Vai trò của đối thoại trong thế giới hôm nay – Phần cuối


Người phương Tây có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết. Tại sao chúng ta có thể thiếu lòng bao dụng đến như thế? Thời phong kiến xưa, sau một triều vua lại đến một triều vua, chẳng có gì thay đổi. Lật đổ triều đại trước, thiết lập triều đại ới, cách biểu thị duy nhất về sự bất đồng của mình với triều vua trước là đốt phá các cung vàng điện ngọc mà triều trước đã xây để làm cung điện mới của mình.

Lý do viện dẫn để đốt phá vẫn được đưa ra là vì triều trước chính sách bạo tàn, triều đại của mình là nhân hậu. Nhân hậu nên mới phải làm cái việc đem chính sách nhân hậu của mình để tàn phá nhà cửa của chính sách hung tàn. Cứ đời này sang đời khác như thế, về mặt tư tưởng thì chẳng xây dựng được cái gì, nhưng nhà cửa thì cứ tiếp tục đốt phá để biểu lộ sự khác nhau.

Ở Việt Nam chẳng hạn, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, các nhà Nho và các quan lại theo Khổng giáo đã đấu tranh bất khoan nhượng để loại trừ Phật giáo khỏi vai trò lãnh đạo đó sao? Nhìn kỹ sẽ thấy thái độ của nhà Nho đời Trần đối với Phật giáo có một cái gì tương tự với thái độ của nhà Nho triều Nguyễn đối với Công giáo. Chính thái độ bất bao dung của tầng lớp sĩ phu sân Trịnh cửa Khồng đã gây nên không biết bao nhiêu tang tóc kinh hoàng cho người Công giáo.

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện có lý khi cho rằng sở dĩ các nhà Nho chủ trương loại trừ Phật giáo là vì “đối diện với Phật giáo là đạo quả quyết mọi sự ở thế giới này đều hư ảo, thậm chí không thực, chủ trương diệt ngã, và hướng tâm trí người ta về những hy vọng diệu thế, Khồng giáo lại dạy rằng con người trước tiên có tính xã hội và bị ràng buộc bởi những nghĩa vụ xã hội”. Đến triều Nguyễn “các nhà Nho đã phản ứng mạnh mẽ hơn nhiều chống lại Kitô giáo, không phải chỉ vì các thừa sai Công giáo đã nhiều khi đóng vai trò mở đường cho chủ nghĩa thực dân, mà cũng vì những khái niệm ơn Chúa, bí tích, Thiên Chúa nhập thể đều xa lạ với tư tưởng Khổng giáo”.

Thái độ bất bao dung này không phải chỉ được áp dụng cho những người “ngoại đạo”, mà cho cả giới sĩ phu. Việc giết công thần và nhất là lệ “tru di tam tộc” (giết cả ba họ), chẳng hạn, là một dẫn chứng hiển nhiên nhất thái độ bất bao dung này. Việc miệt thị và coi rẻ phụ nữ phải chăng cũng là một hệ quả của quan điểm thủ cựu của các môn đồ thuộc “đạo Khổng”? Rồi sự căng thẳng giữa uy quyền và tự do, tập thể và cá nhân không những rất rõ nét trong xã hội phương Đông ngày xưa, mà vẫn còn đè nặng trên cuộc sống hôm nay. Đó phải chăng là những hậu quả và âm hưởng tiêu cực của thái độ bất bao dung?

Khách quan mà nói, nơi các tôn giáo độc thần như Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, thái độ tuyệt đối hóa và bất bao dung thường xuất hiện ở một mức độ cao hơn. Về vấn đề này, Giáo hội Công giáo đã đấm ngực ăn năn, vì trong quá khứ đã nhiều lần hăng say dùng bạo lực và những hình thức bất bao dung để bảo vệ “chân lý” hoặc để “danh Chúa được cả sáng hơn”. Trên lý thuyết, hiện Giáo hội Công giáo đã chọn thái độ bao dung làm đường lối ứng xử với những tôn giáo và những học thuyết khác biệt với giáo huấn chính thức của mình. Nếu trước đây hàng giáo phẩm thường lấy việc kết án và “vạ tuyệt thông” làm lợi khí để bảo vệ “truyền thống đức tin”, thì Cộng đồng Vatican II đã công khai từ chối sử dụng biện pháp đó, ngay cả đối với những học thuyết mà Giáo hội không thể chấp nhận.

Thiết tưởng cần ghi nhận rằng nơi các tôn giáo độc thần, thái độ bất bao dung còn có một lý do sâu thẳm và nhiêu khê hơn: xác tín về tính duy nhất tính của Thiên Chúa và triệt để tính của niềm tin. Thật vậy, theo đúng bản tính của Ngài, Thiên Chúa chỉ có thể là duy nhất, bao gồm tất cả và vượt trên vạn sự. Bất cứ ai quan niệm rằng có hơn một Thiên Chúa, như vậy là đã thực sự chẳng hiểu chút nào về Thiên Chúa. Tertuliano đã quả quyết: “Nếu Thiên Chúa không phải là duy nhất, Ngài không phải là Thiên Chúa”.

Hồng y Karl Kasper tuyên bố trong một hội nghị quốc tế về truyền giáo: “Đối với tâm tình của Kitô hữu, việc tuyên xưng niềm tin nơi một Thiên Chúa duy nhất không thể hiểu theo một ý nghĩa thuần túy số lượng: ngang qua xác quyết này người ta không chỉ muốn nói rằng chỉ có một Thiên Chúa, hơn là hai hay ba. Theo Thánh Kinh, đây không phải là một diễn ngữ về số lượng là trước hết là một xác quyết về phẩm tính. Cần phải nhìn niềm tin nơi một Thiên Chúa duy nhất trong tương quan mật thiết với yêu sách của quyết định thuộc về Thiên Chúa một cách triệt để, bao gồm tất cả tâm hồn và tinh thần. Không ai có thể phục vụ hai chủ. Thiên Chúa là Đấng chiếm hữu chúng ta một cách trọn vẹn, trong tất cả mọi chiều kích của hữu thể chúng ta, và Ngài làm chúng ta được mãn nguyện một cách trọn vẹn”.

Quan điểm này có thể bị coi là tự cao tự đại và gây khó khăn không ít cho đối thoại liên tôn, nhưng nó nói lên tính độc đáo của xác tín về niềm tin: một con người được vinh thăng trở thành Thượng Đế, một Thiên Chúa đã nhập thể làm người; cá biệt triển trở thành phổ quát, vĩnh hằng và vô thường đi vào thời gian.

Từ đó, Đức Kitô chiếm vị trí ưu việt trong chương trình cứu rỗi, vì Ngài là hiện thân của mạc khải tối hậu, phổ quát và tiêu chuẩn cho tất cả. Không có Ngài, vị “Cứu tinh dứt điểm”, thì mọi tôn giáo đều bất toàn và dang dở. Mọi giá trị và chân lý trong các tôn giáo khác, cho dù hoàn bị đến đâu chăng nữa, vẫn phải được “hàm chứa” trong Đức Kitô. Phải chăng yêu sách tuyệt đối về vai trò của  Đức Kitô phần nào gắn chặt với cái nghịch lý và nghịch thường của chính thập giá, ngôn từ và cuộc đời của Ngài? Nếu như hạt thóc gieo vào lòng đất mà không chết đi, không thể đâm mầm nẩy lộc, cũng thế, các cá nhân và tập thể không thể trở thành mô đệ đích thực của Đức Kitô nếu không thanh luyện, hoán cải và thay đổi đến tận gốc rễ?

Không phải vô căn cứ khi Đỗ Mạnh Tri nhận định: “Nếu bỏ một bên những điều kiện xã hội, lịch sử, tâm lý, phải công nhận Kitô giáo, và nói rộng ra: ba tôn giáo độc thần (Do Thái giáo, Hồi giáo, Kitô giáo) rất khó dung hòa. Ba tôn giáo này có thể có thái độ rất cởi mở và tôn trọng đối với các tôn giáo khác, nhưng chính cốt lõi niềm tin của ba tôn giáo ấy có cái gì như một đòi hỏi tuyệt đối làm cho tín đồ dù có hòa với các tín ngưỡng khác mấy đi nữa cũng vẫn bất đồng.

Cụ thể, người Công giáo Việt Nam vẫn hoàn toàn là người Việt Nam, không thể bật rễ. Nhưng đức tin Kitô giáo khi thấm nhuần con người Việt Nam, theo thiển ý của tôi, thay đổi con người này đến tận gốc rễ. Đó là điều khó hiểu. Và vì thế có người không muốn hiểu, hay hiểu lầm. Đối với người Việt Nam, đã là dân Á đông lại là dân từng bị trị, cách đánh giá một tôn giáo du nhập từ phương Tây về mọi phương diện, hiển nhiên có nhiều mắc mứu. Điều tự nó đã khó hiểu lại thành khó hiểu hơn”.

Cộng đồng Vatican II chủ trương đối thoại với mọi người và quan niệm đối thoại như phương thế hữu hiệu nhất để xây dựng một thế giới nhân ái, cũng như để tìm kiếm chân lý. Theo các Nghị phụ, “niềm ước mong đối thoại đó hoàn toàn xuất phát từ lòng yêu mến chân lý và dĩ nhiên với sự khôn ngoan cần thiết, không loại trừ một ai: từ những người đang tôn thờ những giá trị tinh thần nhân bản cao quý, mà chưa nhận biết Đấng Tạo Thành, cho đến những người chống đối và bách hại Giáo hội dưới nhiều hình thức. Bởi vì Thiên Chúa Cha là nguyên lý và cùng đích của tất cả mọi người, tất cả chúng ta được kêu mời trở thành anh em với nhau. Và bởi vì được mời gọi chia sẻ cùng một thiên chức nhân bản và thần linh, chúng có thể và phải cộng tác, không bạo động và không xảo trá, để xây dựng một thế giới hòa bình thực sự”.

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: P. Nguyễn Thái Hợp, O.P – Đường vào thần học về tôn giáo – Dấn Thân, Houston 2004.

Vai trò của đối thoại trong thế giới hôm nay – Phần II


2/ Thái độ bao dung

Cố nhân ta thường lấy “khoan dũ ôn nhu” làm như một đường lối xử thế hợp tình hợp lý. Theo danh từ Hán Việt, khoan là rộng rãi, độ lượng, còn dung là tiếp nhận, tha thứ. Như vậy, bao dung là rộng lòng chấp nhận, tha thứ, bao bọc và độ lượng với người khác.

Từ “bao dung” này cũng thường được dùng để dịch chữ “tolerantia” của tiếng Latinh và những danh từ tương đương trong ngôn ngữ Âu – Mỹ. Theo nguyên ngữ, “tolerantia” mang một ý nghĩa khá tiêu cực, ám chỉ thái độ bó buộc phải chấp nhận những điều khó chịu và bực bội về thể lý. Thiết tưởng cũng không nên quên rằng quan niệm “tolerantia” này xuất hiện vào thế kỷ XVI, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh giữa Công giáo và Tin lành. Sau nhiều cuộc đọ sức tàn khốc, nhưng bất phân thắng bại, hai phe đành chấp nhận giải pháp bao dung tôn giáo: vùng nào đạo nấy và đạo ai người nấy giữ. Dần dần thái độ bao dung được áp dụng cho tất cả các tôn giáo và niềm tin khác. Từ thế kỷ XIX, quan niệm bao dung được áp dụng rộng rãi trong các lãnh vực tôn giáo, tư tưởng, xã hội, chính trị.

Do tính phức tạp, hàm hồ và lấp lửng của hạn từ này, người ta không khỏi cảm thấy ngập ngừng và do dự khi phải xác định bao dung là gì. Thường thường người ta vẫn hiểu bao dung dưới góc độ tiêu cực, bao hàm một thái độ sống lấp lửng và mâu thuẫn: nghĩ một đàng, làm một nẻo; không tán thành điều mình cho là xấu, nhưng cuối cùng ra như lại cho phép nó xảy ra (?). Phải chăng đó là thái độ tri hành bất nhất, nếu không muốn nói là lập lờ và giả dối? Hình như trong thực tại cuộc sống, có những trường hợp vì không thể làm cách khác, đành phải chấp nhận bao dung! Chẳng hạn khi không đủ khả năng để chống lại sự dữ mà mình lên án, hoặc khi thấy việc loại trừ sự dữ nói trên có thể gây nên những đổ vỡ lớn hơn, nên cực chẳng đã đành chấp nhận “bao dung”.

Ngay từ thế kỷ XIII, thánh Tôma nghĩ rằng chính Thiên Chúa cũng không muốn cưỡng chế con người trong việc hành thiện. Có một số trường hợp, xem ra Ngài còn cho phép xảy ra sự dữ “bởi vì việc triệt tiêu những sự dữ này có thể đi đến chỗ phá hủy những điều thiện lớn hơn và gây nên những sự dữ trầm trọng hơn”. Từ cái nhìn hiện thức đó Thánh Tôma kết luận: “Bởi vậy, trong việc trị nước, nhà cầm quyền có thể bao dung đối với một vài hành động xấu, vì sợ rằng nếu làm ngược lại, một số điều thiện sẽ không được thực hiện hay e rằng sẽ xảy ra những điều xấu lớn hơn”.

Tuy nhiên nếu nhìn từ phía phủ định, nghĩa là từ những gì không phải là bao dung, có lẽ vấn đề sẽ bớt tiêu cực hay ít phức tạp hơn. Trước hết, bao dung không có nghĩa là từ bỏ các xác tín cá nhân, để trở thành thứ người ba phải. Bao dung đích thực đòi hỏi phải có lập trường và xác tín riêng, nhưng không áp đặt nó trên người khác, trái lại chấp nhận để người khác cũng có những xác tín riêng của họ. Nói cách khác, chỉ thực sự có thái độ bao dung, khi dám sống và chết với xác tín của mình, nhưng đồng thời biết tôn trọng xác tín của người khác và tạo cơ hội để họ được sống chết với xác tính của riêng họ. Nếu như “một người không hề suy tư thì chẳng bao giờ có xung đột tư tưởng”, cũng thế một người “ba phải”, hoài nghi, không có lập trường… cũng chẳng bao giờ có thể gọi là người bao dung đích thực.

Bao dung đích thực không đồng nghĩa với thái độ thụ động, xề xòa dễ dãi, bất cần, phó mặc. Cũng chẳng phải là thứ “mũ ni che tai”, để cho “thiên hạ sống chết mặc bay”. Càng không phải là thái độ nhắm mắt làm ngơ trước sự dữ, vì sợ phải biểu lộ lập trường, lấy quyết định hầu đối phó với những hiện tượng tiêu cực. Bao dung luôn đòi hỏi phải có thái độ và biết đánh giá sự đời người thế, mặc dù có những lúc sự đánh giá này chỉ nằm trong tâm thức, chứ chưa biểu lộ ra bên ngoài.

Trong mấy thập niên gần đây, nhiều người cho rằng ý niệm bao dung theo quan niệm nói trên hơi tiêu cực, nên đã đưa ra quan niệm khác tích cực hơn. Theo họ, bao dung là “đường lối xử thế chủ yếu làm sao để người khác được tự do trình bày những quan điểm mà chúng ta không đồng ý và nhất là cho phép mỗi người sống theo những nguyên tắc và xác tín riêng”.

Cơ quan văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) chẳng hạn, đã nhìn bao dung dưới góc độ tích cực này. Mục đích và ý nghĩa của thái độ bao dung là tôn trọng quyền lợi và tự do của người khác. Bao dung là nhìn nhận và chấp nhận những khác biệt giữa các cá nhân, là biết lắng gnhe người khác, trao đổi với họ và hiểu họ. Bao dung là nhìn nhận sự khác biệt về văn hóa, cởi mở trước những quan niệm và hình thức suy tư khác biệt (…). Bao dung là nhìn nhận rằng không có văn hóa, quốc gia và tôn giáo nào độc quyền về kiến thức hay chân lý. Bao dung là một cách thế của tự do: giải thoát ta khỏi những định kiến và thái độ giáo điều. Người bao dung là người biết làm chủ quan điểm và hạnh kiểm của mình. Như vậy, bao dung là một thái độ tích cực đối với tha nhân, tuyệt đối loại trừ cái cao ngạo, tự đắc tự phụ.

Trong viễn tượng đó, chúng ta có thể quan niệm bao dung như một cách thế đối xử nhân ái, cởi mở và tôn trọng. Người bao dung không hề dửng dưng đối với những giá trị tôn giáo, luân lý, chính trị hay ý thức hệ, trái lại là người có xác tính sâu xa, nhưng đồng thời biết tôn trọng xác tín của người khác. Có thể coi đây như một hình thức trần tục hóa và hiện đại hóa lòng yêu thương tha nhân: biểu lộ sự trân trọng, niềm cảm thông và mối quan tâm thực sự đối với cuộc sống, nếp nghĩ, quan điểm, chọn lựa… của người khác.

3/ Thái độ bất bao dung

Trong lịch sử nhân loại, chúng ta đã chứng kiến không ít những sự kiện và chứng tích đau lòng về thái độ bất bao dung. Chỉ cần liệt kê những cuộc chiến tranh, những vụ tàn sát đẫm máu vì lý do quyền bính, chủng tộc, tôn giáo, ý thức hệ, chính trị, kinh tế… là đã có một bảng danh sách dài lê thê về tội ác của bất bao dung. Bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ ra! Biết bao “đống xương Vô Định” đã chất thành núi!

Phật giáo thường được coi là thứ tôn giáo từ bi và bao dung nhất. Xét theo bản chất giáo lý cũng như cách thức truyền bá Phật pháp, Phật giáo không chấp nhận sự kỳ thị và cưỡng chế, mà lấy hòa đồng làm cứu cánh, do đó dễ tạo mối quan hệ cộng hưởng với các tôn giáo khác. Tuy nhiên trong giai đoạn hưng thịnh ở thời Lý Trần, chẳng hạn, một vài lần Phật giáo đã rơi vào cám dỗ đóng “vai trò chủ thể” trong “hội nhập văn hóa”. Cũng có trường hợp cưỡng chế các tôn giáo khác, chẳng hạn như khi Trần Nhân Tông đi các nơi kêu gọi phá bỏ dâm từ.

Ngoài ra, cũng không thiếu cảnh các tăng sĩ xách thiền trượng đánh bể đầu, nát xác môn sinh của các giáo phái đối lập! Nếu như chưa thể kiểm chứng được câu chuyện các tăng sĩ Thiếu Lâm Tự đi hành hiệp giang hồ, thì ở Nhật chuyện Phật giáo vũ trang là một thực tại lịch sử. Thật vậy, ở thời trung cổ, tại Nhật Bản, tăng sĩ chia thành nhiều phe phái, võ trang đầy đủ y hệt như các vị Samourai. “Đạo tăng binh của các chùa lớn có thể lên tới một hay nhiều trung đoàn, bởi thế họ tung quân đánh nhau, chùa này đánh chùa kia, và dĩ nhiên vị shogun địa phương nào không khéo hòa giải với chùa, cũng bị đạo tăng binh này đánh cho thất điên bát đảo (…). Hiện tượng tăng binh này chỉ chấm dứt khi một chùa nọ mạnh đến độ mang quân về uy hiếp thủ đô Kyoto, mưu sự nghiệp bá vương. Các lãnh chua phàm tục khác phải đi một đường bát quốc liên quân mới dẹp yên dần dần các đạo tăng binh này.

Đứng trên phương diện nghiên cứu lịch sử, chẳng ai có thể phủ nhận rằng trong mấy thế kỷ vừa qua các nước phương Tây đã phạm rất nhiều lầm lỗi chống lại lòng nhân ái và quyền lợi của các dân tộc nhược tiểu. Nhưng đừng vội cho rằng bất bao dung là độc quyền của phương Tây. Lịch sử các dân tộc châu Á cũng đầy rẫy những chuyện dã man và tàn bạo.

Trước đây, nhà văn Lỗ Tấn đã mổ xẻ những thói hư tật xấu của dân tộc Trung Hoa với hy vọng giúp cho dân tộc của ông vượt qua những căn bệnh trầm kha. Mới đây ông Bá dương, một nhà báo người Tàu hiện sống ở Đài Loan, sau khi phân tích cái xấu của người Trung Quốc, đã thẳng thắn nêu câu hỏi: “Trung Quốc diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có tấm lòng bao la, người Trung Quốc lại có tấm lòng hẹp hòi. Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh (…). Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái mà đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao?”

(còn tiếp) 

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: P. Nguyễn Thái Hợp, O.P – Đường vào thần học về tôn giáo – Dấn Thân, Houston 2004.

Vai trò của đối thoại trong thế giới hôm nay – Phần I


Trong mấy thập niên gần đây, đối thoại đã trở thành danh từ thời thượng, một cách thế sống và một lối giải quyết vấn đề được đề cao trong xã hội. Có thể coi đây là một trong những thành công lớn của nhân loại khi quyết định dùng trí tuệ thay thế cho bạo lực và bom đạn, ngõ hầu giải quyết một cách hữu lý và phù hợp với nhân tính hơn những bất đồng quan điểm, tranh chấp, xung đột… giữa người với người, cũng như giữa các quốc gia với nhau.

Cuộc đàm phán hiện nay giữa Bắc và Nam Hàn, giữa Israel và Palestine là dẫn chứng điển hình về đối thoại trong lãnh vực chính trị. Các hiệp ước thương mại giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc, cũng như giữa Hoa Kỳ với Việt Nam là những thí dụ khác về phương diện kinh tế.

I/ Ý nghĩa của đối thoại

Như đã nói ở trên, trong thế giới hôm nay, đối thoại đã trở thành một từ thông dụng và quen thuộc, được sử dụng trong tất cả các lãnh vực của cuộc sống: đối thoại trong đời thường, đối thoại giữa các thế hệ, các nền văn hóa, các cộng đồng tôn giáo, các thành phần xã hội, các nhà khoa học, các thể chế chính trị, các khu vực kinh tế, các đại học, các xí nghiệp và ngay cả đối thoại với máy vi tính. Sâu xa hơn, ở thời đại dân chủ và đa nguyên văn hóa này, tất cả là đối thoại, bởi vì tất cả trở thành đề tài để thảo luận, suy tư và kiếm tìm. Nhiều quan niệm và quy tắc ngày xưa tưởng chừng như chân lý vĩnh cửu, bất di bất dịch và bất khả xâm phạm… cũng đang bị mổ xẻ và giải thích lại. Tất cả là đối thoại và đối thoại nghiễm nhiên trở thành một biểu hiện tích cực của thời đại.

Người Việt Nam chúng ta đã dùng từ “đối thoại” để dịch chữ “dialogos” của Hy Lạp. Tiếp đầu ngữ “dia” vừa có nghĩa là tách rời và phân biệt, vừa có nghĩa là thông qua. Trong khi đó “logos” là lời nói, lý luận, trí huệ, nhưng đồng thời cũng ám chỉ chiều sâu của ngôn từ và ý niệm. Có người hiểu “logos” na ná như chữ “Đạo” trong “Đạo Đức kinh” của Lão Tử, cho nên không dễ dàng chuyển ngữ mà không mất mát.

Đối thoại trước hết là nói với và nói cùng người khác. Đây không phải chỉ là nói suông, nhất là độc thoại hay nói để thóa mạ, vu khống, lấn át người khác. Lời nói ở đây phải là nhịp cầu – bằng biểu tượng, tâm linh hay hành động – để đi tới tha nhân, để lấp đầy khỏng trống và hố cách biệt sâu thẳm giữa ta với người. Nó đòi hỏi phải vượt thắng cảm xúc, thiên kiến, tập quán để bình thản đặt vấn đề, kiên nhẫn lắng nghe và sáng suốt lãnh hội quan điểm của người.

Đối thoại đã được sử dụng để chuyển đạt sứ điệp tôn giáo. Rất nhiều kinh điển của các tôn giáo là những cuộc đối thoại giữa Thượng Đế với các vị Thiên sai hay các ngôn sứ. Nhiều bậc thầy thời cổ đại cũng dùng đối thoại như một phương pháp chuyển đạt kiến thức cho môn sinh. Nội dung của đố thoại vì vậy rất phong phú và cực kỳ đa diện.

Với triết gia Socrate và Platon, chẳng hạn, đối thoại là một phương thế truy tầm chân lý, ngang qua hình thức trao đổi và đối chất về tư tưởng. Hiền triết Socrate sử dụng đối thoại như một đường hướng triết lý giáo dục. Dưới cái nhìn của ông tổ triết học Tây phương, đối thoại là thái độ dấn thân kiếm tìm chân lý, xây dựng niềm cảm thông giữa người với người. Theo Socrate, sứ mệnh của giáo dục là soi sáng và hướng dẫn, chứ không phải truyền đạt kiến thức một cách máy móc cho người khác. Đây là một hành trình chung giữa thầy và trò. Ông thường mệnh danh phương pháp giáo dục này là “khích biện pháp” (maieutique) và ông thú nhận đã học được nó nơi nghề hộ sinh của mẹ ông. Cũng như hộ sinh không bao giờ có nghĩa là sinh thay cho người khác, mà chỉ giúp đỡ để sản phụ sinh dễ dàng và đảm bảo hơn. Nhiệm vụ của giáo dục cũng không phải là chụp lên đầu môn sinh những quan niệm tiền chế, nhét vào óc họ những tri thức khách quan, mà là khai mở, soi sáng, hướng dẫn, giúp đỡ… hầu làm triển nở chân lý tiềm ẩn nơi mỗi người.

Trong thế giới hiện đại, điều kiện tiên quyết của một cuộc đối thoại đích thực là phải chấp nhận đa nguyên, đa diện, đa văn hóa và trân trọng những khác biệt căn bản giữa người với ta. Đối thoại vì vậy là cuộc gặp gỡ giữa các nhân vị, chứ không phải chỉ là sự so sánh về ý tưởng hay một cuộc đọ sức giữa các hệ thống. Do đó cần phải quan tâm đến mỗi con người cụ thể, với tính tình, kinh nghiệm sống, trình độ học vấn, điều kiện xã hội riêng biệt. Nói cách khác, qua đối thoại mỗi cá nhân được nhìn nhận như những nhân vị có quyền lợi, tự do, cá tính và sắc thái riêng.

Đây cũng là một trao đổi ngôn ngữ theo hai chiều hỗ tương: chấp nhận ý nghĩa của ngôn từ và tính khả tri của nó. Ngôn ngữ thông thường là quy ước xã hội, đặt nền tảng cho mọi cuộc đối thoại. Dĩ nhiên ngôn ngữ có những giới hạn tất yếu của nó. Chính nơi đối thoại tôn giáo chúng ta càng nhận thức được những giới hạn và bất tất của ngôn từ. Cảm nghiệm tâm linh và thần bí luôn vượt trên mọi ngôn ngữ và có khả năng dẫn đưa con người đến chỗ kết hợp sâu xa với Thực Tại Siêu Việt.

Đối thoại luôn bao hàm tính hỗ tương giữa cho và nhận. Dù trong thực tại lịch sử rất ít khi tính hỗ tương này được thực hiện một cách quân bình và trọn vẹn, nhưng một cuộc đối thoại đích thực không thể chấp nhận ưu thế tiên thiên của một đối nhân nào trên những người khác. Không thể có đối thoại đích thực nếu một phe nào đó tự cho mình nắm chắc chân lý và người khác hoàn toàn lầm lạc. Chính ở nơi đây chúng ta đối diện với những khó khăn đặc biệt của đối thoại liên tôn giáo.

Tự bản chất, đố thoại đòi hỏi phải tôn trọng sự khác biệt và chối từ tham vọng chinh phục người khác. Người khác tự bản chất không những không thể đồng hóa với ta, mà còn thực sự khác ta rõ rệt. Nhưng chính nơi sự khác biệt này ta tìm thấy căn tính và đặc thù của họ, làm cho họ là họ, chứ không phải là ta hay một ai khác. Sau một quá trình đối thoại chân thành, rất có thể chúng ta sẽ vượt qua một số bất đồng ban đầu để đi đến một đồng thuận. Dù sao, không thể dễ dàng đốt cháy giai đoạn hay nuôi ý đồ “xâm lược” từ ban đầu.

Cám dỗ thường xuyên của chúng ta là muốn nhanh chóng loại trừ mọi khác biệt, muốn đúc nặn môn sinh theo quan niệm và hình ảnh của riêng mình. Ra như cứ canh cánh sợ rằng người khác, đặc biệt những “đứa con tinh thần” của ta, sẽ không giống ta. Thế nên ta cố sức nhào nặn, bắt chúng phải vào một khuôn khổ nhất định, phải cảm nghĩ, tư tưởng, hành động hệt như ta. Tệ hơn nữa nhiều khi còn lấy tiêu chuẩn chủ quan của ta để đánh giá, phê phán và xếp loại tha nhân: ai phù hợp với tiêu chuẩn của ta sẽ được liệt vào hạng gương mẫu, còn ai có lối sống, nếp nghĩ, tâm thức khác ta… sẽ bị nghi ngờ hay đánh giá thấp.

Nếu bình tâm suy nghĩ chúng ta sẽ nhận ra tính phi lý của thái độ nói trên. Phần nào nó tương tự như tâm trạng của anh chàng hủi trong sách cổ ngày xưa. Lần kia, vợ anh sinh đứa con đầu lòng. Anh chàng hết sức nôn nóng, vừa mừng vừa lo. Nửa đêm vội vã thắp đèn đi xem mặt con. Chỉ canh cánh lo sợ đứa con sẽ khác mình, nghĩa là không hủi như anh!

Ở đây chắc chắn không thiếu tình yêu và thiện chí. Có điều nó bị hiểu sai và đặt không đúng chỗ, nên có nguy cơ biến thành chiếc giường Procuste. Theo thần thoại Hy Lạp, Procuste là một tên tướng cướp kỳ khôi. Y có một chiếc “giường kiểu mẫu”. Mỗi lần bắt được ai, y đặt lên chiếc giường đó để đo. Nếu vừa vặn, y sẽ thả cho đi bằng an; nếu thừa, y sẽ dùng gươm xén bớt; còn nếu ngắn quá, y sẽ kéo cho tới khi bằng chiếc giường mới thôi. Suốt dọc lịch sử nhân loại, biết bao nhiêu lần người ta đã áp dụng chiếc giường Procuste này vào lãnh vực giáo dục, xã hội, chính trị, tư tưởng, tôn giáo?

Vì không chấp nhận tính đa nguyên và đa diện của cuộc sống, rất nhiều lần sự khác biệt của tha nhân đã gây nên nỗi bất an, lo sợ, phiền muộn. Nhiều khi ta đau khổ vì không chịu nổi sự khác biệt của tha nhân hay vì thấy tha nhân có lối sống, quan điểm chính trị, niềm tin tôn giáo… không giống ta. Ta quên rằng chính vì tha nhân là tha nhân nên khác ta, và, nhìn từ một góc độ khác, những khác biệt đó không những có thể làm giàu cho xã hội, mà còn bổ túc và làm triển nở bản sắc của riêng ta. Khai trừ những khác biệt giữa người với ta có thể dẫn đến thái độ áp đặt, độc quyền và độc tôn, mà hậu quả tai hại của nó là có thể khai trừ chính tha nhân. Thái độ đói thoại, trái lại, đòi hỏi chấp nhận và trân trọng tính đa nguyên, cũng như sự khác biệt căn bản giữa người với ta để cố gắng bắc nhịp cầu thông cảm và tiến tới một giải pháp thỏa đáng cho cả đôi bên.

Cuối cùng, đối thoại luôn bao hàm thái độ dấn thân và chấp nhận thách đố. Nó đòi hỏi người đối thoại phải ra khỏi tháp ngà và định kiến và can đảm sửa đổi chính quan điểm và cuộc sống của mình. Người đối thoại chân thành là người dám chấp nhận đặt lại ngay cả những xác tín của riêng mình, dám biến đổi chính cuộc sống hay cách thế sống. Như vậy một cuộc đối thoại đúng nghĩa không loại trừ khả năng thay đổi cuộc đời hay ăn năn hoán cải.

(còn tiếp) 

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: P. Nguyễn Thái Hợp, O.P – Đường vào thần học về tôn giáo – Dấn Thân, Houston 2004.

Bí quyết của thành công – Phần cuối


16/ Tùy thời mà hành sự

Nếu trước khi làm việc, chúng ta chuẩn bị tốt, có kế hoạch chu đáo, lại có sự nghiên cứu và suy nghĩ kỹ càng thì có thể tránh được tai họa, cho dù không thể giải quyết vấn đề được một cách toàn vẹn thì tối thiểu cũng không vấp phải những sai lầm đáng tiếc.

Nếu dựa vào tài năng của mình, cho rằng việc gì cũng có thể giải được thì xem nhẹ sự việc. Trên thực tế, những sai lầm và thất bại lợi thường bắt nguồn từ chính những người tự cao tự đại này.

Đầu triều Thanh, phàm là các đại thần quân cơ ai cũng liêm khiết chính trực, làm việc thận trọng, không giao du với ngoại thần (người ngoại bang). Bước sang thời Uông Văn Đoan thì bắt đầu có sự chuyển biến quan trọng. Uông Văn Đoan rất coi trọng nhân tài, thường đề bạt tiến cử người có tài học, chịu sự quở trách của người đời. Người ông đề bạt đều là những người nghèo.

Vu Mẫn Trung kế thừa sự nghiệp của Uông Văn Đoan, làm đại thần phụ trách điều động nhân sự quân cơ, lại được Càn Long yêu quý nên dần dết kết giao rộng rãi với bọn ngoại thần bỏ qua lời khuyên nhủ của mọi người. Sau khi hai đại thần lưỡng triều là Bá Văn Trung, Lưu Văn Chính rời khỏi ban quân cơ, trụ cột chỉ còn một mình Mẫn Trung thì ông ta lại càng làm càn. Tiếp nữa, sau khi gặp Hòa Thân thì khí chất lại càng tồi tệ. Song về tài năng của Vu Mẫn Trung thì mọi người đều phải nhất trí thừa nhận, trí tuệ sắc bén của ông ta không phải là người bình thường nào cũng có được. Càn Long sáng tác thơ văn không cần bản thảo và bút mà cứ ngâm từng câu một, lúc đầu là do Vu Mẫn Trung bên cạnh ghi chép, không hề sai sót một chữ. Sau này có Lương Dao Phong vào làm tại bộ quân cơ thì Càn Long thấy Vu Mẫn Trung có quá nhiều việc nên giao cho Lương Dao Phong coi việc ngự chế (giúp vua làm thơ văn) để Vu Mẫn Trung chuyên tâm vào chính sự. Từ đó về sau, Vu Mẫn Trung cũng không để tâm đến việc Càn Long làm thơ nữa.

Một lần, Càn Long cho gọi cả Vu Mẫn Trung và Lương Dao Phong và bắt đầu sáng tác ngẫu hứng. Vu Mẫn Trung ra hiệu bằng mắt cho Lương Dao Phong, ý bảo ông ta ghi chép lại nhưng Lương Dao Phong không hiểu ý. Sau khi hai người ra khỏi, Vu Mẫn Trung nán lại bên chờ Lương Dao Phong chép thơ đi ra nhưng chờ mãi không thấy Lương Dao Phong ra liền vào hỏi. Lương Dao PHong đang cuống cuồng không biết xoay xở ra sao. Vu Mẫn Trung nói: “Ta nghĩ rằng đây là công việc chuyên trách của ông nên lão phu không lưu ý lắm”. Lương Dao Phong biết rằng đã gặp họa lớn, vô cùng sợ hãi, không biết phải làm thế nào. Vu Mẫn Trung bèn an ủi anh ta: “Để lão phu nghĩ hộ anh”, nói xong vào phòng ngồi một mình trong khoảng một khắc đã lặng lẽ chép ra đầy đủ, chỉ một vài chữ sai. Trong gần hai năm làm quan, Vu Mẫn Trung có rất ít sai sót là bởi vì ông ta sở hữu bộ óc rất mẫn cảm, sắc bén.

Thời Cao Tông, Vu Mẫn Trung đứng đầu các quan lại người Hán, thời gian chấp chính lâu nhất, về tư cách lễ và nghĩa đều xuất sắc. Vu Mẫn Trung đã từng tham gia cuộc bình định Tân Cương, trù tính việc quân, đã được phong chức nhất đấng khinh xa đô úy, là người có công lớn mà được ban cho tập trước (con cháu nối đời làm quan). Đây là việc hiếm thấy ở thời điểm bấy giờ. Ngoài Trương Đình Ngọc ra, Vu Mẫn Trung là người thứ hai hưởng niềm vinh quang như vậy.

Song tương truyền rằng Vu Mẫn Trung không có được kết cục tốt đẹp như vậy. Nghe nói Vu Mẫn Trung về cuối đời có mắc bệnh nhẹ, xin Càn Long nghỉ mấy ngày. Càn Long đồng ý nhưng lại đột nhiên ban cho ông ta con quay, vốn chẳng phải là thứ hứng thú cho lắm, đặc biệt là đối với Vu Mẫn Trung. Bấy giờ Vu Mẫn Trung vẫn còn sống mà lại ban cho ông ta con quay thì hẳn phải có ẩn ý gì đó. Vu Mẫn Trung đoán ngay là có chuyện gì liền uống thuốc độc mà chết, vài năm sau khi chết còn bị hủy mất danh tiếng Hiền Lương, mất chức Thấ Lập của cháu ông.

Tấn bi kịch của Vu Mẫn Trung phải nói là tự mình gây ra tự mình chịu. Lúc đầu quyền thế của ông ta mạnh vô cùng, sờ tay vào có thể bị bỏng, chỉ vì hiểu sai ý Càn Long mà mầm họa đã mọc lên. Cao Tông cho ông ta tự định đoạt chỉ là để ông ta chịu khuất phục mà thôi. Trước đó, khi Trương văn Hòa cáo quan về đã từng yêu cầu Càn Long tuyên bố đặc lợi của tông ta căn cứ theo những ý chỉ của Ung Chính trước đây, khiến cho Càn Long tức giận không những hạ chiếu chỉ mắng cho một trận mà còn xóa bỏ mọi đặc lợi. Sau khi Trương Văn Hòa qua đời, Càn Long lại khôi phục đặc lợi mà Ung Chính đã ban cho ông ta. Dụng ý của việc này cũng không khác mấy so với vtrường hợp của Vu Mẫn Trung về sau. Ngự giả đại thần của vua tất không giống thường tình, có thể đoán ra được.

Phải lập được sự tín nghĩa mới có thể khuyên răn được người khác, đối đãi với bạn bè cũng vậy. Muốn người khác nghe theo ý kiến của mình thì phải để người ta tin vào phẩm đức của bạn. Khi báo ân cho người ta thì điều cốt lõi chỉ nghĩ đến danh tiết chứ không phải tính toán cái lợi nhỏ nhoi trước mắt. Phàm là người sống dựa vào chủ nhân, phải trung thành với chủ, nếu là kẻ mưu đồ duy lợi thì sẽ không thể đạt được mục đích của mình, thường dẫn đến thất bại. Loại người này thế lực đã bị cô lập rất dễ xảy ra sự ngăn cách và bất hòa với chủ. Lời nói, hành động mà không kiểm soát được thì những lời phỉ báng, công kích cũng sẽ xuất hiện cùng lúc. Do đó, người muốn thực hiện chí hướng của mình thì trước hết phải xây dựng cho mình phẩm chất tốt đẹp.

17/ Luôn mỉm cười

Cười là một nghệ thuật sống. Một người, nếu có thể cười bản thân mình, thì cũng có thể thấy được sự đáng cười của người khác. Trong cuộc sống, một số người chỉ chăm chăm vào lợi ích riêng của bản thân, chuyên tâm vào việc biểu diễn các kiểu kệch cỡm thì cái hư danh và sự hẹp hòi của họ sẽ làm bạn cảm thấy buồn cười.

Tất cả những sự giả dối, bịa đặt, vòng vo của một con người khi bị soi tỏ bởi tâm trạng bình tĩnh, bộc trực nhất, lập tức sẽ biến thành trò cười. Trong lòng khoáng đạt, tất cả mọi thứ trong mắt đều trở nên dễ chịu. Nếu vượt qua được những tính toán tầm thường trong lòng, khoan dung độ lượng thì sự hài hước sẽ tự phát lộ. Trong quan hệ giữa người với người, sự hài hước giống như mưa thuận gió hòa, có thể hóa giải mọi nỗi bực dọc. Những bề tôi ưu tú trong cung đình xưa thường có thể nói lời hài hước với vua mà không gặp họa, trong lời ẩn lời hoặc trong lời có chút hài hước thì giống như một viên thuốc tiên bọc đường, một khi phát hiện ra nó đắng thì đã nuốt vào bụng rồi. Trước mặt vua chúa, những bề tôi thông minh đều giỏi về cách chế tác thuốc bọc đường để có thể khéo léo đưa ra lời can gián. Khả năng ăn nói của họ thường làm cho những vị quan cứng rắn không thể không vứt bỏ tính cố chấp của mình, ví dụ chuyện Mạn Tử Thâm chôn chó, Mạnh Yếu Khiếm chôn ngựa. Theo ghi chép của Thái Sử Công, Tần vương từng muốn mở rộng phạm vi phía Đông đến Hàm Cốc, phía Tây đến kho Ung, Trần. Ưu Chiên nói rằng: “Giỏi. Trong số rất nhiều cầm thú từ Đông đến, bọn trộm cướp từ phía Đông lại, hươu nai có thể đủ dùng rồi”. Tần vương vì thế mà thôi. Ngay Tần Thủy Hoàng, tự nhận là Tôn Giả vĩnh viễn cũng đã từng phải uống loại thuốc bọc đường này và bị thuộc hạ lừa gạt. Trong quan hệ giữa người với người thì loại ngôn ngữ nghệ thuật này cũng được sử dụng khá phổ biến. Thuốc bọc đường không để lộ vị đắng ra ngoài, hoa tươi thì nên ngắm nhìn từ xa, cho nên sự hài hước chính là lời chỉ nói một nửa, “người khôn cái cười chỉ lộ một phần ba”.

Một đặc điểm quan trọng khác của sự hài hước chính là sự hàm súc, tức là kiểu nói nửa chừng khiến cho người khác phải suy nghĩ. Giả sử đối phương có óc hài hước thì cái dư vị lấp lửng này chính là chỗ để thưởng thức trí tuệ hài hước. Nhưng nếu đối phương lại muốn vào thẳng vấn đề thì sẽ hiến người ta cảm thấy vô vị. Theo sử sách, Lưu Định đời Tấn ở ngôi Tam tự, tuy danh vọng hiển hách nhưng rất cần kiệm, ghét xa xỉ. Đến chơi nhà Thạch Sùng, vào nhà xí, thấy có một bức màn hoa, một cái đệm rất đẹp và hai nô tỳ bê bình xông hương, Định bèn lui trở ra, cười nói với Sùng: “Vào nhầm buồng ngủ”. Sùng nói: “Là nhà xí”. Định nói: “Kẻ sĩ nghèo này chưa từng thử qua thứ đó”. Thực ra, Lưu Định làm ra vẻ hồ đồ, nhầm nhà xí với buồng ngủ, chẳng những đã chế giễu sự xa xỉ của Thạch Sùng mà còn để lại những ý tứ sâu xa, có thể đạt được hiệu quả bất ngờ hơn hẳn những lời khuyên can hay châm chọc lộ liễu.

Cười là một nghệ thuật sống, cũng là một thái độ sống của con người. Cuộc sống có rất nhiều gánh nặng cần được giải tỏa bằng sự vui vẻ, cũng có rất nhiều ân oán cần có tiếng cười để xóa bỏ. Những giấc mộng đẹp đã bị tan vỡ bởi hiện thực, những hài kịch bị thay thế bởi bi kịch, người ung dung tự tại tối thiểu cũng có cơ hội tự trào để nhẹ nhàng đối mặt với tất cả. Người không có sự hài hước này thì sẽ không hiểu biết, thông cảm với người khác, không hiểu được điểm yếu và lỗi lầm của người khác. Trong cuộc sống không ai hoàn mỹ, con người khó tránh khỏi sai sót, nhưng người thông minh biết hài hước thì càng ung dung tự tại để vượt qua tất cả.

Có thể tự cười chính mình mới có thể tránh được sự châm biếm của người khác.

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Vietbook – Nghệ thuật nắm bắt cơ hội tùy cơ ứng biến – NXB VHTT 2010.

Bí quyết của thành công – Phần XI


Khoan dung với sự vô lễ hay lỗi lầm của người khác sẽ làm cho người ta phải khâm phục bạn, sau đó bạn sẽ có được những kết quả tốt ngoài tưởng tượng. “Bị nhớ hãy tích lại, muốn làm tốt biến to thành nhỏ” chính là ý nghĩa này. Khoan dung sẽ thành phẩm chất vĩ đại nhất của mỗi người nói riêng và nền văn hóa thế giới nói chung.

Tinh hoa của học thuyết Nho gia là nghệ thuật điều hòa các mối quan hệ giữa người với người. Khoan dung là một bộ phận cấu thành quan trọng của nghệ thuật xử thế. Khoan dung ứng vào thực tế cuộc sống chính là sự hiền hòa, như lời Khổng Tử nói: “Vô ý, vô cớ, vô tất, vô ngã”, tức là thế này cũng tốt, thế kia cũng được, tùy cơ ứng biến. Những người có tính hiền hòa như thế thì được gọi là người “ba phải”. Người có tính ba phải nổi tiếng nhất phải kể đến Tư Đức Mã Tháo thời hậu Hán. Khi nghe Lưu Bị cất nhắc Gia Cát Khổng Minh ông ta bèn nói “tốt”. Có người nói với ông ta rằng đứa con đã chết, ông ta nói: “Tốt quá”. Người vợ trách rằng: “Con người lấy đức làm trọng, sao nghe thấy chuyện con người ta chế mà lại nói là tốt”. Ông ta trả lời rằng: “Ta lại thấy như vậy là tốt”. Vì thế, chuyện người có tính ba phải này lưu truyền cho tới ngày nay. Sự hòa dịu của con người tuy không bắt buộc giống như Tư Mã Đức Tháo, nhưng tinh thần này vẫn có ích trong việc đối nhân xử thế. Trên đời thái độ xử thế khoan dung “đại nhân không tính toán với tiểu nhân” rất đáng được học tập, trong suy nghĩ của bậc “đại trượng phu”, trời đất là mênh mông, cuộc sống là vui vẻ, tinh thần là tự do, cho nên người khoan dung độ lượng có thể có thái độ vị tha đối với cuộc sống.

15/ Người thức thời là tuấn kiệt

Con ốc sên dường như rất thích thú khi cử động hai chiếc sừng nhỏ ở trên đầu của mình, nhưng hai chiếc sừng nhỏ này lại không có uy lực mạnh mẽ. Nếu như chỉ tập trung tranh giành trên chiếc sừng mềm yếu đó thì phạm vi xung quanh chẳng phải càng thu hẹp hơn hay sao, chẳng phải là tự hạn chế mọi cơ hội của mình hay sao? Như thế, dù có thành công nhưng cũng là việc không hợp lẽ lắm. Song sự tranh giành giữa người với người thường cũng chỉ như thế mà thôi, điều này há không phải là chuyện đau lòng sao?

Từ “đấu tranh” nghe giống như một hành động dũng cảm mà xứng đáng, nhưng vấn đề là phải có suy nghĩ sáng suốt. Rốt cuộc là vì nguyên nhân gì lại đấu tranh, có phải là vì danh dự, vì việc tự tình nữ nhi mù quáng hay tiền bạc? Sau một hồi suy ngẫm thì sẽ phát hiện rất nhiều sự đấu tranh to nhỏ chẳng qua đều là vì chuyện vặt vãnh, chuyện không tên mà thôi.

Cuộc đấu tranh trên cái sừng của con ốc sên cũng giống như hình ảnh thu nhỏ từ cuộc đấu tranh của con người. Vì những chuyện chẳng có ý nghĩa gì to tát mà đấu tranh, rốt cuộc bỏ phí cuộc đời, đây là việc khiến cho người ta cảm thấy thật đáng tiếc. Năng lực cá nhân cho dù chưa thể hoàn thành công việc to lớn thì chí ít cũng nên vận dụng vào những việc có ý nghĩa, không phải chỉ gói gọn ở hai sừng ốc sên bé nhỏ ấy, phải cố gắng mở rộng đến phạm vi rộng lớn hơn.

Khi Tùy Dương Đế đến Dương Châu, lệnh cho Dương Tố trấn giữ Trường An. Dương Tố là người có địa vị cao, quyền thế lớn, hách dịch, xa xỉ thường ngồi trên giường tiếp khách, người hầu đứng xếp hàng bên cạnh. Một hôm, Lý Tịnh lấy tư cách là dân thường đến hiến kế. Dương Tố ngồi trên giường tiếp kiến ông ta. Lý Tịnh bước lên trước nói: “Nay thiên hạ đang loạn, anh hùng hào kiệt ồ ạt nổi lên. Ông là đại thần của triều đình, phải có dự định chiêu mộ hào kiệt, không nên dùng thái độ kiêu ngạo để tiếp khác”. Dương Tố nghe xong vội ngồi dậy, tỏ vẻ rất vui mừng trò chuyện với Lý Tịnh, sau đó quay về phòng. Trong lúc Dương Tố và Lý Tịnh đang nói chuyện, có một thị nữ rất xinh đẹp, tay cầm chiếc phất trần màu đỏ đứng ở trước chăm chú nhìn Lý Tịnh, khi Lý Tịnh ra về thì cô ta vội vàng đến bên hỏi: “Họ gì? Sống ở đâu?”. Lý Tịnh nói với cô ta.

Lý Tịnh trở về phòng trọ, đến canh năm đột nhiên nghe tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Lý Tịnh tỉnh dậy ra mở cửa thì thấy một người mặc bộ quần áo màu tím, đội chiếc mũ lớn, gánh hành lý trên một chiếc gậy. Người khách lạ nói: “Thiếp là người con gái cầm cây phất trần đỏ trong nhà Dương Tố”. Lý Tịnh vội mời cô ta vào phòng, người này cởi áo mũ ra, hóa ra là một cô gái đẹp khoảng mười tám, mười chín tuổi, sau khi hai bên chào hỏi nhau xong, người con gái nói: “Thiếp đến gửi tấm thân này cho ngài”. Lý Tịnh nói: “Dương phủ rộng lớn, quyền cao chức trọng, thế này sao được?” Người con gái nói: “Ông ta đã lớn tuổi rồi, rất nhiều thị nữ đã rời khỏi ông ta, ông ta cũng không sao truy cứu được. Trước khi đến đây thiếp đã suy nghĩ hết mọi lẽ rồi, ông không phải lo lắng gì đâu”. Rồi cô ta nói cô ta họ Trương. Lý Tịnh vừa mừng vừa sợ, cảm thấy thấp thỏm không yên. Mấy hôm sau, cô gái vẫn không hề thay đổi ý kiến, lại cũng không nghe thấy có người đang đi tìm mình nên Trương Thị đã cải trang thành nam nhi rồi cùng Lý Tịnh quay về Thái Nguyên.

Một hôm tới quán trọ Linh Thạch, giường đã chuẩn bị sẵn, thị dê trên bếp cũng đã chín, Trương Thị đang chải tóc, Lý Tịnh đang kỳ cọ cho ngựa bên ngoài thì bỗng có một người tầm thước, râu quai nón dài, đỏ, cưỡi con lừa quê đến, vào phòng, đặt hành lý lên trên bếp, lấy chiếc gối rồi tự nhiên nằm xuống nhìn Trương Thị chải đầu. Lý Tịnh rất bực, Trương Thị nhìn kỹ người này, một tay nắm lại, một tay đưa ra đằng sau xua xua, ý bảo Lý Tịnh đừng nổi nóng. Trương Thị chải đầu, mặc quần áo xong liền hỏi ông ta họ gì, ông ta nói: “Họ Trương, là con thứ ba”. Trương Thị nói mình cũng họ Trương, nên gọi nhau là huynh muội. Cô gọi Lý Tịnh lại: “Chàng Lý mau vào gặp anh ba”. Lý Tịnh vội chào người khách. Ba người ngồi với nhau, người khách hỏi đang nấu món gì trên bếp, Trương Thị nói: “Là thịt dê, có vẻ đã chín rồi”. Người khách nói: “Tôi đói rồi”. Lý Tịnh vội ra phố mua rượu. Người khách lấy ra một con dao nhỏ, cắt thịt và ăn uống rồi đem số thịt, xương còn lại cho lừa, hành động rất nhanh. Người khách hỏi: “Xem ra Lý lang là kẻ hàn sĩ, làm thế nào có được người con gái đẹp như vậy?” Lý Tịnh thuật lại mọi chuyện cho ông ta nghe, nói rằng dự định đến Thái Nguyên lẩn trốn. Người khách lúc này muốn uống rượu bèn đến mở hành lý của mình lấy ra một cái đầu người và một bộ tim gan. Ông ta cất đầu đi, thái tim ra nhắm rượu, vừa uống vừa nói: “Đây là người vong ân bội nghĩa nhất trên đời, tôi hận hắn ta mười năm rồi, hôm nay đã tìm thấy hắn ta, rửa được hận”, rồi nói tiếp: “Tôi thấy anh Lý quả thật dung mạo hiên ngang, là người rất có tương lai, anh có nghe thấy ở Thái Nguyên có người rất tài giỏi không?” Lý Tịnh đáp: “Tôi đã từng nhìn thấy một người họ Lý, mới hai mươi tuổi, là một nhân vật phi thường”. Vì thế hai người hẹn gặp nhau trên cầu Thần Dương, muốn thông qua một người tên là Lưu Văn Tĩnh, người đó quen biết với vị công tử họ Lý nnày để gặp anh ta.

Đúng ngày hẹn, Lý Tịnh gặp người khách rồi lại hẹn Lưu Văn Tĩnh gặp công tử Lý, công tử Lý phong thái rất đường hoàng đĩnh đạc, sau khi uống vài chén người khách nói với Lý Tịnh: “Đây mới đúng là chân thiên tử”, rồi từ biệt, lại hẹn gặp nhau trên cầu Thần Dương. Khi gặp thì người khách đang đánh cờ với một đạo sĩ, Lưu Văn Tĩnh cũng mời công tử Lý đến. Vị đạo sĩ đang đánh cờ nhìn thấy vẻ sáng sủa của công tử Lý liền nói: “Ván cờ này xin thua”, rồi không chơi nữa mà rời khỏi đó. Người khách lại hẹn gặp Lý Tịnh tại một ngôi nhà nhỏ ở Kinh Sư. Lý Tịnh gặp vợ con của ông ta, lại thấy trong nhà bầy la liệt đồ quí hiếm, nô tì rất đông. Uống rượu xong, ông ta gọi người nhà khiêng ra hai mươi chiếc giường, bên trên che gấm hoa, lật ra đều là đồ quý và tiền bạc, nói: “Đây là toàn bộ tiền bạc của tôi, tăng cho anh hết, vì sao ư? Muốn hoàn tất sự nghiệp, còn phải đấu tranh hai mươi, ba mươi năm nữa. Bây giờ thiên hạ đã có chủ, tôi còn ở đây làm gì? Công tử Lý ở Thái Nguyên thực sự là một quốc chủ anh minh, trong vài ba năm nữa thiên hạ sẽ thái bình. Lý Tịnh, câu có kỳ tài, nếu phù trợ cho chủ anh minh, tận tâm tận lực thì sẽ thành đại thần. Không c1o Trương muội, tôi không thể quen biết được với cậu. Không có Lý Tịnh thì cũng chẳng thể làm Trương muội được vinh dự. Người ta hoàn thành sự nghiệp cũng không phải là ngẫu nhiên. Hôm nay tôi giao hết gia sản cho anh, mong anh dùng nó để phò trợ minh chủ, giúp đỡ công tử Lý ta làm tròn đại nghiệp. Hy vọng anh sẽ nỗ lực hết mình, mười năm sau, trong vòng mấy nghìn dặm vùng Đông Nam này sẽ có chuyện kỳ lạ xảy ra, đó chính là thời điểm thành công của ta. Trương muội có thể uống rượu chúc mừng cùng anh Lý”.

Sau đó người lại ra lệnh cho người nhà ra bái kiến, rồi nói: “Lý Tịnh và Trương muội từ nay sẽ là chủ nhân của các người”. Nói rồi bèn cùng vợ và một người hầu thắng ngựa đi.

Lý Tịnh được nhà cửa của ông ta, phút chốc trở thành người giàu có, dùng tiền bạc giúp Lý Thế Dân giành được thiên hạ. Sau khi Lý Thế Dân lên ngôi hoàng đế, Lý Tịnh làm quan đến chức Hữu bộc xạ bình chương sự. Sau được tin là ông khách có bộ râu quai nón kia phò giúp cho quốc vương, Lý Tịnh và Trương Thị liền hướng về phía Đông Nam dâng rượu. Tương truyền binh pháp của Lý Tịnh là đều do ông khách có bộ râu quai nón này truyền lại, sau này Lý Tịnh được phong là Vệ quốc công.

Nghe đâu trước đó ông khách có bộ râu quai nón kia có ý muốn tranh giành thiên hạ với Lý Thế Dân, muốn xem thật giả thế nào nên mời Lý Thế Dân đến. Ông ta nhìn khắp lượt, rồi nói: “Tôi muốn định thiên hạ”. Lý Thế Dân ung dung mỉm cười: “Tôi muốn là định được thiên hạ”, ông khách có râu quai nón bất giác thở dài, bước ra đến cửa, tự nhận không bằng Lý Thế Dân, từ bỏ tham vọng tranh đoạt thiên hạ. Rồi quyết tâm gửi gắm hết sản nghiệp cho Lý Tịnh, bảo anh ta phò giúp Lý Thế Dân làm nghiệp lớn. Hành động này đích thực là sự thể hiện đầy đủ bản sắc anh hùng, tính cách khẳng khái, thức thời của người nghĩa hiệp. Hiểu biết lẫn nhau, ủng hộ lẫn nhau, ngưỡng mộ tán thưởng lẫn nhau, cùng trở thành người tốt đều là những biểu hiện của nghĩa khí. Trong thời buổi thiên hạ loạn lạc, nhân dân đều mong chờ người hiền ra giúp đời, trị quốc an dân, hy vọng có bậc anh hùng hào kiệt thật sự biết lấy đại cục làm trọng, không bận tâm đến cái được mất của cá nhân, sớm chấm dứt sự tranh giành, đạt đến mức độ lý tưởng thiên hạ thái bình.

Hoàn cảnh xã hội tương đối ổn định cũng luôn cần đến nghĩa khí, vì xã hội luôn phát triển tiến lên phía trước, đòi hỏi trượng nghĩa trở thành một tập tục xã hội không thể thiếu. Thiết nghĩ lấy sự thành thực để gặp nhau, giúp đỡ lẫn nhau, yêu thương lẫn nhau, cùng nhau làm nên đại sự thì có gì là không tốt. Điều này nếu được phổ biến thì sẽ thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Từ đó có thể thấy những bậc nghĩa hiệp được đời sau yêu quý không phải là ngẫu nhiên.

(còn tiếp) 

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Vietbook – Nghệ thuật nắm bắt cơ hội tùy cơ ứng biến – NXB VHTT 2010.

Bí quyết của thành công – Phần X


13/ Luôn luôn giữ chữ tín

Là một người lãnh đạo, nhất là lãnh đạo cấp cao không chỉ biết làm báo cáo, ăn nói trôi chảy, biết dùng lời lẽ thuyết phục quần chúng mà quan trọng hơn cả là phải biết dùng hành động của mình làm gương, ép mình vào kỷ luật. Bởi vì mỗi hành vi, cử chỉ lời nói của mình đều bị quần chúng nhân dân quan sát chặt chẽ và động lực lớn nhất của họ cũng chính là hành động của mình. Đem hành động của mình thể hiện trong công việc là cách thu phục lòng người nhất. Tục ngữ có câu: “Hành động là bài học không có âm thanh”. Một loạt những lời đao to búa lớn đều không bằng hành động xắn áo, bắt tay vào việc. Con người ta rất dễ bị một số chuyện nhỏ nhặt hay chuyện tình cảm chi phối. Quan trọng hơn chính là bỏ dần ham muốn vật chất và hưởng thụ, làm cho mình và quần chúng không có sự cách biệt, biến mình thành một người bình thường giản dị, yêu cầu người khác làm được việc thì trước tiên mình cũng phải làm được. Như vậy lời nói mới có sức thuyết phục.

Về chuyện Tào Tháo “cắt tóc thay đầu” tỏ ra quân lệnh nghiêm ngặt có nhiều ý kiến khen chê khác nhau.

Có người khen rằng đây là do Tào Tháo giỏi cơ biến nhưng có nhiều người lại cho rằng chuyện này đã cho thấy sự hiểm ác, gian tà của Tào Tháo. Cũng có người nhìn nhận chuyện này thể hiện rõ quân lệnh nghiêm minh của Tào Tháo. Trên thực tế chuyện này đã phản ánh được sự tài trí nhanh nhạy giỏi tùy cơ hành sự của Tào Tháo.

Tào Tháo ra lệnh công bố cho mọi người rằng: “Bất kể là đại tướng hay tiểu tướng quân, khi đi qua ruộng lúa mạch, nếu giẫm lên cây thì bị tội chém đầu, quân lệnh nghiêm minh…”

Một lần Tào Tháo đang cưỡi ngựa đi, thình lình ở giữa ruộng một con chim bay lên, con ngựa thấy lạ mắt liền lao xuống ruộng, giẫm nát của một mảng rộng lớn. Tào Tháo lệnh cho Chư Bột xét tội giẫm nát ruộng lúa mạch của mình. Chư Bột nói: “Thừa tướng mà cũng phải chịu tội ư?” Tào Tháo đáp: “Ta đặt ra luật nhưng ta lại phạm luật!” Nói rồi Tào Tháo định rút kiếm cắt cổ tự sát. Quần thần vội xúm vào ngăn lại. Quách Gia nói: “Thời Xuân Thu có chủ nghĩa ‘Phép nước phải nể chủ’. Thừa tướng đứng đầu cả đại quân lẽ nào phải tự phạt ư?” Tào Tháo trầm ngâm một lát, rồi nói tiếp: “Tuy phép nước phải nể chủ song vẫn đáng bị trị tội chết” và rút kiếm tự cắt tóc mình. Tào Tháo nói: “Quyền cắt tóc thay chặt đầu”.

Việc ngựa của Tào Tháo giẫm nát ruộng lúa mạch vốn không phải là cố ý. Lỗi của Tào Tháo không chỉ cần nói rõ tình hình là có thể có cách xử lý thích hợp. Như thế thì không thể không khiến lòng dân phục. Tào Tháo không tiện nói ra lời giải thích cho mình nên phải giả vờ ra vẻ “Rút kiếm ra tự cắt cổ mình”.

Sự việc này cũng là một lần biểu diễn tài nghệ của ông vua quyền thuật. Quyền thuật của Tào Tháo cao tay ở chỗ ông ta không lấy nguyên nhân khách quan để gỡ tội cho mình mà dùng tóc của mình để thể hiện tính nghiêm minh của kỷ luật quân đội, khiến cho mọi người đều phải quy phục, loại quyền thuật này dù là xét từ ý đồ chủ quan hay từ hiệu quả khách quan thì đều rất đúng đắn chứ không hề có sự gian hiểm nào. Nên xem đây như là trí tuệ tài giỏi, tùy cơ ứng biến nhanh nhạy của Tào Tháo.

14/ Lấy đức báo oán

Người xưa có câu: “Bậc đại nhân không chấp kẻ tiểu nhân”, tức là không giống với suy nghĩ thông thường của người khác, trước tiên phải chiến thắng đối phương về phong thái, để cho đối phương cảm thấy anh ta chỉ là kẻ tiểu nhân nhỏ mọn trước mình. Kiểu “đại nhân” này là những bậc quân tử có lòng bao dung rộng lớn. Trong Thái Căn Phổ có câu nói thế này: “Thuật xử thế nhường một bước là cao, lùi là cái gốc để tiến, khoan dung với người khác là phúc, lợi cho người chính là lợi mình”. Trong thuật xử thế hòa hợp với người, một mặt nhường bước, mặt khác vui vẻ tán dương người khác. Đó chính là phong thái của “người quân tử” là “triết học xử thế” của bậc “đại nhân”. Tính tình khoan dung độ lượng dễ làm cho người khác cảm thấy an toàn khi tiếp xúc, sự thoải mái có lợi cho trao đổi tình cảm, mà sự hiểu biết nơi sâu thẳm nội tâm của đối phương sẽ tốt cho quan hệ hai bên.

Khổng Tử từng nói: “Người quân tử thẳng thắn vô tư, kẻ tiểu nhân thì bi ai ủ rũ”. Thẳng thắn, vô tư, rộng lượng, khoan dung, có tấm lòng bao dung thì con người mới thoải mái, mới có thể vô tư, không dễ cáu giận, đó là nghệ thuật xử thế của con người. Chẳng trách cuốn Nhiễm ngôn cũng viết rằng: “Trăng qua rằm thì trăng không sáng rõ, người ở tuổi trung niên thì vạn sự hòa hợp”. Trong đó, ý nghĩa của chữ “hòa” vô cùng sâu sắc, nó có thể dung người dung vật, cho nên có thể đem tới sự vui vẻ. Con người ta vốn không cần phải quá hà khắc với người, với mình. Khoan dung không những là một nghệ thuật trong giao tiếp giữa người với người mà còn là thái độ đối nhân xử thế, đồng thời cũng là một sự tu dưỡng quan trọng về nhân cách. Người xưa có câu: Khi lấy lòng khoan thứ để bao dung vật, vật tất sẽ quay về, nếu nghiêm ngặt hà khắc sinh ra thì lòng bần tiện mà không có sự tự giác. Cho nên bậc đại nhân để vật tự do thoải mái, không làm khổ người, không xét nét người, vì thế có thể kết giao bốn biển”. Người xưa thường trọng sự khoan dung. Có câu cách ngôn thế này: “Đỉnh đầu tướng quân có thể phi ngựa, trong bụng tể tướng có thể dong thuyền”. Phương Tây cũng có câu nổi tiếng: “Trên thế giới, cái lớn nhất là đại dương. Rộng lớn hơn đại dương là bầu trời, rộng lớn hơn bầu trời là tấm lòng con người”. Có thể thấy lòng khoan dung của con người đã tôn vinh phẩm chất tốt đẹp của họ và được thể hiện rõ từ trong ra ngoài.

Các học phái nổi tiếng cổ xưa phần lớn đều sùng bái tinh thần khoan dung độ lượng. Trong đó, nổi tiếng là ba học phái: Nho, Đạo, Phật. Trong caác bài học về khoan dung độ lượng của Nho, Đạo, Phật thì Phật gia cho rằng lòng khoan dung độ lượng là vô điều kiện. “Dập tắt lửa trong lòng, thắp lên ngọn đèn Phật”.

Một đôi vợ chồng ở gần Tự Ẩn thiền sư. Trong nhà có một cô con gái chưa chồng mà chửa, bố mẹ bức hỏi con gái, cô ta bèn chỉ Tự Ẩn thiền sư là bố của đứa trẻ, bố mẹ cô ta tức giận đi tìm Tự Ẩn. Tự Ẩn nghe xong lời chửi mắng, cuối cùng nói: “Ra là thế”. Sau khi đứa trẻ ra đời, vợ chồng nhà kia lập tức đem đến cho Tự Ẩn thiền sư. Đại sư tuy chịu tiếng xấu ở bên ngoài nhưng không hề bận tâm, hết lòng nuôi đứa trẻ khôn lớn. Vài năm sau, chân tướng sự việc mới bị bại lộ, hóa ra cha ruột của đứa trẻ là một tên lưu manh. Cặp vợ chồng này không còn chỗ đứng bèn đến sư dâng lên lễ vật tạ lỗi với thiền sư và xin nhận lại đứa trẻ. Khi giao lại đứa trẻ Tự Ẩn đại sư chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng: “Chính là như vậy sao?”.

Lấy đức báo oán là bài học của Phật gia. Có người hỏi Khổng Tử, rằng: “Lấy đức báo oán là thế nào?” Khổng Tử trả lời: “Nho gia dạy con người hãy khoan dung với người khác. Bề ngoài là vì người, nhưng thực chất là vì mình. Nho gia lấy nhân ái để mưu cầu sự hòa thuận giữa người với người, thực ra cũng là vì mình mà thôi”. Vu Chướng hỏi: “Lấy gì để đạt được “nhân”?” “Năm điều đó là “cung, khoan, tình, mẫn, tuệ” (cung kính, khoan dung, tình cảm, nhạy bén và sáng suốt). Cung kính là không xấc xược, khoan dung thì sẽ được lòng của quần chúng. Tình cảm thì sẽ được người yêu quý, nhạy bén thì có công lao, sáng suốt đủ để sai khiến người khác”. Khoan dung thì được lòng quần chúng, do vậy muốn được lòng quần chúng tất phải khoan dung. Sách sử xưa cho thấy rằng phàm là những nhà chính trị có chút thành tựu thì không ai không có lòng khoan dung. Trong Hậu Hán thư có ghi rằng: Thời Đông Hán, có vị đại phu Lưu Khoan khoan dung, độ lượng. Có người mất trâu, nhận nhầm trâu đóng trong xe của ông, Lưu Khoan không nói gì, xuống xe đi bộ về. Người nhận lầm trâu biết bị nhầm đến trả trâu về, cúi đầu tạ ơn mà nói rằng: “Thật phụ lòng người trên, xin được chịu tội”. Ngài nói: “Vật có bao nhiêu loài giống nhau, khó tránh được sai sót, tại sao phải tạ ơn?” Con người Lưu Khoan, quả thật danh bất hư truyền. Vợ của ông vì muốn thử xem lòng khoan dung của chồng đến mức nào, bèn nhân lúc ông muốn vào triều dâng tấu, đã ăn mặc chỉnh tề, cố ý sai người hầu dâng món ăn lên và làm bẩn bộ triều phục. Lưu Khoan không hề thay đổi sắc mặt, mà nhẹ nhàng hỏi: “Có bỏng tay không?” Từ đó có thể thấy được lòng khoan dung của ông là rất lớn, có thể xứng đáng là bậc trưởng giả làm đến chức Thái Úy, Thiếu phủ.

(còn tiếp) 

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Vietbook – Nghệ thuật nắm bắt cơ hội tùy cơ ứng biến – NXB VHTT 2010.

Bí quyết của thành công – Phần IX


11/ Nuôi chí trong thanh đạm

Chính vì không tranh đấu với người khác nên mọi người cũng không ai tranh đấu với bạn. Không tranh đấu với đời tức là nuôi chí trong sự thanh đạm.

Đề xướng “thanh đạm” không phải để chúng ta trốn tránh hiện thực mà là hi vọng cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn.

Có một số người lúc có tuổi, vinh hoa phú quí đều không màng đến nữa, nhưng đại bộ phận vẫn không rút ra được khỏi vòng danh lợi và vì danh lợi mà trăn trở khôn nguôi.

Trong Giới Dư thư của Gia Cát Lượng có viết: “Hành động của người quân tử lấy tĩnh để tu thân, lấy việc kiệm để dưỡng đức, không thanh bạch không thể có chí sáng, không yên lặng không thể vươn xa. Công phu học phải tĩnh, muốn có tài phải học, không học không phát triển được. Lười biếng thì không thể đi sâu nghiên cứu, nóng vội thì không thể hiểu biết cặn kẽ. Năm tháng trôi qua, ý cũng trôi qua, người toại nguyện như ý trên đời này rất hiếm hoi. Cứ giữ cảnh nhà nghèo, còn gì bằng được?”

Ở đây, chữ “kiệm”, chữ “tịnh” rất quan trọng đối với đạo làm người, kiệm tức là thanh bạch, tịnh tức là yên tĩnh. Một số người nói “thanh đạm” dường như là “lãnh đạm”, là “vô tri”, kỳ thực thanh đạm chủ yếu là chỉ nên cần kiệm, giản dị trong cuộc sống vật chất. Bởi vì phẩm chất tinh thần của con người chỉ trong lúc giản dị bình thường mới bộc lộ ra. Đó gọi là “thanh đạm” để sáng chí. Sáng cái chí theo đuổi những tinh thần “Đức”, “Tài”, “Học”. Còn sự lãnh đạm có thể giúp cho cuộc sống an lành, có ý nghĩa hơn. Có điều đây không phải là mục đích theo đuổi cuộc sống vật chất giản đơn, nên trong những người mê vật chất có chút “vô vi”, kỳ thực “vô vi” chính là sự biểu hiện siêu việt của tinh thần. Chúng ta có thể hình dung, nếu ai đó chỉ chìm đắm trong biển dục vọng vật chất thì liệu có thể hi vọng anh ta vượt lên được hiện thực không? Vì thế “thanh đạm để sáng chí” là rất có lý. Còn về “tĩnh tâm để vươn xa” cũng rất sâu sắc. Giới hạn đời người có cao có thấp, chí hướng của con người có xa có gần, điều đáng tiếc nhất của việc làm người là tầm nhìn hạn chế, không có chí lớn, cuối cùng vật lộn trong một khoảng trời đất nhỏ hẹp. Đó là người có hiểu biết nghèo nàn, bụng dạ hẹp hòi. Nguyên nhân lớn nhất làm con người có tầm nhìn nông cạn chính là bộp chộp, tham lam, nóng lòng lập công đoạt lợi, không thể tĩnh tâm, không chịu được cô đơn, tự nhiên không thể làm nên đại sự, kết quả là chỉ có thể để năm tháng trôi đi vô nghĩa, dần dần tài năng cạn kiệt, không để lại gì cho đời. Do vậy, về mặt tinh thần phải tĩnh tâm, đứng trước sự cô đơn hiu quạnh không bị gục ngã, không bị vật chất cám dỗ, đó chính là “tu thân”, “quảng tài”. Xét trong lịch sử, những người siêu việt, những người có công trạng có ai là không vậy đâu.

Xưa nay, rất nhiều người dùng mười chữ “đạm bạc dĩ minh chí, ninh tĩnh dĩ chí viễn” (thanh đạm để sáng chí, tĩnh lòng để vươn xa) để tự động viên mình. Tinh thần của con người một khi đã thoát ra khỏi sự ràng buộc của hiện thực, không chỉ đạt được lưỡng tiện trong sự được mất về vật chất, mà còn có một thái độ “vô khả vô bất khả” (cái gì cũng có thể, cái gì cũng không thể) đối với rất nhiều quan niệm thế tục. Một khi về mặt quan niệm cho rằng lưỡng khả thì rất nhiều buồn phiền, thiên bẩm cố chấp của con người sẽ tan biến như mây khói. Chẳng hạn hai người tranh luận với nhau một vấn đề nào đó, anh thắng thì tôi không thể hiện những điều anh nói là đúng, ngược lại, tôi thắng, anh cũng không chịu thừa nhận. Nếu hai người cứ tranh cãi không ai chịu ai, như vậy đành phải chờ người thứ ba phân giải. Nếu người thứ ba đó đồng quan điểm với ai, chắc chắn sẽ thiên về người đó, và tôi sẽ không phục. Nếu người đó có cùng quan điểm với tôi, chắc chắn sẽ đứng về phía tôi, bạn cũng sẽ không phục. Mà cũng không thể có người quan điểm giống cả tôi và bạn. Nhưng như vậy không những bạn và tôi đều không phục mà từ chỗ “hai nước tương giao” biến thành “ba nước thế chân vạc”. Con người không phải lúc nào cũng có thể phán xử một cách công bằng đúng đắn. Bởi vì con người không phải là một cỗ máy, con người còn có tâm tư, thói quen và thành kiến, hơn nữa công lý cũng thường xuyên thay đổi. Do vậy, những người có tấm lòng rộng mở đối với cuộc sống có thể luôn giữ một hái độ rộng lượng khoan dung. Trong lòng anh ta đất trời rộng mở, cuộc sống tươi vui, tinh thần tự do, “vô cầu” chính là đạo lý này.

12/ Trong gian nan cần sáng suốt

Một con người trước hết phải nhận thức được mình đang ở trong hoàn cảnh nào, đồng thời có thể vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Trên đường đời không vì thành công mà vui vẻ, cũng không vì thất bại mà nhụt chí. Bất kể là tai họa hay hạnh phúc cũng vẫn kiên trì theo đuổi lý tưởng của cuộc sống, nỗ lực sáng tạo ra hoàn cảnh mới tốt đẹp hơn.

Thời Hán, Tư Mã Thiên có viết bộ Sử ký, được Lỗ Tấn coi là “kiệt tác của nhà sử học, một khúc ly tao không vần”, có tính dân tộc sâu sắc và đạt tới trình độ tuyệt vời. Nó đã mang lại bước chuyển lớn trong đề tài ca tụng sự phản kháng và nổi dậy của nhân dân bị áp bức. Bộ sách này dù là về sử học hay văn học đều có tác động lâu dài, cách viết của nó bộc lộ tinh thần nhẫn nhục của Tư Mã Thiên. Ông đã nuốt tủi ngậm hờn để hoàn thành bộ kiệt tác vĩ đại này.

Tô Vũ đi sứ Hung Nô bị giữ lại đến năm thứ hai. Hán Vũ đế rất tức giận, bèn cử Nhị sư tướng quân Lý Quảng Lợi thống lãnh ba vạn đại quân đi đánh Hung Nô, nhưng toàn quân đại bại trở về. Kỵ Đô úy Lý Lăng dẫn năm nghìn tinh binh giao chiến với Hung Nô, Đơn Vu dùng hai vạn quân đánh bại Lý Lăng. Lý Lăng anh dũng quyết chiến, giết được hơn ba nghìn quân địch. Do có kẻ phản bội bán đứng nên quân Hung Nô biết Lý Lăng không có viện binh, lại đã hết sạch tên bắn, liền thắt chặt vòng vây. Lý Quảng Lợi cũng không dẫn binh đến viện trợ. Lý LLăng không còn cách nào khác đành phải đầu hàng. Quần thần trong triều lần lượt thổi phồng, khuếch đại sai lầm của Lý Lăng. Khi Hán Vũ đế hỏi chuyện của Lý Lăng, Tư Mã Thiên liền nói rất thẳng thắn, rằng: “Với người thân thì hiếu nghĩa, với quân sĩ thì tin cậy, luôn hết mình vì sự an nguy của đất nước. Con người ông ta là vậy, có phong thái của bậc quốc sĩ. Chuyện hôm nay chỉ vì không may, đều là vì đất nước mà gặp nạn. Thật là đau xót. Hơn nữa quân của Lý Lăng chưa đầy năm nghìn, bị vây giữa nơi binh mã cấp bách, chống lại hàng vạn quân địch, không có quân cứu viện, cầm đao lên liều chết với địch, những danh tướng thời xưa cũng không thể hơn ông ấy. Tuy lần này thất bại nhưng con người ông ấy không bại, âu cũng là việc đáng ghi nhớ trong thiên hạ. Ông ấy không chết cũng là vì muốn báo đáp nhà Hán”. Tư Mã Thiên không làm tăng thêm tội cho Lý Lăng mà lại gỡ tội cho Lý Lăng. Hán Vũ đế tức giận, khép cho ông tội “phủ hình”, tức bị thiến. Tư Mã Thiên và Lý Lăng đều là bề tôi trong cùng một triều, bình thường không qua lại với nhau, chỉ vì trung thành nói thật mà đắc tội, phải chịu cực hình khó chịu nhất của con người. Lúc đó, gia cảnh nhà ông rất nghèo túng, không có tiền để chạy tội, bạn bè lúc thường qua lại thân thiết giờ cũng làm ngơ. Đòn này thật quá nặng nề, quá đau đớn khiến ông không thiết sống nữa. Sau nhiều ngày tự vật lộn với chính mình, cuối cùng Tư Mã Thiên đã bình tĩnh lại và cho rằng mình phải nhẫn nhục chịu đựng để viết cuốn Sử ký làm nên một sự nghiệp lớn lao. Phải học tập Khổng Tử, Khuất Nguyên, lấy văn chương làm vũ khí để vạch trần đen tối, ca ngợi chính nghĩa, đả kích cái xấu xa, đánh giá những kỳ tích, hoạt động của những nhân vật lịch sử trong cuộc sống, trong công việc và chiến đấu.

Khổng Tử nói: “Bậc quân tử không dụng tâm trí thì tên tuổi không được truyền tụng”. Tư Mã Thiên nói: “Người xưa phú quý mà tên tuổi bị mai một, không thể ghi chép truyền tụng lại thì đời sau, không thể xưng là người phi phàm”. Người phi phàm mà ông nói ở đây là người có thể luận thuyết, danh của Tư Mã Thiên không thể nói là giống với những kẻ mua danh hay hư danh ở đời. Ông là người có hoài bão lớn lao, muốn viết bản cáo trạng đối với xã hội phong kiến. Nếu không có Tư Mã Thiên thì những nghiệp lớn khó mà truyền lại cho hậu thế.

Hạnh phúc và niềm vui của đời người có thể khiến cho bạn từ trong sự dâng cao của khát vọng tiến tới chỗ sa ngã. Chỉ có lao động và tiết kiệm mới là cái tích cực khiến cho bạn từ trong nỗi đau khổ có thể tăng thêm dũng khí để tồn tại, khám phá ra chân lý của cuộc sống.

Trên đường đời, chúng ta đi càng nhiều thì càng nhận thức một cách rõ ràng thế giới này. Chỉ có từ sự hiển thị của lương tri xây dựng lên một thế giới tinh thần; từ trong cảnh giới của triết học để tự giải phóng mình.

Chúng ta không ai là không muốn có được sự hưởng thụ cao về mặt vật chất, muốn an ủi tinh thần những linh hồn suốt đời đau khổ. Để cho mõi một tâm hồn trong cuộc đời mình hướng thiện, không có những mê hoặc hay lo sợ, vĩnh viễn sống một cuộc sống tự do. Bằng ngòi bút chân thực, ông đã vạch trần tội chứng của thế lực tà ác, đồng thời ngợi ca sự lương thiện của con người.

(còn tiếp) 

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Vietbook – Nghệ thuật nắm bắt cơ hội tùy cơ ứng biến – NXB VHTT 2010.

Bí quyết của thành công – Phần VIII


9/ Tâm luôn trong sáng

Tôn chỉ của đối nhân xử thế là phải làm tốt những việc nên làm, đạt được đến một mục đích nhất định thì không cần phải “chính do dĩ xuất”, làm việc theo cảm tính của mình. Phải nghe thấy được sự phân tích của người khác, mấu chốt là phải bỏ đi những ý nghĩ vớ vẩn cá nhân, nắm vững được tôn chỉ, bỏ đi tính tư lợi, ích kỷ.

Khi xử lý các vấn đề cũng nên loại bỏ các ý nghĩ hẹp hòi, nếu giải quyết sự việc mà có một chút lòng ích kỷ cá nhân nào đó thì sẽ dẫn đến sai lầm.

Thời kỳ đầu khi Ung Chính kế vị, do sợ Xung Kha và những người khác tạo phản nên đã cho Đồng Đề Kỳ dò la khắp nơi để đem về các tin tức tình báo. Những việc lớn nhỏ trong kinh thành, chẳng có việc nào mà Ung Chính không biết cả.

Một hôm, có vị đại thần muốn mua một cái mũ mới bèn hỏi người đi đường xem có thể mua được ở chỗ nào. Ngày hôm sau, khi thiết triều buổi sớm, vị đại thần này vẫn chưa đội mũ mới, Ung Chính bèn đùa rằng: “Cẩn thận một chút, đừng có làm bẩn mũ mới đấy”. Lần khác, có một người tên là Vương Vân Cẩm, xuất thân là Trạng nguyên, đang cùng bạn bè thân thích chơi trò chơi với những chiếc lá, đang chơi thì bỗng nhiên bị rơi mất một chiếc lá. Ngày hôm sau khi thiết triều, Ung Chính hỏi Vương Điện Vương đã làm những gì vào ban đêm, Vương Vân Cẩm kể hết mọi chuyện, Ung Chính cười đáp: “Người trong sáng thì không làm việc mờ ám, đây đích thị là một Trạng nguyên”. Nói hết câu bèn lấy trong tay áo một chiếc lára đưa cho Vương Cẩm Vân xem, đúng là chiếc lá đã bị mất vào buổi chiều hôm đó.

Có một người tên là Vương Sỹ Tuấn làm quan ở bên ngoài, có người đã giới thiệu cho anh ta một nô bộc khỏe mạnh. Người nô bộc này làm việc rất chu đáo, không hề rời xa Vương Sỹ Tuấn. Sau này Vương Sỹ Tuấn về kinh nhậm chức, người nô bộc bèn đến cáo từ ông ta trước. Vương Sỹ Tuấn hỏi vì lẽ gì mà lại bỏ đi, người nô bộc đáp: “Ngài làm quan mấy năm nay, không có điều gì sai phạm lớn, tôi cũng phải vào kinh gặp mặt Thánh thượng nói rõ tình hình”. Vương Sỹ Tuấn khi đó mới biết người nô bộc ấy vốn là Thị vệ của Đại nội.

Ở Thiên Tân có một người họ Chu, xuất thân Tiến sỹ, với thân phận là Chủ sự Lễ bộ, đã từng làm giám sát việc giáo dục ở Tứ Xuyên trong ba năm. Trong thời gian đó, ông sống rất liêm khiết, công bằng, luôn hoàn thành nhiệm vụ của mình. Cảnh ngộ mà Chu Chử sự gặp phải cũng giống như Vương Sỹ Tuấn, trước khi xuất kinh, có người giới thiệu cho ông một người nô bộc rất nhanh nhẹn, chăm chỉ. Khi Chu Chủ sự chuẩn bị về cung phụng mệnh, người nô bộc bèn xin về trước. Chu Chủ sự nói ta cũng sắp phải về kinh rồi, vừa hay đi cùng luôn. Người nô bộc đáp: “Tôi vốn là một Thị vệ trong Đại nội, được biệt phái đến giám sát ngài, biểu hiện của ngài rất tốt, tôi phải về kinh để thưa với Hoàng thượng”. Lúc đó, Chu Chử sự mới sực tỉnh cơn mộng, khi về đến kinh thành quả nhiên được Ung Chính ban thưởng.

Đương nhiên, Ung Chính điều hành quần thần cũng không hoàn toàn chặt chẽ như vậy, có lúc ông cũng rất rộng lượng, gần gũi với quần thần. Mỗi khi đến ngày Lễ, Tết, ông lại cùng văn võ bá quan ngâm thơ uống rượu, thưởng hoa, câu cá, vui vẻ giống như cha với con vậy. Biện pháp lúc cương lúc nhu, khi thì giận dữ, khi thì nhân từ này đã trị vì tất cả các triều thân, khiến cho ai ai cũng phải phục nể.

Tuy nhiên, các đại thần cũng luôn phải đề phòng, họ như đi trên dây, đều lo lắng về tính cách lúc vui lúc mừng, lúc giận dữ bất thường này của Ung Chính. Thực ra, bản thân Ung Chính không phải là không hiểu được khuyết điểm này của mình. Một lần khi nói chuyện với tổng quản Thực Lộc Quán, Ung Chính kể: “Gần đây ta có đọc những ghi chép trong vòng bốn chín năm của Khang Hy, trong đó có ghi lại sự đánh giá của phụ hoàng đối với ta, có một câu là: “hỷ nộ bất định”, khi đó ta từng nói với phụ hoàng: “Con hầu hạ bên cạnh phụ hoàng, thường lắng nghe sự răn dạy của phụ hoàng, bản thân lại không biết tự kiểm điểm hành vi của mình, trong lòng cảm thấy rất xấu hổ. Con nay đã ba mươi tuổi, mà cách đối nhân xử thế không thể thay đổi được nữa. Bốn chữ nhận xét về con “hỷ nộ bất định” có liên quan đến cả đời con, khẩn thiết xin phụ hoàng đừng để cho sử quan ghi chép lại”. Lời nói của ta đã thuyết phục được phụ hoàng, thế là người dụ rằng: “Mười năm nay, ta chưa thấy Tứ a ca có những hành động hỷ nộ bất thường, cho nên câu nói này sử quan không phải ghi chép lại”. Giờ đây sau khi ta kế vị, ta luôn cố gắng cẩn thận với tính cách lúc vui lúc giận thất thường của mình, dù vậy, ta vẫn luôn cảm thấy có những chỗ khiếm khuyết, vì vậy ta càng khâm phục phụ hoàng về việc nhìn nhận người khác một cách sắc sảo. Cho nên, ta thường hay dùng những điều ông răn dạy để tìm nén mình, điều tiết tình cảm của bản thân. Ngươi có thể ghi chép lại toàn bộ câu chuyện này”.

Thổ lộ này của Ung Chính có dụng ý rất rõ ràng. Các hoàng đế rất sợ các sử quan, sợ họ cứ ghi chép đúng sự thật. Bốn chữ “hỷ nộ bất định” đã khái quát đầy đủ tính cách của Ung Chính.

“Không làm những việc sai trái, như vậy sẽ không sợ nửa đêm quỷ đến gõ cửa”. Những người đã làm điều sai trái thường phải mang một gánh nặng về mặt tinh thần. Gánh nặng đó chẳng khác gì một cái địu phải đeo trên lưng mãi mãi, những việc sai trái càng nhiều thì cái địu đó càng nặng hơn.

Xét về chủ quan thì phải bỏ đi ý thức, tư tưởng sai lệch mới có thể dễ dàng loại bỏ những việc làm sai trái. Nếu từ đầu đến cuối luôn làm những việc trái với lương tâm thì gánh nặng sẽ ngày càng lớn.

10/ Hóa giải hận thù

Khổng Tử thường nói: “Khi khí huyết đang hăng thì phải tránh không được đánh nhau”. Mạnh Tử lại nói: “Nếu bạn giết ch của người ta thì họ cũng sẽ giết cha của bạn, nếu bạn giết huynh trưởng của người ta thì họ cũng sẽ giết huynh trưởng của bạn, cũng giống như chuyện nước Ngô làm nhục nước Việt, sau đó nước Việt báo thù sỉ nhục lại nước Ngô”.

Con người sống trên đời đừng gây nên thù chuốc oán. Chuyện báo oán phục thù, từ cổ chí kim, nếu không ứng lên bản thân mình thì cũng ứng lên con cháu mình. Tục ngữ có câu: “Oán hận nên cởi bỏ chứ đừng nên kết thêm”. Người có chí hướng, muốn làm nên đại sự thì tuyệt đối không nên vì một chuyện nhỏ nhặt mà ôm hận trong lòng tìm cơ hội báo thù. Khi Tôn Tú làm Tiếu Sử có bị Phạm Nhạc đánh. Tôn Tú đương nhiên cũng vu cáo Phạm Nhạc tham gia vụ làm loạn của Tư Mã Doãn ở Hoài Nam. Nhà họ Phạm bị tội tru di. Đây là ví dụ điển hình về việc kết hận mà càng thôi thúc ý muốn báo thù.

Lý Cát Phủ đời Đường tuy rằng trước có oán hận với Lục Triết nhưng khi ông ta làm cấp trên của Lục Triết thì lại bỏ qua hết những hiềm khích cũ, hai bên sống hòa thuận. Con người như Lý Cát Phủ quả là hiếm có.

Lý Cát Phủ được hoàng thượng bổ nhiệm chức quan đại thường học sĩ. Nhờ có năng lực quản lý chế độ pháp lệnh nên Lý được sự coi trọng và ưu đãi của tham đô. Lục Triết nghi ngờ mấy người bọn họ kết bè kết đảng tư lợi riêng bèn tâu với hoàng thượng điều Lý Cát Phủ đến Minh Châu làm quan tràng sử. Sau này, Lục Triết bị đi đày đến Trung Châu, tể tướng vì muốn giết hại ông ta nên phái Lý Cát Phủ đến Trung Châu, chịu trách nhiệm giải quyết vụ án của Lục Triết, để tiện cho Lý cát Phủ có cơ hội trả mối thù trước đây. Không ai ngờ, sau khi Lý Cát Phủ đến Trung Châu, ông ta lại bỏ qua ân oán cá nhân, lập mối quan hệ tốt với Lục Triết khiến Lục Triết vô cùng cảm kích.

Có thù hận với người khác, khi trong tay có quyền lực bèn lấy cớ làm việc công nhưng thực chất lại xử lý việc tư, lạm dụng quyền lực, nhất định phải dồn kẻ thù vào chỗ chết mới vừa lòng. Như vậy thật là tàn khốc. Lấy đức báo oán là một việc không dễ dàng gì, người thường khó có thể làm được. Người có tu dưỡng, có đạo đức sẽ không bao giờ ghi thù nhớ hận mà sẽ khoan dung độ lượng. Còn loại người tiểu nhân độc ác, “miệng nam mô bụng một bồ dao găm” kết thù kết oán nhiều quá thì ở ngôi vị cao phỏng ý nghĩa gì? Đối với thù hận nên làm được như Liêm Pha và Tương Như, hóa địch thành bạn, đại nghĩa thâm sâu, cao cả. Quả thật rất đáng để học tập.

(còn tiếp) 

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Vietbook – Nghệ thuật nắm bắt cơ hội tùy cơ ứng biến – NXB VHTT 2010.

Bí quyết của thành công – Phần VII


Kỳ thực, sau sự kiện Sở Hoài vương, thế lực của nước Sở mỗi lúc một suy yếu, cái uy phong bá chủ ngày trước đã mai một. Nhưng cà cuống chết đến đít vẫn còn cay, đặc biệt là thế lực cát cứ địa phương của nước Sở rất nghiêm trọng, các bộ tộc đều có khả năng tác chiến độc lập nhất định. Bên cạnh đó là lãnh thổ rộng lớn, tài nguyên, nhân lực, vật lực làm hậu thuẫn đã tạo nên khả năng có thể chống cự tương đương với nước Tần. Nếu nước Tần muốn đánh bại hoàn toàn nước Sở thì phải dồn hết sức lực của đất nước.

Trong khi chinh phạt nước Sở, Tần Vương Chính đã phạm phải một sai lầm rất lớn. Thứ nhất là lực lượng trong tay ông khá mỏng, vì những vùng đất mới chiếm được của Yên và Triệu phải điều quân đến phòng thủ; thứ hai là binh lính của nước Tần đều giao phó cho một người chỉ huy, mà người này lại thiếu quyết đoán, do vậy ông ta có tâm lý bám vào sự may mắn, hy vọng có thể dùng một lượng nhỏ quân đội mà giành được thắng lợi trong cuộc chinh phạt nước Sở.

Trong hội nghị bàn bạc phương án tấn công nước Sở, Tần Vương Chính nhắm được một vị đại tướng trẻ tuổi tên là Lý Tín. Ông hỏi Lý Tín: “Nếu ngươi là người cầm đầu cuộc chiến đấu phạt Sở này thì ngươi cần bao nhiêu binh mã?”. Lý Tín trả lời: “Hai mươi vạn đại quân”.

Tần Vương Chính lại chuyển ánh mắt sang Vương Tiễn và dò hỏi: “Ngươi cảm thấy thế nào?”

Vương Tiễn đáp: “Theo tin thần tính toán nếu không có 60 vạn binh mã thì không xong”.

Tần Vương nói: “Vương tướng quân đã già rồi, không nên sợ hãi như vậy. Lý tướng quân tuổi trẻ, còn uy lực, vậy theo Lý tướng quân nhé!”

Tần Vương Chính bèn phong cho Lý Tín làm đại tướng, Mông Vũ làm phó tướng, dẫn hai mươi vạn binh mã tiến về phía Nam. Vương Tiễn lấy cớ đau ốm cáo lão về quê an dưỡng.

Trong thời gian này, Tần Vương Chính lại ban cho Vương Trách làm đại tướng, dẫn quân đi đánh nước Ngụy. Vương Trách dẫn đại quân bao vây Đại Lương. Trời mưa gió triền miên không ngớt nước sông dâng lên rất cao. Vương Trách lệnh cho quân sĩ phá đê cho nước tràn vào thành. Đại Lương không cần tấn công cũng tự bị phá. Ngụy Vương Giả bị bắt làm tù binh, nước Ngụy diệt vong, nước Tần chia nước Ngụy thành ba châu quận.

Nhưng điều mà Tần Vương Chính không ngờ tới là đại quân tấn công nước Sở lại bị đánh tơi bời. Lý Tín và Mông Vũ chia quân làm hai ngả, một tấn công Bình Dư, một ngả tấn công vào Tẩm Khâu, hẹn hội quân ở Thành Phụ. Sau khi Lý Tín tấn công Bình Dư, lập tức tiến thẳng đnế đánh Tây Lăng, giao chiến với đại tướng nước Sở là Hạng Yên. Do lực lượng quân đội hai bên ngang bằng nhau, quân của Lý Tín bị đánh cho đại bại, bảy viên đô úy chết, binh sĩ bị thương vô số, quân Tần đành phải rút lui về trong biên giới nước Tần.

Tần Vương Chính biết tin vô cùng giận dữ, giáng chức của Lý Tín, đồng thời đích thân phi ngựa đến quê của Vương Tiễn, mời Vương Tiễn xuất quân.

Vương Tiễn từ chối nói: “Thần đã già rồi, xin đại vương mời người khác!”

Tần Vương Chính nói: “Lần trước là do ta hồ đồ, lần này không phải là tướng quân xuất binh thì không được. Xin tướng quân đừng nên từ chối”.

Vương Tiễn nói: “Vậy nếu không có sáu mươi vạn đại quân thì không được”.

Tần Vương Chính nói: “Được rồi, cứ theo lời của tướng quân mà làm”.

Năm 224 trước Công nguyên, Tần Vương Chính tổng động viên toàn bộ quân đội của nước Tần, tập trung sáu mươi vạn binh lực, đích thân tiễn Vương Tiễn xuất chinh.

Chỉ một năm sau, quân đội của Vương Tiễn đã bắt sống Sở vương Phụ Sô, nước Sở chính thức bị diệt vong.

Cũng trong năm đó, Vương Tiễn lại dẫn quân tiến đánh, làm Việt quân phải hàng phục, lập nên quận Hội Kê, thống nhất cả lưu vực Trường Giang.

Con trai của Vương Tiễn là Vương Bôn sau khi diệt nước Yên lại chỉ huy quân đội tiến về phía Nam, thôn tính nước chư hầu cuối cùng là nước Tề.

Năm 221 trước Công nguyên, mấy chục vạn quân Tần tấn công nước Tề như đi vào chỗ không người. Quân đội của Tề vương về cơ bản không có sức chống cực. Lâm Tri bị chiếm lĩnh trong chớp mắt. Nước Tề cũng phải tuyên bố diệt vong.

Từ năm 230 trước Công nguyên bắt đầu việc chinh phạt nước Hàn, Tần Vương Chính đã mất khoảng thời gian là 10 năm để thôn tính sáu nước, chấm dứt cục diện cát cứ chia rẽ trong một thời gian dài, lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc đã thiết lập một nhà nước phong kiến thống nhất theo chế độ trung ương tập quyền.

Lòng tham của con người là vô đáy, cho anh ta vàng bạc thì anh ta muốn có cả châu ngọc, phong cho anh ta chức công tước thì lại muốn được phong chức tể tướng, loại người này tuy giàu sang quyền quý  nhưng lại can tâm làm kẻ ăn mày. “Được một thốn tiến một xích, được voi đòi tiên”, tham lam vô độ, bị ngập ngụa trong tiền bạc, biến mình thành nô lệ cho sự giàu sang, vì lợi mà không từ một thủ đoạn nào, tìm mọi cơ hội để kinh doanh quyền thế, loại người này sẽ chỉ nhận được sự chê cười của thiên hạ mà thôi; người tự biết mình là đủ, dù là ăn cơm nhạt rau hoang cũng thấy ngon hơn sơn hào hải vị, mặc áo vải thô cũng thấy ấm áp hơn mặc áo da cáo, loại người này tuy gọi là bình dân nhưng thực chất còn cao quý hơn các bậc vương tôn quý tộc.

Làm việc lớn có thành công và cũng có thất bại, công lao càng lớn thì tai họa đến càng nhanh, nên biết “Công cao vượt chủ”. Vương Tiễn trong tay nắm binh quyền của cả nước rất hiểu rõ đạo lý này, nên không chỉ khống chế thái độ biểu hiện công lao, địa vị, sự tự kiêu ngạo mạn, tuyệt đối không “duỗi” cái chí của mình ra để còn mở đường cho con cháu về sau.

8/ Tôn trọng đối phương

Trong giao tiếp, nếu bạn vô tình bị người khác phỉ báng, lúc đó, bạn phải phân tích thật kỹ càng. Khi người khác bị phỉ báng, bạn không nên nói lời khinh xuất, còn khi mình bị phỉ báng thì bạn không nên tức giận, xấu hổ, không nên thoái chí nản lòng. Chỉ cần bạn đi đứng, nói năng, hành động đúng đắn thì những lời nói kia sẽ dần trôi đi theo thời gian, bởi vì đối với người quân tử thì hoàn toàn kông có chỗ cho sự phỉ báng.

Phỉ báng bắt nguồn từ sự thù hận đố kị sẽ sinh ra phỉ báng Luận ngữ có chuyện nói xấu Khổng Tử, Tử Cống nói: “Trọng Ni không bị nói xấu. Trọng Ni, giống như mặt trời và mặt trăng, nhưng đối với mặt trời mặt trăng thì có gì có thể gây hại, có gì có thể phỉ báng đây?” Cũng chính là: Nhật nguyệt kinh thiên, muôn đời sáng soi, mọi người tuy muốn tự tuyệt với nhật nguyệt nhưng sẽ không thể làm tổn hại đến ánh hào quang của chúng. Không nói rằng bạn tự tuyệt mà nói rằng người muốn tự tuyệt, đây là cách đặc biệt làm cho lời nói của mình uyển chuyển, cho thấy rõ ràng bậc thánh hiền không dùng lời nói cứng rắn, thô bạo để phê bình người khác.

(còn tiếp) 

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Vietbook – Nghệ thuật nắm bắt cơ hội tùy cơ ứng biến – NXB VHTT 2010.

Bí quyết của thành công – Phần VI


Sau hôn sự, Triệu Xuân Nhi và Khả Thành tính xem sau này sẽ làm gì để sống. Tào Khả Thành ra ngoài buôn bán, ngựa quen đường cũ vẫn tụ tập với bọn người xấu, tiêu hết tiền lại về đòi vợ. Triệu Xuân Nhi bị ép ghê quá, bèn giao tay hòm chìa khóa cho chồn gnói: “Những đồ đạc này sớm muộn gì đều là của chàng, giờ thiếp đưa hết cho chàng, kẻo chàng lại không biết còn gì trong tư phòng không, từ hôm nay trở đi, thiếp sẽ dệt vải để kiếm sống, tự nuôi lấy mình. Chàng đừng làm phiền thiếp nữa”. Từ đó Xuân Nhi ăn chay, dệt vải, để kiếm sống. Khả Thành lúc đầu không thoải mái nhưng vì trong tay có tiền nên lại ra ngoài chơi bời. Chẳng lâu sau, ngay cả cơm cũng không có mà ăn. Triệu Xuân Nhi chỉ cho anh ta vài cách ưu sinh, nói rằng anh ta biết chữ, có thể dậy học, kiếm ít tiền để sống qua ngày. Anh ta liền lợi dụng phần mộ đường làm phòng học, mở lớp học.

Cứ như vậy mười lăm năm trôi qua, một hôm Khả Thành vào trong thành, thấy một bạn học đã làm quan nói rằng nếu có bạc đút lót, có thể kiếm được chức quan. Khả Thành lúc này không một xu dính túi, không biết làm sao nên ngồi trên giường khóc. Xuân Nhi bảo anh ta đi vay mượn bạn bè. Vì anh ta túng quẫn nên chẳng ai muốn cho vay cả. Khả Thành không nghĩ được cách gì nên chỉ khóc lóc, nghĩ rằng tiền đồ của mình vậy là chấm hết, thà chết đi còn hơn. Xuân Nhi đã cứu anh ta, rồi nói: “Vật có một sự thay đổi thì con người có nghìn sự đổi thay. Nếu không thay đổi, trừ phi lấy thước mà che mặt lại”. Rồi lại bảo Khả Thành, nếu thực sự chuyên tâm lo việc thì cô có thể nghĩ cách giúp. Thấy Khả Thành thành tâm chuyển tính, Xuân Nhi bèn bảo anh ta cầm chiếc cuốc cuốc khoảnh đất chỗ đặt khung cửi thì thấy có một chiếc bình sứ, trong đó có khoảng một trăm sáu mươi, một trăm bảy mươi lượng bạc, rồi lại bảo anh ta đào bên dưới khung cửi, ở đó cũng có một bình sứ to, bên trong có không dưới một nghìn lạng bạc trắng. Hóa ra Triệu Xuân Nhi thấy Khả Thành tiêu tiền như rác bèn tích cóp lại, chôn xuống đất rồi để khung cửi lên, mười lăm năm liền không để lộ gì cả. “Thật là người vợ tốt”. Khả Thành nhìn thấy số tiền này liền khóc, “mười lăm năm trời là người vợ hiền, lam lũ vất vả, áo vải cơm rau, ai ngờ còn giữ một tấm lòng như vậy. Tất cả đều do Tào Khả Thành ta không tốt, làm cho nàng phải chịu khổ. Hôm nay vợ hiền hãy nhận của ta một lạy”. Nói xong liền quỳ sụp xuống dập đầu. Hai vợ chồng cùng vào kinh, đến sử bộ đầu văn thư để hối lộ. Tào Khả Thành được phái đi làm nhị y (chức phó của tri huyện) Đồng An, Phúc Kiến, sau được thăng lên Tuyền Châu phủ. Có vợ giúp đỡ chấp chính nên danh tiếng làm quan ngày một vang xa. Sau lại được thăng chức làm thông phán phủ Hồ Châu, Quảng Đông, rồi tiếp là phủ y. Vợ khuyên anh ta: “Ngay trước dạy trẻ con học trong thôn ở mộ đường, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, hôm nay ba lần nhậm chức quan chăn dắt dân lành, đạt tới quan lục phẩm, đại học sinh đến thế là đủ rồi. Người ta thường nói “biết đủ là không nhục”, có ý nói người ta nên có dũng cảm để rút lui đúng lúc, hãy nghĩ đến kế hoạch về quê dưỡng lão”. Khả Thành gật đầu cho là phải, bèn giả ốm cáo quan, dân chúng tiếc nuối, hai vợ chồng khăn gói về quê trong niềm vinh quang.

Tào Khả Thành đã thực sự hướng thiện, đều là nhờ vào sự giúp đỡ của Triệu Xuân Nhi, người đời sau có thơ ca ngợi rằng:

Phá nhà vì khuôn mặt như hoa, lại nhờ vào hồng nhan mà hưng nhà.

Hồng nhan như thế xưa nay hiếm, khuyên chồng xin chớ có tham hoa.

Từ câu chuyện này, chúng ta có thể rút ra một số bài học. Ngay cả trong chốn phong trần vẫn có những người con gái tài giỏi. Trình độ của họ không hề thấp kém, trong tình yêu cũng có thể thủy chung trước sau như một. Dù hoàn cảnh khó khăn họ vẫn giữ ý chí kiên cường, muốn tìm một người đáng tin cậy, thoát khỏi bể khổ tức để người đứng đắn. Người xưa có câu: “Đàn bà có chí thì còn hơn cả nam nhi”. Triệu Xuân Nhi không tham giàu chê nghèo, theo Khả Thành từ khi Tào gia lụn bại. Trong những ngày cùng quẫn, có nhiều lần khuyên chồng hướng thiện. Quả nhiên, dưới sự chỉ dẫn của cô thì chồng đã làm thầy giáo, làm quan thanh liêm, cuối cùng lại biết rút lui đúng lúc. Người con gái phong trần này có thể nhìn ra được thời cuộc, nhận ra trốn quan trường đầy gian trá, lừa lọc nên sớm khuyên chồng dừng đúng lúc. Bên cạnh đó khí chất nghĩa hiệp cũng là một đặc điểm nổi bật của Xuân Nhi.

Tục ngữ có câu: “Bại từ hầu đầu kim bất hoán” (kẻ lầm biết quay đầu lại, vàng không biến đổi), ý nói tình cảm, thái độ đối xử vẫn như trước, không phân biệt, không thay đổi, gắn với câu “Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ chạy lại”. Điều muốn nhấn mạnh là sự hối cải. Con người khó tránh khỏi phạm sai lầm, quan trọng là biết sửa chữa sai lầm đó. Sự hối cải là điều kiện chủ quan và khách quan. Triệu Xuân Nhi không đành lòng bỏ rơi Tào Khả Thành, đó là nghĩa khí của cô; thà rằng chịu khổ dệt vải nuôi thân là nghĩa hiệp của cô. Tinh thần này đã âm thầm phát huy tác dụng, làm thay đổi con người Tào Khả Thành. Tào Khả Thành sau khi bị giày vò, nhận thức rõ bản thân thì cô đã hết sức giúp đỡ và hoàn toàn tin tưởng. Đây không phải là lấy vật chất để rung động lòng người, mà là sự nghĩa hiệp của cô đã hoàn toàn chinh phục được trái tim của anh ta. Khả Thành quỳ xuống dập đầu là kết quả cảm hóa của tấm lòng hiệp nghĩa ở Triệu Xuân Nhi. Nếu chúng ta từ bỏ được những thành kiến cố hữu về xuất thân cao cấp thì chẳng phải có thể có được rất nhiều điều bổ ích từ câu chuyện này hay sao?

Nếu chúng ta trút bực dọc của mình lên đầu kẻ khác, bản thân sẽ nhất thời cảm thấy thoải mái, nhưng kiểu giận cá chém thớt này lại làm tổn thương người khác, thậm chí có thể coi nhau như kẻ thù. Nếu con người lấy tình yêu thương để đối xử với nhau thì không những có thể biến mâu thuẫn thành hòa hợp mà còn có thể biến chuyện xấu thành chuyện tốt.

Nếu một người thực sự nhận ra chân lý thì trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng có thể phân biệt được sự tốt xấu, sẽ không bị lợi dụng, cám dỗ mà đánh mất lương tri. Cái gọi là phẩm chất cao đẹp chính là hành động trong sáng theo lương tâm và đạo nghĩa, đồng thời kiên trì hướng thiện. Có như thế con người mới sống thanh thản được.

Muốn có được hạnh phúc của đời người thì phải bồi đắp trí tuệ của bản thân, đem hy vọng gửi gắm vào công việc, theo đuổi sự hoàn mĩ đến cùng. Bất kỳ sự nghiệp vĩ đại thành công nào của nhân loại từ xưa đến nay đều là trả giá trước rồi mới đạt được sự đền đáp xứng đáng. Niềm vui chân chính của con người phải kiếm tìm từ chính trong cuộc sống tự lập.

7/ Giữ thái độ điềm đạm

Những người có tài trí xuất chúng, khoan dung, tự nhiên sẽ không nóng vội, sợ hãi, tri thức phong phú làm họ có tư tưởng thâm sâu, có khả năng kiềm chế tình cảm; người có khí tiết vững vàng thì dũng cảm mãnh liệt, phải tu đức để dưỡng tính, chiến thắng những cái quá khích của bản thân. Quân tử xử thế làm người không dễ bộc lộ ra ngoài sự vui buồn giận dữ vô thường.

Năm Tần Vương Chính thứ 18, Vương Tiễn dẫn quân tổng tấn công vào nước Triệu, tiêu diệt chính quyền nước Triệu, Triệu vương phải đầu hàng.

Tiếp đó, Vương Tiễn lại chỉ huy quân sở bộ Vương Bôn, tấn công toàn diện vào nước Yên, dồn Yên vương phải chạy về vùng Liêu Đông. Chính quyền nước Yên tiếng thì còn nhưng thực chất thì đã diệt vong.

Như vậy, Hàn và Ngụy trong Tam Tấn đã thuộc về nước Tần; tàn quân nước Yên và Lương, Ngụy chỉ cần giơ tay là nắm gọn. Nước Tề ở phía Đông đã chịu nỗi khổ do chiến tranh với Tề Yên, sức nước yếu ớt, sự tồn vong của nước Tề có thể đếm được từng ngày. Vậy là, nước còn đối địch duy nhất với nước Tần là nước Sở ở phía Nam.

Do vậy, sau khi tiêu diệt nước Yên, trọng điểm quân sự của Tần Vương Chính dồn vào nước Sở ở phía Nam. Nhưng về vấn đề dùng binh với nước Sở, giữa Vương Tiễn và Tần Vương Chính có khác biệt khá lớn, dẫn đến Tần Vương Chính không tin tưởng Vương Tiễn.

(còn tiếp) 

TH: T.Giang – SCDRC

Nguồn tham khảo: Vietbook – Nghệ thuật nắm bắt cơ hội tùy cơ ứng biến – NXB VHTT 2010.