Là một nước hết thời đế chế và vẫn đang trong quá trình xác định lại bản sắc của mình, Thổ Nhĩ Kỳ bị kéo căng ra ba hướng. Phái hiện đại muốn nước này trở thành một nhà nước châu Âu và do vậy họ hướng về phía Tây; phái Hồi giáo ngả về Trung Đông và một cộng đồng Hồi giáo, do vậy họ hướng về phía Nam; còn phái chủ nghĩa dân tộc suy nghĩ về lịch sử thấy các dân tộc Thổ của vùng lòng chảo biển Caspian và Trung Á có một nhiệm vụ mới là xây dựng một nước Thổ Nhĩ Kỳ thống soái trong khu vực và do vậy hướng về phía Đông. Mỗi góc nhìn này đều định ra một trục chiến lược khác nhau, và sự va chạm giữa chúng, lần đầu tiên kể từ sau cuộc cách mạng của người Keman sẽ tạo ra sự bất ổn ở mức độ nào đó đối với vai trò của Thổ Nhĩ Kỳ trong khu vực.
Hơn nữa, bản thân Thổ Nhĩ Kỳ có thể trở thành nạn nhân của các cuộc xung sắc tộc trong khu vực. Tuy dân số vào khoảng 65 triệu mà chủ yếu là người Thổ Nhĩ Kỳ (khoảng 80%), còn lại là các sắc tộc như Circassia, Albani, Bosnia, Bulgaria và Arab và khoảng 20% là người Kurd. Sống tập trung ở các khu vực phía Đông đất nước, người Kurd ở đây ngày càng bị lôi kéo vào cuộc đấu tranh độc lập dân tộc mà người Kurd ở Iran và Iraq đã khơi dậy. Những mối căng thẳng trong nội bộ Thổ Nhĩ Kỳ liên quan đến hướng đi chung của đất nước rõ ràng sẽ khuyến khích người Kurd gây sức ép mạnh mẽ hơn đòi vị thế dân tộc riêng.
Định hướng tương lai của Iran cũng còn nhiều vấn đề. Cuộc cách mạng của phái Shiite theo trào lưu chính thống từng chiến thắng vào cuối thập kỷ 70 vừa qua có thể đang bước vào giai đoạn lụi tàn, và điều đó làm tăng sự bất ổn cho vai trò địa chính trị của Iran. Một mặt, sự sụp đổ của Liên bang Xô viết vô thần đã mở cửa các nước láng giềng phương Bắc mới độc lập của Iran để tôn giáo hóa họ; mặt khác, sự thù địch của Iran đối với Mỹ đã đưa Iran đến chỗ đi theo hướng thân Nga. Điều này cũng vì Iran lo ngại về tác động mà nền độc lập mới của Azerbaijan có thể gây ra đối với sự liên kết của chính họ.
Mối lo ngại đó phát sinh từ việc Iran không có khả năng giải quyết những căng thẳng về sắc tộc. Trong số 65 triệu dân của Iran thì chỉ có trên một nửa là người Ba Tư. Khoảng gần 1/4 người Azeri, số còn lại bao gồm cả người Kurd, Baluchi, Turkmen, Arab… Ngoài người Kurd và người Azeri, các tộc người khác hiện nay không có khả năng đe dọa sự toàn vẹn quốc gia của Iran, nhất là khi dân Ba Tư luôn có ý thức cao về quốc gia và đế chế. Những tình thế này có thể thay đổi nhanh chóng nếu có một cuộc khủng hoảng chính trị mới trên chính trường Iran.
Hơn nữa, việc tồn tại một số “công xã” Stanr mới độc lập trong khu vực và ngay cả 1 triệu dân Chechen cũng có thể khẳng định khát vọng chính trị của họ sẽ lan sang người Kurd cũng như sang cả những sắc tộc thiểu số khác của Iran. Nếu Azerbaijan thành công trong công cuộc phát triển kinh tế và chính trị ổn định thì người Azeri gốc Iran có thể sẽ ngày càng đi theo ý tưởng một nước Azerbaijan lớn hơn. Do đó, sự bất ổn chính trị và chia rẽ ở Iran có thể phát triển lên thành yếu tố thách thức sự thống nhất của nhà nước này.
2/ Cuộc đấu đa phương
Các nước Balkans cổ truyền ở châu Âu đã cuốn hút cuộc cạnh tranh trực diện giữa ba đế chế địch thủ là đế chế Ottoman, đế chế Áo – Hung và đế chế Nga. Còn ba thành viên nữa gián tiếp tham gia trận đấu, đó là Đức, Pháp và Anh. Đức sợ thế lực của Nga, Pháp chống Áo – Hung và Anh muốn một đế chế Ottoman kiểm soát vùng eo biển Dardanelles. Trong suốt thế kỷ XIX, những cường quốc này tìm cách kiềm chế các cuộc xung đột ở vùng Balkans, nhưng họ đã không làm được điều đó, mà chỉ gây hậu quả tai hại cho tất cả.
Ngày nay, cuộc cạnh tranh trong các nước Balkans Âu – Á cũng lôi kéo trực tiếp ba nước láng giềng: Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran, mặc dù Trung Quốc cũng có thể trở nên một nước chủ đạo quan trọng. Tham gia vào cuộc cạnh tranh ở tầm xa còn có Ukraine, Pakistan, Ấn Độ và Mỹ.
Ba đối thủ chính tham dự vào cuộc đấu không chỉ vì tham vọng những món lợi kinh tế và địa chính trị mà còn vì những xung đột lịch sử mãnh liệt. Những nước này đã từng giữ địa vị thống soái về chính trị hoặc văn hóa trong vùng. Mỗi nước đều nhìn các nước khác bằng con mắt nghi ngờ. Tuy khó xảy ra chiến tranh trực diện giữa họ, nhưng tác động của những kình địch giữa họ có thể góp phần gây rối loạn khu vực.
Thái độ thù địch của Nga đối với Thổ gần như một nỗi ám ảnh. Báo chí Nga mô tả người Thổ có xu hướng kiểm soát khu vực, và là những kẻ xúi giục người địa phương chống Nga (vụ Chechnya cũng phần nào chứng minh điều đó), và đe dọa nền an ninh chung của Nga. Sự mô tả này vượt quá sự thật.
Người Thổ cũng có một thái độ như vậy Nga. Họ coi mình có vai trò giải phóng những cho những người anh em khỏi sự đàn áp đã kéo quá dài của Nga. Người Thổ và Iran (ba Tư) trong lịch sử đã là những đối thủ trong khu vực. Sự kình địch đó trong những năm gần đây đã sống lại.
Có thể nói, mỗi nước trong ba nước đều tìm kiếm một khu vực ảnh hưởng. Tham vọng của Nga có tầm quan trọng hơn, vì họ vẫn còn những hồi ức tương đối mới về quyền kiểm soát đế chế, sự hiện diện của hàng triệu người Nga và ý muốn đưa Nga trở lại vị trí một đại cường toàn cầu. Những tuyên bố trong chính sách đối ngoại của Nga đã chứng minh việc họ nhìn toàn bộ không gian Liên Xô cũ là khu vực lợi ích địa chiến lược đặc biệt của họ, và do đó cần phải loại trừ ảnh hưởng chính trị, và thậm chí lợi ích kinh tế của bên ngoài.
Trái lại, khát vọng của Thổ Nhĩ Kỳ muốn giành ảnh hưởng khu vực vẫn mang dấu ấn của một quá khứ đế chế xa xưa. Song, những khát vọng đó có cội nguồn từ nhận thức về một sự đồng nhất sắc tộc và ngôn ngữ với các dân tộc Thổ trong khu vực. Do sức mạnh quân sự và chính trị của Thổ Nhĩ Kỳ có hạn nên họ không thể đạt được một khu vực ảnh hưởng chính trị đặc quyền. Trái lại, Thổ Nhĩ Kỳ tự coi mình như một lãnh tụ tiềm tàng của một cộng đồng lỏng lẻo những người nói tiếng Thổ, và tận dụng trình độ tương đối hiện đại, tính tương đồng về ngôn ngữ và các biện pháp kinh tế của mình để đưa nước này lên địa vị có ảnh hưởng nhất trong quá trình xây dựng quốc gia đang diễn ra trong vùng.
Tuy khát vọng của Iran vẫn chưa rõ ràng, nhưng về âu dài cũng chẳng kém phần nguy hiểm hơnt ham vọng của Nga. Đế chế Ba Tư là một ký ức xa xôi hơn. Vào lúc hoàng kim nhất, khoảng 500 trước Công nguyên, đế chế này bao gồm lãnh thổ hiện tại của ba nước vùng Kavkaz (Turkmenistan, Uzbekistan, Tajikistan). Tuy những khát vọng địa chính trị hiện tại của Iran ở mức độ thấp hơn Thổ Nhĩ Kỳ, tức là chủ yếu nhằm vào Azerbaijan và Afghanistan, nhưng toàn bộ dân Hồi giáo (kể cả trên lãnh thổ Nga) là mục tiêu trong mối quan tâm tôn giáo của Iran. Thực ra sự hồi sinh của đạo Hồi ở Trung Á đã trở thành một bộ phận hữu cơ của những khát vọng trong giới lãnh đạo hiện tại của Iran…
Ở giai đoạn này, vai trò của Trung Quốc bị hạn chế và mục tiêu của họ không rõ ràng, vì Trung Quốc chú ý đến một tập hợp những nước tương đối độc lập ở phía Tây hơn là một đế chế Nga. Trung Quốc lo rằng, dân thiểu số Thổ Nhĩ Kỳ ở Tân Cương có thể tìm thấy ở các nước Trung Á mới độc lập những ví dụ đầy hấp dẫn đối với họ, và vì vậyTrung Quốc đã tìm cách tranh thủ sự bảo đảm của Kazakhstan rằng họ sẽ trấn áp hoạt động vượt biên của dân thiểu số. Về lâu dài, những nguồn năng lượng của khu vực sẽ là điều mà Trung Quốc đặc biệt quan tâm với mục tiêu là trực tiếp tiếp xúc các nguồn năng lượng đó mà không phụ thuộc vào sự kiểm soát của Nga. Do vậy, lợi ích địa chính trị chung của Trung QUốc có xu hướng va chạm với lợi ích đại chính trị chung của Nga.
Đối với Ukraine, các vấn đề Trung tâm là đặc điểm tương lai của cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) và khả năng tiếp cận tự do hơn với các nguồn năng lượng, như vậy sẽ làm giảm sự phụ thuộc củ Ukraine vào Nga. Ở khía cạnh này, những mối quan hệ thân thiết hơn với Azerbaijan, Turkmenistan, Uzbekistan đã trở nên quan trọng đối với Ukraine và việc Ukraines ủng hộ các nước này độc lập với Nga. Do đó, Ukraine cũng đã ủng hộ cố gắng của Gruzia vươn lên địa vị làm chủ một tuyến đường chạy theo hướng Tây phục vụ cho xuất khẩu dầu Azeri. Ukraine còn hợop tác với Thổ Nhĩ Kỳ để làm suy yếu ảnh hưởng của Nga ở Biển Đen và đã ủng hộ những cố gắng của Thổ Nhĩ Kỳ nhằm chuyển lưu lượng dầu từ Trung Á tới các trạm cuối của Thổ.
Hiện nay cả Pakistan và Ấn Độ đều đang quan tâm tới các nước Balkans Âu – Á mới này. Đối với Pakistan, lợi ích chính của họ là đạt chiều sâu địa chiến lược thông qua ảnh hưởng địa chính trị ở Afghanistan và không để Iran có ảnh hưởng như vậy ở Afghanistan cũng như ở Tajikistan và cuối cùng thu lợi từ việc xây dựng đường dẫn dầu nối Trung Á với biển Arab. Nhằm chống lại Pakistan và ảnh hưởng lâu dài của Trung Quốc ở khu vực này, Ấn Độ xem xét ảnh hưởng của Iran và Afghanistan là sự hiện diện lớn hơn của Nga trong không gian Liên Xô cũ.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Zbigniew Brzezinski – Bàn cờ lớn – NXB CTQG 1999.