Các chiến lược soán ngôi
Bằng cách nào một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc có thể tìm cách soán ngôi một siêu cường tại vị như Mỹ mà không dẫn đến chiến tranh? Nếu vị thế của siêu cường trong trật tự xuất hiện từ “các hình thức kiểm soát” như gây sức ép, thu phục và tạo tính chính danh, thì cạnh tranh về trật tự sẽ xoay quanh các nỗ lực nhằm tăng cường và làm suy yếu các hình thức kiểm soát này. Theo đó, các quốc gia đang trỗi dậy như Trung Quốc có thể soán gnôi các cường quốc bá chủ như Mỹ một cách hòa bình thông qua hai chiến lược lớn thường được thực hiện theo trình tự:
1/ Thứ nhất, làm suy yếu khả năng thực hiện các hình thức kiểm soát của cường quốc bá chủ, đặc biệt là khi các hình thức kiểm soát này được thực hiện đối với một cường quốc đang trỗi dậy; tuy nhiên, không một cường quốc đang trỗi dậy nào có thể soán ngôi cường quốc bá chủ nếu nước này vẫn ở thế “bảo sao nghe vậy”.
2/ Thứ hai, tạo dựng thương lượng nhằm các hình thức kiểm soát đối với các quốc gia khác, cũng như đặt nền móng cho các cuộc thương lượng nhằm thu phục và tạo tính chính danh. Thực tế cho thấy, không một quốc gia đang trỗi dậy nào có thể trở thành cường quốc bá chủ nếu không thể hạn chế quyền tự chủ của các quốc gia khác hoặc lôi kéo các quốc gia khác bằng cách thu phục và tạo tính chính danh để bảo đảm rằng các quốc gia này luôn tuân theo những yêu cầu của cường quốc đang trỗi dậy.
Đối với các cường quốc đang trỗi dậy, quyết định triển khai các đại chiến lược này diễn ra dưới cái bóng của quyền lực cũng như ảnh hưởng của cường quốc bá chủ và điều này tiềm ẩn những rủi ro đáng kể. Một cường quốc đang trỗi dậy nếu công khai theo đuổi việc tạo dựng trật tự quá sớm có thể khiến cường quốc bá chủ can thiệp vào khu vực sân sau của cường quốc đang trỗi dậy, tập hợp các nước láng giềng của cường quốc đang trỗi dậy để bao vây nước này, hoặc cắt đứt nước này khỏi nguồn cung cấp hàng hóa trong trật tự bá quyền. Vì những lý do này, các chiến lược làm suy yếu với mục đích làm suy yếu trật tự bá quyền thường xảy ra trước các chiến lược tạo dựng nhằm mục đích tạo dựng trật tự của một cường quốc đang trỗi dậy. Hơn nữa, cả hai chiến lược thường được theo đuổi ở cấp độ khu vực trước khi cường quốc đang trỗi dậy chuyển sang chiến lược thứ ba là mở rộng ảnh hưởng ra toàn cầu tức là làm suy yếu và tạo dựng ở cấp độ toàn cầu để soán ngôi trật tự bá quyền.
Khi nào một cường quốc có thể theo đuổi việc mở rộng ảnh hưởng khi nào? Một số học giả như Giáo sư John Mearsheimer của Đại học Chicago cho rằng, một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc phải đạt được bá quyền trong khu vực trước khi theo đuổi tham vọng lớn hơn ở phạm vi toàn cầu, sogn tiêu chí này có lẽ vẫn còn quá hạn hẹp. Một số học giả khác như Giáo sư Robert Gilpin của Đại học Princeton lại cho rằng, một cường quốc đang trỗi dậy dù chưa đạt được bá quyền trong khu vực nhưng vẫn có thể thách thức bá quyền ở phạm vi toàn cầu khi sử dụng các “hình thức kiểm soát” song hành như kinh tế, tài chính, công nghệ và thông tin để duy trì trật tự bá quyền toàn cầu của mình. Đức đã thách thức sự thống trị toàn cầu của Anh trong các lĩnh vực này trước khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra mặc dù quốc gia này chưa đạt được vị thế bá quyền khu vực ở châu Âu, và ngày nay, Trung Quốc dường như cũng đang làm như vậy. Điều quan trọng không phải là việc một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc đã hoàn toàn nắm trong tay quyền lãnh đạo khu vực hay chưa, mà là liệu việc thực hiện chiến lược làm suy yếu và tạo dựng trong khu vực sân sau của họ đã đủ mạnh để họ tự tin rằng mình có thể quản lý rủi ro từ sự can thiệp của cường quốc bá quyền nếu muốn theo đuổi việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra toàn cầu.
Một số người có thể nghi ngờ rằng, một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc có thể làm bất kỳ điều gì, nhưng giống như hầu hết các quốc gia, cường quốc đang trỗi dậy thường theo chủ nghĩa xét lại. Một số khác có thể cho rằng tuyên bố trên gây tranh cãi, nhưng cũng có một nhận định khá chừng mực rằng, hầu hết các quốc gia đều có quan điểm riêng về cách thức hoạt động của trật tự khu vực và toàn cầu, và không có gì đáng ngạc nhiên khi các quốc gia này hành động để hiện thực hóa quan điểm đó nếu cái giá phải trả thấp. Thực tế cho thấy, khi cái giá phải trả thấp thì các cường quốc thường thể hiện cái gọi là “sự chuyển dịch bá quyền” hướng tới việc tạo dựng trật tự trong khu vực láng giềng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Ngay cả khi Mỹ buộc phải hành xử như một cường quốc ở bên ngoài vào thế kỷ XIX, thì nước này vẫn tiến tới việc thực thi bá quyền ở Tây Bán cầu. Câu hỏi quan trọng đặt ra không phải là liệu các quốc gia mới trỗi dậy có các ưu tiên nào khác đối với trật tự hay không, mà là liệu họ có quyết định hành động hay không, và họ hành động thì đó là khi nào và bằng cách nào.
Vì bá quyền thường là mối quan tâm lớn nhất trong các tính toán chiến lược của một cường quốc đang trỗi dậy nên tác giả lập luận rằng, việc lựa chọn “sửa lại” trật tự cũ sẽ dựa trên nhận thức về bá quyền. Hai biến số cực kỳ quan trọng là: (1) khoảng cách về tương quan sức mạnh được ghi nhận với một bá quyền bên ngoài, tức là hàm ý năng lực của cường quốc bá chủ torng việc gây tổn hại đến lợi ích của cường quốc đang trỗi dậy; (2) mối đe dọa được ghi nhận từ bá quyền bên ngoài, tức là việc cường quốc bá chủ sẵn sàng sử dụng quyền lực đó để gây tổn hại. Việc xác định các biến số này một cách trực quan là rất quan trọng vì những gì liên quan nhất đến việc xây dựng chiến lược là đánh giá một quốc gia về sức mạnh và mối đe dọa từ đối thủ, chứ không phải là thước đo khách quan về quyền lực và mối đe dọa (khó có thể nắm bắt được trong mọi trường hợp). Để đơn giản hóa, cả hai biến số này được phân tích trong Bảng 2 với hai tiêu chí cao và thấp.
Bảng 2: Các đại chiến lược của cường quốc đang trỗi dậy hướng tới trật tự bá quyền
Khoảng cách về tương quan sức mạnh được ghi nhận với một cường quốc bá quyền bên ngoài | |||
Cao | Thấp | ||
Mối đe dọa được ghi nhận từ cường quốc bá quyền bên ngoài | Cao | Chiến lược làm suy yếu | Chiến lược tạo dựng |
Thấp | Chiến lược thích ứng | Chiến lược thống trị |
Cuối cùng, trong khi làm suy yếu và tạo dựng là các chiến lược nhằm thay đổi trật tự thì các cường quốc cũng có thể theo đuổi các chiến lược khác, như được phân tích dưới đây.
Thứ nhất, khi cườgn quốc đang trỗi dậy coi cường quốc bá chủ mạnh hơn mình nhiều nhưng không phải là mối đe dọa đặc biệt, thì cường quốc đang trỗi dậy đó có xu hướng thích ứng với trật tự bá quyền ngay cả khi các ưu tiên của mình khác với ưu tiên của cường quốc bá chủ bên ngoài. Sự thích ứng có thể do họ muốn tránh việc biến bá quyền bên ngoài thành thế lực thù địch, hoặc mong muốn thu lợi từ quan hệ đối tác với bá quyền nhằm chống lại bên thứ ba. Theo đó, một cường quốc đang trỗi dậy có thể cho phép hoặc thậm chí ủng hộ sự hiện diện quân sự của cường quốc bá chủ tại khu vực, lãnh đạo các tổ chức khu vực và tài trợ cho các sáng kiến kinh tế khu vực. Một ví dụ của chiến lược này là sự thích ứng của Ấn Độ đối với sự hiện diện của Mỹ tại khu vực Nam Á vì Ấn Độ cho rằng Mỹ hùng mạnh song không phải là mối đe dọa đặc biệt và vai trò của Mỹ là hữu ích trong việc đối trọng với Trung Quốc. Một ví dụ khác có thể là chính sách của Trung Quốc đối với Mỹ trong những năm 1980.
Thứ hai, khi một cường quốc đang trỗi dậy nghĩ rằng cường quốc bá chủ mạnh hơn mình rất nhiều và là mối đe dọa lớn thì cường quốc đang trỗi dậy đó sẽ theo đuổi chiến lược làm suy yếu các hình thức kiểm soát của bá quyền, bao gồm khả năng gây sức ép, thu phục và tạo tính chính danh ở khu vực hoặc toàn cầu. Trong kịch bản này, cường quốc đang trỗi dậy không thể thích ứng với một bá quyền mà nó coi là mối đe dọa, cũng như không thể công khai chống lại một nước bá quyền mà nó coi là đang nắm quyền lực. Điều này buộc cường quốc đang trỗi dậy phải dùng đến “vũ khí của kẻ yếu” để làm suy giảm đòn bẩy của nước bá quyền. Về mặt quân sự, cường quốc đang trỗi dậy có thể theo đuổi các năng lực phòng thủ quân sự để ngăn chặn cường quốc bá chủ can thiệp và khu vực, đồng thời tránh việc khích động các nước láng giềng đang trỗi dậy và khiến mình bị bao vây; về mặt chính trị, có thể tìm cách giảm bớt vai trò của cường quốc bá chủ bên ngoài trong các cơ chế khu vực; và về mặt kinh tế, có thể tìm cách bảo vệ mình trước việc sử dụng các chính sách quản lý kinh tế của bá chủ. Trung Quốc đã theo đuổi một phiên bản của chiến lược này trong suốt những năm 1990 cho đến khoảng năm 2008.
Thứ ba, khi một cường quốc đang trỗi dậy nghĩ rằng nước bá quyền bên ngoài không mạnh hơn mình quá nhiều nhưng vẫn là mối đe dọa lớn thì cường quốc đang trỗi dậy sẽ theo đuổi chiến lược tạo dựng để xây dựng nền móng cho trật tự của mình bằng cách đầu tư tạo dựng các hình thức kiểm soát của riêng mình gồm năng lực gây sức ép, thu phục và tạo tính chính danh. Cường quốc đang trỗi dậy đủ mạnh để chấp nhận rủi ro khi chống lại nước bá quyền, nhưng không đủ mạnh để có thể tự do thống trị ở khu vực của mình, vì làm như vậy có thể tạo ra khe hở cho nước bá quyền bên ngoài can thiệp. Về mặt quân sự, cường quốc đang trỗi dậy có thể theo đuổi các năng lực cho phép gây sức ép, can thiệp, triển khai sức mạnh quân sự và kiểm soát (thay vì từ vhối sự kiểm soát) trên đất liền, trên không và trên biển; về mặt chính trị, có thể thiết lập các thể chế mới để quản lý khu vực và khiến nước bá quyền phải đứng ngoài cuộc, và về mặt kinh tế, có thể cố tình duy trì sự phụ thuộc bất đối xứng, tuy có vẻ có lợi song thực tế lại kiềm chế các quốc gia khác. Những nỗ lực này thậm chí có thể tương tự các hình thức chiến lược về xây dựng trật tự tự do mà các học giả như Giáo sư John Ikenberry của Đại học Princeton tin rằng sẽ bảo đảm thu phục các quốc gia yếu hơn và tránh sự cân bằng. Khi đã thực hiện thành công ở khu vực sân sau, cường quốc đang trỗi dậy có thể theo đuổi việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở cấp độ toàn cầu. Trung Quốc đã theo đuổi chiến lược này kể từ năm 2008 và nó đã trở thành nền móng cho chiến lược mở rộng phạm vi ảnh hưởng mà Trung Quốc theo đuổi sau năm 2016.
Thứ tư, khi một cường quốc đang trỗi dậy nghĩ răng nước bá quyền bên ngoài không mạnh hơn mình nhiều và không có tính chất đe dọa đặc biệt thì cường quốc đang trỗi dậy sẽ tự do hơn trong việc theo đuổi chiến lược thống trị đối với những quốc gia khác trong trật tự, vì họ không quan tâm đến những nỗ lực xây dựng trật tự của đối thủ hoặc sự can thiệp của nước bá quyền. Chiến lược tạo dựng có thể kết hợp giữa gây sức ép và thu phục, song chiến lược thống trị có thể làm quá tải các công cụ gây sức ép do thiếu thách thức trong trật tự hoặc có thể tạo ra liên minh đối trọng. Về mặt quân sự, một quốc gia đang trỗi dậy có thể triển khai lực lượng quân sự thường xuyên hơn; về mặt chính trị, có thể tạo ra các quy tắc và chuẩn mực để “khóa chặt” lợi ích của quốc gia đang trỗi dậy và làm suy yếu tất cả các thể chế cạnh tranh; và về mặt kinh tế, có thể theo đuổi việc khai thác bên cạnh việc duy trì sự phụ thuộc bất đối xứng. Ví dụ như, chiến lược của Mỹ ở khu vực Mỹ Latinh vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi đó tương quan sức mạnh của châu Âu vẫn yếu và các mối đe dọa của châu Âu đối với khu vực Mỹ Latinh ít nghiêm trọng hơn so với những thập kỷ trước.
Bốn chiến lược này thường diễn ra tuần tự, từ chiến lược thích ứng, đến chiến lược làm suy yếu, chiến lược tạo dựng và sau đó là chiến lược thống trị, song vẫn có những ngoại lệ: một quốc gia có thể chuyển từ chiến lược làm suy yếu sang chiến lược thích ứng sau khi thiết lập quan hệ hữu nghị với nước bá quyền bên ngoài; hoặc có thể chuyển từ chiến lược thích ứng sang chiến lược thống trị nếu một nước bá quyền ôn hòa được coi là đã suy yếu.
Trong trường hợp của Trung Quốc, trình tự thông thường dường như đang diễn ra: Trung Quốc ban đầu thích ứng với một nước Mỹ hùng mạnh nhưng không mang tính đe dọa sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ; Trung Quốc tìm cách làm suy yếu Mỹ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc khiến Trung Quốc cho rằng Mỹ là mối đe dọa lớn hơn; Trung Quốc bắt đầu xây dựng trật tự của riêng mình sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi nhận thấy M4y đang suy yếu; và Trung Quốc có thể theo đuổi chiến lược thống trị trong khu vực nếu Mỹ chấp nhận hoặc bị đánh bại trong một cuộc xung đột khu vực. Phần lớn lý thuyết, thực tiễn và bằng chứng thực nghiệm về đại chiến lược này của Trung Quốc gắn liền với thế giới quan và tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bây giờ chúng ta sẽ bàn luận về thể chế này và vai trò của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Lenin trong việc định hình Đảng, và sau đó là đại chiến lược của Trung Quốc.
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Rush Doshi – Cuộc chiến dài hơi, đại chiến lược của Trung Quốc nhằm thay đổi trật tự của Mỹ – NXB CTQGST 2022