Công bố hay tiêu vong – Phần I


Một trong những thành tố thiết yếu của khoa học là việc viết ra những kết quả mới phát hiện và công bố chúng để tạo nên một hồ sơ cố định. Xã hội sẽ có được thông tin, trong khi các nhà khoa học được sự tín nhiệm công trạng, trong quan hệ cùng có lợi. Cảnh quan này của công bố khoa học trên chuyên san sẽ hình thành một yếu tố nối kết chặt chẽ của hệ sinh thái, tạo ra một khoa chứa tri thức gắn kết có thể được khai thác sử dụng. Tuy vậy, tính mở ngỏ và tính vô tư hiển nhiên của nó sẽ làm tăng áp lực cạnh tranh, tạo ra những tương tác củng cố chặt chẽ vốn biến vị thế được công nhận trở thành một ưu tiên.

Trong bài này, phần lớn tôi sẽ bàn về các nhà khoa học hàn lâm, bởi vì họ là những người dành được nhiều sự trọng vọng qua việc công bố công trình của mình dưới dạng những trước tác hàn lâm. Khi so sánh với các nhà khoa học công nghiệp, mặc dù đôi khi họ cũng công bố những bài viết, thay vì chủ trương giữ kín tri thức mới mẻ trong công ty của mình, và như sẽ thấy, áp lực của họ là rất khác.

Để khám phá toàn cảnh này của công bố khoa học, trước tiên tôi sẽ bàn về cách các nhà khoa học tìm ra cái gì cần đọc bên trong thư viện khổng lồ của tri thức mà họ đã tạo ra cho đến bây giờ. Điều này sẽ làm rõ lý do vì sao các chuyên san mà các nhà khoa học công bố hiện được xếp hạng theo một trật tự thứ bậc được phân biệt rõ ràng như bất kỳ danh sách best-seller (tác phẩm bán chạy nhất) nào. Trong phần dưới đây tôi sẽ cho thấy cách thức các chuyên san lựa chọn những bài viết mà họ sẽ công bố và cách họ đảm bảo về độ chính xác của nó. Cuối cùng tôi sẽ nhìn vào tất cả những yếu tố đã thúc đẩy các khoa học gia công bố các bài viết ngày càng nhiều và, quan trọng hơn, họ và các bài viết của họ có thể được xếp hạng một cách có hệ thống như thế nào nhằm cung cấp các chỉ số chính (metrics) mà giờ đây đã trở nên vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp của họ. Thông điệp bao trùm của bài này do đó sẽ là cách mà các trật tự thức bậc thúc đẩy và chi phối.

Các nhà khoa học đọc về khoa học nào?

Với phần lớn các nhà khoa học, loại khoa học mà họ đọc được tích lũy trong các bài viết đậm tính chuyên môn khoảng từ ba đến hai mươi trang, và được tập hợp trong những chuyên san khác nhau sau một quy trình đánh giá cẩn thận. Với hơn hai mươi lăm ngàn chuyên san đồng nghiệp thẩm định (bình duyệt), cùng công bố hơn một triệu bài viết mỗi năm, các nhà khoa học có thể chỉ đọc được một phần nhỏ nhất trong đó (có lẽ khoảng một phần mười ngàn). Nếu bạn hco rằng việc đi chợ mua ngũ cốc cho bữa sàng là một việc vặt, hãy tưởng tượng các kệ hàng của siêu thị được đặt khắp cả một thị trấn và rồi cố tìm một hộp đồ ăn mà bạn thích. Thậm chí tệ hơn, những con số ấy cứ 15 năm lại tăng gấp đôi (với mức tăng trưởng 5% mỗi năm). Các bằng sáng chế khoa học dường như cũng tăng triển theo con số tương tự hằng năm. Các nhà khoa học lựa chọn như thế nào?

Các động vật nhận thấy vô cùng gay go khi phải quyết định cách phản ứng lại các thông tin: một cái gì đó thoạt nhìn có thể là độc hại, hoặc đầy hấp dẫn. Một phần của tiến hóa vốn đã dẫn đến vùng não trước rất lớn của chúng ta đã phản ứng lại áp lực lựa chọn này nhằm đưa ra quyết định đúng đắn một cách nhanh chóng. Một bộ não đang phát triển sẽ vận hành các dây thần kinh nhằm tìm ra những điểm sáng đặc trưng bên trong các hình ảnh thị giác, chẳng hạn các đường dọc hoặc các vật mờ tối đang tiến đến gần. Hộp dụng cụ tinh tế ở vỏ não giúp ta đưa ra những quyết định rất nhanh trong một thế giới đầy ắp thông tin. Các nhà khoa học cũng đối mặt với một thế giới tràn ngập chi tiết phong phú. Thật không may, sự tiến hóa đã không mang lại những công cụ hữu ích cho sự lựa chọn cực đoan này, vì thế có một điều gì đó khác đã xuất hiện từ hệ sinh thái khoa học.

Trong những phân tích vào thập niên 1960 kinh điển mà tôi đã đề cập, Derek de Solla Price nhấn mạnh rằng đầu ra của khoa học “đang gia tăng gấp 10 cứ mỗi 50 năm và sẽ gấp một triệu lần cứ mỗi 300 năm vốn tách biệt chúng ta khỏi việc phát minh ra bài báo khoa học ở thế kỷ XVII khi tiến trình ấy bắt đầu”. Rõ ràng, ở những thời điểm nào đó, đã có sự bão hòa, như Malthus đã cảnh báo trong các thế kỷ trước. Những thảo luận vẫn còn đang tiếp tục bàn về vấn đề liệu ngày nay sự công bố của các nhà khoa học có nhiều hơn bởi vì họ “thái mỏng” các kết quả của mình thành những phần ít quan trọng hơn, hoặc đang trở nên ít năng sản hơn bởi vì phải làm việc nhiều hơn để tạo ra một kết quả mới mẻ. Tuy nhiên, sự gia tăng số lượng các chuyên san và ấn phẩm không trái ngược lắm với sự gia tăng số lượng các nhà khoa học trên thế giới.

Gần bốn triệu nhà khoa học hàn lâm tạo ra hàng triệu bài viết được đồng nghiệp thẩm định hàng năm. Điều này xác định một cấp độ của năng suất khoa học với tỷ lệ mỗi nhà khoa học sẽ sản xuất 0,3 bài viết thường niên với một lượng tri thức mới trong hình thức được công bố (lưu ý điều này không phải là cách duy nhất mà lượng tri thức gia tăng). Thông thường, bốn tác giả sẽ xuất hiện trên mỗi bài viết, mặc dù điều đó biến thiên dữ dội tùy theo các lĩnh vực khác nhau: các nhóm hàng trăm thành viên trong lĩnh vực vật lý hạt, những tác giả đơn lẻ trong toán học. Dựa trên cơ sở đó, sự bão hòa trong toàn bộ những công bố đầu ra sẽ phụ thuộc vào tổng số lượng ở mức độ ổn định của các nhà khoa học trên thế giới. Nếu mọi quốc gia đạt đến tỷ lệ 0,4% dân số là nhà khoa học, ta có thể kỳ vọng sáu triệu bài viết được xuất bản mỗi năm, một sự gia tăng gần như theo bậc độ lớn. Ở mức gia tăng hiện tại là 4% các nhà khoa học hằng năm, điều này sẽ đạt được trong vòng 30 năm tới, hoặc khoảng hai thế hệ khoa học, vì thế sẽ vẫn có thời gian để thích nghi. Mặc dù, giống như tất cả chúng ta, hầu hết các nhà khoa học sẽ rùng mình với con số đó, bởi vì họ đang bơi trong một đại dương thông tin và không muốn bị đuối hơi trong đó.

Làm thế nào quyết định những gì mình phải đọc?

Khi đối mặt với những con số như vậy, sự chú ý của các nhà khoa học bị phân mảnh là điều không thể tránh khỏi. Một nhà khoa học đang làm việc về một vấn đề đặc thù sẽ phải tập trung nhiều vào tiến trình phát triển của vấn đề ấy, trong khi đó cũng sẽ phải thu thập một bộ khung nào đó về những gì đã được thực hiện trước kia liên quan đến vấn đề của mình. Họ có thể nhgĩ đến một phương pháp mới nhằm giải quyết một câu hỏi, và nhận thấy mình cần tham khảo những nghiên cứu trong các phân ngành nhỏ khác để thấy được các công cụ của những lĩnh vực này có thể được dùng như thế nào cho hoạt động của mình. Họ có thể muốn thấy các nhà nghiên cứu gần đây đã chọn những cách tiếp cận nào khác, hoặc có thể xem lại những đánh giá về lĩnh vực chủ đề của mình cách đây ít lâu.

Thông thường các nhà nghiên cứu sẽ sử dụng vấn đề của mình để xác định rõ mình nên đọc gì và sử dụng những công cụ điện tử để giúp cho việc tìm kiếm các bài viết, và Google đã trở thành một nguồn cung ứng vô cùng ấn tượng. Các công cụ chứa tư liệu khoa học như cái được gọi là Web of Science cũng có sẵn và nhanh chóng cung cấp hàng ngàn bài viết có thể liên quan đến một vấn đề. Thách thức mà nhà khoa học nào cũng phải khắc phục để len lỏi qua kho chứa mênh mông này là ấn định những tìm kiếm không quá rộng hoặc quá hẹp. Ngay cả lúc đó cũng có quá nhiều bài viết có liên quan được truy cập để phân loại.

Một cách để sắp xếp các danh sách đầu ra như vậy là phải tìm ra ai khác đã xem chúng là quan trọng. Trong các bài viết hoàn chỉnh, các nhà khoa học hiển nhiên đề cập (hoặc trích dẫn) các công bố trước đó của người khác. Mạng lưới của các công bố được trích dẫn có thể được khảo sát trực tiếp thành những mạng liên kết dày đặc của nghiên cứu có liên quan. Những yêu cầu tìm kiếm trong kho lưu trữ điện tử vì thế được xếp loại theo số lần một bài viết được trích dẫn bởi những bài viết khác vốn được xuất bản sau đó. Như với mô hình cây phát sinh chủng loại (phylogenetic tree) vốn cho thấy những con đường tiến hóa qua thời gian, ta thấy sự quan tâm ngày càng sinh sôi – một số bài viết đã sinh ra nhiều nhánh, trong khi một số khác nằm im không có tác động.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Jeremy J. Baumberg – Đời sống bí ẩn của khoa học – NXB TT 2022

Bình luận về bài viết này