Chủ nghĩa dân tộc cũng gần như tương tự. Chủ nghĩa dân tộc hiện đại là sự kế thừa hai thế kỷ chuyển biến lịch sử. Do tất cả những nguyên nhân mà tôi đã thử vạch ra, những di sản này thực chất có tính hai mặt. Sở dĩ như thế là vì người để lại di sản không chỉ có San Martín và Garibaldi mà còn cả Uvarov và Macaulay. Như chúng ta đã thấy, “chủ nghĩa dân tộc chính thức” ngay từ đầu đã là một chính sách có chủ ý và mang tính tự vệ, có liên hệ mật thiết với việc duy trì các lợi ích của đế chế và vương triều. Nhưng một khi “đã ở đó để tất cả đều thấy” thì nó có thể được sao lặp tương tự những cải cách quân sự đầu thế kỷ XIX của Phổ và được mô phỏng bởi nhiều hệ thống chính trị và xã hội tương đồng. Một đặc trưng không thay đổi trong quá khứ cũng như hiện tại của kiểu chủ nghĩa dân tộc này là tính chính thức của nó – một đặc tính xuất phát từ nhà nước và phục vụ trước hết cho các lợi ích của nhà nước.
Bởi vậy mô hình chủ nghĩa dân tộc chính thức sẽ trở thành một mô hình đặc biệt tương thích khi các nhà cách mạng kiểm soát thành công nhà nước và lần đầu tiên có thể sử dụng quyền lực nhà nước để theo đuổi các viễn kiến của họ. Chủ nghĩa dân tộc chính thức càng trở nên tương thích ngay cả khi các nhà cách mạng cấp tiến kiên quyết nhất, ở một mức độ nào đó, cũng thường xuyên kế thừa nhà nước của các chế độ đã sụp đổ. Trong số này có những di sản chỉ mang tính biểu tượng, song không phải vì thế mà vai trò của chúng kém phần quan trọng. Bất chấp sự lo ngại của Trotsky, thủ đô của Liên Xô vẫn chuyển về Moscow, kinh đô cũ của Nga hoàng; và trải qua 65 năm các lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn ra các quyết sách ở Kremlin, thành trì cổ xưa của quyền lực Nga hoàng – mà không phải ở các vị trí đóng đô khả dĩ khác trong lãnh thổ rộng lớn của nhà nước xã hội chủ nghĩa này. Tương tự, thủ đô của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là kinh đô của nhà Thanh (mặc dù Tưởng Giới Thạch từng dời đô về Nam Kinh), và các lãnh tụ của Đảng cộng sản Trung Quốc vẫn nhóm họp trong Tử cấm thành của các thiên tử. Trên thực tế, hầu như không một tầng lớp lãnh đạo nào của chế độ xã hội chủ nghĩa lại không leo lên những vị trí lỗi thời nhưng còn ấm cúng đó. Ở mức độ ít nổi bật hơn, các nhà cách mạng thành công cũng kế thừa mạng lưới của những nhà nước cũ: có lúc kế thừa đội ngũ công chức và thông tin viên, nhưng thường là hệ thống tài liệu, hồ sơ, văn khố, luật lệ, sổ sách tài chính, điều tra nhân khẩu, bản đồ, hiệp ước, thư từ, bản ghi nhớ… Giống như hệ thống điện năng phức hợp trong bất cứ một tòa nhà lớn nào mà chủ nhân đã bỏ trốn, nhà nước chờ đợi bàn tay của ông chủ mới bật lại công tắc điện, khôi phục ánh sáng rực rỡ trong quá khứ của nó.
Bởi vậy ta không nên quá ngạc nhiên khi tầng lớp lãnh đạo cách mạng, một cách có ý thức hoặc vô thức, bắt đầu đóng vai trò chúa tể của thái ấp trang viên. Ở đây, chúng ta không chỉ nghĩ đến sự tự đồng nhất của Djugashvili với Ivan Grozny, sự ngưỡng mộ công khai của Mao đối với bạo chúa Tần Thủy Hoàng hay việc Josip Broz phục sinh lại nghi thức và sự hoa lệ của Ruritania. “Chủ nghĩa dân tộc chính thức” gia nhập vào phong cách lãnh đạo hậu cách mạng trong một cách tế vi hơn nhiều. Tức là theo tôi những tầng lớp lãnh đạo như vậy dễ dàng chấp nhận được coi là thuộc tính dân tộc (nationalnost) của vua chúa quá khứ và các nhà nước vương triều. Thông qua một phong trào hồi cố đáng chú ý, họ đã biến các hoàng đế không hề biết đến “Trung Hoa”, “Nam Tư”, “Việt Nam” hay “Campuchia” trở thành đồng bào của một nước (dù không phải lúc nào họ cũng “xứng đáng” trở thành đồng bào). Từ trong sự điều chỉnh này bao giờ cũng xuất hiện chủ nghĩa Machiavelli “nhà nước”, một đặc trưng nổi bật của các chính quyền hậu cách mạng, trái ngược với các phong trào dân tộc chủ nghĩa cách mạng. Các nhà nước vương triều cổ xưa càng được quy về dân tộc thì quá khứ vàng son của chúng càng được phủ trên vai các nhà cách mạng. Hình ảnh Angkor Vat của Suryavarman II, được trang trí trên quốc kỳ của chính quyền Campuchia Dân chủ theo Marxist (tương tự trên quốc kỳ của nước cộng hòa bù nhìn Lon Nol và chính quyền Campuchia quân chủ của Sihanouk), là một biểu trưng không phải cho lòng trung thành mà là cho quyền lực.
Tôi nhấn mạnh đến tầng lớp lãnh đạo, bởi chính lãnh đạo chứ không phải dân chúng mới kế thừa hạng mục và những cung điện cổ xưa. Theo tôi, không ai nghĩ đến chuyện đông đảo nhân dân Trung Quốc lại mảy may quan tâm tới những gì xảy ra dọc biên giới thuộc địa giữa Campuchia và Việt Nam. Cũng không thể có chuyện nông dân Khmer và Việt Nam mong muốn chiến tranh nổ ra giữa nhân dân hai nước hay từng được hỏi ý kiến về vấn đề này. Trong một ý nghĩa rất thực, đây đều là những “cuộc chiến giữa các nguyên thủ” mà hầu như phải sau khi chúng diễn ra, chủ nghĩa dân tộc bình dân mới được huy động, và thường được huy động bằng một ngôn ngữ tự vệ. (Điều này giải thích vì sao tại Trung Quốc, nơi ngôn ngữ này hầu như không có sức thuyết phục, người dân lại không hề quan tâm tới những chiến sự xảy ra, ngay cả khi được tuyên truyền về “chủ nghĩa bá quyền Liên Xô”).
Trong tất cả những thực tế này, Trung Quốc, Việt Nam và Campuchia không phải là những trường hợp duy nhất. Điều này giải thích tại sao chúng ta rất khó có sơ sở để hy vọng rằng những tiền lệ mà chúng tạo ra cho các cuộc chiến tranh giữa các nước xã hội chủ nghĩa sẽ không được theo đuổi hay cộng đồng tưởng tượng của các quốc gia xã hội chủ nghĩa sẽ nhanh chóng bị hạ giá. Tuy nhiên sẽ không có một biện pháp hữu hiệu nào có thể hạn chế hoặc ngăn chặn những cuộc chiến như thế trừ phi chúng ta từ bỏ những kiểu hư cấu kiểu như “các nhà Marxist không phải là cá nhà dân tộc chủ nghĩa” hay “chủ nghĩa dân tộc là thứ bệnh lý của lịch sử phát triển thời hại đại”; thay vào đó từng bước nỗ lực học hỏi những kinh nghiệm thực sự và được tưởng tượng về quá khứ.
Về Thiên sứ của Lịch sử, Walter Benjamin từng viết.
Khuôn mặt của ngài hướng vào quá khứ. Nơi chúng ta nhận ra một chuỗi sự kiện, ngài lại nhìn thấy một thảm họa chất chồng những mảnh vỡ. Ngài ném đống đổ nát đó trước chân mình. Thiên sứ muốn được ở lại, muốn đánh thức những người đã chết và khôi phục những gì bị đập vỡ. Nhưng một cơ bão đang ập đến từ Thiên đường; nó bắt kịp đôi cánh của ngài với một sức mạnh khủng khiếp khiến ngài không thể khép nổi cánh được nữa. Cơn bão không tránh khỏi đẩy thiên sứ vào một tương lai ở phía sau lưng ngày, trong khi đống đổ nát trước mặt ngài thì vươn cao lên trời. Đây là cơn bão mà chúng ta gọi là tiến bộ.
Nhưng Thiên sứ thì bất tử, còn những khuôn mặt của chúng ta vẫn hướng về phía trước tối tăm.
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Benedict Anderson – Cộng đồng tưởng tượng – LHNB 2018.