo dục chính trị.

Tuy nhiên, điều này chưa mấy quan trọng. Điều quan trọng ở đây là báo chí còn có thể làm nhiều điều hơn nữa để mở rộng chức năng thông thường: cung cấp thông tin cho mọi người để họ có thể hiểu biết đầy đủ hơn về chính trị, trong đó bao gồm cả các sở thích của họ, và để người dân tham gia một cách hiệu quả vào đời sống chính trị của đất nước. Chẳng hạn, hãy xem xét về những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt của cuộc bầu cử. Báo chí đã làm tốt công cuộc đưa tin về các cuộc bầu cử đến mức nào? Làm thế nào để đưa tin có hiệu quả hơn?

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003

Advertisement

Các phương tiện truyền thông và quá trình dân chủ – Phần II


Hiện đang có một khối lượng tác phẩm văn học lớn viết về sự suy giảm của các đảng phái chính trị Mỹ, được tóm gọn trong tiêu đề cuốn sách của David Broder mang tên Hết thời đảng phái (The Party’s Over). Các đảng phái này đã không thể đưa ra các chính sách và các quan điểm rõ ràng. Các đảng này không thu hút được công chúng. Các công dân không còn thấy muốn quan tâm đến các đảng này. Nếu truyền thông là quyền lực thì giới truyền thông có quá nhiều việc phải làm để lấp chỗ trống khi các đảng phái đang tan rã và cũng có nhiều việc phải làm với sự tự đề cao của báo chí và các mang lưới truyền hình.

Học thuyết dân chủ cổ điển không chú ý nhiều đến các đảng phái; trên thực tế, những người sáng lập các học thuyết này phản đối các đảng phái và có một quan điểm chống đảng phái mạnh mẽ tồn tại trong suốt đầu những năm 1950 của nền cộng hòa Mỹ. Nhưng các nhà quan sát gần đây coi đảng phái là thước đo quyết định “sự tồn tại của bản thân nền dân chủ”. Các đảng đứng giữa những nhà cầm quyền và công chúng, có khả năng phát âm, lập luận các quan điểm của công chúng rõ ràng và nhấn mạnh vào sự thích ứng của các quan chức cầm quyền đối với các quan điểm này. Điểm này được James Gazlay chỉ rõ:

Quần chúng hiếm khi từng thấy hơn một mục tiêu chính trị tại một thời điểm không rõ ràng. Họ giành được sự ủng hộ ngẫu nhiên hoặc lời hứa hẹn ủng hộ, là người ủng hộ những ứng cử viên; và vì dễ dàng hơn nhiều và chắc chắn an toàn hơn trong một vài trường hợp khi ủng hộ một người hơn là ủng hộ những nguyên tắc của người đó, và vì việc này giúp tránh rắc rối khi có nhiều quan điểm, nên người dân có xu hướng ủng hộ nhiệt tình những người đó, tại thời điểm khi họ cho là họ đang ủng hộ nguyên tắc: Thế nhưng nếu đó chỉ là một nguyên tắc họ hướng tới, thì cần phải có một tổ chức rõ ràng, nếu không họ sẽ trở thành các công cụ tầm thường của những người có quyền lực, điều mà họ ít mong đợi nhất.

Thật là tốt khi biết rằng ông Gazlay vviết điều này năm 1826. Kỷ nguyên hậu chiến không phải là thời gian đầu tiên các đảng chính trị Mỹ suy yếu một cách đáng kể, mặc dù đây là thời gian đầu tiên kể từ ngày của ông Gazlay. Ngày nay, một nhà khoa học chính trị lý luận rằng “đảng chính trị kiểu Mỹ hầu như không lớn hơn là mấy so với một trong số nhiều nhóm, không khác nhau nhiều về sự ảnh hưởng trong việc tham gia vào các cuộc bầu cử. Đảng giảm quy mô từ mô hình gần giống một tổ chức chính trị của công chúng xuống thành hiệp hội tư nhân. Đã có thời từng là nguồn gốc quyền lực, đảng đã trở thành một đối thủ khác tranh giành trong hệ thống đa nguyên.

Nói một cách cụ thể hơn, đảng mất quyền lực trong cuộc bầu chọn tổng thống: các tổ chức cá nhân hậu thuẫn các ứng cử viên độc lập đã trở thành đối thủ của các tổ chức đảng. Các cuộc bầu cử quan trọng thay thế các phiên họp kín của đảng để đề cử tại nhiều bang. Truyền thông đại chúng thế ngay vào chỗ đó với các phóng viên chính trị toàn quốc hoạt động như một “ủy ban điều tra” những ứng cử viên tổng thống. Các luật quy định việc tài trợ cho các chiến dịch vận động hạn chế các nguồn tài trợ cho các đảng. Trợ cấp liên bang chỉ dành cho các ứng cử viên, không dành cho các đảng. Thêm vào đó, luật bầu cử nhấn mạnh rằng các nhóm (các ủy ban hành động chính trị tốt và nổi tiếng ngày nay) có thể tùy ý tăng thêm tài trợ miễn sao các khoản tài trợ này không liên kết với các đảng chính trị. Tất cả đã làm tăng thêm xu hướng tách ra khỏi các đảng của các cử tri. Số cử tri được xem là người ủng hộ thuần túy giảm từ 42% năm 1960 xuống còn 23% trong năm 1972. Các cử tri mới và trẻ đặc biệt được coi như các cử tri độc lập.

Theo Gerald Pomper, điều này dẫn đến “việc mất kiểm soát công chúng qua các chính sách công cộng và lại mất khả năng của các yếu tố ít đặc quyền hơn trong việc gây ảnh hưởng định mệnh xã hội của họ”. Kết quả này gây sốc cho một số người vốn coi đảng chính trị như người bảo trợ cho các đặc quyền, song đặc biệt ở Tây Âu và thậm chí ở Mỹ , các đảng này vẫn hoạch định các đường lối linh hoạt cho giai cấp công nhân và các nhóm thiểu số.

Sự suy giảm của đảng là một lý do giải thích tại sao đánh giá của Lippmann về nền dân chủ Mỹ, mặc dù không rõ nghĩa, nhưng vẫn không đủ tàn nhẫn đối với những người quan sát đương thời về vấn đề đương thời. Thế nhưng, các nhà quan sát vẫn đưa ra hai lý do cho tình trạng ảm đạm của nền chính trị dân chủ: việc giảm khả năng điều hành xã hội và việc tăng ảnh hưởng của các tập đoàn.

Các nhà xã hội học và các nhà khoa học chính trị bảo thủ mới tranh cãi rằng “vấn đề dân chủ” ngày nay không phải là làm cách nào để tăng sự tham gia một cách dân chủ mà là điều hành xã hội khi nhiều người tham gia như thế nào. Nhiệm vụ này không nhằm làm cho một nền dân chủ tự do có tính tham gia lớn hơn mà là nhằm làm cho một nền dân chủ tự do có tính tham gia ngày càng lớn trở nên quản lý tối thiểu được. Họ lo lắng về sự sụp đổ những hình thái kiểm soát xã hội truyền thống, “một sự phi hợp pháp hóa hình thức cầm quyền chính trị và các hình thức cầm quyền khác”, và “sự quá tải các yêu cầu lên chính phủ”. Samuel Huntington cho rằng khả năng tồn tại lâu dài của nền dân chủ trong những năm 1960 đã “mang lại sự gia tăng đáng kể các hoạt động chính phủ và giảm đáng kể quyền lực chính phủ”. Giống như Joseph Schumpeter trước đó, Huntington tin rằng mỗi xã hội dân chủ đòi hỏi công dân phải có một mức độ không quan tâm rất lớn để chính phủ vận hành hiệu quả hơn. Khi các nhóm thắng cử nhờ đa số phiếu sít sao có tiếng nói hiệu quả trong hệ thống chính trị, hệ thống này phải kiểm soát được các nhu cầu mà nó không thể thỏa mãn hết được. Huntington lo sợ về sự sụt giảm hay sự mất đi của toàn bộ đường lối dân chủ, như trong trích dẫn của John Adams: “Không bao giờ có chế độ dân chủ nào mà không tự kết liễu bản thân nó cả”.

Charles Lindblom lại quan niệm về điều này hoàn toàn khác. Ông nghi ngờ về viễn cảnh của chế độ dân chủ để từ bỏ thế giới “dân chủ”. Ông nghiêng về quy tắc số đông, luật của số đông, hơn là “dân chủ”, luật của công chúng. Ông chỉ ra sự tham gia của công dân vào chính phủ ở mức độ thấp và đưa ra các dữ liệu thăm dò thích đáng. Chỉ có 28% người Mỹ cố gắng thuyết phục những người khác bầu cho người họ chọn, 26% từng vận động cho một ứng viên, 20% từng liên hệ với một quan chức chính quyền địa phương và chỉ có 8% ít ỏi là thành viên của một câu lạc bộ hay tổ chức chính trị. Nhưng mối quan tâm chính trong cuốn Chính trị và thị trường (Politics and Markets) của Lindblom là sự ảnh hưởng không tương xứng của kinh doanh trong hệ thống chính trị.

Trong “các chế độ luật của số đông” theo định hướng thị trường như Mỹ, có hai hình thức đối chọi về kiểm soát quyền lực chính trị. Rõ ràng có một hệ thống bầu cử. Song, như Lindblom lập luận, cũng có một hệ thống riêng của những sự kiểm soát kinh doanh có đặc quyền. Các doanh nhân có các chức năng trong các xã hội thị trường và đây chính là các chức năng của chính phủ trong hệ thống khác – các quyết định về cái gì sẽ được sản xuất, ai sẽ có việc làm, sẽ phân phối các sản phẩm như thế nào. Và các giám đốc điều hành phải tự quyết định phần lớn trong các vấn đề này. Chính phủ ủy thác những quyết định này cho doanh nghiệp: “Như vậy các doanh nhân trở thành một loại công chúc của công chúng và sử dụng các chức năng công cộng dựa trên quan điểm rộng rãi về vai trò của họ”. Tương tự như vậy, họ cũng giành được các đặc quyền như một “bán viên chức công quyền”. Họ có thể tiếp cận đặc biệt vớic ác quan chức chính phủ, thu hút sự chú ý của các nhà lãnh đạo công quyền mà không nhóm người nào khác có được. Các tổng thống, do nhận thức được dịch vụ công cộng mà các doanh nghiệp mang lại, đôi lúc sẽ cố gắng bảo vệ cho doanh nghiệp khỏi những điều không chắc chắn trong xu thế củ tiến trình chính trị. Cả Tổng thống Johnson và Tổng thống Nixon đều giấu kín các báo cáo từ các ủy ban về chống tờ-rớt của mình như để giữ một đề tài “doanh nghiệp” tồn tại được trong đấu trường chính trị thông thường.

Những doanh nghiệp không chỉ có được phạm vi ảnh hưởng riêng của chính họ và có con đường riêng dẫn tới Nhà Trắng và Quốc hội, cơ quan lập pháp và các tòa nhà lớn của chính phủ, mà, với quyền lực ngày càng tăng, họ còn có khả năng thay đổi xu hướng trong đấu trường chính trị. Mặc dù các nhà quan sát chính trị nghiêng về coi doanh nghiệp và người lao động ngang nhau như các nhóm áp lực chính trị đối ttrọng, nhưng hai nhóm này luôn mất cân đối. Trong cuộc chạy đua vào Thượng viện và Hạ viện, các cá nhân giàu có vẫn quyết định tỷ lệ đóng góp cho chiến dịch vận động – năm 1990, 43% doanh thu từ chiến dịch vận động cho hạ nghị sĩ đương nhiệm và 53% cho những người tham gia cuộc chạy đua; 69% cho thượng nghị sĩ đương nhiệm và 60% cho những người thách thức. Ảnh hưởng của các ủy ban hành động chính trị (PAC) tăng trong suốt thập kỷ qua. Chúng tăng từ 600 năm 1974 lên 4100 vào năm 1991. Đóng góp của các ủy ban này tăng rõ rệt, chiếm 48% doanh thu từ chiến dịch vận động cho các hạ nghị sĩ đương nhiệm trong năm 1990, tăng từ mức 34% năm 1980. Tài chính của PAC chủ yếu do đóng góp của doanh nghiệp, các tổ chức thương mại và các PAC chuyên nghiệp mặc dù họ có xu hướng dàn trải quỹ cho các nghị sĩ đương chức có thế lực của cả hai đảng trong khi các PAC lao động tập trung vào ủng hộ Đảng Dân chủ. Kết quả của việc tăng các ủy ban hành động chính trị và sự khác nhau trong chiến dịch tài trợ cho nền dân chủ không hiện rõ nhưng không ở đâu trong trận tranh cãi dữ dội về các đề xuất cải cách lại có các đề nghị làm suy yếu liên minh của chính phủ thông qua doanh nghiệp tư nhân đến như vậy. Lindblom kết luận trong cuốn sách của ông rằng: “Công ty tư nhân lớn phù hợp với học thuyết và tầm nhìn dân chủ một cách lạ lùng. Trên thực tế, các công ty này không hề phù hợp”.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003

Các phương tiện truyền thông và quá trình dân chủ – Phần I


Liệu truyền thông tin tức có góp phần tạo nên một xã hội dân chủ hơn? Câu hỏi này đã quá quen thuộc và nhàm chán với những người thường xuyên lui tới những bữa tiệc trao giải thưởng báo chí, hội nghị của Hiệp hội các chủ bút báo Mỹ hay lễ trao bằng của các trường viết báo. Tất nhiên là truyền thông tin tức có thể góp phần tạo nên một xã hội dân chủ hơn. Nhiệm vụ của báo chí là tạo ra lượng cử tri được thông tin nhiều hơn. Những công dân được thông tin nhiều hơn sẽ tạo ra nền dân chủ toàn vẹn hơn và tốt đẹp hơn.

Đó là câu trả lời trong giới báo chí. Còn với những người ngoài cuộc thì dường như đây là câu trả lời ngây thơ cho một câu hỏi đơn giản. Phần lớn các nhà khoa học xã hội và phê bình xã hội với nhiệm vụ chẩn đoán các căn bệnh của nền dân chủ Mỹ không nhìn nhận truyền thông như một nguyên nhân căn bản của căn bệnh dân chủ mà là hệ quả của nền chính trị yếu kém. Họ quả quyết rằng bước tiến triển thực sự trong các lĩnh vực chính trị của nước Mỹ không phải bắt nguồn từ truyền thông. Một số nhà nghiên cứu chính trị nổi tiếng còn đi xa hơn khi cho rằng vấn đề  của nền dân chủ hiện đại là có quá nhiều người tham gia và có thể là có quá nhiều chứ không phải quá ít thông tin. Họ cho rằng, nếu truyền thông có thể làm một điều gì đó có ích, thì truyền thông nên ngăn cản mọi người quan tâm đến chính trị.

Tôi tin truyền thông tin tức có thể góp phần cho một xã hội dân chủ hơn và nó cần nỗ lực thực hiện điều đó. Câu hỏi ở đây là nỗ lực như thế nào? Nói một cách chính xác hơn, làm thế nào, dưới quan điểm của những người hoài nghi phủ nhận hoàn toàn khả năng tạo nên sự khác biệt của truyền thông, để có thể có được một sứ mạng chính trị phù hợp cho những định chế tin tức?

Điều này không nhằm khẳng định mục đích duy nhất của truyền thông là, hay nên là, tạo ra một nền dân chủ tốt đẹp hơn. Mục đích của truyền thông là nhằm mang lại nhiều lợi ích hơn cho người sở hữu, tạo việc làm cho người lao động, gây dựng danh tiếng so với những phương tiện thông tin khác, đem lại sự giải trí cho người dân – đây đều là những mục đích hợp pháp. Tuy nhiên, truyền thông cũng đòi hỏi một nhiệm vụ đặc biệt là thông tin cho công dân để tạo ra một chính phủ dân chủ, đặt ra yêu sách đối với các đặc quyền (các quyền trong Tu chính án thứ nhất) và đặc lợi (ví dụ như mức cước phí bưu điện đặc biệt) dựa trên vị thế duy nhất của nó như là “cấp thứ tư của chính quyền”. Giả sử việc biến xã hội Mỹ trở nên dân chủ hơn là mục tiêu duy nhất hay hàng đầu của truyền thông tin tức thì truyền thông cần làm gì để đạt được mục đích này một cách hiệu quả nhất?

Những luồng tư tưởng chủ đạo trong khoa học chính trị và học thuyết chính trị tập trung vào nền dân chủ mà không bao giờ lấy truyền thông làm trung tâm. Song điều này có ý nghĩa quan trọng, và tôi sẽ tìm cách phân tích, đối với một báo giới đóng một vai trò rất quan trọng trong nền dân chủ.

Mô hình duy thực và cổ điển của nền dân chủ

Các nhà lý luận về dân chủ thế kỷ XX đã công kích cái họ gọi là “quan điểm cổ điển về nền dân chủ” – quan điểm cho rằng nền dân chủ bao gồm “những công dân tích cực và có lý trí tìm cách nhận thức một điều tốt đẹp được thừa nhận chung thông qua bước khởi đầu mang tính tập thể, các cuộc thảo luận và quyết định về các câu hỏi trong chính sách liên quan đến lĩnh vực công cộng, và những người đại diện cho chính quyền trước các tổ chức (các quan chức chính phủ được bầu) trong việc phổ biến rộng rãi những quyết định do đa số cử tri đã thông qua”. Tôi cho rằng quan điểm này vẫn có người ủng hộ. Họ lập luận rằng trong mô hình này chỉ có chính nền dân chủ mới tìm ra lý lẽ để chứng minh điều đó là đúng và đó không phải là hình thái tồi tệ nhất của chính phủ mà là hình thái với những yếu tố tích cực. Vai trò của “giáo dục trong trách nhiệm công cộng” mà mô hình cổ điển đòi hỏi đã đóng góp cho lý tưởng của sự phát triển và nhân phẩm con người. Trong mô hình này, tiến trình ra quyết định và những lợi ích của nó cho cá nhân, cũng như kết quả của việc đưa ra các quyết định và hậu quả của nó đối với những lợi ích của tập thể, được nhận định và đánh giá là có tính nhân văn. Những người ủng hộ hiện nay cho rằng ý niệm cổ điển về nền dân chủ này “được hun đúc từ một mục đích quá tham vọng: việc giáo dục toàn bộ dân chúng đến một mức độ mà trí tuệ, cảm xúc và tư cách đạo đức của họ có thể vươn tới khả năng trọn vẹn và họ được kết nạp một cách linh hoạt và tự do vào một cộng đồng đích thực”.

Những người hoài nghi và những người có xu hướng duy thực nói rằng tất cả điều đó đều tốt, nhưng nếu như nó mang một số nét tương tự như một cuộc họp của thị trấn ở vùng New England, nó có thể không mang chức năng của bất cứ hình thái hiện đại rộng lớn nào từng được biết đến. Nếu chúng ta tìm kiếm một mô hình như một mục tiêu thiết thực chứ không phải là ảo tưởng, thì cần thiết phải xác định khái niệm dân chủ là gì hẹp hơn nữahay nền dân chủ có thể có nghĩa là gì.

Một trong những nhà tư tưởng đầu tiên và lỗi lạc nhất thừa nhận mô hình duy thực của nền dân chủ trong mối quan hệ với các phương tiện truyền thông là Walter Lippmann. Lippmann được tôn sùng như nhà lý luận hàng đầu của giới báo chí Mỹ. Ấy vậy mà, trong suốt cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông bác bỏ niềm tin rằng báo chí có thể làm rất nhiều để cải thiện nền dân chủ Mỹ. Các công trình nghiên cứu chủ yếu của ông về báo chí như Quan điểm công chúng (Public Opinion) Công chúng ảo tưởng (The Phantom Public) đều thừa nhận rằng giới tinh hoa cai trị trong một nền dân chủ, rằng chúng ta không thể trông đợi vào cái gì khác hay báo chí không thể cải tổ chính bản thân nó để thay đổi vấn đề này. Lippmann lập luận rằng báo chí phụ thuộc hoàn toàn vào các thế lực bên ngoài để ghi lại các hoạt động của hệ thống chính trị: “Nó chỉ thường có thể ghi lại những điều đã được ghi lại cho nó bởi công việc của các tổ chức”. Nơi nào có cái mà ông gọi là “cỗ máy ghi chép tốt” như thị trường chứng khoán, thì các tin tức có thể đầy đủ và chính xác. Nơi mà không có cỗ máy ghi chép tốt, tin tức phải được thu thập lại từ các hãng thông tấn báo chí, từ nơi chuyên “đánh hơi tin tức” do may mắn và tất cả những việc này không có cơ cấu tổ chức chính xác. Hy vọng lớn nhất nằm trong việc thành lập các văn phòng điều tra độc lập và các nhóm chuyên gia độc lập có nhiệm vụ tập hợp và chuyển giao tin tức cho giới báo chí về các lực lượng cầm quyền trong xã hội.

Quan điểm có tính chất kiềm chế về khả năng của giới báo chí trong cuốn Quan điểm công chúng thậm chí còn đi đến chỗ tối tăm hơn khi được thể hiện trong cuốn Công chúng ảo tưởng. Lippmann cho rằng công dân không có chủ quyền mà “sống trong một thế giới không thể nhìn thấy, không thể hiểu và không thể tiếp cận được”. Và không có giải pháp nào cho vấn đề này. Chúng ta chỉ còn có thể trông mong vào giả định thế nào là nền dân chủ và vai trò được hiểu của ý kiến công chúng là gì. Lippmann đã viết rằng công chúng không phải là đa số các công dân hay đa số cử tri: “Công chúng chỉ là những người quan tâm đến một lĩnh vực nào đó và chỉ có thể ảnh hưởng đến nó bằng cách ủng hộ hay phản đối các diễn viên”. Nếu các cá nhân không quan tâm đến lĩnh vực nào đó thì họ không phải là công chúng của lĩnh vực đó. Nếu họ quan tâm và có thể ảnh hưởng đến nó bằng cách hình thành chính sách, lúc đó họ là người trong cuộc, chứ không phải người ngoài cuộc, là những người có quyền lực liên quan đến lĩnh vực đó, chứ không phải là công chúng. Công chúng là một thực thể được chú ý mà quyền lực của nó bị giới hạn trong việc ủng hộ hay phản đối ban lãnh đạo.

Và theo Lippmann, đó là tất cả tính chất và tính chất có thể của một nền dân chủ hiện đại:

Chúng ta phải từ bỏ ý niệm cho rằng mọi người dân nắm quyền cai trị. Thay vào đó, chúng ta cần phải áp dụng lý thuyết cho rằng, bằng cách thỉnh thoảng huy động họ như một đa số, mọi người dân thường ủng hộ hay phản đối các cá nhân trên thực tế đang cầm quyền. Chúng ta phải nói rằng quần chúng sẽ không nhằm vào các cá nhân đó thường xuyên nhưng đôi khi có thể gây cản trở họ.

Lippmann không đưa ra hy vọng đối với việc công chúng có thể được giáo dục đối với việc tham gia đầy đủ hơn vào lĩnh vực chính trị. Ông không tin rằng vai trò của giới báo chí là hướng các công dân tới việc tạo lập những nhận xét có hiểu biết và hợp lý. Điều tốt nhất có thể làm là cung cấp những dấu hiệu rõ ràng và đơn giản để phục vụ “những hướng dẫn tới hành động phù hợp cho việc sử dụng những người không có thông tin”. Nhiệm vụ của chế độ dân chủ là tìm ra các con đường để cho người dân hành động “thông minh nhưng thiếu hiểu biết”.

Một rắc rối xảy ra với các quan điểm về nền dân chủ như những điều mà Lippmann tiếp nhận và tranh cãi chống lại là chúng tô vẽ một chính phủ ở một đầu, quảng đại quần chúng ở đầu kia và không có gì ở giữa ngoại trừ giới báo chí với tính chất là đường dẫn thông tin. Tuy nhiên, tiếp theo những quan điểm của Tocqueville, các nhà khoa học xã hội đã tranh cãi từ lâu rằng nhân tố duy trì nền dân chủ chính là những nhóm trung gian hoặc các hiệp hội – nơi mọi người xích lại gần nhau, đề ra, nói rõ ràng, cô đọng các ý kiến và mang lại nền tảng mang tính tập thể cho hoạt động chính trị. Các nhóm này bao gồm cả hàng loạt các tổ chức, từ Hiệp hội súng trường quốc gia đến tổ chức Sinh viên vì một xã hội dân chủ, từ Câu lạc bộ sư tử của địa phương đến Liên đoàn các cử tri nữ. Nhưng phần lớn trong số đó có các đảng phái chính trị – và những tổ chức này luôn do dự trong việc liệu có nên trở thành con đường dẫn tới việc cầm quyền của công dân hay không.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003

Phải chăng đã từng có một phạm vi công chúng? – Phần cuối


Thủ tục bầu cử. Stanley Kelley viết trong một nghiên cứu năm 1960 về vận động chính trị rằng những giả định căn bản trong nghiên cứu của ông là “thảo luận vận động tranh cử cần giúp cử tri có được những quyết định bầu cử hợp lý”. Dường như đây là một giả định đúng đắn. Liệu chúng ta có thể thể hiện được điều đó khi trong lịch sử Mỹ việc thảo luận vận động tranh cử lại giống như một lý tưởng?

Michael McGerr xem xét chủ đề này trong cuốn Sự suy tàn của chính trị đại chúng (The Decline of Popular Politics), trong đó, ông nghiên cứu việc vận động tranh cử ở Bắc Mỹ từ giữa thế kỷ XIX đến những năm 1920. Nói ngắn gọn, ông ghi chép việc vận động tranh cử từ thời kỳ mà sự tham gia của người dân vào nền chính trị của Mỹ lên cao nhất đến khi nhanh chóng giảm xuống mức thấp nhất vào những năm 1920, điều đã không xảy ra kể từ trước năm 1840 và không thể lặp lại cho đến những năm 1970. Khi tìm ra những nhân tố khác nhau góp phần vào sự suy giảm số lượng cử tri, McGerr đã thu hút được sự chú ý của mọi người đến với ảnh hưởng của quan niệm về chính trị trong các nhà cải cách ưu tú vốn xem thường những cuộc vận động chịu sự chi phối của đảng phái và cảm xúc trong thời kỳ Nội chiến. Các nhà cải cách này chê bai nền chính trị “kỳ diệu” và tìm cách thay thế nó bằng “nền chính trị có giáo dục”. Theo họ, sách, chứ không phải diễu hành, mới là cách thức hợp lý để vận động tranh cử.

Trong cách thức kỳ diệu của chính trị, các tổ chức đảng địa phương thiết lập những câu lạc bộ đặc thù, các nhóm diễu hành và các tổ chức dân sự tham gia các cuộc diễu hành, biểu tình, dã ngoại và những hình thức giải trí chính trị ngoài trời khác. Những hình thức này được mọi người tham gia rộng rãi, hơn bất kể hình thức nào khác trong nền chính trị Mỹ trước đó, nhưng điều này không có nghĩa là mọi người đều tham gia một cách dân chủ. Như Michael McGerr nhận xét, các thành viên của tầng lớp thượng lưu nắm giữ những vụ quan trọng nhất ở địa phương, và các cuộc diễu hành “dừng lại tại nhà những người giàu có để ca tụng họ và nghe những lời nói khôn ngoan của họ”. McGerr lập luận rằng sự kỳ diệu của nền chính trị thế kỷ XIX góp phần tạo nên “quyền cai trị của tầng lớp thượng lưu”.

Do đó, chính trị trở thành một nghi thức cộng đồng hơn là một hành động tham gia của một cá nhân hay một nhóm vào thảo luận phê bình có lý trí. Chính điều này đã tạo nên hình thức bỏ phiếu kín. Lá phiếu được lập ra bởi các đảng phái, chứ không phải một cơ quan nhà nước chung, và cử tri thường sẽ bỏ vào những hòm riêng biệt. Cho đến cuối thế kỷ XIX ở Mỹ vẫn chưa có hình thức bỏ phiếu kín và luật bỏ phiếu tương đối công khai. Những người bên cạnh không chỉ biết việc bạn có bầu cử mà còn biết bạn bầu cho ai. Lá phiếu do các đảng in làm cho cử tri khó lựa chọn: chúng làm việc hối lộ trở nên dễ dàng hơn vì các nhà lãnh đạo đảng có thể biết được cử tri được hối lộ có bỏ phiếu hay không bỏ phiếu theo cam kết của họ. Bản thân cuộc bầu cử, một hình thức giao tiếp chính trị, trở thành một thực tiễn rất khác biệt so với ngày nay. Nó được tổ chức với ít lựa chọn hợp lý trong suy nghĩ của cử tri. Xét theo một khía cạnh nào đó, cử tri không được coi như một cá nhân mà là một thực thể được đặt trong và xác định bởi tình trạng xã hội và sự trực thuộc đảng.

Sự chuyển biến của vận động tranh cử từ nghi thức cộng đồng thành nơi mua bán chính trị, một sự biến đổi diễn ra chủ yếu trong giai đoạn 1880 – 1920, một phần là nỗ lực có ý thức của các nhà cải cách nhằm xóa bỏ nạn tham nhũng trong hệ thống đảng – hối lộ và dồn phiếu – và biến cuộc bầu cử thành tiếng nói của nhân dân tìm những lợi ích của họ trên cơ sở đánh giá  có thông tin. Các nhà cải cách thúc đẩy cái mà họ gọi là vận động “mang tính giáo dục”, thay thế các cuộc diễu hành với lời lẽ đả kích và tập hợp ngoài trời bằng việc đọc báo ở nhà. Các nhà cải cách thành công đã tạo ra một thể chế cho vận động bầu cử, minh họa hình ảnh cá nhân cô lập như đối tượng cuối cùng trong nỗ lực của nó. Cá nhân riêng lẻ nhưng có lý trí này tập hợp thông tin từ nhiều khía cạnh khác nhau, đánh giá những thông tin đó và cẩn trọng đưa ra quyết định. Điều nực cười về mong muốn của nền chính trị thế kỷ XIX là nó tìm cách hiện thực hóa lý tưởng mà bản thân lý tưởng đó chỉ được xây dựng trên những quan điểm chính trị mang tính cộng đồng, nghi thức và với sự tham gia cuồng tín.

Kết luận

Xét trên bất kỳ phương diện nào thì dường như thảo luận phê bình có lý trí cũng không thể hiện được nền chính trị Mỹ trong thời kỳ thuộc địa. Sự bạo loạn theo định hướng chính trị là một mô hình hoạt động chính trị quen thuộc hơn bài học rút ra từ những nguyênt ắc chính trị. Nếu một số tác giả đương đại viết tốt đẹp về tính tự phát của những cảm xúc chính trị như vậy thì những người khác lại nghi ngờ về việc những cuộc bạo loạn đó luôn mang tính tự phát. Trong thế kỷ XIX, khi việc tham gia chính trị tăng lên mạnh mẽ thì diễn thuyết chính trị rõ ràng không mang tính phê bình và có lý trí. VIệc kết luận về nền chính trị thế kỷ XVIII từ thực tế rằng các tài liệu Người liên bang xuất hiện trên các tờ báo hay kết luận về nền chính trị thế kỷ XIX từ những cuộc tranh luận giữa Lincoln và Doghlas quả thực giống như việc minh họa nền chính trị Mỹ những năm 1970 qua thực tế rằng những tranh luận hoài nghi trong Ủy ban tư pháp Hạ viện trong năm 1974 được phát trực tiếp trên truyền hình và bàn tán rộng rãi và sôi nổi trong mọi tầng lớp công chúng. Tất cả những sự kiện này thật đặc biệt; không một sự kiện nào đại diện cho ngôn ngữ chính trị thông thường trong thời kỳ đó.

Tôi thấy khái niệm phạm vi công chúng này là không thể thiếu được. Nó như một hình mẫu mà xã hội tốt đẹp cần vươn tới. Đối với tôi, nó là một ý niệm then chốt về học thuyết chính trị hay xã hội. Tôi cho rằng đó thực sự là một hình mẫu có ích tạo nên hàng loạt những câu hỏi về chính trị trong quá khứ và hiện tại. Điều tôi đã cố gắng làm ở đây, và vẫn đang làm, chỉ là đặt ra những câu hỏi về thế nào là mô hình phạm vi công chúng tốt đẹp trong những giai đoạn trước đây trong lịch sử nước Mỹ. Nếu tôi biến những câu hỏi của mình thành vấn đề quan trọng chứ không phải là sự hướng dẫn thì đó là để xua tan những quan niệm không thực tế trong quá khứ đã che khuất quá nhiều phân tích văn hóa và chính trị đương thời. Vị trí của chúng ta trong thế giới ngày nay khác xa với người Mỹ trong thế kỷ XVIII hay XIX, nhưng tôi cho rằng nó không kém đi. Khi suy ngẫm về những điều kiện và khả năng để có được hoạt động chính trị công bằng, không thiên vị, mang tính phê bình và có lý trí hơn trong thế giới hiện nay, chúng ta sẽ thấy việc du trì những ảo tưởng về đặc trưng của phạm vi công chúng trong những ngày đã qua là một điều không có lợi.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.

Phải chăng đã từng có một phạm vi công chúng? – Phần IV


Trái lại, báo chí trong thời hoàng kim của sự tham gia chính trị ở Mỹ, từ năm 1840 đến năm 1900, lại mang sắc thái khác. Những tờ báo này điển hình cho sự trung thành với các đảng phái chính trị; chúng hoạt động như những nhân tố thúc đẩy thông tin cho một tổ chức chính trị riêng biệt. Nền chính trị Mỹ nhận thấy sự tham gia ở mức độ cao nhất chỉ bắt đầu khi các tổ chức đảng phái tự nhận thức phải thoát ra khỏi lập trường theo hệ tư tưởng. Như trong tài liệu của Ricahrd Hofstadter đã nêu, từ những năm 1840, các đảng phái chính trị chuyển từ hình thức theo hệ tư tưởng trong một nhóm có quyền lực sang hình thức liên minh có tổ chức đua tranh giành cử tri. Họ tìm kiếm sự trung thành của cử tri trên cơ sở này và cả trên cơ sở đoàn kết cộng đồng và xã hội. Nền chính trị Mỹ trong kỷ nguyên này được mô tả là chia cắt theo những ranh giới chủng tộc – người dân bầu cử trong sự đoàn kết với các cộng đồng thiểu số và tôn giáo của họ chứ không phải vì sự trung thành với một học thuyết chính trị và không cần trao đổi kỹ lưỡng hay cân nhắc những lựa chọn bầu cử thay thế. Mọi người thường không lựa chọn một đảng phái hay học thuyết chính trị với ý nghĩa nhiều hơn so với khi lựa chọn một tôn giáo. Vào ngày bầu cử, phần lớn cử tri cũng chẳng nhận thức việc họ có lựa chọn giữa những bầu cử thay thế khác hơn việc một người thuộc Hội Giám lý tưởng tượng vào một sáng Chủ nhật anh ta có sự lựa chọn giữa Nhà thờ thuộc Hội Giám lý và Nhà thờ Quốc hội ở bên kia dãy phố. (Nếu mọi người tìm cách có được lựa chọn hợp lý giữa các đảng phái, vấn đề này cũng không trở nên dễ dàng hơn. Các đảng phái thế kỷ XIX cho thấy sự nhất quán trong hệ tư tưởng tương đối thấp. Ballard Campell viết rằng, đến những năm 1890, sự chia rẽ hai đảng giữa đảng viên Cộng hòa và đảng viên Dân chủ ở cấp bang trong các cơ quan lập pháp Trung Tây là về vấn đề lỏng lẻo này. Đây là một vấn đề thuộc loại “gần như là thú tội”, theo cách nói của Burnham, mà theo đó các đảng phải có sự nhất quán nhưng không chính đảng nào đưa ra một chương trình hay học thuyết chính trị thống nhất).

Tương tự như vậy, các tờ báo cổ vũ cho các đảng phái mà chúng đại diện. GIới báo chí, theo cách nói của Michael McGerr, “áp đặt một sự đồng nhất văn hóa khiên cưỡng” đối với độc giả. Báo chí khuyến khích công dân nhìn nhận chính trị theo quan điểm thiên lệch. Trong khi báo chí giúp công dân nắm bắt quan điểm chính trị thì nó cũng giúp họ nhìn nhận chính trị theo cách đơn giản nhất: “Bằng việc giảm bớt quan điểm chính trị thành những giá trị tuyệt đối đúng-sai, báo chí lôi kéo sự ủng hộ thiên lệch mang tính bè phái. Những đảng viên Cộng hòa hay Dân chủ tận tụy không cần phải giải đáp về những thực tế và lập luận mâu thuẫn; trên báo chí, những đảng viên này luôn có thể tìm thấy những vị trí phù hợp với bất cứ ứng cử viên nào và với mọi vấn đề”. Sau này, khi chỉ cần trên một tờ báo riêng lẻ cũng có thể tìm thấy được nhiều hướng quan điểm hơn, các chủ bút lại sợ rằng độc giả có thể nhận thấy sự rắc rối này. Trong tài liệu chính trị trung lập giữa thế kỷ XIX, nếu một người có thể hình dung ra một điều như vậy, thì quan điểm phiến diện về vũ đài chính trị được duy trì không chỉ bằng vviệc công kích đảng đối lập và những ứng cử viên của nó, mà phần lớn là do không thể đề cập cả đảng đối lập lẫn các ứng cử viên cùng lúc. Gộp chung các tờ báo chính trị, đọc theo quan điểm của từng phía một, chắc chắn sẽ thấy gần giống với hình thức diễn thuyết phê bình có lý trí, hay ít nhất cũng giống một loại tranh biếm họa, lối viết nhố nhăng theo hình thức “vấn đề/vấn đề tương phản” mà chương trình “Saturday Night Live” thường nhạo báng. Nhưng chẳng có gì chứng tỏ mọi người đọc các tờ báo theo cách này, cũng như chẳng có ai có mong đợi những người theo giáo phái Rửa tội (trong đạo Tin lành) đọc kỹ những bản tin nhà thờ của vị Trưởng Giáo hội.

Đảng phái. Trong bất kỳ trường hợp nào, nếu không có cách giới hạn tranh luận, xác định các vấn đề và hạn chế những biện pháp thay thế, thì chẳng có tranh cãi nào có lý cả. Để có ý nghĩa thì tranh luận chính trị không thể là một tập hợp những phương trình đồng nhất mà chỉ cần một chiếc máy vi tính cũng có thể xử lý được. Tranh luận chính trị phải là tập hợp những khả năng thay thế có thể nhận thấy, phân chia đồng đều đủ để kiểm tra dễ dàng trong cùng một thời điểm. Đảng phái chính trị có thể làm được điều này. Như Maurice Duverger nói, “các đảng phái tạo ra công luận nhiềunhư chúng muốn thể hiện nó; chúng tạo ra công luận chứ không phải bóp méo công luận; cần có đối thoại chứ không phải là bắt chước. Nếu không có các đảng phái thì chỉ có những xu hướng mơ hồ, theo bản năng, và có mức độ khác nhau phụ thuộc vào cá tính, trình độ giáo dục, thói quen, vị trí xã hội,… Các đảng phái không xuyên tạc dư luận ban đầu mà làm cho dư luận này rõ ràng hơn. Như Duverger đã viết, các nhà phê bình “không hiểu được rằng dư luận ban đầu rất mơ hồ, rằng chỉ có thể diễn đạt dư luận đã được định hình và phương pháp diễn đạt cần đặt ra một khung điều chỉnh cho dư luận đó”. Nếu đúng như thế thì những nền dân chủ hiện đại chịu ơn lớn không chỉ từ giai cấp tư sản nói chung mà còn của nước Mỹ nói riêng vì đã sáng tạo ra hình thức đảng dựa trên quần chúng trong những năm 1840.

Đồng thời, chính trị đảng phái không nhất thiết phải đồng nhất với bầu cử có lý trí và có thông tin. Trong mô tả của William Gienapp về chính trị giai đoạn 1840 – 1860 có nhiều bằng chứng về sự tham gia hơn là thảo luận nghiêm túc. Gienapp lưu ý tính phổ biến rộng rãi của các bài hát vận động tranh cử mà mục đích của chúng là “đem lại sự giải trí và tạo nên niềm lạc quan khi đả kích phe đối lập”. Bàn luận chính trị phổ biến ở các bang miền Tây, và chính trị giúp thoát khỏi tình trạng cô lập về xã hội. Có phải đây cũng là sự giáo dục chính trị tốt? Thật khó có thể khẳng định được. “Vận động tranh cử tạo ra mối quan tâm rộng rãi nhưng đôi khi cảnh tượng ngoạn mục này được đặt lên trên việc phổ biến thông tin chính trị”. Nếu đó là một loại chính trị giống như văn hóa đại chúng mà Christopher Lasch nhìn lại một cách ngây ngô, thì không phải tất cả những người đương thời đều cảm thấy như vậy. Edward Everett Hale, một người trong số đó, than phiền rằng chiến dịch của Đảng Cộng hòa năm 1856 với một chiếc lều, một kẻ diễn thuyết thô ráp đi khắp nơi rêu rao và một câu lạc bộ phiếm “đã biến chính trị giống như một gánh xiếc lưu động”.

Cần lưu ý rằng vận động tranh cử kiểu Lincoln-Douglas cũng bị chỉ trích vào thời của Lincoln. Hale thấy rằng diễn thuyết bầu cử là “một trong những chiều hướng đi xuống” của thời kỳ đó, ưu tiên cho giới trẻ sung sức hơn là cho các nhà lãnh đạo già dặn, có thể khôn ngoan hơn, và dành nhiều cơ hội cho những người dám mạo hiểm. Ngày nay, trong kỷ nguyên mà người ta ngờ vực về truyền hình – và đáng ngờ một phần là bởi vì truyền hình dường như ưu ái bề ngoài đẹp đẽ và khả năng tạo ra hình ảnh quảng cáo bắt mắt – điều quan trọng là phải nhớ rằng kỷ nguyên của các nhà hùng biện cũng có những vấn đề liên quan. Diễn thuyết giỏi trước công chúng cũng không bảo đảm trở thành một nhà lãnh đạo. Diễn thuyết trước công chúng thường sử dụng một “phương tiện trung gian” với những thuộc tính đặc biệt giống như phỏng vấn trước ống kính camera. (Do vậy, diễn văn trước công chúng của các ứng cử viên trong thế kỷ XIX là không giống nhau, ít nhất là trong chiến dịch tranh cử tổng thống. Ví dụ, trong chiến dịch năm 1888, tổng thống đương nhiệm Grove Cleveland chỉ đọc một bài diễn văn ghi nhận sự đề cử còn ứng cử viên Benjamin Harrison lại nói quá nhiều nhưng cả hai đều đọc tại tiền sảnh nhà họ ở bang Indiana). Trong bất cứ trường hợp nào, vào thời gian mà sự trung thành với đảng phái được duy trì mạnh mẽ, mọi người theo dõi các cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas chứ không phải nghe chúng để tạo suy nghĩ cho riêng mình. Họ ở đó để tập hợp bên các ứng cử viên, dù cho ông ta phát biểu gì đi chăng nữa. Đây kkhông phải là cuộc thi với tư cách cá nhân mà cũng chẳng phải là cuộc tranh luận mà người chiến thắng được mọi người công nhận là đã đưa ra những lập luận đúng đắn nhất.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.

Phải chăng đã từng có một phạm vi công chúng? – Phần III


Căn nguyên bên trong của công dân

Khả năng đọc của những người di cư Mỹ thế kỷ XVIII là không cao. Nếu họ sở hữu một cuốn sách thì đó chỉ là Kinh thánh. Nếu họ có cuốn sách thứ hai, chắc chắn nó là một bộ sưu tập những bài thuyết giáo hay có thể là cuốn ngụ ngôn về đạo Thiên chúa của John Bunyan có tên Bước tiến cảu người hành hương (Pilgram’s Progress) hay một số tác phẩm tôn giáo khác. Nơi mà chúng ta có những bản kiểm kê toàn diện về các cộng đồng, thậm chí tại New England, 50 đến 70% các hộ gia đình không có quyền sách nào. Người bán sách bán chạy nhất ở Virginia giữa thế kỷ XVIII cũng chỉ được bán cho 250 hách hàng một năm tại thuộc địa có 130.000 người da trắng. Tại New England, nơi có tỷ lệ biết chữ cao hơn các vùng thuộc địa khác, việc đọc sách còn rất hạn chế và hầu như chỉ là sách tôn giáo. Các công trình khoa học hay văn học chỉ có một lượng độc giả ít ỏi từ một nhóm người rất nhỏ đã tốt nghiệp cao đẳng.

Tầng lớp có tỷ lệ biết chữ cao – giới tăng lữ – hầu hết chỉ đọc văn học tôn giáo và giữ những vị trí tương đối thấp (cứ nhìn vào sự tham gia nhỏ bé của họ tại Hội nghị lập hiến mà đánh giá) trong những cuộc tranh luận chính trị lớn thời gian đó. Việc Benjamin Franklin và Thomas Jefferson đọc mở rộng sang triết học đương thời không phải là điều họ có thể chia sẻ với những người khác. Bản thân việc đọc sách của Franklin chỉ là một hình thức vận động xã hội; ông đã viết trong cuốn tự truyện rằng, lần đầu tiên đến Philadelphia, ông đã gặp một nhà triết học ở một quán trọ, người mà “sau khi biết tôi đọc rất ít” đã trở nên thân thiện và chan hòa. Độc giả lúc đó rất hiếm hoi, tiếp tục không tham gia sâu rộng và thể chế hóa ngôn ngữ phê bình có lý trí. Thành công rực rỡ của cuốn sách mỏng Lương tri (Common Sense) của Thomas Paine năm 1776, theo ước tính của chính Paine, không những là do việc nó được phát hành tại thời điểm xung đột chính trị mãnh liệt, mà còn do nó đến được với độc giả cộng hòa chung. Văn chương chính trị tại các thuộc địa chỉ phục vụ lượng độc giả khiêm tốn, nhóm người ưu tú trong xã hội và được viết theo văn phong cầu kỳ của tác phẩm cổ điển vốn chỉ có ý nghĩa đối với ít người. Paine đã từ bỏ phong cách viết cổ điển, chỉ sử dụng để tham khảo ngôn ngữ kinh thánh truyền thống và tìm kiếm “ngôn ngữ đơn giản như bảng chữ cái”.

Tài nguyên trí tuệ của dân chúng trong thế kỷ XIX được mở rộng. Tỷ lệ biết chữ chuyển từ chất sang lượng; việc đến trường học trở nên dễ dàng hơn, và việc phổ cập văn hóa cùng với dân chủ hóa tôn giáo, đã tuyên truyền rộng rãi hàng loạt lý tưởng đến người dân Điều này không nói lên rằng việc tăng tỷ lệ biết chữ và phát triển thị trường cho văn học in ấn, bao gồm cả văn chương chính trị, luôn luôn đại diện cho lực lượng ủng hộ nền tự do. Một trong số đó là Harvey Graff, người lập luận rằng tỷ lệ biết chữ là một hình thức kiểm soát xã hội được tạo nên để giữ mọi người ở đúng chỗ của họ và, với mục đích này, điều đó đã thành công. Dẫu vậy, người Mỹ thế kỷ XIX được giáo dục kỹ lưỡng cho việc tham gia vào phạm vi công chúng hơn tổ tiên của họ trong thế kỷ XVIII. Và bất chấp những lo ngại về một “sự suy giảm” torng thành tựu giáo dục của Mỹ trong những năm gần đây (theo phương pháp thử nghiệm, sự suy giảm bắt đầu vào những năm 1960 và chấm dứt đầu những năm 1980), các kỹ năng biết chữ cơ bản và kiến thức giáo dục xuất hiện rộng rãi hơn trong thế kỷ XX so với thế kỷ XIX.

Tất cả những điều này là một thước đo tương đối nghèo nàn về căn nguyên bên trong của công dân để tham gia chính trị. Có lẽ khái niệm căn nguyên bên trong của công dân chỉ là một khái niệm không thể áp dụng rộng rãi. Dẫu sao thì phác họa ngắn gọn này chí ít cũng hầu như không đưa ra một nguyên nhân nào cho sự luyến tiếc chất lượng giáo dục trong các kỷ nguyên trước trong lịch sử nước Mỹ.

Những nguyên nhân bên ngoài của văn hóa chính trị

Báo chí. Một khía cạnh phê bình trong phạm vi công chúng tư sản là sự sẵn có của truyền thông đại chúng cho việc chuyển tải và thông tin về dư luận. Có sự phân biệt giữa việc “chuyển tải” và “thông tin””. Habermas phân biệt giữa báo chí hồi đầu dành cho tranh luận chính trị và báo chí sau này, báo chí thương mại theo đuổi việc biến tin tức thành hàng hóa. Báo chí thương mại không thiếu phẩm chất cần có nhưng lại không tích cực đưa công chúng và các cuộc tranh luận chính trị. Trào lưu đương thời đó của báo chí theo một nghĩa nào đó đã ngăn cản hoạt động chính trị của độc giả bởi vì, trong một vài trường hợp, báo chí thương mại lẩn tránh việc xuất bản những thứ mà James Lement gọi là “huy động thông tin”. Đó là, nó sẽ đưa tin về một cuộc biểu tình chính trị sau khi diễn ra nhưng nó sẽ không thông báo về cuộc biểu tình một ngày trước đó và cung cấp số điện thoại hay những thông tin khác  để tiếp cận được với những người tổ chức biểu tình. Ngược lại, nơi diễn ra một lễ kỷ niệm hay một cuộc biểu tình với mục đích liên kết cộng đồng lại với nhau (cuộc diễu hành ngày 4 tháng Bảy), việc “huy động thông tin” luôn sẵn sàng, cùng với các đoàn người biểu tình và tìm chỗ xem pháo hoa.

Quan điểm của Tocqueville coi một tờ báo như người sang lập ra các hiệp hội đã miêu tả chính xác cuộc cải cách báo chí trong những năm 1830 và 1840. Quan điểm này được áp dụng cho các tờ báo đảng vẫn hoạt động mạnh mẽ cho đến cuối thế kỷ XIX, đồng thời cũng mô tả số lượng lớn bản tin của các hiệp hội tình nguyện thậm chí cho đến ngày nay. Tuy nhiên, mô hình thương mại của việc viết báo vốn phổ biến trong diễn thuyết đại chúngngày nay và vượt ra khỏi loại báo lá cải trong những năm 1830 thường muốn tìm kiếm một thị trường chứ không phải một hiệp hội hay một cộng đồng. Một chủ bút nổi tiếng trước đây của một tờ báo lá cải tên là James Gordon Bennet khoe rằng tờ báo của ông “không dành cho độc giả nào – không được độc giả nào biết đến và hoàn toàn chẳng quan tâm ai là độc giả và ai không phải là độc giả”. Ý tưởng thị trường cho nghề viết báo mới này là một phản đề cho khái niệm hiệp hội hay cộng đồng.

Việc nghề viết báo chuyển hướng sang mô hình thương mại đầy đủ hơn trong suốt thế kỷ XIX không đưa chúng ta đến việc lãng mạnhóa báo chí trước kia. Như Stephen Botein đã lập luận, báo chí thuộc địa thận trọng tìm mọi cách tránh xa tranh luận trong suốt thập kỷ trước cuộc Cách mạng, khi các nhà in bị lôi kéo, đôi khi kích động và kêu gào, vào việc duy trì cả hai quan điểm: trung thành và yêu nước. Khi tin tức được in ra, nhìn chung, là nó được chọn bởi vì nó tránh gây tranh cãi. Trên thực tế, tin tức càng tránh đụng chạm càng tốt. Tin tức về các thuộc địa khác hữu ích hơn vì chúng có thái độ bàng quan hơn so với tin tức của chính thuộc địa đó; tin tức về các vấn đề ở châu Âu vẫn tốt hơn vì chúng ít liên quan đến các vấn đề địa phương.

Nói chung là báo chí thuộc địa không phải là một loại báo dành cho tranh luận chính trị trừ khi vở kịch chính trị đó kéo nó vào vũ đài chính trị. Đôi khi chính trị tạo ra báo chí và những câu chuyện ngắn, một diễn đàn công khai, nhưng thực tế hiếm khi các chủ bút tự ý tạo diễn đàn công khai thúc đẩy hành động chính trị. Điều này không nhằm giảm bớt tầm quan trọng của báo chí tại những thời điểm cao trào của hoạt động chính trị như trong suốt cuộc khủng hoảng Đạo luật tem phiếu năm 1765 hay trong những năm trước cuộc Cách mạng. Nhưng báo chí thuộc địa không phải là nguồn liên tục cho tranh luận chính trị; việc chính trị hóa báo chí thuộc địa đôi khi lại là một vấn đề. Đến đầu thế kỷ XIX, tính chính trị của báo chí Mỹ chỉ giảm khi sự cạnh tranh đảng phái biến trong Kỷ nguyên của những cảm xúc tốt đẹp (Era of Good Feelings). Sự quan tâm của báo chí đến tranh luận chính trị thay đổi theo vận mệnh của tổ chức chính trị, cạnh tranh bầu cử khốc liệt và xung đột cộng đồng căng thẳng.

Trong bất cứ trường hợp nào báo chí cũng có thể đưa ra những giới hạn. Các hội nghị thuộc địa thế kỷ XVIII diễn ra trong bí mật. Năm 1715, tại Massachusetts, Nhà Trắng bắt đầu xuất bản một tạp chí về lịch trình họp hàng năm, mặc dù sau năm 1717 tạp chí này được xuất bản hai lần một tuần. Nhưng tờ báo này hiếm khi xuất bản tin tức về hình thức bầu cử bỏ phiếu ghi danh (17 năm giữa 1739 và 1756), gây khó khăn cho việc phổ biến quan điểm chính sách của các đại diện. Bất cứ một tờ báo nào hay một nhà phê bình nào tiết lộ các hoạt động không được in trên tạp chí của Nhà Trắng sẽ bị phạt. Do vậy, một số tờ báo ở Boston và những người viết truyện ngắn thường xuyên phải diễn giải những gì tạp chí này đã đăng tải. Trong thời gian khủng hoảng, lượng thông tin chỉ vừa đủ để giúp cho bầu cử hợp lý; còn trong thời gian bình thường thì điều này hiếm khi xảy ra. Người ta có thể lập luận hợp lý rằng các thị trấn ở Massachusetts đủ đồng nhất để nhà lập pháp “lên tiếng về những ước muốn và khổ đau của cộng đồng của mình vì ông ta chia sẻ với những thiên kiến đó”. Nếu đây gọi là dân chủ thì nó khác xa với nền dân chủ dựa trên tranh luận phê bình có lý trí. Và vấn đề ở Massachusetts không phải là một điều bất bình thường. Từ những năm 1740 cho đến cuộc Cách mạng, Hội đồng lập pháp New York thường xuyên nhắc lại quyền cấm xuất bản thông tin về hoạt động của họ. Chỉ có hai hiến pháp bang trong những năm sau cuộc Cách mạng mở cánh cửa ngành lập pháp cho công chúng. Tại Quốc hội, các phóng viên bị cấm cho đến năm 1800. Thậm chí khi các phóng viên được phép vào Quốc hội thì cũng chỉ có một số ít tờ báo tận dụng được đặc quyền này. Cho đến những năm 1820, không tờ báo nào ở ngoài Washington duy trì được một phóng viên thường xuyên ở Washington.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.

Phải chăng đã từng có một phạm vi công chúng? – Phần II


Điều tôi muốn tập trung trong phần còn lại của bài này là hai nét nổi bật của phạm vi công chúng chính trị. Thứ nhất là mức độ tham gia vào phạm vi công chúng: ai là người đủ tư cách pháp lý tham gia hoạt động chính trị và tỷ lệ tham gia thực tế của những người như vậy? Thứ hai, sự tham gia chính trị được thực hiện thông qua ngôn ngữ phê bình có lý trí ở mức độ nào? Đây là phần cốt lõi của khái niệm phạm vi công chúng mà Habermas đã đưa ra. Chẳng hạn, không một nền dân chủ dựa vào trưng cầu dân ý nào có thể đánh giá Habermas là có được phạm vi công chúng hoạt động; sự tham gia không những phải rộng rãi mà còn phải có lý trí. Một trong những đóng góp lớn lao của kháiniệm phạm vi công chúng là nó nhấn mạnh rằng một chỉnh thể dân chủ lý tưởng cần được xác định bằng những đặc điểm nằm ngoài những đặc tính thông thường tạo nên việc tham gia chính trị. Khái niệm phạm vi công chúng gợi đến không chỉ việc tham gia chính trị mà cả chất lượng của việc tham gia đó. Tất nhiên, còn có những điều kiện hay tiền đề khác cho phạm vi công chúng nhưng rõ ràng đây là hai nét trọng tâm và ở đây tôi sẽ giới hạn thảo luận của mình trong hai nét này. Thảo luận này được Habermas truyền cảm hứng hơn là phản ứng một cách tiếp từ tác phẩm của ông. Nghĩa là, tôi không tham gia vào việc chỉ trích bằng chứng lịch sử mà ông đưa ra làm ví dụ cho sự xuất hiện (và sau đó là biến mất) của phạm vi công chúng. Quan điểm lịch sử của ông liên quan đến các vấn đề của châu Âu và tôi không cho rằng người Mỹ thừa nhận hay phủ nhận những bước phát triển của châu Âu. Tôi không quan tâm nhiều đến mô hình phạm vi công chúng của Habermas như “một hình mẫu để phân tích sự thay đổi mang tính lịch sử” như Peter Hohendahl, mà quan tâm đến nó như “một chuẩn mực cho phê bình chính trị”. Tôi cho rằng các nhà sử học nên xem xét vấn đề này như là sự phát triển hay suy tàn, mở rộng hay thu hẹp (phép ẩn dụ ở đây không rõ ràng) của phạm vi công chúng như một vấn đề trọng tâm trong lịch sử chính trị, hay nói rộng hơn, những điều kiện nào ở những thời kỳ khác nhau khuyến khích hay không khuyến khích sự tham gia của công chúng vào hoạt động chính trị và sự quan tâm của họ đối với những thảo luận chính trị có lý trí-phê bình.

Sự tham gia của công dân vào chính trị

Càng nhiều người tham gia vào lĩnh vực chính trị với tư cách công dân thì ta càng đến gần hơn với lý tưởng về phạm vi công chúng. Theo đánh giá đó, trong lịch sử nước Mỹ, giai đoạn kể từ năm 1865 được coi là bước phát triển hơn bất cứ giai đoạn nà trước đó với sự giải phóng nô lệ da đen; giai đoạn kể từ năm 1920 tốt đẹp hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó với sự giải phóng phụ nữ; và giai đoạn kể từ năm 1965 tiếp tục tốt đẹp với luật về quyền công dân giúp cho Tu chính án thứ mười lăm trở nên thực sự lớn lao.

Nhưng vấn đề ở đây không chỉ là những bộ phậnnào trong dân chúng đủ tư cách pháp lý để tham gia vào phạm vi chính trị (tôi đề cập đến quyền bầu cử như là một tiêu chí bao hàm hợp lý, mặc dù hiển nhiên không toàn diện, trong giới chính trị), mà còn là tỷ lệ phần trăm các nhóm này thực tế thực thi quyền chính trị của họ là bao nhiêu. Các nhà bình luận thời nay đều thấy rằng tỷ lệ tham gia bầu cử hiện nay thấp hơn rất nhiều so với giữa thế kỷ XIX. Đúng như vậy. Tổng số cử tri giảm mạnh từ những năm 1880 xuống mức thấp trong những năm 1920: trong suốt thời kỳ Chính sách kinh tế – xã hội mới (New Deal) và sau đó, tỷ lệ bầu cử tăng lên nhưng lại giảm mạnh một lần nữa trong giai đoạn từ năm 1960 đến nay. Tuy nhiên, điều này cần được nhìn nhận trong một bối cảnh dài hơn trong lịch sử nước Mỹ.

Trong một nghiên cứu về mít tinh ở thị trấn vùng New England trong những năm 1970, Jane Mansbrigdge phát hiện ra rằng chỉ có 35% cử tri hợp lệ tham gia vào nguyên mẫu cho việc ra quyết định dân chủ. Bà đặt câu hỏi răng cn số này so sánh như thế nào với những cuộc mít tinh ở thị trấn vùng New England thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII? Tại Dedham, Massachusetts, nơi có những ghi chép đầy đủ về giai đoạn giữa thế kỷ XVII, thì sự tham gia này cũng khác nhau. Từ năm 1636 đến năm 1644, 74% cử tri hợp lệ tham dự mít tinh. Mặc dù tỷ lệ này cao hơn những cuộc mít tinh ở thị trấn ngày nay nhưng tầm quan trọng của nó bị giảm nhẹ bởi những thực tế rằng mọi cư dân đều sống trong vòng một dặm cách nơi diễn ra mít tinh, bị phạt tiền nếu đến muộn hay vắng mặt tại các cuộc mít tinh của thị trấn, người thông báo mít tinh của thị trấn sau nửa giờ mít tinh sẽ ghé qua nhà những người đến muộn hay vắng mặt, và chỉ có khoảng 60 người có đủ tư cách ban đầu. Tại Sudbury, thị trấn không đặt ra các hình phạt, tỷ lệ tham dự trung bình là 46% trong những năm 1650. Tại nhiều thị trấn mà chúng tôi có đầy đủ bằng chứng thì tỷ lệ cử tri tham dự họp trong thế kỷ XVIII vẫn ở mức thấp. Mansbridge ước tính rằng có 20 đến 60% cử tri tiềm năng tham dự các cuộc họp thị trấn trong thế kỷ XVIII ở Massachusetts. Con số này trong thế kỷ XIX cũng tương tự ngoại trừ giai đoạn xung đột đặc biệt căng thẳng, khi tỷ lệ cử tri tăng vọt lên 75%. Tại thị trấn mà Mansbridge nghiên cứu, số người tham dự trong thế kỷ XIX ở mức 30 đến 35%, trong khi hiện nay là khoảng 25% hoặc tăng lên 66% trong những giai đoạn xung đột căng thẳng.

John Adam kể với bạn bè trong chuyến thăm Worcester năm 1755 rằng: “Toàn bộ thị trấn này mê mải với chính trị”. Tuy nhiên, như nhà sử học Robert Zemsky kết luận, người dân tỉnh bình thường hiếm khi tham gia vào hoạt động chính trị. Anh ta không trông mong vào việc nhậm chức; ít tham gia vào các cuộc họp thị trấn và bầu cử ở tỉnh; và khi tham gia vào các cuộc vận động chính trị thì anh ta cũng chỉ có sự ủng hộ về mặt tinh thần cho sự nghiệp đó, hiếm khi hơn”. Trong cuộc Cách mạng Mỹ, 10 đến 15% thanh niên da trắng bầu cử ngay khi bắt đầu cuộc Cách mạng, 20 đến 40% trong những năm 1780. Các cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên tại Massachusetts năm 1788 và 1790 mang lại 13 đến 16% số cử tri hợp lệ. Tỷ lệ tham gia bầu cử cao trong các cuộc bầu cử bang trong thập kỷ này bắt đầu từ năm 1787 sau thời kỳ “gần tới cuộc nội chiến” do cuộc Nổi loạn của Shays – 28%.

Tại thị trấn vùng New England thế kỷ XIX, nền văn hóa dân chủ nhất trong chế độ thực dân Bắc Mỹ, đôi khi mọi người tham gia tích cực nhất vào chính trị. Theo phân tích của Ronald Formisano về Massachusetts thế kỷ XVIII, “chủ nghĩa phân biệt chủng tộc phổ biến giữa các công dân cho đến khi họ nhận thức được mối đe dọa về lợi ích cận kề của họ”. Trong thế kỷ XIX, trước cuộc vận động đảng phái bắt đầu vào những năm 1840, tình hình cũng không tốt hơn. “Trong những năm 1820, đại đa số công dân không còn quan tâm đến chính trị. Họ không tham gia nhiều trong các cuộc bầu cử tổng thống và ngày nay thỉnh thoảng họ chỉ tham gia vào các vấn đề bang và địa phương”. Vào bất cứ thời gian nào trong quá khứ của nước Mỹ trước những năm 1840, hầu như chẳng có gì đáng kể về việc tham gia chính trị và quan tâm chính trị. Wiliam Gienapp miêu tả đời sống chính trị nước Mỹ trong những năm 1820 như sau: “Trước đây, sự tôn trọng đối với những phần tử tinh hoa của xã hội và sự thờ ơ của công chúng là đặc trưng tiêu biểu cho nền chính trị quốc gia; bất chấp việc luật bỏ phiếu đủ tự do để tham gia sâu rộng, rất ít người quan tâm đến chính trị và còn ít người hơn vẫn tích cực tham gia vào các vấn đề chính trị. Chính trị dường như không quan trọng gì đối với đa số người Mỹ”.

Với sự gia tăng của các đảng chính trị dựa trên số đông trong kỷ nguyên Jackson, việc tham gia chính trị đã tạo ra một bước ngoặt mới. Tỷ lệ bầu cử tăng mạnh. Chẳng hạn, tỷ lệ cử tri tiềm năng bầu cử tại bang Connecticut là 8% năm 1820 và 15% năm 1824. Đến năm 1832 con số này tăng lên 46% và năm 1844 lên tới 80%. Số người đi bầu cử 80% là xu huớng chung bên ngoài miền Nam cho đến khi bước sang thế kỷ mới, khi tỷ lệ này bắt đầu giảm, xuống mức thấp nhất trong những năm 1920 so với bất cứ thời điểm nào trước kỷ nguyên Andrew Jackson. Nếu chúng lấy số cử tri làm thước đo (và đối với tôi đây là thước đo tốt) thì không có sự nghi vấn nào, xét về mặt tham gia chính trị, về việc đây là thập niên vàng của văn hóa chính trị Mỹ, giai đoạn từ năm 1840 đến năm 1900. Đây là giai đoạn cần có sự xem xét kỹ lưỡng hơn. Điều gì tiêu biểu cho văn hóa chính trị trong giai đoạn này? Đâu là bản chất của diễn thuyết chính trị? Những đặc điểm nào của kỷ nguyên này ủng hộ sự tham gia chính trị rộng rãi? Và sự tham gia này có phải là một loại hình hay chất lượng mà ngày nay chúng ta mong chờ hay chí ít rút ra bài học từ đó?

Diễn thuyết chính trị có lý trí-phê bình

Việc xác định tỷ lệ cử tri trong thế kỷ XIX là khá khó khăn. Việc cố gắng biết được cử tri thế kỷ XVIII hay thế kỷ XIX nhận thức về chính trị, đến với quan điểm chính trị và có được những lựa chọn và hành động chính trị như thế nào còn khó hơn nhiều. Có quá nhiều điều chúng ta cần phải biết và chúng ta sẽ không bao giờ biết được chúng một cách toàn diện. Liệu mọi người có bàn luận chính trị tại nhà? Liệu câu chuyện về chính trị tại các quán rượu hay quán cà phê có diễn ra theo kiểu “phê bình có lý trí” hay chỉ là chuyện tầm phào hay là bối cảnh ngẫu nhiên để mọi người làm quen chứ không phải là chủ đề trọng tâm? Điều gì đã đưa mọi người đến với chính trị? Có phải bầu cử là một hành vi đáng tự hào về quyền công dân hay hành động tônt rọng nghĩa vụ xã hội đối với những người có chức quyền trong cộng đồng? Khi nào thì mọi người tìm hiểu về chính trị, họ tìm cái gì? Hiểu biết của họ đạt tới mức nào để tiếp thu thông tin mới? Liệu họ có hệ tư tưởng thống nhất không hay đó chỉ là sự chắp nối những điều họ tin tưởng? Không thể nào biết rõ được những điều này. Tuy nhiên, vẫn xuất hiện một số manh mối quan trọng. Trong phần thảo luận dưới đây, tôi sẽ phân biệt giữa những căn nguyên bên trong để công dân tham gia vào diễn thuyết chính trị và nguyên nhân bên ngoài mà họ sử dụng – cụ thể là các đảng phái, giới báo chí và các thủ tục bầu cử.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.

Phải chăng đã từng có một phạm vi công chúng? – Phần I


Những lời phê bình về đời sống chính trị và văn hóa Mỹ đôi khi được diễn đạt như thể cuộc sống đương thời thể hiện sự suy giảm từ một kỷ nguyên phát triển vàng son. Chẳng hạn, Christopher Lasch tiếc nhớ “sự chuyển đổi của đời sống chính trị từ một bộ phận trung tâm của văn hóa đại chúng thành một môn thể thao có khán giả”. Trong quan điểm của Lasch, cái gì một khi đã tồn tại nhưng lại bị đánh mất sẽ là “cơ hội để thực thi những giá trị đạo đức cùng với sự cân nhắc kỹ lưỡng và tham gia vào tranh luận xã hội”. Những gì chúng ta đang thấy là “sự thoái hóa những giá trị đạo đức này trong những con người bình thường – sự phán xét, cẩn trọng, tài hùng biện, lòng dũng cảm, sự tự tin, khả năng xoay sở, lương tri”. Những hình ảnh khác nhau về những ngày đẹp đẽ xa xưa xuất hiện mà không có sự thống nhất về việc khi nào những ngày đó diễn ra. George Anastaplo, trong số nhiều người khác, đã khiển trách nặng nề sự suy giảm gần đây của truyền hình và ông liên tiếp đưa ra hai khoảng thời gian cho kỷ nguyên vàng son. Đầu tiên, với việc nhấn mạnh rằng mọi người có thể đứng hàng giờ dưới ánh nắng mặt trời để nghe “những lập luận chặt chẽ, thuyết phục”, ông nêu ra những cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas như một sự tương phản với kỷ nguyên truyền hình. Ông lập luận rằng vấn đề của truyền hình không chỉ là nó không thể thông tin, mà nó còn lừa dối mọi người, khiến họ tin rằng họ được thông tin. Trái lại, “một thế hệ trước đây” – tôi lưu ý rằng đây không phải là một kỷ nguyên mà mọi người đứng hàng giờ lắng nghe những lập luận chặt chẽ, thuyết phục ở bất kỳ diễn đàn nào – “bạn sẽ hiểu rằng nếu bạn không đọc một vài điều gì đó thì bạn sẽ không thể nói chuyện về các vấn đề một cách chính xác, và có thể bạn phải nghe theo ý kiến những người đã nhận lấy khó khăn để tự thông tin cho mình”.

Nếu những người tự do nhìn thấy sự thoái hóa đó thì những người bảo thủ cũng vậy. Allan Bloom là người nổi tiếng nhất tranh luận sự suy giảm tuyến tính của văn minh trong một thời đại được thể hiện bằng sự thiếu đặc tính, thiếu tính nghiêm túc, vô kỷ luật, thiếu nghị lực của những người có chức quyền, sự tăng lên của những đặc tính dân chủ nông cạn và tương đối mà cuối cùng dẫn đến sự thù địch với một xã hội tốt đẹp. Cả những người tự do lẫn bảo thủ thường nhìn nhận truyền hình là nguyên nhân, hay ở bất kỳ cấp độ nào, là triệu chứng hàng đầu của sự suy giảm của phạm vi công chúng. Nó khá giống một tấm gương phản chiếu, đặt trong ngoặc đơn giải thích, như trong bài phê bình về truyền thông và đời sống chính trị trên tờ New York Times của phóng viên Michael Oreskes rằng “thế hệ thứ nhất lớn lên cùng truyền hình là một thế hệ tham gia vào nền dân chủ ít hơn bất kỳ thế hệ nào trước đó”.

Trên thực tế, Oreskes muốn nói đến thế hệ thứ hai phát triển cùng với truyền hình, chứ không phải thế hệ thứ nhất, và ông đã sai lầm khi cho rằng thế hệ này ít tham gia vào nền dân chủ hơn bất cứ thế hệ nào trước đó. Tỷ lệ phiếu bầu trong năm 1920 ở mức thấp như trong năm 1984, và tồi tệ hơn trong những năm 1790. Thế nhưng hãy để tôi đưa ra, và coi như là hình thức tương phản chính đối với cuộc thảo luận này, một quan sát của nhà khoa học chính trị Walter Dean Burnham. Trong một bài luận viết vào năm 1974, ông đưa ra ví dụ về những cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas làm bằng chứng cho đặc điểm của cử tri Mỹ giữa thế kỷ XIX. Từ thực tế là các nhà vận động tranh cử có lý trí tìm kiếm sự đắc cử sẽ tham gia vào cái mà dường như chúng ta cho là những cuộc tranh luận thông thái và tinh vi về các vấn đề quốc gia trước bàn dân thiên hạ, và các tờ báo của các đảng với xu hướng hợp lý tương tự để đạt được lợi ích từ ứng cửviên của họ sẽ in lại toàn bộ những cuộc tranh luận trước đó, ông suy luận rằng cử tri giữa thế kỷ XIX là những người hiểu biết, hay chú ý và quan tâm đến những vấn đề thực sự quan trọng.

Liệu những suy luận một cách an toàn này là đúng? Tôi không cho là như vậy. Bản thân Burnham quan niệm như trên nhưng trong những đoạn sau đó ông lại cho rằng những suy luận đó là sai lầm. Ông tiếp tục cho rằng nền chính trị của người Mỹ thế kỷ XIX được đặc trưng bởi thuật ngữ mà ông gọi là “chủ nghĩa xưng tội chính trị”. Đó là, người Mỹ giữa thế kỷ XIX được gắn với các đảng phái chính trị. Họ có xu hướng sống trong “các cộng đồng tách biệt” được bao quanh bởi những người khác giống như chính họ. Những cộng đồng thiểu số và tôn giáo trở thành nền tảng ủng hộ chính trị và thường được gắn liền với nội dung hệ tư tưởng của các đảng phái chính trị. Xét theo một ý nghĩa nào đó, những cuộc vận động chính trị mang tính chất khôi phục tôn giáo và giải trí phổ biến hơn là tạo dựng sự thảo luận phê bình có lý trí. Thật đúng khi cho rằng những cử tri tham gia hay đọc về các cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas trên báo là những người biết chữ. Họ tham gia nhưng không phải tất cả đều hiểu mình tham gia vào vấn đề nào trong những cuộc tranh luận đó. Đúng là họ có tham gia nhưng không rõ là họ có “quan tâm đến những vấn đề quan trọng siêu việt” hay không (hoặc ngay cả khi họ sống vào năm 1858, thời điểm của xung đột chính trị dâng cao, thì nó cũng chẳng ảnh hưởng gì đến lợi ích chính trị của họ trong năm 1848 hay 1868).

Một điểm so sánh có thể làm rõ điều này. Lawrence Levine chỉ ra rằng kịch của Shakespeare cực kỳ phổ biến tại Mỹ trong thế kỷ XIX. Nhưng liệu từ đó có thể biết được khán giả quan tâm đến những vở kịch này như thế nào hay không? Câu trả lời là không. Nghiên cứu của Levine cho thấy khán giả thích Shakespeare vì họ coi ông là người tạo ra hàng loạt những vở kịch mêlo mà họ thích nhất. Họ xem Macbeth và Lear như những cá nhân nổi bật chống lại mối đe dọa của thời gian và thiên nhiên, chống lại định mệnh với tất cả khả năng bản thân mà người Mỹ muốn xem trên sàn diễn. Khán giả coi kịch của Shakespeare là những bài học về đạo đức: Thomas Jefferson coi vở Vua Lear là một nghiên cứu về tầm quan trọng của đạo làm con; Abraham Lincoln lấy vở Macbeth làm nghiên cứu về sự bạo ngược và giết chóc; John Quincy Adams xem vở Othello như lời cảnh báo chống lại hôn nhân khác chủng tộc. Trong hệ tư tưởng phổ biến của người Mỹ và trong hệ tư tưởng của Shakespeare mà người Mỹ cảm nhận được, cá nhân gánh vác trách nhiệm mà định mệnh dành cho anh ta, và nếu thất bại thì đó chỉ là do thiếu sự rèn luyện và kiềm chế bản thân. Tất cả những bài học này xuất hiện trong sự hùng biện mà người Mỹ thích cả trên sân khấu lẫn trong nền chính trị của họ.

Như vậy điều này có ý nghĩa gì đối với tranh luận giữa Lincoln và Douglas? Cũng như một chủ đề lớn của học thuyết văn học đương thời, nó nhắc nhở chúng ta rằng những gì mà khán giả cảm nhận được từ những chủ đề mà nó hướng tới không được thể hiện rõ ràng trong chính những chủ đề đó. Phải chăng khán giả tham gia vào tranh luận giữa Lincoln và Douglas vì họ tìm cách làm theo những lập luận có lý trí và có tính phê bình? Liệu có phải họ tham dự chỉ vì họ đang suy ngẫm về vấn đề chế độ nô lệ và quyền của các tiểu bang? Phải chăng họ sợ bị lạc điệu? Họ có phải là những người rất giỏi hùng biện – những người khâm phục tính hiệu quả của tranh luận giữa Lincoln và Douglas mà chủ yếu là xỏ xiên lẫn nhau và không chú ý đến việc đúng hay sai của những tranh luận đó? Hay họ chỉ đơn thuần muốn thưởng thức cảnh tượng của một trận chiến? Phải chăng họ đã tự nhồi nhét quan điểm chính trị của mình và chỉ thể hiện quan điểm đó bằng việc ủng hộ người mình muốn?

Việc mong muốn các nhà phê bình đương thời trong nền văn hóa chính trị của chúng ta đứng dưới ánh nắng trong ba giờ để nghe những bài diễn văn chính trị là có chọn lựa. Nếu có sự luyến tiếc những cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas (không kể đến các từ, cụm từ hay ý kiến bất kỳ mà người nào cũng có thể nhớ được) thì cũng chẳng ai nhớ đến những bài diễn văn hùng hồn hàng giờ của Edwar Everett tại Gettysburg. Thay vào đó, bài diễn văn huyên thuyên dài lê thê của Abraham Lincoln lại để lại ấn tượng sâu sắc. (Khi điều này diễn ra, trước đó không lâu mọi người thường phải nghe hàng giờ từng câu chữ của những bài diễn văn chính trị có xen kẽ âm nhạc tại các cuộc biểu tình chống chiến tranh trong những năm 1960. Nếu đây có thể coi là một biện pháp thì tôi có thể nói từ kinh nghiệm của bản thân rằng có sự khác biệt rất lớn giữa việc tham dự một cuộc mít tinh và nghe các bài diễn văn).

Điều này không phải để phủ nhận những cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas là sự thực thi dân chủ rất ấn tượng. Thế nhưng cũng cần nhớ rằng những cuộc tranh luận đó là sự kiện khác thường ngay cả trong thời của Lincoln và Douglas. Ý tưởng một phạm vi công chúng cho diễn thuyết có lý trí-phê bình phát triển cực thịnh trong thế kỷ XVIII hay đầu thế kỷ XIX, ít nhất trong trường hợp của người Mỹ, là một khái niệm không thỏa đáng, nếu không muốn nói là không mạch lạc. Cơ sở thực tế của khái niệm này, trong trường hợp của người Mỹ, dường như không đáng lưu ý đối với tôi. Khi chúng tôi xem xét sự miêu tả đời sống thực tế của công chúng, không có nhiều căn cứ để chỉ ra tranh luận có lý trí-phê bình mà Juergen Habermas đặt ở vị trí trung tâm của phạm vi công chúng. Có lẽ thất vọng hơn là trong một số thời kỳ người ta cũng không thể chỉ ra được ngay cả những lợi ích chung nhất, không kể đến việc tham gia, trong những vấn đề xã hội.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.

Cuộc chiến “ngoại giao công chúng” để đói phó với dân quân biển Trung Quốc


Theo bài viết trên trang mạng cfr.org của Hội đồng Quan hệ Quốc tế tại Mỹ, ngày 01/07, Mỹ và các nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc tại Biển Đông đã gặp khó khăn trong việc đói phó với chiến thuật “vùng xám” của Bắc Kinh. Bắc Kinh đang sử dụng “lực lượng đánh cá có vũ trang”, được gọi là Lực lượng dân quân biển thuộc Lực lượng vũ trang nhân dân (PAFMM), làm tác nhân “vùng xám” để khẳng định các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với các vùng lãnh thổ tranh chấp. Có một giải pháp đối phó hiệu quả với các lực lượng bán dân sự như PAFMM, đó là phơi bày các hoạt động “vùng xám” này thông qua các chiến dịch truyền thông xã hội rộng khắp Đông Nam Á.

Dân quân biển Trung Quốc củng cố các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh bằng cách cấm ngư dân các nước Đông Nam Á tiến vào ngư trường dồi dào cá truyền thống của các nước này và giành quyền tiếp cận cho đội tàu đánh cá khổng lồ của Trung Quốc. Các vấn đề tài phán, pháp lý và ngoại giao đã hạn chế khả năng đối phó của Hải quân và cả tuần duyên Mỹ đối với các chiến thuật này của Trung Quốc. Các nước Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền hầu như không có đủ lực lượng hàng hải để chống lại các chiến thuật này. Các tổ chức khu vực như ASEAN gần như chắc chắn sẽ không bao giờ đối phó được với việc Trung Quốc sử dụng đội tàu đánh cá vũ trang tại Biển Đông vì một số thành viên ASEAN “thân” với Bắc Kinh.

Chiến dịch truyền thông xã hội rộng khắp Đông Nam Á là giải pháp đối phó hiệu quả hơn với PAFMM. Cách này sẽ giúp vạch trần vai trò của PAFMM không chỉ là đội tàu đánh cá và phơi bày cách thức PAFMM không những giúp Trung Quốc củng cố chủ quyền mà còn gây tổn hại đến lợi ích kinh tế của khu vực Đông Nam Á.

Mỹ và các nước đối tác gia tăng hiện diện quân sự tại Biển Đông và đưa ra các tuyên bố ngoại giao lên án hành động củ Bắc Kinh ở Biển Đông – những việc này hầu như không có tác dụng trong việc ngăn chặn Trung Quốc sử dụng các lực lượng bán dân sự như dân quân biển. Tháng 4/2021, Bắc Kinh đã điều 220 tàu dân quân biển neo đậu ở Đá Ba Đầu. May mắn là sự hiện diện của nhiều tàu Trung Quốc tại Đá Ba Đầu đã không gây leo thang xung đột.

Việc Mỹ hoặc các nước Đông Nam Á triển khai tàu chiến đến Đá Ba Đầu để đối phó với PAFMM của Trung Quốc là chiến lược thất bại vì:

Thứ nhất, àm như vậy có nguy cơ leo thang căng thẳng. Tàu Hải quân Philippines có thể đánh chìm các tàu dân quân Trung Quốc, nhưng các đơn vị Hải quân và Hải cảnh Trung Quốc đang tuần tra không xa Đá Ba Đầu có thể đáp trả bằng lực lượng hùng mạnh hơn;

Thứ hai, nếu Hải quân Philippines (hoặc một nước Đông Nam Á khác) hoặc tàu chiến Mỹ tiến hành đáp trả vũ trang thì hình ảnh Mỹ và Philippines có thể sẽ biến thành “thảm họa” trong mắt công chúng. Ngay cả khi Hải quân và Hải cảnh Trung Quốc không đáp trả thì hình ảnh các đơn vị quân đội Philippines và Mỹ tấn công vào mục tiêu mà đa phần thế giới coi là “tàu cá phi vũ trang” có thể bị Bắc Kinh miêu tả là “sử dụng vũ lực quá mức”.

Cách tốt hơn để đối phó với việc Trung Quốc sử dụng các đơn vị bán dân sự trên Biển Đông là bắt Trung Quốc phải trả giá về “ngoại giao công chúng” khi thực hiện chiến thuật này. Muốn bắt Trung Quốc trả giá như vậy, cần tập trung vào chiến lược làm nổi bật tiếng nói của ngư dân bị PAFMM quấy nhiễu và chỉ ra rằng các đơn vị dân quân biển Trung Quốc thật ra là công cụ quân sự thực thi các yêu sách của Trung Quốc và cũng gây tổn hại đến sinh kế của ngư dân.

Với sự hỗ trợ tài chính từ các nước như Nhật Bản và Mỹ, các chính phủ trong khu vực như Philippines, Việt Nam có thể xây dựng chiến dịch truyền thông xã hội phối hợp hơn, giúp ngư dân ghi lại được hành vi quấy rối họ trên Biển Đông và sau đó xây dựng video, hình ảnh và câu chuyện về Biển Đông trên các phương tiện truyền thông xã hội trong khu vực và toàn cầu.

Hiện nay, một số ngư dân bị quấy rối trên Biển Đông đăng chuyện và video trên mạng xã hội, nhưng những ngư dân này chưa có chiến dịch truyền thông xã hội bài bản để lồng ghép câu chuyện riêng của họ vào một kịch bản lớn hơn, giải thích đầy đủ hơn vai trò của PAFMM và cung cấp thông tin rộng rãi về việc PAFMM của Trung Quốc tác động tiêu cực như thế nào đến sinh kế trong khu vực.

Nếu chính phủ các nước trong khu vực hợp tác với ngư dân (tất nhiên là những người đồng ý tham gia vào chiến lược này vì việc này có thể khiến họ gặp rủi ro hơn) và có thể xây dựng các câu chuyện về việc ngư dân Đông Nam Á thu nhập thấp đang bị yếu thế như thế nào trước dân quân biển Trung Quốc, thì có thể phơi bày lực lượng này có vai trò không chỉ là đơn vị tàu cá.

Chính phủ các nước trong khu vực cũng có thể giành được thiện cảm trong khu vực và toàn cầu. Ví dụ, hãy nghĩ đến các video về các tàu Trung Quốc quyết đoán, hất tung mẻ cá trên tàu mà một ngư dân Philippines hoặc Việt Nam chật vật đánh bắt được và các video này sau đó được quảng bá thông qua các chiến dịch truyền thông xã hội toàn diện. Ngoài ra, những hành động của Bắc Kinh trên Biển Đông không chỉ tác động đến ngư dân Đông Nam Á mà còn tác động đến toàn bộ ngành công nghiệp chế biến và bán cá trong khu vực.

Các trang thiết bị cần thiết cho việc này gồm thiết bị nghe nhìn như điện thoại di động hoặc các thiết bị có thể truy cập Internet có cài đặt ứng dụng phù hợp cho ngư dân trên biển, các buổi đào tạo cho người dùng về cách tạo, chỉnh sửa và đăng tải các video chất lượng thông qua mạng xã hội và khả năng truy cập Internet ổn định cho các tàu trên biển để cho phép phát trực tiếp các tương tác.

Nếu nỗ lực truyền thông xã hội như vậy miêu tả Bắc Kinh dưới góc độ tiêu cực và sẽ thách thức lợi ích của Bắc Kinh tại Biển Đông, Trung Quốc có thể sẽ phản ứng gay gắt như cho các thủy thủ dân quân biển phá hủy thiết bị nghe/nhìn của ngư dân, bắt giữ ngư dân và đáp trả các nước bằng chiến dịch truyền thông xã hội riêng. Tuy nhiên, vì nhiều chiến dịch truyền thông xã hội của Bắc Kinh rất đơn giản và thường phản tác dụng nên những chiến thuật này có thể phản tác dụng đối với Trung Quốc về quan điểm khu vực và toàn cầu.

Chiến lược truyền thông xã hội như vậy có thể là cách tương đối rẻ và đơn giản cho các nước Đông Nam Á đang đối mặt với lực lượng dân quân biển Trung Quốc ngày càng mạnh. Hơn nữa, chiến lược này có thể đẩy Bắc Kinh vào thế khó vì tiếng xấu “bắt nạt” do sử dụng vũ lực không phù hợp đối với những ngư dân ở thế yếu hơn.

Nguồn: TKNB – 05/07/2021.

Văn hóa tin tức quốc gia và công dân có thông tin – Phần cuối


Kết luận

Rất dễ chỉ ra rằng, với lượng thông tin ồ ạt hiện nay và những quảng cáo cường điệu chứa đầy những thông tin, chúng ta ngày càng dễ bị mờ mắt, chúng ta ngày càng đầu hàng trước những sức mạnh phê bình của chính chúng ta hoặc không bao giờ nghĩ đến nó, coi “tất cả các nhà chính trị đều là những kẻ lừa đảo” hoặc coi “tất cả mọi thứ đều gây ra ung thư”. Nhưng, bất chấp tất cả, mọi người vẫn thấy cuộc sống của họ có ý nghĩa, dù vẫn cảm thấy cáu kỉnh, buồn chán, tức giận và bị thao túng. Sẽ là sai lầm nếu chúng ta chỉ nhận xét thị hiếu mọi người qua cách tiêu dùng của họ. Có một xu hướng tin rằng nếu các đoạn tin ngắn rút ngắn từ một phút xuống 10 giây (và thực tế điều này đã diễn ra được 20 năm), thì khả năng chú ý liên tục của mọi người cũng giảm đi tương ứng. Nhưng điều này không đồng nghĩa với mức độ căng thẳng trong công việc kinh doanh, sự phát triển của kiểu gia đình với hai nguồn thu nhập chính, sức sống của những phong trào ủng hộ và chống đối phá thai, sự quay lại của phục hưng tôn giáo, và thậm chí cả xu hướng tăng điểm SAT.

Vậy thì sự bão hòa truyền thông có nghĩa là gì? Hãy thử dùng phép suy luận tương tự qua đồ ăn nhanh. Hầu hết những người tôi biết đều ăn món Big Macs nhiều hơn cá hồi trong bữa tối ở những nhà hàng sang trọng. McDonald là món ăn nhanh hơn, rẻ hơn, dễ biết trước hơn, để dễ dồn sức vào những phần còn lại của cuộc sống hơn. Điều này không có nghĩa là mọi người thích Big Macs hơn cá hồi. Theo phép lập thừa kinh tế học thì nó cũng không có nghĩa là mọi người “đánh giá” cao Big Macs. Nó cũng không có nghĩa là khẩu vị của mọi người bị nhàm chán. Nó có nghĩa là mọi người đã có những quyết định cho sở thích của mình, và như vậy việc ăn một bữa ăn ngon được lựa chọn sau việc giảm bớt cơn đói. Tôi không cho rằng thành công ngày càng tăng của tờ USD Today nhất thiết phải chỉ ra một sự khác biệt nào đấy; nó không có nghĩa là mọi người coi McPaper là “món ăn” “tốt nhất” hay “món ăn” duy nhất mà họ tìm kiếm; đơn giản chỉ là họ tìm thấy ở nó những gì họ cần ngay ở một tờ báo, vào một thời điểm nào đó với những hạn chế trong cuộc sống thường nhật. Với thời gian và thế giới chung quanh vừa đủ, hay với một vấn đề quan trọng ở địa phương, hay với một cuộc chạy đua vào chiếc ghế tổng thống nóng bỏng, thì lựa chọn của mọi người có thể khác nhau. Lựa chọn của mọi người, trong bất kỳ trường hợp nào, ở bất kỳ thời điểm nào, đều chứa đựng một tập hợp những nguồn thông tin khác nhau.

Nếu chúng ta không thể suy ra thị hiếu cá nhân từ lựa chọn của mọi người thì liệu chúng ta có thể nhìn nhận những gì liên quan đến những giới hạn kho tàng văn hóa hay định hình những cơ hội nhận thức hay không? Có thể, nhưng hãy cẩn thận. Sự phát triển của McDonald buộc các nhà hàng khác phải thay đổi món ăn hoặc đóng cửa. Sự hình thành của McDonald đã giúp các công dân, đặc biệt là giới trẻ, trong vấn đề đồ ăn nào là ngon, thế nào là đồ ăn, thế nào là một bữa ăn. Đây có thể không phải là “người hướng dẫn” mà chúng ta ưa thích nhất cho con cái chúng ta. Đồng thời, người Mỹ ngày nay ăn ít thịt bò hơn trước kia khi McDonald là một tia sáng yếu ớt trong con mắt của Ray Krock: McDonald không phải là “người hướng dẫn” duy nhất trong văn hóa. Bản thân McDonald cũng không được hướng dẫn bởi sự chuyển biến xã hội và văn hóa rộng lớn hơn; hãy nhìn vào sự sẵn có cúa salad và lời tuyên bố rằng món thịt rán sẽ không có mỡ động vật nữa. Một lần nữa, việc đánh giá thói quen hay cơ chế sinh hoạt của người Mỹ từ những yếu tố hiện hữu nhất trong tiêu dùng đại chúng phải được tiến hành thật cẩn thận.

Công dân Mỹ ngày nay có nhiều thông tin hơn so với cách đây một thế hệ. Nhiều thông tin đáng tin cậy hơn. Nhiều nguồn thông tin quốc gia hơn. Nhiều mâu thuẫn được kiểm chứng về thông tin và dư luận hơn. Nhiều thông tin hơn đến với người dân nói chung qua truyền thông chứ không qua chuyên gia trung gian. Nếu tạp chí y học New England Journal of Medecine xuất bản những nghiên cứu thu hút được sự quan tâm của người dân nói chung thì những nghiên cứu đó không được sàng lọc qua những thầy thuốc gia đình mà đến thẳng báo chí, tạp chí, các phóng viên khoa học phát thanh truyền hình và sau đó nhanh chóng được đăng trên các tạp chí phụ nữ và người tiêu dùng. Chí ít đối với những người trung lưu đọc các tạp chí phụ nữ hay bài viết của Jane Brody trên New York Times và được công nhận bởi trình độ giáo dục và địa vị xã hội để chỉ dẫn bạn bè, gia đình và thuật lại cho bác sĩ của họ, thì loại thông tin này là có ích và được sử dụng.

Từ vấn đề này, tôi không kết luận rằng chúng ta có thông tin cần có vào thời điểm thích hợp hay thông tin sẵn có được phân phối công bằng hoặc công dân có thông tin được thông tin đầy đủ. Thư viện thông tin của chúng ta ngày càng làm hoa mắt và chỉ đem lại một ảo tưởng về tri thức và triển vọng nhầm lẫn về năng lực công dân nếu trật tự xã hội không trang bị cho mọi người đủ để sử dụng thông tin, nếu những người trẻ tuổi hay hoài nghi, nếu người nghèo không có hy vọng, nếu tầng lớp trung lưu quá ích kỷ, và nếu sự cướp phá đời sống xã hội vẫn đang làm nản lòng mọi người và làm cho những theo đuổi cá nhân được tưởng thưởng hơn lợi ích tập thể.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Michael Schudson – Sức mạnh của tin tức truyền thông – NXB CTQG 2003.