Những mùa trong cuộc đời – Phần IV


Sự lão hóa của thế hệ biến nhịp điệu của quá khứ thành nhịp điệu của tương lai. Nó giải thích tại sao mỗi thế hệ không chỉ được lịch sử định hình mà sau đó còn định hình lịch sử. Nó kiểm soát tốc độ thay đổi xã hội. Nó kết nối cuộc sống giữa sự gắn bó mật thiết về tiểu sử với lịch sử trong sự vĩ đại của xã hội hoặc chính trị. Theo tất cả những cách này, thế hệ nằm ở gốc rễ của saeculum.

Nếu kết nối giữa các thế hệ và lịch sử mạnh mẽ như vậy, thì tại sao con người chưa từng biết về nó? Họ biết đấy. Song trong thế giới cổ đại, kết nối bị mờ đi do một sự nhầm lẫn giữa dòng dõi gia đình với các nhóm đồng đẳng. Và trong thời hiện đại, những người ủng hộ sự tiến bộ đã phải miễn cưỡng thừa nhận một sự tác động lực nhịp nhàng sẽ làm suy yếu kế hoạch của họ.

Vào buổi bình minh của lịch sử được ghi chép lại, thế hệ (chứ không phải là ngay hay tháng hay năm) là tiêu chuẩn phổ quát của thời gian xã hội. Khi đưa những huyền thoại của thời tiền sử Aegea vào thơ, các nhà thơ Hy Lạp hồi đầu đã sử dụng những thế hệ tuần tự để đánh dấu sự xuất hiện kế tiếp của Gaea, Uranus, Cronus, và Zeus, Philo, khi viết về huyền thoại ra đời của Phoenicia, đã bắt đầu câu chuyện của mình với Genos, nam thần đầu tiên cầm quyền. Cựu Ước bắt đầu với Genesis, cách vũ trụ được sinh ra, và đo thời gian vĩnh hằng bằng một chuỗi thế hệ, thế hệ này sinh ra và nuôi dưỡng thế hệ tiếp theo. Đồng hồ thế hệ tương tự cũng xuất hiện trong các huyền thoại và truyền thuyết của người Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Celts, Teuton, Slav, và Hindu.

Các xã hội cổ đại thường mập mờ về những gì họ hàm ý trong từ ngữ. Từ gen- trong gốc Ấn – Âu chỉ có nghĩa cụ thể là “đến hoặc sinh ra” hoặc (như một danh từ) bất kỳ thực thể mới nào “được sinh ra”. Áp dụng cho con người, khái niệm rộng này có thể chiếm lấy những nghĩa khác. Một nghĩa là thế hệ gia đình: tất cả những người cùng một cha hay mẹ sinh học sinh ra. Các thế hệ trong gia đình được định ra khi dòng dõi là vấn đề đang được tranh luận, như khi Herodotus nói về “345 thế hệ” của các tu sĩ Ai Cập hoặc bằng những thuật ngữ kiểu như người thừa kế “thế hệ thứ tư”. Một nghĩa khác là thế hệ xã hội: tất cả những người mà tự nhiên hay xã hội sinh ra trong cùng một thời gian. Các thế hệ xã hội được định ra khi toàn bộ một nhóm đồng đẳng là vấn đề đang được quan tâm, như khi Tân Ước nói về “một thế hệ tráo trở” hoặc Hesiod nói về “những thế hệ” của vàng, bạc và đồng.

Một số ít xã hội truyền thống ngại làm rõ các vấn đề do được tổ chức xung quanh những bộ lạc gia đình, nên ít có nhu cầu tìm kiếm một sự khác biệt: Trong giới tinh hoa, mỗi cuộc hôn nhân mới hàm ý về một thế hệ xã hội mới. Bên cạnh đó, những khác biệt lớn về thế hệ thường không nảy sinh trong một bối cảnh truyền thống. Một khi đã phát sinh, chúng chẳng mấy khi quan trọng với hơn hai hoặc ba giai đoạn liên tiếp của cuộc đời. Qua một khoảng thời gian ngắn như vậy chỉ cần nhắc chút ít đến các thế hệ gia đình (cha mẹ của hùng, anh hùng, con của anh hùng) hẳn là đã có vẻ đầy đủ rồi.

Nhưng đến thời hiện đại, điều này đã thay đổi. Người châu Âu bắt đầu tư giác nói về các thế kỷ, đồng thời họ cũng bắt đầu nói rõ về những nhóm đồng đẳng. Trong tâm trạng fin-de-siècle trước Cách mạng Pháp, những lý thuyết về thế hệ xã hội bùng nổ trong bối cảnh đó. Cuộc họp mặt giới văn nghệ sĩ nào ở Paris cũng ồn ào nói (một số liên quan đến Thomas Jefferson) về cách xác định độ dài thời gian và các quyền tự nhiên của mỗi thế hệ.

Hơn 150 năm sau, nhiều bộ óc uyên bác nhất ở phương Tây vẫn gắng sức mở rộng và sàng lọc ý tưởng này. Gần như tất cả họ đồng ý với Auguste Comte rằng trong thế giới hiện đại, các thế hệ đã trở thành những nhà điều hành bậc thầy về nhịp độ thay đổi xã hội. John Stuart Mill chính thức định nghĩa một thế hệ là “một tập hợp mới gồm những người” mà “được giáo dục, trưởng thành từ thời thơ ấu giống nhau, thời thanh thiếu niên giống nhau, và có năm tháng nhiệt huyết nhất trùng nhau phần nào”. Giuseppe Ferrari dựa toàn bộ lý thuyết xã hội của mình vào các phong trào mà ông gọi là “i capi della società, i re del pensiero, i signori della generazione” (những nhà lãnh đạo xã hội, những ông vua tư tưởng, những ông hoàng của mỗi thế hệ). Khi nói về hậu quả trực tiếp của Thế chiến I, Karl Mannheim, José Ortega y Gasset, Franςois Mentré (những người đã đặt ra thuật ngữ thế hệ xã hội trong một cuốn sách cùng tên), và nhiều người khác, có lẽ đã đưa ra nội dung về các thế hệ có sức thuyết phục nhất từng được viết đến.

Cùng với sự ra đời của các lý thuyết mới về tiến bộ, người châu Âu đã trở nên nhận thức sâu sắc về sự khác biệt thế hệ trong đời sống văn hóa và chính trị của mình. Đến cuối thế kỷ 19, tầng lớp ưu tú châu Âu không ngừng huyên thuyên về các thế hệ, mỗi thế hệ được đặt tên theo một năm then chốt được bàn luận đến vốn định hình giới văn sĩ hoặc các nhà hoạt động trẻ, chẳng hạn như các thế hệ (châu Âu) năm 1815 hoặc 1848 hoặc 1870, hay thế hệ (Nga) năm 1820, thế hệ (Pháp) năm 1830, thế hệ (Tây Ban Nha) năm 1898. Thập niên 1920 lần đầu tiên đưa ra khái niệm nghiêm túc về một thế hệ vượt Đại Tây Dương, vì “thế hệ năm 1914” ở châu Âu bị chiến tranh tàn phá và Thế hệ Lạc lõng ở Mỹ bị lẫn vào nhiều quán cà phê Paris giống nhau. Sau Thế chiến I, khi Mỹ đã trở thành một biểu tượng toàn cầu về tiến bộ, thì mối quan tâm của người Mỹ về các thế hệ bắt đầu nhiều hơn hẳn người châu Âu. Kể từ đó, không có nhóm đồng đẳng nào đến tuổi trưởng thành ở Mỹ mà không phải nỗ lực kiên định để đặt tên và mô tả mình.

Kinh nghiệm trên của người Mỹ gốc Âu khẳng định rằng các tiến bộ xã hội càng nhanh thì các vấn đề thế hệ có vẻ càng xuất hiện nhiều hơn. Nhưng đồng thời, một xã hội càng cho mình là hiện đại thì con người trong xã hội đó càng cố kháng cự việc chính thức hóa sự thay đổi thế hệ như một ý tưởng. Trong khi hiện đại là tiến bộ hợp lý hướng tới tương lai, thì các thế hệ giữ vai trò nhắc nhở con người vẫn còn gắn bó nhiều với những dấu tích tiềm thức từ quá khứ của họ. Trong khi hiện đại là kiểm soát xã hội, thì sự thay đổi thế hệ có xu hướng bùng nổ khi đối diện với những người kiểm soát xã hội. Lên đến cùng cực, những cuộc cách mạng chính trị hiện đại đôi khi tìm cách tiêu diệt hoàn toàn các thế hệ bằng cách bêu xấu (hoặc thậm chí là tiêu diệt) những công dân có ký ức do một chế độ “sai” định hình. Hầu hết các nhóm tinh hoa hiện đại chỉ đơn giản là phogn tảo tầm quan trọng lịch sử của các thế hệ bằng một bức tường hoài nghi cao ngất. Bởi không mong chờ thay đổi thế hệ, nên con người có vẻ luôn bất ngờ khi gặp thay đổi này.

Ở Mỹ, cứ khoảng 20 năm lại xảy ra những bất ngờ kiểu này – khoảng thời gian để một thế hệ thanh niên mới đến tuổi trưởng thành (và các thế hệ trước đó bước vào giai đoạn mới của cuộc đời). Khoảng năm 1950, người Mỹ đã ngã ngửa vì thanh niên khi đó không cho thấy sự đoàn kết, tinh thần lạc quan, và tính tích cực chính trị của người lao động CCC [Civilian Conservation Corps] trước chiến tranh. Cuối thập niên 1960, các nhà khoa học xã hội lỗi lạc nhất (từ Margaret Mead đến Kenneth Keniston) đều không lường được cơn giận dữ bất ngờ của những thanh niên được kỳ vọng là vô cùng ngoan ngoãn. Kể từ đầu thập niên 1990, ba sự chuyển đổi giai đoạn trong đời đã diễn ra và được truyền thông ầm ĩ. Hàng loạt hoạt động tưởng niệm Thế chiến II đã khơi dậy chủ đề có tính hoài niệm xem liệu những gì Robert Putnam gọi là “một thế hệ công dân vĩ đại” giờ đây sẽ biến mất hay (như Bob Dole đề xuất) sẽ thực hiện “một sứ mệnh cuối cùng”. Thế hệ Bùng nổ khi bước vào tuổi trung niên đã vượt xa Thế hệ Im lặng trong việc nắm giữ quyền lực quốc gia (Clinton và Gore năm 1992, sau đó là cuộc cách mạng Gingrich và các thành viên mới của Hạ viện năm 1994) trong bối cảnh bàn nhiều đến “những sự thất bại” thay thế cho việc thỏa hiệp. Và khi nhận ra rằng Thế hệ Bùng nổ không còn trẻ, đã sinh ra hàng loạt mối quan tâm (đa số là không phù hợp) dành cho Thế hệ Thứ 13.

Ngày nay, giới chính khách và các nhà tiếp thị đang phát hiện ra những kết quả thành công của việc tiếp thị theo vòng đời. Các tham chiếu thế hệ liên tục xuất hiện trong những quảng cáo truyền hình, bài phát biểu chính trị, phim ảnh, và ngôn ngữ riêng của văn hóa nhạc pop hiện đại. Mặc dù vậy, những hàm ý rộng hơn của khái niệm này tiếp tục bị tầm thường hóa, giống như Bob Dylan, Jim Morrison, hay Kurt Cobain vẫn cho là chẳng có gì để nói về nó cả. Các mối liên hệ của mỗi thế hệ với việc bỏ phiếu và việc mua ô tô được hiểu (và chấp nhận) tốt hơn hẳn so với mối liên hệ sâu sắc hơn của họ với tự nhiên và thời gian. Giới học thuật mới đang dần thấy sự đúng đắn trong đánh giá của sử gia Anthony Esler thuộc Cao đẳng William và Mary rằng “trên thực tế, cách tiếp cận thế hệ có thể là một trong các cách tiếp cận lịch sử toàn diện”.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Về “Kế hoạch 12 điểm” của Trung Quốc giải quyết khủng hoảng Ukraine


Để thể hiện mình là một bên trung lập có thể giúp chấm dứt cuộc xung đột Nga-Ukraine kéo dài một năm qua, Trung Quốc đã đưa ra lời kêu gọi ngừng bắn ở Ukraine. Kế hoạch 12 điểm do Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố tại Bắc Kinh ngày 24/02 kêu gọi chấm dứt chiến sự, bảo vệ các nhà máy hạt nhân, nối lại các cuộc đàm phán hòa bình và loại bỏ các biện pháp trừng phạt.

Kế hoạch này là một nỗ lực nhằm định hình kết quả của cuộc chiến theo hướng có lợi cho Bắc Kinh và đưa nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình trở thành một chính khách toàn cầu. Điều này dường như có rất ít cơ hội thành công do Ukraine đã tuyên bố sẽ chiến đấu cho đến khi Nga rời khỏi biên giới và bởi Moskva không có dấu hiệu dừng các cuộc tấn công.

Kế hoạch 12 điểm của Trung Quốc về giải pháp chính trị cho cuộc khủng hoảng Ukraine:

1/ Tôn trọng chủ quyền của tất cả các nước. Chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia cần phải được duy trì. Tất cả các bên nên cùng nhau duy trì các chuẩn mực cơ bản chi phí quan hệ quốc tế và bảo vệ sự công bằng và công lý quốc tế. Cần thúc đẩy việc áp dụng bình đẳng và thống nhất luật pháp quốc tế, đồng thời bác bỏ các tiêu chuẩn kép.

2/ Từ bỏ tâm lý Chiến tranh Lạnh. An ninh của một quốc gia không thể dựa vào việc gây tổn hại cho quốc gia khác. Việc đảm bảo an ninh của một khu vực không thể dựa vào việc củng cố hoặc mở rộng các khối quân sự. Các lợi ích và mối quan tâm an ninh hợp pháp của tất cả các quốc gia cần phải được coi trọng và giải quyết thỏa đáng. Tất cả các bên nên phản đối việc theo đuổi an ninh của một quốc gia với cái giá phải trả là an ninh của quốc gia khác, ngăn chặn đối đầu giữa các khối và cùng nhau hợp tác vì hòa bình và ổn định trên Lục địa Á-Âu.

3/ Chấm dứt sự thù địch. Tất cả các bên phải duy trì lý trí và kiềm chế, tránh thổi bùng ngọn lửa chiến tranh và làm trầm trọng thêm căng thẳng, đồng thời ngăn chặn cuộc khủng hoảng ngày càng xấu đi hoặc thậm chí vượt khỏi tầm kiểm soát. Tất cả các bên nên ủng hộ Nga và Ukraine làm việc theo cùng một hướng và nối lại đối thoại trực tiếp càng nhanh càng tốt, để dần dần hạ nhiệt tình hình và cuối cùng đạt được một lệnh ngừng bắn toàn diện.

4/ Nối lại hòa đàm. Đối thoại và đàm phán là giải pháp khả thi duy nhất cho cuộc khủng hoảng Ukraine. Cộng đồng quốc tế nên cam kết thực hiện cách tiếp cận đúng đắn trong việc thúc đẩy đàm phán vì hòa bình, giúp đỡ các bên xung đột mở ra cánh cửa cho một giải pháp chính trị càng sớm càng tốt, đồng thời tạo điều kiện và nền tảng cho việc nối lại đàm phán. Trung Quốc sẽ tiếp tục đóng vai trò mang tính xây dựng trong vấn đề này.

5/ Giải quyết khủng hoảng nhân đạo. Các hoạt động nhân đạo phải tuân theo các nguyên tắc trung lập và không thiên vị, và các vấn đề nhân đạo không nên bị chính trị hóa. Sự an toàn của dân thường phải được bảo vệ một cách hiệu quả và các hành lang nhân đạo phải được thiết lập để sơ tán dân thường khỏi các vùng xung đột. Liên hợp quốc cần được hỗ trợ trong việc đóng vai trò điều phối trong công tác chuyển viện trợ nhân đạo tới các khu vực xung đột.

6/ Bảo vệ dân thường và tù binh chiến tranh (POW). Trung Quốc ủng hộ việc trao đổi tù binh giữa Nga và Ukraine, đồng thời kêu gọi tất cả các bên tạo điều kiện thuận lợi hơn cho mục đích này.

7/ Bảo đảm an toàn cho các nhà máy điện hạt nhân. Trung Quốc phản đối các cuộc tấn công vũ trang nhằm vào các nhà máy điện hạt nhân hoặc các cơ sở hạt nhân hòa bình khác, đồng thời kêu gọi tất cả các bên tuân thủ luật pháp quốc tế bao gồm Công ước về An toàn Hạt nhân (CNS) và kiên quyết tránh các tai nạn hạt nhân do con người gây ra. Trung Quốc ủng hộ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) đóng vai trò xây dựng trong việc thúc đẩy sự an toàn và an ninh của các cơ sở hạt nhân vì mục đích hòa bình.

8/ Giảm thiểu rủi ro chiến lược. Các bên không được phép sử dụng vũ khí hạt nhân và không được tiến hành chiến tranh hạt nhân. Cần phản đối việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân. Cần ngăn chặn phổ biến hạt nhân và tránh khủng hoảng hạt nhân. Trung Quốc phản đối việc nghiên cứu, phát triển và sử dụng vũ khí hóa học và sinh học của mọi quốc gia trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

9/ Tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu ngũ cốc. Tất cả các bên cần thực hiện Sáng kiến Ngũ cốc Biển Đen do Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraine và Liên hợp quốc ký kết một cách đầy đủ, hiệu quả và cân bằng, đồng thời ủng hộ Liên hợp quốc đóng vai trò quan trọng trong vấn đề này. Sáng kiến hợp tác về an ninh lương thực toàn cầu do Trung Quốc đề xuất cung cấp một giải pháp khả thi cho cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu.

10/ Chấm dứt các biện pháp trừng phạt đơn phương. Trung Quốc phản đối các biện pháp trừng phạt đơn phương chưa được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc phê chuẩn chấp thuận. Các quốc gia hữu quan cần ngừng lạm dụng các biện pháp trừng phạt đơn phương và “quyền tài phán trị ngoại” (thẩm quyền được áp dụng với bị cáo là người ngoại quốc) nhằm vào các quốc gia khác, để góp phần làm dịu cuộc khủng hoảng Ukraine và tạo điều kiện cho các nước đang phát triển phát triển kinh tế và cải thiện cuộc sống của người dân.

11/ Giữ ổn định chuỗi cung ứng và công nghiệp. Cần có những nỗ lực chung để giảm thiểu tác động lan tỏa của cuộc khủng hoảng  và ngăn chặn nó làm gián đoạn hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực năng lượng, tài chính, thương mại lương thực và vận tải cũng như làm tổn hại sự phục hồi kinh tế toàn cầu.

12/ Thúc đẩy tái thiết sau xung đột. Cộng đồng quốc tế cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ tái thiết sau xung đột tại các khu vực xung đột. Trung Quốc sẵn sàng hỗ trợ và đóng vai trò xây dựng trong nỗ lực này.

Nguồn: TKNB – 27/02/2023

Những mùa trong cuộc đời – Phần III


Để làm cho minh họa này gần gũi và cụ thể hơn, người Mỹ ngày nay chỉ cần nhớ lại Thế chiến II với những ảnh hưởng sâu sắc đến mọi thế hệ mà nó chạm tới. Hãy nhìn vào bảng sau:

Những thế hệ người Mỹ và Thế chiến II

Thế hệNăm sinhThành viên mẫuMối liên quan của thế hệ với Thế chiến II
CẤP TIẾN1843 – 1859Woodrow WilsonNhững người lớn tuổi trước chiến tranh (những người theo chủ nghĩa đa phương không thành công)
SỨ MỆNH1860 – 1882Franklin RooseveltNhững nhà lãnh đạo lớn tuổi: có tầm nhìn mang tính nguyên tắc
LẠC LÕNG1883 – 1900Dwight EisenhowerNhững tướng lĩnh trung niên: nhà quản lý thực dụng
VĨ ĐẠI NHẤT1901 – 1924John KennedyNhững người lính thanh niên: anh hùng luôn sẵn sàng hành động
IM LẶNG1925 – 1942Michael DukakisNhững đứa trẻ được che chở: người bạn đời đáng kính
BÙNG NỔ1943 – 1960Bill ClintonNhững đứa trẻ sau chiến tranh (đứa trẻ chiến thắng)
THỨ 131961 – 1981Tom CruiseNhững đứa trẻ sau chiến tranh (biểu tượng của đạo đức công dân đã mất)
THIÊN NIÊN KỶ1982 – 2002Lứa 2000Những đứa trẻ sau chiến tranh (mối quan hệ cá nhân cuối cùng)

Thế chiến II đã để lại một ấn tượng lớn đối với vai trò xã hội của mọi người sống vào thời điểm đó. Nó hun đúc người lớn tuổi thuộc Thế hệ Sứ mệnh thành những người có tầm nhìn xa nhất, những tên tuổi đương thời như Henry Stimson, George Marshall, Douglas MacArthur, và Albert Einstein gắn liền với danh hiệu “những người già thông thái” của thời đại, và trong ký ức của người Mỹ, họ hoàn toàn khác với Thế hệ Cấp tiến trước đó. Cuộc chiến giúp Thế hệ Lạc lõng đang ở tuổi trung niên có một việc lớn để hoàn thành, nổi bật là những kỳ tích dũng cảm của một George Patton hay một Harry Truman và làm bén rễ một nhóm đồng đẳng trước đó đã từng sống chậm rãi để ổn định cuộc sống. Chiến thắng cho phép thanh niên Thế hệ Vĩ đại nhất có quyền ngạo mạn như những kẻ chinh phục thế giới, gia tăng danh tiếng để “không yêu cầu” đạo đức công dân và sự chung sức của Đại xã hội, để sau đó thế hệ này có được nhiệm kỳ tổng thống dài nhất trong lịch sử Mỹ. Chiến tranh nuôi dưỡng sự thận trọng và nhạy cảm ở trẻ em Thế hệ Im lặng, cho chúng khoác lên một cá tính mà đã sinh ra mối bận tâm suốt đời gắn với quy trình, công bằng, và thể hiện khéo léo.

Thế chiến II có tác động mạnh mẽ đến xã hội tới mức nó xác định nhiều ranh giới thế hệ. Thế hệ Vĩ đại nhất bao gồm như tất cả những người chứng kiến cuộc chiến này. Ngược lại, Thế hệ Lạc lõng bao gồm những người đủ tư cách tham chiến trong Thế chiến trước đó, và Thế hệ Im lặng là những người nhớ tới chiến tranh với tư cách cá nhân và thậm chí có thể sẵn sàng nhập ngũ nhưng phần lớn là bỏ lỡ hành động tham chiến. Những người đầu tiên thuộc Thế hệ Bùng nổ sinh vào năm 1943, trong đó có “những đứa trẻ chiến thắng” đầu tiên, chúng được nuôi dạy từ đầu với sự lạc quan lớn lao và còn quá nhỏ để nhớ được sự vắng mặt của người cha trong thời chiến.

Trong số các thế hệ sinh ra sau đó, ký ức biểu tượng về cuộc chiến sử thi tiếp tục vang dội, nhưng tiếng vang đã giảm bớt phần nào. Thế hệ Vĩ đại nhất về hưu khi Thế hệ Thứ 13 đến tuổi trưởng thành mà không có anh hùng nào, và bị người lớn phê bình vì đã quên mất cảm giác thời chiến của cộng đồng. Những đứa trẻ Thiên niên kỷ ngày nay sẽ là thế hệ cuối cùng có nhiều liên hệ cá nhân với G.I. Joe và Rosie Thợ tán đinh, mà những giá trị công dân cũ của họ hiện đang được các gia đình, trường học, nhà thờ và phương tiện truyền thông đại chúng nhấn mạnh lại. Vào thời điểm thế hệ tiếp theo xuất hiện, Thế chiến II sẽ chỉ là lịch sự thuần túy, cách xa cuộc sống của họ giống như Nội chiến đối với đứa trẻ của Thế hệ Im lặng.

Điều gì xảy ra khi Sự kiện Lớn và những tiếng vang của nó phai mờ theo dòng chảy thời gian? Trong một xã hội truyền thống, không có gì xảy ra. Không có thêm Sự kiện Lớn nào, những thế hệ dần biến mất. 21 năm sau đó, chỉ có ba thế hệ khác nhau được hình thành nhờ sự kiện này còn tồn tại. Sau 42 năm, chỉ còn hai thế hệ; sau 63 năm, chỉ có những người hồi đó còn trẻ con mới có thể nhớ về nó; và sau 84 năm, chỉ còn một vài tiếng nói khàn khàn còn sót lại để kể lại ký ức cá nhân về những vinh quang trong quá khứ. Sau đó, quán tính xã hội sẽ hích nhẹ con người ở mọi lứa tuổi quay lại vòng đời của thế hệ trước đó. Trong vô số áng sử thi cổ đại, đây là nơi mà bức màn thời gian rủ xuống, đặt dấu chấm hết cho trường thiên tiểu thuyết về chiến công.

Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, những Sự kiện Lớn mới vẫn tiếp tục xảy ra vô cùng đều đặn. Đây là các điểm chí của saeculum: Khủng hoảng và Thức tỉnh. Qua năm thế kỷ trong lịch sử của người Mỹ gốc Anh, không có khảong thời gian nào kéo dài hơn 50 năm (khoảng thời gian bằng hai giai đoạn của cuộc đời) từng trôi qua mà không có sự xuất hiện của một thời kỳ Khủng hoảng hoặc Thức tỉnh. Do đó, mỗi thế hệ đều đã và đang được định hình bằng một thời kỳ Khủng hoảng hay Thức tỉnh ở một trong hai giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, và gặp cả Khủng hoảng lẫn Thức tỉnh vào một số thời điểm trong suốt vòng đời của mình.

Biểu đồ dưới đây cho thấy rõ ràng trường hợp xảy ra với Mỹ trong thế kỷ 20 ra sao:

Từ đỉnh cao của Thế chiến II, hãy chuyển sự chú ý của bạn tới khoảng 40 năm sau đó, vào thời điểm kết thúc Sự kiện Lớn tiếp theo của saeculum, Cách mạng Nhận thức sau chiến tranh. Từ đầu thập niên 1940 đến đầu thập niên 1980, mỗi thế hệ đã già thêm hai giai đoạn cuộc đời. Hai thế hệ (Lạc lõng và Sứ mệnh) trước đó vốn tích cực, giờ đây đã rời khỏi chính trường, và hai thế hệ mới (Bùng nổ và Thứ 13) trước đó chưa sinh ra, giờ đã xuất hiện.

Thời kỳ Thức tỉnh này – nỗi ám ảnh toàn xã hội đối với việc phá vỡ các quy tắc, tôn vinh tinh thần, bỏ rơi kỷ cương xã hội – một lần nữa định nghĩa lại các thế hệ, nhưng theo những cách hoàn toàn không giống như thời kỳ Khủng hoảng trước đó. Quay trở lại Thế chiến II, người 65 tuổi thời đó là nhà đạo đức nhìn xa trông rộng; hiện nay, trong Cách mạng Nhận thức, họ là những người bảo vệ một sự thiết lập duy lý. Trước đây, người 45 tuổi là người theo chủ nghĩa thực dụng ở tuổi trung niên với đồng lương chết đói `và phải lao động cực nhọc; hiện nay, họ là hoa tiêu nhạy cảm của “hành trình” tuổi trung niên. Trước đây, người 25 tuổi là lính mặc đồng phục; hiện nay, họ là người yêu bản thân nhưng thích thuyết giáo. Còn trẻ em? Đã không còn “người hay ra vẻ đạo đức” cho chở; ở vị trí của mình, họ là đứa trẻ tự xoay xở tìm cách trưởng thành.

Cứ khoảng 40 năm, cá tính của từng giai đoạn trong đời trở nên gần như trái ngược với những gì từng được thế hệ trước đó đã đi qua nó thiết lập. Trở lại giai đoạn đầu thời hiện đại, nhịp điệu này lại diễn ra. Trẻ em người Anh sinh ra trong những năm đầu tiên dưới triều đại Nữ hoàng Elizabeth I đã đến tuổi trưởng thành như những nhà xây dựng đế chế đầy tham vọng. Trẻ em sinh ra trong những năm cuối cùng của triều đại này đến tuổi trưởng thành bị ám ảnh với sự linh thiêng. Hai thế hệ sau đó, thanh niên Mỹ thời Cách mạng Vinh quang thích làm việc theo nhóm hơn là thay đổi tôn giáo; thanh niên thời kỳ Đại thức tỉnh lại thích những điều trái ngược. Trong thời kỳ Thức tỉnh Tiên nghiệm, thanh niên đã cố gắng thắp lửa cho những đam mê của tuổi già; trong thời kỳ Khủng hoảng Nội chiến, thanh niên lại dập tắt ngọn lửa của những bậc lão niên. Không đúng khi một số người cho rằng hầu hết các thế hệ đến tuổi trưởng thành đều có thái độ (với cuộc sống, chính trị, văn hóa) tương tự như người lớn tuổi khi còn trẻ. Khi trở lại 500 năm trước, điều này chưa bao giờ xảy ra.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Triển vọng kinh tế ASEAN trong năm 2023 – Phần cuối


Tăng trưởng không đồng đều

Các nền kinh tế khu vực dự kiến sẽ tăng trưởng không đồng đều trong năm 2023, căn cứ vào mức độ phục hồi của các lĩnh vực then chốt như sản xuất điện tử và trao đổi hàng hóa. Maybank dự báo tăng trưởng trong ASEAN-5 nói chung đạt 4,3%, nhưng tăng trưởng ở Malaysia (4%), Thái Lan (3,2%) và Singapore (1,5%) nói riêng lại dưới mức trung bình.

Trong khi đó, ông Cochrane chỉ ra rằng Philippines là quốc gia có thành tích tốt nhất trong ASEAN, nhờ nhu cầu nội địa đang bị dồn nén, cũng như gói kích thích tài chính dành cho y tế công cộng, cơ sở hạ tầng và giáo dục. Việt Nam được dự đoán sẽ đứng ở vị trí thứ hai trong khu vực, nhờ hoạt động kinh tế mạnh mẽ ở Mỹ – đối tác thương mại then chốt của Việt Nam. Yếu hơn là Thái Lan, nước sẽ tiếp tục chờ đợi sự trở lại của lượng lớn khách du lịch Trung Quốc, vốn vẫn chưa thể rời khỏi Đại lục. Malaysia và Thái Lan sẽ tăng trưởng chậm hơn so với các quốc gia khác do giá cả hàng hóa dự kiến giảm. Nền kinh tế nhỏ, mở cửa của Singapore sẽ tiếp tục tăng trưởng như với tốc độ chậm cho đến khi nhu cầu toàn cầu được cải thiện vào cuối năm 2023.

Cuối cùng, mặc dù các nhà phân tích UOB dự báo tăng trưởng ở các nền kinh tế lớn của ASEAN chậm lại, xuống dưới 5% trong năm 2023, nhưng họ cũng lưu ý rằng điều này phù hợp với xu hướng tăng trưởng chậm hơn nói chung, như ở các thị trường phát triển Mỹ và châu Âu.

Tương tự, các nhà kinh tế Maybank lạc quan coi khu vực Đông Nam Á là “bến cảng phòng thủ” trong năm 2023, và IMF dự báo tăng trưởng GDP cho các nền kinh tế ASEAN-5 vẫn cao hơn nhiều so với mức dự kiến 2,7% đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung trong cùng thời kỳ.

Công ty dịch vụ chuyên nghiệp Aon gần đây phát hiện ra rằng lương ở khu vực Đông Nam Á trong năm 2023 có thể tăng đáng kể so với năm 2022. Theo một cuộc khảo sát được công bố ngày 8/12, mức tăng trung bình có thể từ 4,7% ở Singapore lên 7,9% ở Việt Nam, do ngành khách sạn, bán lẻ và thương mại điện tử thúc đẩy. Ngược lại, lương ở những nơi khác nhìn chung sẽ tăng vừa phải, như 4,1% ở Australia, 4,7% ở Anh và 5,1% ở Mỹ.

Tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực cũng được cho là sẽ ổn định hoặc giảm. Maybank dự kiến tỷ lệ thất nghiệp trung bình ở Indonesia giảm xuống 5,3% trong năm 2023, từ mức 5,8% năm 2022. Ở Malaysia, tỷ lệ thất nghiệp dự kiến giảm xuống 3,5%, từ mức 3,8%; ở Philippines giảm xuống 5% từ 5,5%; và ở Thái Lan giảm xuống 1,2% từ 1,4%. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp năm 2023 có thể tăng lên 2,4%, từ 2,3% năm 2022, nhưng vẫn cho thấy sự cải thiện so với mức 3% năm 2021. Tương tự, tỷ lệ thất nghiệp ở Singapore có thể tăng 2,2% trong năm 2023, từ 2,1% năm 2022, nhưng vẫn tốt hơn mức 2,7% được ghi nhận trong năm 2021.

Trung Quốc – nhân tố lớn khó tiên liệu

Theo báo cáo của Ngân hàng Standard Charter được công bố ngày 8/12, sự phục hồi tăng trưởng của ASEAN có thể tiếp tục trong năm 2023, nhờ sự cải thiện trong các lĩnh vực như tiêu dùng trong nước và du lịch. Báo cáo đánh giá: “Các nền kinh tế ASEAN mở cửa và theo hướng thương mại hơn (như Singapore) có thể phải đối mặt với áp lực dẫn tới sự sụt giảm trong hoạt động xuất khẩu khi tăng trưởng toàn cầu suy yếu trong nửa đầu năm 2023”.

Đặc biệt, các nhà quan sát đang theo dõi chặt chẽ những diễn biến ở Trung Quốc gây ra rủi ro đáng kể cho những dự báo tích cực lẫn tiêu cực về ASEAN. Trung Quốc dường như không đạt được mục tiêu tăng trưởng 5,5% trong năm 2022, vì chính sách “Zero-COVID” nghiêm ngặt đã gây ra tình trạng bất ổn trong các ngành như bất động sản và công nghệ.

Ông Cochrane đánh giá: “Chu kỳ điện tử trên toàn cầu suy yếu khi nhu cầu của người tiêu dùng ở các nền kinh tế phát triển đã chuyển từ hàng hóa sang dịch vụ… Sự yếu kém trong lĩnh vực điện tử có thể kéo dài trong phần lớn năm 2023, và lĩnh vực này có khả năng phục hồi vào cuối năm 2023 hoặc đầu năm 2024. Xuất khẩu nội địa phi dầu mỏ của Singapore đã tăng trưởng âm trong tháng 11/2022 – lần suy giảm đầu tiên trong hai năm – do số lượng lô hàng điện tử và phi điện tử đều giảm so với cùng kỳ năm 2021”.

Trong khi đó, bà Ling nhận định: “Do có vai trò quan trọng đối với các nền kinh tế châu Á và đặc biệt là ASEAN, nên nền kinh tế và thị trường Trung Quốc sẽ có tác động dây chuyền đối với sản xuất, thương mại, đầu tư và cả mức độ tin cậy… Cũng không nên đánh giá thấp sự phụ thuộc vào Trung Quốc như một phần của chuỗi cung ứng sản xuất – đặc biệt là điện tử – và như một thị trường xuất khẩu then chốt cũng như nguồn du khách quan trọng”.

Tuy nhiên, các nhà phân tích của Maybank lưu ý rằng thương mại nội khối ASEAN có thể bù đắp cho nhu cầu yếu hơn ở các thị trường cuối cùng khác, trong khi các nhà đầu tư đang tiếp tục chuyển các chuỗi cung ứng sản xuất từ Trung Quốc sang ASEAN. Họ cũng nói thêm rằng yếu tố lớn khó tiên liệu trong năm 2023 là sự mở cửa lại của Trung Quốc, điều có thể bù đắp phần nào sự suy giảm ở Mỹ và châu Âu, và giúp tăng cường triển vọng kinh tế của ASEAN.

Mặc dù tiến sỹ Khor từ AMRO cho rằng sự suy giảm ở Trung Quốc và xu hướng giảm trong ngành điện tử dự kiến sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của khu vực, nhưng ông cũng nói thêm rằng nền kinh tế Trung Quốc dự kiến sẽ dần phục hồi trong nửa đầu năm 2023 và lĩnh vực điện tử có thể phục hồi khi nhu cầu ở các thị trường lớn phục hồi vào năm 2024.

Tiến sỹ Khor nhận định: “Sự giảm sút về xuất khẩu có thể được bù đắp bởi sự tăng mạnh về nhu cầu trong nước khi các biện pháp liên quan đến dịch bệnh tiếp tục được loại bỏ do số ca nhiễm tiếp tục giảm. Việc nối lại hoạt động du lịch và lữ hành quốc tế, cũng như việc thương mại dịch vụ tiếp tục tăng trưởng, sẽ làm giảm tốc độ chậm lại của xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt đối với các quốc gia phụ thuộc nhiều vào du lịch như Thái Lan và Campuchia”.

Nguồn: TLTKĐB – 09/01/2023

Triển vọng kinh tế ASEAN trong năm 2023 – Phần đầu


Tác giả bài viết trên báo The Business Times số ra gần đây nhận định khu vực Đông Nam Á dự kiến sẽ mở rộng quá trình phục hồi kinh tế vào năm 2023, với tốc độ tăng trưởng vượt xa các khu vực còn lại của thế giới, ngay cả khi lạm phát gia tăng và những rủi ro địa chính trị ảnh hưởng đến những dự báo về tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Khi được hỏi kinh tế khu vực đã thay đổi như thế nào trong quý cuối cùng của năm 2022, ông Steve Cochrane, nhà kinh tế trưởng phụ trách khu vực châu Á-Thái Bình Dương của công ty dịch vụ tài chính Moody’s Analytics, cho biết những dự báo đã giảm xuống mức vừa phải. Ông cho biết: “Những nhân tố bất lợi là: thương mại khu vực và toàn cầu suy giảm trong những tháng gần đây, lạm phát ở phần lớn khu vực Đông Nam Á cơ bản vẫn cao và nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục hoạt động kém”.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo GDP của các nền kinh tế thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)-5 (bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam) tăng trưởng 4,9% theo giá trị không đổi vào năm 2023. Tăng trưởng ước tính trong Báo cáo triển vọng khu vực mới nhất, được công bố hồi tháng 10/2022, đã giảm so với mức 5,9% trong dự báo hồi tháng 4/2022. Trong khi đó, trong đánh giá triển vọng tháng 10/2022, Văn phòng nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) đã hạ dự báo tăng trưởng GDP thực xuống 4,9% đối với tất cả các nước ASEAN – từ mức 5,2% trong đánh giá tháng 7. Bên cạnh đó, IMF tháng 10/2022 đã nâng dự báo lạm phát của ASEAN-5 lên 4,4% trong năm 2023, so với mức 3,2% hồi tháng 4, trong khi AMRO nâng dự báo lạm phát trên toàn ASEAN lên 4% cho năm 2023, từ mức 3,2% trong dự báo trước đó.

Trong bối cảnh lạm phát leo thang, nhà kinh tế trưởng Selena Ling của Ngân hàng OCBC cho biết các thị trường mới nổi có thể được chú ý trong năm 2023, khi tốc độ thắt chặt chính sách tiền tệ trong khu vực chậm lại. Tăng trưởng cũng bị đe dọa bởi những lo ngại về sự chậm lại của nền kinh tế Trung Quốc – thị trường thương mại khổng lồ của khu vực – và sự suy giảm trong lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là hàng điện tử. Tuy nhiên, sự hỗ trợ về cơ cấu và chính sách có nghĩa là nền kinh tế ASEAN vẫn có thể phát triển vượt trội so với các khu vực khác của thế giới – và các nhà quan sát hy vọng khả năng mở cửa trở lại của Trung Quốc sẽ nâng cao hơn nữa triển vọng của khu vực.

Nhiều đợt tăng lãi suất sắp tới

Giá hàng hóa và tiêu dùng tăng đột biến trong năm 2022, do sự mất cân đối cung-cầu liên quan đến đại dịch COVID-19 kéo dài cùng với những gián đoạn do cuộc xâm lược Ukraine của Nga bắt đầu hồi tháng 2/2022 gây ra. Tăng trưởng chậm hơn và lạm phát gia tăgn đã làm tăng áp lực đối với các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là khi Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ (FED) có quan điểm “diều hâu” tạo ra xu hướng tăng lãi suất mạnh mẽ trên toàn thế giới.

Ông Cochrane cho rằng chính sách tiền tệ trong khu vực có thể sẽ bị thắt chặt thêm khi các ngân hàng trung ương hành động để kiềm chế lạm phát và hỗ trợ đồng tiền quốc gia. Ông nhận định: “Chính sách tiền tệ sẽ tăng với tốc độ vừa phải trong quý I/2023. Các ngân hàng trung ương sẽ chỉ nới lỏng trở lại khi cả lạm phát tổng thể lẫn giá lương thực bắt đầu giảm”.

Trong khi đó, bà Ling của OCBC cho rằng còn quá sớm để nói đến thời kỳ đỉnh điểm của việc thắt chặt chính sách tiền tệ ở ASEAN, đặc biệt là nếu khu vực này phải đối mặt với dòng vốn chảy ra hay FED tiếp tục tăng lãi suất. Bà cho rằng sẽ có thêm một vài đợt tăng lãi suất nữa từ các ngân hàng như Ngân hàng Indonesia và Ngân hàng Negara Malaysia, và nhiều khả năng sẽ có một đợt thắt chặt tỷ giá hối đoái nữa từ Cơ quan tiền tệ Singapore tại kỳ đánh giá chính sách tiếp theo vào tháng 4/2023. Ngân hàng Thái Lan đã nâng lãi suất lên tổng số 75 điểm cơ bản kể từ tháng 8/2022. Kỳ đánh giá chính sách tiếp theo của ngân hàng này sẽ diễn ra vào ngày 25/1 tới, trong đó các nhà kinh tế dự đoán sẽ có một đợt tăng lãi suất nữa.

Bà Ling cũng chỉ rõ áp lực phải làm nhiều hơn nữa để giải quyết các vấn đề về chi phí sinh hoạt thông qua chính sách tài khóa, chẳng hạn như khả năng trợ cấp cho các nhóm thu nhập thấp ở Malaysia dưới thời nhà lãnh đạo mới Anwar Ibrahim. Tuy nhiên, nhà kinh tế trưởng AMRO Khor Hoe Ea lưu ý rằng sự phục hồi kinh tế đang diễn ra đã thúc đẩy hầu hết các quốc gia tăng cường các làn sóng hỗ trợ tài chính trước đó. Ông nhận xét: “Mặc dù một số nền kinh tế gần đây đã triển khai các biện pháp hỗ trợ chính sách tài khóa để giảm nhẹ tác động của giá lương thực và năng lượng tăng cao đối với chi phí sinh hoạt, nhưng những biện pháp này được cho là tạm thời và nhỏ hơn về quy mô so với các gói kích thích kinh tế đã được mở rộng trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19”.

Quả thực, tỷ lệ lạm phát ở ASEAN vẫn được dự kiến tiếp tục thấp hơn so với những nơi khác. Theo Ngân hàng Maybank, ngoại trừ Myanmar, lạm phát tổng thể dự kiến từ 3% ở Malaysia và Thái Lan đến 5% ở Lào và 6% ở Singapore vào năm 2023. Các nhà phân tích cũng tin rằng lạm phát có thể đã đạt đỉnh ở các thị trường ASEAN như Singapore, Thái Lan và Indonesia.

Trong khi lạm phát vẫn tăng cao so với tình hình trước dịch bệnh, giá cả có xu hướng giảm từ mức cao của năm 2022 – AMRO dự kiến sẽ giảm từ 7,6% năm 2022 xuống 4% năm 2023 ở ASEAN nói chung. Mức lạm phát dự kiến cho năm 2023 ở ASEAN cũng thấp hơn so với mức trung bình toàn cầu mà IMF ước tính là 6,5% trong năm 2023.

Như vậy, hầu hết các ngân hàng trung ương ASEAN không mạnh tay như FED trong việc thắt chặt chính sách tiền tệ và tăng lãi suất, trừ Philippines và Singapore. Các nhà phân tích của Maybank nhận định: “Việc thắt chặt chính sách tiền tệ ở mức vừa phải hơn ở ASEAN sẽ hạn chế cú sốc về lãi suất đối với chi tiêu tiêu dùng và đầu tư kinh doanh”. Tương tự, các nhà phân tích của Ngân hàng UOB lưu ý trong đánh giá triển vọng hàng quý rằng lạm phát thấp hơn và việc thắt chặt chính sách mềm mỏng hơn của các ngân hàng trung ương trong khu vực sẽ gia tăng tính linh hoạt cho quá trình mở rộng kinh tế.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 09/01/2023

Những mùa trong cuộc đời – Phần II


Tiếp đến là thời trung niên, mùa thu hoạch lớn, được Henry Adams gọi là “Mùa hè Ấn Độ của cuộc đời… một chút nắng và một chút buồn, giống như mùa này”. Thomas Hardy coi thời trung niên là “trung tâm của cuộc đời bạn, chứ không phải là một thời điểm ở bên rìa cuộc đời”. Đó là giai đoạn “thống trị” theo Ortega y Gasset, một độ tuổi khẳng định lối sốn, thực hiện những ý tưởng và ước mơ, hiện thực hóa các dự án và kế hoạch, cố vấn cho thanh niên, thiết lập các tiêu chuẩn cho trẻ em – và như Levinson lưu ý, “nắm giữa lấy quyền lực”. Đây cũng là lúc các cá nhân nhận ra rằng thế hệ của họ không tiếp tục lớn lên nữa. Cảm thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự lão hóa cơ thể, họ nhận ra nhịp sinh học của mình bắt đầu thay đổi. Tuổi trung niên, theo Carl Jung, chính là giai đoạn của “sự cá nhân hóa”, là quãng thời gian khi “các giá trị và kể cả cơ thể của con người có xu hướng thay đổi sang hướng đối lập”.

Thời trung niên bắt đầu lúc nào? Theo nhiều chuyên gia (Browne, Ortega, Jung, Levinson), nó bắt đầu vào khoảng từ 40 đến 45 tuổi. Aristotle viết rằng một người đạt đỉnh cao thể chất ở tuổi 35, đỉnh cao trí tuệ ở tuổi 49; trinh bình ở tuổi 42. Trong hai thế kỷ qua, độ tuổi người Mỹ bước vào giai đoạn trung niên đã giảm dần. Trước Nội chiến, Tổng thống Mỹ mới đắc cử ở độ tuổi trung bình 58; sau đó, độ tuổi này giảm xuống 54. Tổng thống trẻ nhất trong thế kỷ 19 (Ulysses Grant) nhậm chức lúc 46 tuổi. Đến thế kỷ 20, ba Tổng thống (Theodore Roosevelt, John Kennedy, Bill Clinton) đều nhậm chức trong độ tuổi từ 42 đến 46. Các thay đổi lớn xảy ra khi vai trò lãnh đạo được những người mới bước vào độ tuổi 40 đảm nhận: Đầu thập niên 1960, họ có ảnh hưởng hiếm thấy trong chính trị, còn ngày nay họ có nhiều ảnh hưởng hơn về văn hóa.

Đối với hầu hết mọi ngời, cuộc đời kế tthúc vào thời lão niên, mùa đông của cuộc đời, là thời gian để thư nhàn và suy ngẫm, giã từ các nhiệm vụ mệt mỏi trong sự nghiệp và gia đình, trao lại trọng trách cho lực lượng trẻ hơn. Ogden Nash có bài thơ, “Bắt đầu lão hóa/ Hết tuổi trung niên/ Con cháu bây giờ/ Đông hơn bằng hữu”. Song đây cũng là thời gian thiết lập các tiêu chuẩn, truyền đạt lại trí tuệ, phút huy năng lực, và tận dụng những vị trí lãnh đạo cao nhất trong xã hội. Thoát khỏi những gánh nặng mệt nhoài của công việc và gia đình, nhiều người lớn tuổi có thể lui về hậu thuẫn và đóng góp trí tuệ về chiến lược mà xã hội nào cũng cần. Ý tưởng này vẫn hiện diện trong từ senate của chúng ta, bắt nguồn từ senatus trong tiếng La Mã cổ đại với ý nghĩa ban đầu là “một hội đồng người lớn tuổi”.

Ngày nay, tỉ lệ người Mỹ còn sống đến độ tuổi 70 và 80 cao hơn, nhưng các nghi lễ quan trọng đánh dấu sự khởi đầu của tuổi già hiện giờ lại đến sớm hơn hồi quá khứ. Một thế kỷ trước, nghỉ hưu có nghĩa là không còn đủ sức làm việc; bây giờ, nó gợi nên một hình ảnh hoạt động tích cực. 50 năm trước đây, gần hai phần ba nam giới độ tuổi 65 – 69 vẫn đi làm, hiện giờ chỉ còn một phần tư tìm kiếm việc làm. Vai trò xã hội của người lớn tuổi thường thay đổi giữa các thời đại. Từ thập niên 1960 đến thập niên 1990, ảnh hưởng của người lớn tuổi trong chính trị đã tăng lên, nhưng ảnh hưởng của họ trong lĩnh vực văn hóa lại giảm đi tương ứng.

Giống như các mùa, bốn giai đoạn của cuộc đời hòa trộn vào nhau, theo một nhịp điệu cho phép biến đổi. Độ dài của một mùa được xác định bằng quãng thời gian từ điểm chí đến điểm phân, còn độ dài của mỗi giai đoạn trong vòng đời được xác định bằng quãng thời gian từ khi sinh ra đến tuổi vị thành niên bước vào tuổi trưởng thành. Trong xã hội Mỹ ngày nay, sự trưởng thành được ghi nhận lúc 21 tuổi, thời điệm tốt nghiệp đại học và khởi nghiệp. Từ đó trở đi, một người sẽ được coi là người trưởng thành hoàn toàn độc lập. Độ dài của giai đoạn đầu tiên trong đời cũng cố định độ dài của các giai đoạn khác trong đời. Khi lứa trẻ em đến độ tuổi trưởng thành, chíe duy nhất lứa này mới hình thành nên lứa thanh niên của xã hội ngày đó, đẩy lứa nhiều tuổi hơn trước đó vào vai trò xã hội của tuổi trung niên. Ngày nay, điều này xảy ra khi lứa nhiều tuổi hơn đạt tới độ tuổi 42, cũng là độ tuổi tối thiểu của tổng thống được chấp nhận trong lịch sử Mỹ (dù Hiến pháp không quy định). Và đến lượt nhóm bước vào trung niên đẩy nhóm khác vào vai trò của người lớn tuổi, mà hiện bắt đầu từ khoảng 63 tuổi, ngày nay đây là độ tuổi trung bình được nhận khoản trợ cấp tuổi già đầu tiên từ chính phủ.

Do tỉ lệ người có thể sống ở thời lão niên tăng mạnh trong 50 năm qua, nên có lẽ cần xác định thêm một giai đoạn mới của cuộc đời: thời lão niên muộn (84 tuổi trở lên). Vai trò xã hội của người ở thời lão niên muộn chủ yếu là phụ thuộc, tiếp nhận sự an ủi từ người khác. Ngoài việc tiêu thụ tài nguyên, số ít người Mỹ lớn tuổi nhất hiện nay đang làm thay đổi các động lực của bốn giai đoạn trong vòng đời. Nếu số người ở thời lão niên muộn tiếp tục gia tăng, và nếu họ đã từng khẳng định vai trò xã hội tích cực, thì có thể ảnh hưởng của họ lên saeculum (và lịch sử) là đáng kể.

Các giai đoạn và vai trò xã hội trong vòng đời hiện đại của Mỹ có thể được tóm tắt như sau:

+ Thời thơ ấu (pueritia, 0 – 20 tuổi); vai trò xã hội: lớn lên (tiếp nhận sự nuôi dưỡng, tiếp thu các giá trị).

+ Thời thanh niên (iuventus, 21 – 41 tuổi); vai trò xã hội: sống đầy sinh lực (phục vụ cho các tổ chức, thử nghiệm các giá trị).

+ Thời trung niên (virilitas, 42 – 62 tuổi); vai trò xã hội: nắm quyền (quản lý các tổ chức, áp dụng các giá trị).

+ Thời lão niên (senectus, 63 – 83 tuổi); vai trò xã hội: lãnh đạo (lãnh đạo các tổ chức, chuyển giao các giá trị).

+ Thời lão niên muộn (từ 84 tuổi); vai trò xã hội: phụ thuộc (tiếp nhận sự an ủi từ các tổ chức, ghi nhớ các giá trị).

Bốn giai đoạn đầu tiên (từ thời thơ ấu đến tuổi già) tạo thành bốn giai đoạn trong vòng đời con người. Tổng độ dài của bốn chu kỳ này khoảng 84 năm, phù hợp với khoảng thời gian saeculum Mỹ hứa hẹn trở lại với Cách mạng.

Các thế hệ và lịch sử

Quy luật mùa của vòng đời chính là thứ có thể tạo ra các thế hệ. Để hình dung ra điều này, hãy tưởng tượng một xã hội truyền thống trong đó cả bốn giai đoạn cuộc đời được định nghĩa rõ ràng và quy định nghiêm ngặt. Mỗi nhóm vừa bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời đều cố gắng thực hiện vai trò xã hội của mình – lớn lên, sống đầy sinh khí, nắm quyền, và lãnh đạo – đúng như nhóm trước đó vừa thực hiện. Không có thể hệ nào đáng nói đến. Không có kịch bản vòng đời nào độc đáo, và không có quỹ đạo sinh học nào sáng tạo.

Giờ hãy tưởng tượng là xã hội đột nhiên xảy ra một Sự kiện Lớn (theo như Karl Mannheim gọi là một “thời điểm kkết tinh”), kiểu tình trạng khẩn cấp nào đó khiến hậu quả xã hội đầy rẫy, làm biến đổi mọi thành viên của xã hội nhưng theo các cách khác nhau phụ thuộc vào những phản ứng trong giai đoạn cuộc đời của họ.

Đối với trẻ em, phản ứng này có thể cho thấy một sự kính trọng đầy sợ hãi trước người lớn tuổi (và tránh xa họ); đối với thanh niên cầm vũ khí và liều chết với kẻ thù; đối với trung niên, tổ chức quân đội, chỉ đạo hậu phương, và huy động xã hội nỗ lực tối đa; đối với người lớn tuổi, thiết lập chiến lược và làm rõ mục đích lớn hơn. Áp lực của Sự kiện Lớn để lại dấu ấn cảm xúc khác nhau theo từng vai trò xã hội được kêu gọi đảm nhiệm – những khác biệt lại được củng cố qua tương tác xã hội trong mỗi nhóm. Trẻ em phản chiếu nỗi sợ hãi của nhau, thanh niên phản chiến lòng dũng cảm của nhau, trung niên phản chiếu năng lực của nhau, và người già phản chiếu sự thông thái của nhau.

Nếu Sự kiện Lớn được giải quyết thành công, nó sẽ lưu truyền lại dấu ấn trong ký ức của con người ở các giai đoạn cuộc đời một vị trí duy nhất trong lịch sử – và một cá tính thế hệ. Đặc biệt, nó ghi dấu thanh niên như những anh hùng tập thể, mà sau này sẽ có vô số huyền thoại vĩ đại xoay quanh họ. Khi thế hệ anh hùng này đến độ tuổi trung niên, các nhà lãnh đạo của thế hệ này thể hiện sự kiêu căng lớn hơn thế hệ trước đó. Khi về già, họ lại có thêm nhu cầu được công chúng tán thưởng. Trong khi đó, thế hệ nối tiếp họ – những đứa trẻ run rẩy trong Sự kiện Lớn – mang một tính cách khiêm nhường hơn khi bước vào các giai đoạn sau của vòng đời, vai trò xã hội của chúng vì thế cũng thay đổi theo cho phù hợp. Các thế hệ sinh ra ngay sau Sự kiện Lớn có khả năng sẽ được nhìn qua những sắc màu hy vọng như những đứa trẻ thời đại vàng son và chiến thắng đã thu được là dành cho chúng. Và Sự kiện Lớn vẫn tiếp tục gây tiếng vang theo thời gian, lần lượt thế hệ này có thể đánh giá các thế hệ sau cho dù họ có đánh giá theo tiêu chuẩn riêng của mình hay không.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019

Công nghiệp quốc phòng – công cụ xây dựng quyền lực và quan hệ địa chính trị của Ấn Độ – Phần cuối


Israel

Israel là tác nhân mới trong cuộc chạy đua vũ trang của Ấn Độ. Sự hội tụ các yếu tố khiến Ấn Độ trở nên hấp dẫn đối với Isreal, điều này giải thích cho các hợp đồng mà các công ty Israel thực hiện với Bộ Quốc phòng Ấn Độ. Ngày 2/6/2022, trong chuyến thăm New Delhi của Bộ trưởng Quốc phòng Israel Benjamin Gantz, hai nước đã ký kết Tầm nhìn Hợp tác quốc phòng Ấn Độ – Israel. Trong lịch sử, Ấn Độ và Israel cùng đấu tranh chống Đế quốc Anh và hiện đều đối mặt với những mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo. Bên cạnh đó, hai nước còn có chung những giá trị dân chủ ở châu Á. Đại sứ Israel tại Ấn Độ Ron Malka từng phát biểu: “Nhìn về phía Đông của Israel, Ấn Độ là quốc gia dân chủ đầu tiên và duy nhất. Tương tự, quốc gia dân chủ nhất mà Ấn Độ tìm thấy ở phía Tây của họ là Israel. Bên cạnh những nền văn minh giàu có và lâu đời, hai nước cũng phải đối mặt với những thách thức và mối đe dọa như nhau, điều này khiến Ấn Độ và Israel trở thành những đồng minh tự nhiên, chứ không chỉ là những đối tác chiến lược. Israel nhỏ hơn 150 lần so với Ấn Độ nhưng quy mô hợp tác giữa hai nước là rất lớn”. Tiếp đó, ông liệt kê những yếu tố thúc đẩy Ấn Độ trở thành đồng minh đặc biệt của Israel: lực lượng lao động dồi dào, gồm cả lành nghề và không lành nghề, khả năng của Ấn Độ trong việc tháo gỡ hoặc giảm thiểu xung đột với các quốc gia láng giềng, cùng chung cuộc chiến chống khủng bố, cùng tìm cách bảo vệ biên giới bằng những bức tường hay chướng ngại vật không thể vượt qua, cùng nghiên cứu trong những lĩnh vực hiện đại nhất như phòng thủ mạng, viễn thông và không gian vũ trụ. Bán vũ khí cho Ấn Độ không chỉ mang lại sự hấp dẫn về kinh tế, mà trên hết, về mặt chiến lược, đó là một sự đầu tư dài hạn bằng cách tạo ra đồng minh trước những mối đe dọa của Iran đối với sự tồn vong của Israel. Cũng như Nga, Israel không ngần ngại bán công nghệ mới nhất của mình cho Ấn Độ, khách hàng quan trọng nhất cho ngành công nghiệp quốc phòng Israel.

Năm 2017, Tập đoàn Hàng không Vũ trụ Israel (IAI) đã bán hệ thống phòng không Barak 8 cho Ấn Độ với giá 630 triệu USD, và một hợp đồng bổ sung đã được hai bên ký kết năm 2018 trị giá 777 triệu USD. Tháng 8/2019, một nhà máy đã được khánh thành ở thành phố Hyderabad (Ấn Độ) để sản xuất tên lửa chống tăng với sự hợp tác giữa công ty quốc phòng Rafael Advanced Defense Systems của Israel và công ty Astra Microwaves của Ấn Độ. Có thể nhận thấy, liên minh Israel-Ấn Độ hứa hẹn tương lai tươi sáng vì các công ty quốc phòng Israel chấp thuận chuyển nhượng một phần hoạt động sản xuất của họ cho Ấn Độ, và trên hết Israel đã thử nghiệm vũ khí của họ trong chiến đấu và không ngần ngại bán vũ khí đó cho Ấn Độ khi nước này muốn sử dụng chúng để chống lại Pakistan!

Anh

Anh chiếm vị trí đặc biệt trong nhóm các quốc gia xuất khẩu vũ khí cho Ấn Độ. Vào đầu những năm 2020, Anh cung cấp 3% vũ khí nhập khẩu của Ấn Độ và trong triển lãm quốc phòng DefExpo 2020, 13 công ty Anh đã giới thiệu sản phẩm của họ cho quân đội Ấn Độ. Chính phủ Anh tìm cách phát triển việc bán hàng sang Ấn Độ vì những lý do chính trị: hai nước cùng chia sẻ các giá trị dân chủ, cùng chống khủng bố. Ngoài ra còn có những lý do địa chiến lược và kinh tế: phát triển ảnh hưởng của Anh trên quy mô toàn cầu thông qua Ấn Độ, chủ yếu ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Cộng đồng đông đảo người Ấn Độ ở Anh cũng là yếu tố thúc đẩy sự phát triển troa đổi thương mại giữa hai nước.

Tháng 4/2019, hai nước đã ký kết biên bản ghi nhớ nhằm tăng cường sự hợp tác công nghiệp trong dài hạn. Biên bản ghi nhớ này sẽ mang lại lợi ích cho quân đội Anh và Ấn Độ. Ngày 30/4/2019, khi được hỏi tại Hạ viện về chủ đề này, Bộ trưởng Quốc phòng Anh Stuart Andrews đã trả lời: “Biên bản ghi nhớ nhấn mạnh mong muốn của Anh và Ấn Độ trong việc tăng cường mối quan hệ quốc phòng song phương. Nó sẽ giúp chúng tôi xác định những nhu cầu chung về năng lực quốc phòng và an ninh và từ đó cho phép các ngành công nghiệp quốc phòng và an ninh của chúng tôi tập trung và hợp tác hiệu quả hơn vào các cơ hội sở hữu vũ khí cả ở Anh và ở Ấn Độ. Những cải tiến công nghệ và năng lực công nghiệp có được từ sự hợp tác này sẽ tăng cường an ninh chung và sự thịnh vượng của chúng tôi trong dài hạn”. Biên bản ghi nhớ này cho thấy Anh coi Ấn Độ là một thị trường ưu tiên cần phát triển, và điều này đã được chứng minh vào tháng 4/2022 trong chuyến thăm của Thủ tướng Boris Johnson tới New Delhi khi ông và người đồng cấp Ấn Độ Narendra Modi đã khẳng định sẽ đưa quan hệ hợp tác giữa hai nhà nước lên tầm đối tác chiến lược toàn diện với lộ trình đến năm 2030, trong đ1o hai bên sẽ cùng nhau hợp tác nghiên cứu và sản xuất.

Bản đồ các quốc gia cung cấp vũ khí cho thị trường quốc phòng Ấn Độ cho thấy thị trường này rất hạn chế và chỉ các quốc gia có cùng mục tiêu địa chính trị với Ấn Độ mới lọt vào danh sách các nhà cung cấp. Một số quốc gia, có mặt tại triển lãm quốc phòng DefExpo 2020 nhưng không được Ấn Độ đặt hàng, đang tìm cách khẳng định thâm nhập thị trường nước này, và điều thú vị là trong số những ngước này có Australia và Nhật Bản, các đồng minh của Ấn Độ và Mỹ trong khuôn khổ Đối thoại An ninh Bốn bên (Bộ tứ). Đơn đặt hàng quân sự củng cố quan hệ chiến lược giữa các đồng minh, nhưng cũng kéo theo hoạt động đầu tư vào Ấn Độ vì luật pháp Ấn Độ quy định nhà cung cấp có nghĩa vụ bù đắp công nghiệp khi các hợp đồng vượt quá mức tiền nhất định (296 triệu USD theo Thủ tục Mua sắm Quốc phòng 2016). Công ty bán vũ khí trên thị trường Ấn Độ phải mua các linh kiện ở Ấn Độ, hoặc trực tiếp sản xuất ở nước này thông qua liên doanh bằng cách đầu tư vốn vào một công ty Ấn Độ hay chuyển giao công nghệ. Do vậy, có một nghịch lý là Ấn Độ càng nhập khẩu nhiều thì nước này càng sử dụng sự phụ thuộc này để buộc các nhà cung cấp chuyển giao bí quyết và công nghệ. Tuy nhiên, phương pháp này không thuyết phục lắm đối với sự phát triển công nghiệp của Ấn Độ, bởi những người bán thường đưa ra nhiều cam kết để đủ điều kiện ký hợp đồng bán vũ khí nhưng sau đó dường như họ ít sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ của mình.

So với nhập khẩu, lượng xuất khẩu vũ khí của Ấn Độ không đáng kể, với mức thâm hụt hơn 3 tỷ USD trong năm 2017. Tờ rơi dành cho khách tham quan tại triển lãm quốc phòng DefExpo 2020 trích dẫn 84 quốc gia nhập khẩu sản phẩm quốc phòng của Ấn Độ. Tuy nhiên, số liệu về xuất khẩu của Ấn Độ hoàn toàn không giống với số liệu của SIPRI và đều cao hơn đáng kể.

Người ta nhận thấy rằng ngoài các mặt hàng bảo hộ, mũ bảo hiểm, áo chống đạn, thậm chí xe cộ, các sản phẩm của Ấn Độ thể hiện một trình độ công nghệ ở mức bình thường. Không quốc gia nào sản xuất máy bay, tàu chiến hay tên lửa đặt hàng từ Ấn Độ. Điểm đến các sản phẩm quốc phòng của Ấn Độ thường là những thị trường bị phong tỏa (như Afghanistan và Nepal) – hầu như buộc phải mua sản phẩm của Ấn Độ vì lý do an ninh, các nước láng giềng (như Myanmar, Sri Lanka), các thị trường đảo quốc được tài trợ (Seychelles, Muritius nhận tàu tuần duyên cho lực lượng bảo vệ bờ biển của họ) – giúp mở rộng ảnh hưởng của Ấn Độ ở Ấn Độ Dương, và cuối cùng là các nước châu Phi (Mozambique, Namibia) đánh dấu bước mở cửa mới của Ấn Độ đối với thị trường này.

Nguồn: www.diploweb.com

TLTKĐB – 07/11/2022

Công nghiệp quốc phòng – công cụ xây dựng quyền lực và quan hệ địa chính trị của Ấn Độ – Phần đầu


Cuộc chiến mà Nga phát động ở Ukraine thu hút lại sự chú ý vào tầm quan trọng của việc có một ngành công nghiệp quốc phòng. Vậy Ấn Độ, một trong hai gã khổng lồ châu Á thì sao? Ấn Độ nhập khẩu số lượng lớn hàng quốc phòng, vừa để trang bị quân đội quốc gia, vừa để tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với Nga, Mỹ, Israel, Pháp và Anh. Qua đó, Ấn Độ tìm cách buộc các cường quốc này đầu tư vào Ấn Độ để phát triển sản xuất quốc gia và có được bí quyết và công nghệ. Đồng thời, Ấn Độ đang cố gắng chinh phục các thị trường quốc tế và thành công một cách khiêm tốn theo hai cách. Đầu tiên, bằng cách xuất khẩu linh kiện cho các nhà cung cấp hoặc các quốc gia khách hàng của họ. Sau đó, bằng cách xuất khẩu các sản phẩm quốc gia đã được quân đội Ấn Độ kiểm chứng và sử dụng. Chiến lược khôn ngoan này cho phép Ấn Độ khẳng định được vị thế trong một thị trường rất khắt khe và tự định vị như một cường quốc cung cấp cho các nước thuộc khu vực xung quanh Ấn Độ Dương và đặc biệt là các nước châu Phi.

Kể từ năm 2014, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã không ngừng đặt mục tiêu tự chủ chiến lược trong lĩnh vực sản xuất quốc phòng. Năm 2015, tại Triển lãm hàng không vũ trụ quốc tế Aero India, trước các tập đoàn sản xuất vũ khí trên toàn cầu, ông phát biểu: “Đối với nhiều người trong số các bạn, Ấn Độ là một cơ hội kinh doanh lớn. Chúng tôi nổi tiếng là nhà nhập khẩu thiết bị quốc phòng lớn nhất trên thế giới. Nhưng đó là lĩnh vực mà chúng tôi không muốn trở thành số một”. Năm 2020, trong lễ khánh thành triển lãm Defexpo, ông nhấn mạnh vào sức mạnh tổng hợp có thể được tạo ra giữa Ấn Độ và các nhà cung cấp vũ khí với khẩu hiệu “sản xuất ở Ấn Độ, cho Ấn Độ, cho thế giới”. Ngày 18/7/2022, ông nhắc lại những lợi ích của việc tự chủ về sản xuất quốc phòng: “Không phải là khôn ngoan khi trang bị cho binh sĩ của chúng ta cùng một loại vũ khí được trang bị cho binh sĩ của 10 nước khác. Họ có thể tài năng hơn, họ được đào tạo tốt hơn, họ sử dụng vũ khí tốt hơn. Nhưng tôi còn phải chấp nhận rủi ro này cho đến khi nào đây? Tại sao binh sĩ của tôi phải mang vũ khí giống như những binh sĩ của các nước khác?”, và “phụ thuộc vào nước ngoài cho mọi nhu cầu nhỏ của quốc phòng không chỉ là một sự đe dọa nghiêm trọng đến lòng tự trọng của đất nước chúng ta, mà hơn thế còn là một tổn thất kinh tế mang tính chiến lược”. Do vậy, ông coi sản xuất vũ khí là một nhu cầu thiết yếu: “Nếu chúng ta không tôn trọng vũ khí được sản xuất ở Ấn Độ, thì làm sao chúng ta có thể mong đợi thế giới coi trọng chúng? Điều đó là không thể. Chúng ta phải tự bắt đầu và tên lửa Brahmos là một ví dụ về công nghệ bản địa của chúng ta. Các bạn của tôi, Ấn Độ đã phát triển Brahmos và ngay nay cả thế giới đang xếp hàng để mua được nó. Chúng ta nên tự hào về những gì chúng ta phát triển”. Việc tìm kiếm độc lập và xây dựng quyền lực thông qua sự phát triển Cơ sở Công nghiệp và công nghệ quốc phòng Ấn Độ (BITD) đã trở thành mục tiêu khi giành độc lập vào năm 1947.

Để đạt được mục tiêu này, trước tiên Ấn Độ củng cố các liên minh chiến lược thông qua việc nhập khẩu vũ khí có mục tiêu và yêu cầu sản xuất một phần vũ khí ở trong nước, sau đó phát triển sản xuất quốc gia theo mọi hướng và thông qua các đơn đặt hàng quân sự, đưa các công ty sản xuất của Ấn Độ ra thị trường quốc tế.

Số liệu của Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) đưa  ra đánh giá về nhập khẩu vũ khí của Ấn Độ, và các nước cung cấp có thể được chia thành 4 nhóm: 1 nhà cung cấp chính (Nga với 62%); 2 nhà cung cấp quan trọng (Mỹ và Israel với lần lượt 15% và 11%), 2 nhà cung cấp phụ (Pháp và Vương quốc Anh với lần lượt 4,5% và 3,2%), và nhóm các nhà cung cấp nhỏ (dưới 1,2%). Chỉ riêng 4 nhóm nhà cung cấp vũ khí lớn nhất đã góp phần tới 95,7% vào hoạt động nhập khẩu của Ấn Độ.

Sở dĩ Ấn Độ tập trung vào Nga, Mỹ, Israel và Anh, đó là vì họ đều cung cấp các vũ khí hữu ích cho quân đội Ấn Độ, nhưng trên hết vì họ có các mối quan hệ lâu đời và cùng chung những lợi ích với Ấn Độ.

Nga

Nga là đối tác lịch sử của Quốc phòng Ấn Độ. Kể từ năm 1962 và thất bại trước Trung Quốc, Ấn Độ có niềm tin vững chắc vào Nga, bởi nước này đã luôn sát cánh cùng Ấn Độ khi xảy ra khủng hoảng trong kỷ nguyên Xô viết. Do đó, kho vũ khí của Ấn Độ gồm những vũ khí được nhập trực tiếp từ Liên Xô, sau đó từ Nga. Một trong những vũ khí gần đây nhất mà Ấn Độ mua của Nga có thể kể đến hệ thống phòng thủ tên lửa S-400. Hệ thống này được Ấn Độ đặt hàng nhân Hội nghị thượng đỉnh song phương Ấn Độ-Nga thường niên lần thứ 19 được tổ chức tại New Delhi vào ngày 5/10/2018. Hệ thống này, được đưa vào sử dụng ở Nga trong năm 2007, có thể tấn công các mục tiêu cách xa 400 km và đạt tới độ cao 30 km. Do đó, nó thể tiêu diệt một máy bay, một tên lửa và thậm chí cả các cơ sở trên mặt đất. Như Vladimir Putin phát biểu tại Vladivostok nhân hội nghị thượng đỉnh song phương năm 2019, nước Nga là “một người bạn toàn diện và một đối tác tin cậy” của Ấn Độ, và quả thực với 14,5 tỷ USD đơn đặt hàng trong năm 2019, Ấn Độ không thể bị coi nhẹ. Đổi lại, năm 2019 Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Rajnath Singh đã kêu gọi các nhà sản xuất Nga chuyển một phần hoạt động sản xuất sang Ấn Độ những vũ khí mà nước này mua của Nga. Tháng 11/2019, một vài doanh nghiệp nhà nước và tư nhân Ấn Độ đã tháp tùng Bộ trưởng Bộ quốc phòng nước này đến Nga tham dự hội nghị về hợp tác quân sự và kỹ thuật giữa hai nước. Ấn Độ đã không thoát khỏi sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp của Nga và chính Nga đã dành những khoản đầu tư lớn cho ngành công nghiệp Ấn Độ. Ấn Độ cũng gợi ý với đối tác Nga rằng các doanh nghiệp Ấn Độ có thể sản xuất linh kiện, hay thậm chí toàn bộ hệ thống vũ khí của Nga cho một nước thứ ba. Tại Hội nghị thượng đỉnh Ấn Độ-Nga lần thứ 21 tại New Delhi vào ngày 6/12/2021, hiệp ước hợp tác quân sự song phương đã được ký kết cho đến năm 2031.

Mỹ

Kể từ khi bức tường Berlin bị dỡ bỏ (năm 1989) và khối Liên Xô sụp đổ, Mỹ đã giành được một số lợi thế so sánh nhất định, khiến cho các sản phẩm của Mỹ được bán ngày càng nhiều cho Ấn Độ. Trước hết, sự gián đoạn nguồn cung các phụ kiện tháo rời của Liên Xô đã ảnh hưởng đến quân đội Ấn Độ trong suốt những năm 1990. Sau đó, ở cấp độ địa chính trị, kể từ năm 2001 và sau vụ khủng bố ngày 11/9, Ấn Độ đã trở thành một đồng minh khách quan của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, do vậy, việc bán vũ khí cho Ấn Độ trở nên dễ dàng.

Trong các nhiệm kỳ tổng thống của Obama và Trump, vai trò của Ấn Độ không ngừng được cải thiện trong liên minh chiến lược Mỹ – Ấn và do vậy cả trong quan hệ thương mại và lĩnh vực xuất khẩu vũ khí hay các hệ thống tinh vi phục vụ quốc phòng Ấn Độ. Mục tiêu chiến lược của Mỹ trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trùng khớp với mục tiêu của Ấn Độ trong không gian Ấn Độ Dương. Tháng 12/2019, trong cuộc đối thoại 2+2 cấp bộ trưởng Mỹ – Ấn, danh sách lợi ích chung của hai nước đã được Ngoại trưởng Michael R. Pompeo và Bộ trưởng Quốc phòng Mark T. Esper cùng những người đồng cấp Ấn Độ, Bộ trưởng Quốc phòng Rajnath Singh và Bộ trưởng Ngoại giao S. Jaishankar, đồng khẳng định. Hai nước mong muốn hòa bình và thịnh vượng cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và hợp tác trong lĩnh vực này cùng với Nhật Bản và Australia. Hai nước cũng có mục tiêu ở cấp khu vực đối với Ấn Độ Dương, cụ thể là biến nơi đây thành khu vực lưu thông tự do trên biển, và bảo vệ các vùng đánh bắt cá, chống ô nhiễm và thực hiện thăm dò khoa học biển ở khu vực này. Về mặt chính trị, cả hia nước đều đấu tranh cho hòa bình và tự do, do đó Mỹ ủng hộ Ấn Độ ứng cử vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Cả hai nước cũng đang chiến đấu chống lại chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo dưới mọi hình thức.

Các công nghệ liên quan đến hàng không vũ trụ và vũ khí hạt nhân cũng được quan tâm. Điều này cho phép các hoạt động đầu tư của Mỹ để xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ấn Độ trở nên dễ dàng hơn. Trên thực tế, Ấn Độ đang trở thành đồng minh lớn và khách hàng không thể thiếu của Mỹ. Những công nghệ hiện đại nhất đã được Mỹ bán cho Ấn Độ, do vậy, có thể khẳng định rằng các công ty Ấn Độ sẽ hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia Mỹ.

(còn tiếp)

Nguồn: www.diploweb.com

TLTKĐB – 07/11/2022

Quan hệ Trung Quốc – Philippines và bài học với các quốc gia Đông Nam Á


Trang mạng aspistrategist.org.au của Viện Chính sách Chiến lược Australia ngày 13/2 đăng bài viết đánh giá về những thay đổi trong quan hệ Trung Quốc và Philippines thời gian gần đây và một số bài học cho các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á trong quan hệ với Bắc Kinh.

Gần 4 năm sau, việc Trung Quốc không ngừng bắt nạt và áp dụng chính sách “bên miệng hố chiến tranh” đối với Philippines và các quốc gia Đông Nam Á khác liên quan tới những yêu sách mâu thuẫn nhau và những đặc quyền trên Biển Đông đã phá hỏng thời kỳ “đầy thiện ý” của ông Duterte dành cho Bắc Kinh và kéo Manila lại gần hơn với Washington. Trước khi đặt chân đến Bắc Kinh, ông Marcos Jr. thừa nhận rằng “các vấn đề hàng hải… không phải là tất cả mối quan hệ giữa hai nước” nhưng nhấn mạnh rằng xung đột ở Biển Đông vẫn là một “mối quan ngại đáng kể”.

Áp dụng nghệ thuật “xoay trục” địa chính trị, Chủ tịch Tập Cận Bình chủ yếu tránh né xung đột Biển Đông trong cuộc gặp với ông Marcos Jr. và tiếp tục đưa ra những hứa hẹn như trước đây về việc hai nước tăng cường phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Một loạt sáng kiến được đưa ra trong cuộc gặp, bao gồm các dự án phát triển dầu khí chung, đầu tư năng lượng tái tạo, tăng cường thương mại và một đường dây nóng giải quyết khủng hoảng để giải quyết các tranh chấp hàng hải.

Hành trình điều chỉnh hướng tới hòa bình trên biển là cơ sở thúc đẩy Bắc Kinh quyết định khôi phục quan hệ với Manila và các nước láng giềng khác bằng cách quay trở lại câu chuyện cũ về không can thiệp và “hợp tác” liên châu Á. Các hành động và tuyên bố gần đây, như cam kết rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ sử dụng sức mạnh quân sự để “bắt nạt” các quốc gia nhỏ hơn, cho thấy Trung Quốc thừa nhận chiến dịch kéo dài hàng thập kỷ của họ nhằm thống trị Biển Đông đã gây hại nhiều hơn là có lợi. Bằng cách chấp nhận “các kết quả hòa bình”, Bắc Kinh tìm cách biến mình thành một lực lượng tốt trong khu vực, một cường quốc có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo các vấn đề châu Á được giải quyết bởi các nước châu Á – chứ không phải những nước ngoài khu vực “hung hăng” như Mỹ. Khi làm như vậy, Trung Quốc “tử tế và ôn hòa hơn” này cam kết hợp tác chứ không phải đối đầu, hài hòa chứ không hiếu chiến, để theo đuổi “kết quả đôi bên cùng có lợi”. Theo tờ Thời báo Hoàn Cầu, những kết quả này sẽ mở ra một “thời kỳ hoàng kim mới” trong quan hệ Trung Quốc – Philippines. Nhưng như người ta vẫn nói, “không phải tất cả những thứ lấp lánh đều là vàng”. Nếu chính quyền của ông Marcos Jr. kiên quyết duy trì các yêu sách của mình trên Biển Đông bất chấp chủ nghĩa trả đũa của Trung Quốc, Manila không thể quá thoải mái với cách tiếp cận “hợp tác” của Bắc Kinh.

Việc kiểm soát “các vùng biển gần” mang lại nhiều lợi ích cho phép Trung Quốc hiện thực hóa khái niệm chống tiếp cận/chống xâm nhập, củng cố triển khai sức mạnh trên khắp chuỗi đảo thứ nhất và nâng cao khả năng chống can thiệp đối với Washington và các đồng minh, đồng thời mở rộng vùng đệm an ninh để bảo vệ Trung Quốc. Ngoài ra, quyền kiểm soát “các vùng biển gần” (hay Biển Đông) hợp pháp hóa việc tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và chưa được khai thác, đồng thời bảo vệ các tuyến đường biển quan trọng mà giới lãnh đạo Trung Quốc tin rằng có thể bị đe dọa trong một cuộc xung đột với phương Tây.

Tuy nhiên, sau một thập kỷ cải tạo các rạn san hô đang tranh chấp thành các căn cứ quân sự, các màn phô diễn thể hiện chủ quyền, đánh chìm tàu các tàu cá, quấy rối các tàu khảo sát và tiếp tế, rùm beng tuyên truyền các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với 9/10 Biển Đông, chiến dịch “kiểm soát biển” của Trung Quốc đã phải trả giá đắt về địa chiến lược.

Theo báo cáo khảo sát Tình hình Đông Nam Á năm 2022, đánh giá quan điểm của các nhà lãnh đạo Đông Nam Á về một loạt vấn đề chính sách khu vực, chỉ 26,8% số người được hỏi tin tưởng Trung Quốc “làm điều đúng đắn”. Trong số những người được hỏi không tin tưởng Trung Quốc, có một nửa cho rằng Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự của mình để đe dọa lợi ích và chủ quyền của quốc gia họ”. Đồng thời, một số nước ASEAN đã tự tách mình khỏi Bắc Kinh bằng cách tăng cường quan hệ đối tác trong ASEAN và với “Nhóm Bộ tứ”. Các quốc gia khác, như Malaysia đã tăng ngân sách quốc phòng để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông.

Sự kiểm soát của Trung Quốc đối với Biển Đông không phải là một kết luận có thể đoán trước. Bắc Kinh đã điều chỉnh tính toán rủi ro khi cái giá phải trả của việc bị quốc tế lên án lớn hơn lợi ích của hành động hiếu chiến trên biển. Philippines, các quốc gia ASEAN và Nhóm “Bộ tứ” có thể tiếp tục áp đặt và báo hiệu cái giá mà Trung Quốc sẽ phải trả đó. Và điều nay sẽ cần tới việc triển khai sức mạnh cứng, bao gồm: máy bay phản lực, tàu hộ tống, tàu tuần tra, tàu tuần duyên và tên lửa.

Các đối tác Nhóm “Bộ tứ” nên bắt đầu đưa Philippines (và các quốc gia sẵn sàng khác) tham gia Sáng kiến Đối tác Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương về nhận thức trong lĩnh vực hàng hải để cùng đưa ra các nhận thức chung, chia sẻ thông tin và các giải pháp có mục tiêu. Các nhà lãnh đạo Nhóm “Bộ tứ” cũng nên đưa ra các chương trình kinh tế để đối phó với các đề xuất của Trung Quốc.

Hiện tại, quyết định của ông Marcos Jr. trong tháng này về việc cho phép Mỹ tạm thời và luân phiên tiếp cận 4 căn cứ quân sự và nối lại các cuộc tuần tra chung trên biển ở Biển Đông là một quyết định khôn ngoan vì điều này sẽ giúp tăng cường khả năng phòng thủ của Philippines, khả năng tương tác với các đồng minh và cam kết chống lại hành vi hung hăng trên biển của Bắc Kinh. Cần phải có nhiều sự hợp tác và phối hợp hơn nữa, mặc dù Marcos Jr. đã nói rõ rằng mối quan hệ quân sự đang phát triển giữa Mỹ và Philippines không gây ra mối đe dọa trực tiếp nào đối với Trung Quốc, cho dù đó rõ ràng là một phản ứng trực tiếp đối với hoạt động quân sự hóa và hủy hoại Biển Đông của Trung Quốc.

Nguồn: TKNB – 17/02/2023

Những mùa trong cuộc đời – Phần I


“Trường đời đã định”, Cicero từng viết lúc gần cuối đời mình.”Tự nhiên chỉ có một con đường duy nhất và con đường đó chỉ được đi qua một lần, và mỗi giai đoạn tồn tại lại có đặc tính phù hợp của nó”. Ở mọi nền văn hóa và thời kỳ, ở mọi giai cấp và sắc tộc, trải nghiệm của tuổi già là mẫu số chung cho thân phận của con người. “Từ quan điểm sinh học”, nhà triết học Trung Hoa Lâm Ngữ Đường nhìn nhận, “đời người gần giống như một bài thơ. Nó có giai điệu và nhịp phách, những chu kỳ nội tại phát triển và suy tàn của nó”.

Người xưa làm cho những giai đoạn của Cicero và giai điệu nhịp phách của Lâm Ngữ Đường dễ hiểu bằng cách mô tả sự lão hóa của con người như một chu kỳ mà tự nhiên và xã hội tách biệt thành bốn phần. Đối với một vài xã hội bản địa Bắc Mỹ, cuộc đời trải qua bốn “ngọn đồi” (thơ ấu, thanh niên, trưởng thành, tuổi già), mỗi ngọn đồi ứng với một cơn gió và một mùa riêng, mỗi ngọn đồi có thách thức, cao trào, và chuyển hóa riêng. Với người Hindu, đó là một hành trình qua bốn ashramas, chính là bốn giai đoạn phát triển xã hội và tâm linh. Pythagoras là một trong những nhà tư tưởng phương Tây đầu tiên giải thích cuộc đời như một chu kỳ gồm bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn dài khoảng 20 năm và gắn với một mùa: mùa xuân thơ ấu, mùa hè thanh niên, mùa thu trung niên, và mùa đông tuổi già. Tương tự, người La Mã cũng chia saeculum sinh học thành bốn giai đoạn: pueritia (thơ ấu), iuventus (thanh niên), virilitas (trung niên), và senectus (lão niên).

Trong thời hiện đại, quy luật mùa tứ phần của vòng đời người vẫn không hề thay đổi trong văn học, triết học, và tâm lý học. Nhà xã hội Daniel Levinson viết: “Theo phép ẩn dụ, mọi người đều hiểu những mối liên kết giữa các mùa trong năm với các mùa trong đời người”. Mỗi mùa đều có vị trí cần thiết và có đóng góp riêng cho toàn bộ. Nó là một phần hữu cơ của toàn bộ vòng đời, kết nối và chứa đựng quá khứ lẫn tương lai trong đó”. Tương tự, Carl Jung cũng mô tả, “vòng cung cuộc đời” như là “có thể chia thành bốn phần”.

Chúng ta kết nối vòng đời các mùa của tự nhiên không chỉ để liên kết quá khứ với tương lai của riêng chúng ta, mà còn để đặt cuộc sống riêng của mỗi cá nhân trong một bối cảnh xã hội rộng lớn hơn. Lịch sử hiện đại cũng có những mùa riêng – mùa mưa, mùa nóng, mùa khô, và mùa lạnh. Bây giờ hãy so sánh những gì sẽ xảy ra giữa một nhóm lớn lên trong mùa mưa và trưởng thành trong mùa lạnh, với một nhóm sinh sau lớn lên trong mùa khô và trưởng thành trong mùa nóng. Vì các màu trong lịch sử định hình các mùa trong đời người, nên kết quả là có các thế hệ khác nhau. Cơ bản hơn, vì các mùa trong lịch sử đến và đi theo mô hình cố định, nên các thế hệ cũng nối tiếp theo một mô hình cố định – một chu kỳ lặp lại của bốn nguyên mẫu. Bắt nguồn từ những nét tính cách cổ xưa và huyền thoại lâu đời, mấy nguyên mẫu này kết nối thời gian cá nhân với thời gian xã hội. Sau khi được các mùa trong lịch sử tôi luyện trong thời trẻ, bốn nguyên mẫu tái tạo các mùa đó, theo chính trật tự này, như những thế hệ kế tiếp nhau trải qua cuộc đời.

Hành trình 80 năm

Ralph Waldo Emerson nhận thấy “Không có lịch sử, chỉ có tiểu sử”, ông là người đã lưu ý rằng phần lớn chúng ta chỉ nhớ được rất ít nội dung về những thời gian và những nơi đã xa, ngoại trừ cách mà từng người đối mặt với các thách thức cá nhân trong cuộc sống. Hầu như mọi người đều bắt đầu một hành trình sống với thời hạn dự kiến giống nhau. Hầu như mọi người đều có thể mong đợi trải qua bốn màu cuộc đời với nhiều thứ vẫn giống nhau, vì Pythagoras đã xác định được bộ tứ này từ gần ba thiên niên kỷ trước. Vòng đời có bốn mùa trong thời đại Hy Lạp, La Mã, mỗi mùa kéo dài từ 20 đến 25 năm. Và đến nay đều vẫn đúng.

Tuổi thọ trung bình hiện nay tăng lên nhưng không hề kéo dài các giai đoạn này của cuộc đời. Tuổi thọ tăng lên chủ yếu là nhờ sự giảm mạnh về tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, trẻ em, và thanh thiếu niên. Đối với nam giới hoặc nữ giới, nếu không bị bệnh tật sớm hoặc dinh dưỡng kém, thì tuổi thọ tự nhiên thay đổi rất ít. Cựu Ước tuyên bố rằng “tuổi của chúng ta” là “70” hoặc “80”. Theo các bảng thống kê bảo hiểm, người Mỹ 50 tuổi điển hình ngày nay vẫn có thể mong đợi sinh nhạt lần cuối cùng vào khoảng giữa hai độ tuổi trên. Hơn nữa, một giai đoạn cuộc đời không nhất thiết phải thay đổi chỉ vì nhiều người xung quanh đã hoặc sắp hoàn thành nó. Jung nhận định hợp lý rằng “con người chắc chắn sẽ không thể sống được đến 70 hay 80 tuổi, nếu tuổi thọ này không có ý nghĩa gì đối với loài người”. Ý nghĩa này sẽ không khác nếu 50% chứ không phải 5% tổng số trẻ sinh ra sẽ sống đến 80 tuổi. Tự nhiên mong muốn ít nhất mỗi bộ lạc có một vài người gia, nhưng tự nhiên chẳng đặc biệt quan tâm là có bao nhiêu người như thế.

Điều chủ yếu quyết định độ dài của mỗi giai đoạn cuộc đời không hẳn là xác định độ dài của tuổi thọ thông thường như động lực xã hội và sinh học của sự sống. Trong hơn hai thế kỷ qua, khi tuổi thọ trung bình tăng lên, động lực này đã thật sự thay đổi theo chièu hướng khác. Nó đã thúc đẩy, khiến ba giai đoạn đầu đời ngắn lại chút ít. Điều này đã xảy ra trong khoảng thời gian tương tự, trong đó saeculum cũng đã rút ngắn từ một thế kỷ trọn vẹn xuống chỉ còn 80 đến 85 năm.

Theo định nghĩa, mỗi giai đoạn cuộc đời mang đến vai trò xã hội và hình ảnh cá nhân hoàn toàn mới cho những người bước vào giai đoạn đó. Chúng ta kêu gọi vai trò và hình ảnh này mỗi khi chúng ta nói với ai đó “Sống đúng với tuổi của mình”. Các nhà đạo đức học thế kỷ 17 thậm chí còn đưa ra một học thuyết mà họ gọi là tempestivitas (đúng lúc) để mô tả cách hành xử lý tưởng theo từng mùa trong đời người. Để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự chuyển tiếp giữa các mùa trong cuộc đời, mọi xã hội đều thiết lập những nghi lễ chuyển giao khác nhau, những sự bắt đầu với những nhiệm vụ và đặc quyền mới đi kèm một bản sắc xã hội mới.

Mùa đầu tiên là thời thơ ấu, mùa xuân của cuộc đời, thời gian lớn lên và học tập, lĩnh hội năng lực, chấp nhận bảo vệ, và tiếp thu truyền thống theo yêu cầu của người lớn. Trong lịch sử Mỹ, các hàng rào bảo vệ giữa thời thơ ấu và trưởng thành đôi khi được gia cố (như trong các thập niên 1850, 1920 và hiện nay) và đôi khi bị suy yếu (như trong các thập niên 1890 và 1970). Những cải tiến gần đây trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng và y học nhi khoa đã làm giảm bớt những rủi ro và chấn thương mà trẻ em phải đối mặt một thời, nhưng về cơ bản vẫn chưa thay đổi được vai trò xã hội của trẻ em.

Thời thơ ấu kết thúc bằng nghi lễ chuyển tiếp phổ biến nhất, lễ trưởng thành, được người La Mã gọi là adulescentia (theo nghĩa đen là “chín muồi” hay “rực sáng”). Nhiều xã hội truyền thống thực hiện nghi lễ cho thời điểm này với một chút thử nghiệm đau đớn, sợ hãi, hay cô lập, tưởng niệm cái chết của một người như một đứa trẻ và tái sinh như một người trưởng thành. Ở Mỹ đương thời, sự chuyển tiếp này kéo dài thành một chuỗi sự kiện, mỗi sự kiện lại có mức độ phù hợp từ vị thành niên đến tuổi trưởng thành (bar mitzvah, sự xác nhận, giấy phép lái xe đầu tiên, công việc đầu tiên, lá phiếu đầu tiên, tốt nghiệp trung học và đại học, tách ra ở riêng, đi nghĩa vụ quân sự). Giai đoạn trưởng thành này cũng là khi vị thành niên học cách thay thế sự chấp thuận của cha mẹ bằng sự chấp thuận của bạn bè – một sự thay thế giúp tạo ra một bản sắc thế hệ. Học giả về vòng đời John Schowalter của Đại học Yale ghi nhận: “Con đường từ trẻ con thành người lớn của mỗi người đều phải đi qua một cây cầu của bạn bè đồng trang lứa”. Mặc dù tuổi adulescentia dao động theo tiến trình của lịch sử Mỹ, nhưng xu hướng chung của nó là giảm dần. Trong hai thế kỷ qua, tuổi vị thành niên sinh học (kinh nguyệt lần đầu tiên ở nữ giới và dậy thì ở nam giới) đã giảm khoảng 3 tuổi. Độ tuổi thông thường mà thanh niên bắt đầu đi bỏ phiếu, ký hợp đồng, vay nợ, và gia nhập nền kinh tế thị trường cũng giảm tương ứng.

Bên kia cây cầu của tuổi dậy thì này là thời thanh niên, mùa hè của cuộc đời. Đây là độ tuổi để biến những ước mơ và ý tưởng thành các dự án và kế hoạch, để khởi nghiệp và lập gia đình, để đi lính, để phụng sự xã hội bằng sức lực và nghị lực. Levinson mô tả đây là một mùa vòng đời “bắt kịp những rắc rối và xung đột cảm xúc của thời thơ ấu” nhưng “phải vất vả đối phó với những yêu cầu của gia đình, công việc và cộng đồng”. Trong một số thời kỳ (các thập niên 1880 và 1950), thanh niên bước vào sự nghiệp và hôn nhân khá thông suốt và nhanh chóng; những thời kỳ khác (các thập niên 1920 và 1990), quá trình này lại khó khăn hơn và dài hơn. Độ tuổi kết hôn trung bình và tách ra ở riêng hiện nay tương đối cao – trong khi đó độ tuổi kết hôn và khởi nghiệp vào cuối thập niên 1950 là trẻ nhất trong lịch sử Mỹ. Qua thời gian dài, ngưỡng bắt đầu của giai đoạn này đã rút ngắn phần nào. Chẳng hạn trong suốt thế kỷ 19, độ tuổi trung bình của sinh viên đại học và lính là 20. Vào cuối thập niên 1960, độ tuổi trung bình của sinh viên đại học và lính tham chiến (tại Việt Nam) đều dưới 20 cho cả hai trường hợp – độ tuổi trẻ nhất trong lịch sử Mỹ.

(còn tiép)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: William Strauss, Neil Howe – Bước chuyển thứ tư – NXB TG 2019