Về việc thu hồi tài sản tham nhũng


Theo đài Sputnik, thu hồi tài sản tham nhũng là một trong những tiêu chí đánh giá về công tác phòng chống tham nhũng. Trong giai đoạn 2005 – 2013, tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng của Việt Nam trung bình chỉ khoảng 8%. Tỷ lệ này đã tăng lên bình quân 32,04% giai đoạn 2013 – 2020; và tăng 53% ở giai đạon 2016 – 2021. Tuy có nhiều cải thiện, nhưng kết quả này vẫn chưa phải là cao và có thể nói, hiện nay công tác này ở Việt Nam vẫn chưa thực sự hiệu quả.

Trao đổi về đề tài đang nóng này ở Việt Nam, TS Kinh tế – Luật Lê Văn Hòa cho rằng: Năm 2022, các cơ quan tố tụng đã tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, ngăn chặn giao dịch tài sản giá trị trên 160.000 tỷ đồng; các cơ quan thi hành án dân sự đã thu hồi được gần 16.000 tỷ đồng, tăng hơn 290% về số lượng tiền so với năm 2021. Đây là một kết quả khả quan, cao hơn nhiều so với các năm trước, nhưng giá trị tài sản phải thu hồi còn tồn đọng lớn.

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên. Một trong những lý do chính là thiếu cơ chế thu giữ tài sản của bị can. Một số quy định của pháp luật Việt Nam về thu hồi tài sản còn bất cập, vướng mắc. Ví dụ như việc, thiếu quy định về các biện pháp cưỡng chế, chế tài xử lý sau thanh tra; cơ chế chính sách về đất đai, bất động sản, trái phiếu, chứng khoán chưa đồng bộ và còn lỏng lẻo, gây khó khăn cho việc xử lý, thu hồi khi thi hành án xử lý sau thanh tra.

Tiếp theo là thời gian giải quyết vụ án, vụ việc kéo dài, cách xa thời điểm có hành vi vi phạm nên tài sản tham nhũng dễ tẩu tán, che giấu, thất thoát; việc đối tượng bỏ trốn gây khó khăn trong việc xác định chủ sở hữu tài sản hoặc xử lý chung; việc phối hợp giữa các cơ quan thu hồi tài sản còn hạn chế.

Nguyên nhân khác là tội phạm thường rất tinh vi, có nhiều thủ đoạn gian manh và đã có sự chuẩn bị từ trước cho các hậu quả xảy ra. Họ cho người khác đứng tên tài sản tham nhũng của mình.

Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng thấp còn do một nguyên nhân nữa: Đó là chưa có Luật Đăng ký tài sản và người thân của người có chức vụ không thuộc diện phải kê khai tài sản nên khó có thể thu hồi, khó có thể chứng minh chủ thực sự của tài sản. Hơn nữa, tài sản xử lý thuộc diện thu hồi trong các vụ án tham nhũng kinh tế là những tài sản phức tạp, như tài sản bị tẩu tán ra nước ngoài, tài sản là các dự án bất động sản chưa hoàn thành về pháp lý, tài sản là cổ phần, cổ phiếu… Tình trạng này gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng.

Việt Nam rất cần hoàn thiện cơ chế và tổ chức thực hiện nghiêm quy định về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; nghiên cứu, hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp để tăng hiệu quả chế tài xử lý tham nhũng. Kinh nghiệm lập pháp của một số nước cho thấy, họ đã hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp như một giải pháp để đấu tranh hiệu quả đối với tội phạm tham nhũng.

Ở Việt Nam, cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng hiện nay chủ yếu dựa trên các bản án kết tội của tòa án. Điều này tạo ra hệ lụy: Khó tránh khỏi việc thất thoát tiền, tài sản do người phạm tội đã nhanh chóng che giấu, tẩu tán khiến cho công tác thu hồi gặp nhiều khó khăn. Đây là cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng chủ yếu ở Việt Nam hiện nay, được thực hiện thông qua cơ quan thi hành án dân sự.

Việc xây dựng cơ chế tịch thu, thu hồi tài sản thông qua việc khởi kiện dân sự được nhiều nước sử dụng. Phương thức thu hồi tài sản dựa trên quy trình khởi kiện dân sự được Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC) khuyến nghị các quốc gia nghiên cứu để áp dụng. Để thực hiện được nội dung này, cần hoàn thiện các quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự.

Cùng với việc hoàn thiện pháp luật trong nước, cần tăng cường hợp tác quốc tế, ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng, nhất là cơ chế tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia trong việc phong tỏa, thu hồi tài sản của người phạm tội đã tẩu tán ở nước ngoài.

Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cũng vừa chỉ đạo Bộ Tư pháp nghiên cứu, xây dựng đề án về cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng thông qua thủ tục kết tội, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Thủ tướng cũng chỉ đạo Bộ Tư pháp, Thanh tra Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đề xuất cơ chế xử lý hình sự đối với hành vi làm giàu bất hợp pháp, nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Nguồn: TKNB – 01/03/2023

Advertisement

Thẩm phán Philippines phản đối hủy thỏa thuận thăm dò với Việt Nam, Trung Quốc


Theo trang philstar.com (Philippines) ngày 19/3, hai thẩm phán của Tòa án tối cao (SC) không đồng ý với quyết định của tòa án rằng thỏa thuận ba bên năm 2005 về Khảo sát địa chấn biển chung (JMSU) do chính phủ Philippines ký với Trung Quốc và Việt Nam là vi hiến.

Trong ý kiến phản đối, Phó Thẩm phán Amy Lazaro-Javier và Rodil Zalameda cho rằng không có cơ sở thực tế nào để hủy bỏ thỏa thuận thăm dò dầu khí mà Philippines ký kết trong nhiệm kỳ tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo.

Trước đó, Tòa án tối cao Philippines đã bỏ phiếu với tỷ lệ 12-2-1, qua đó tuyên bố thỏa thuận giữa tập đoàn Dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC), tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) và tập đoàn Dầu khí quốc gia Philippines (PNOC) về thăm dò dầu khí ở khu vực rộng 142.886 km2 trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines là vi hiến.

Theo Phó Thẩm phán Samuel Gaerlan, tòa án tối cao đã hủy bỏ thỏa thuận vì vi phạm điều khoản hiến pháp, theo đó cấm các tập đoàn nước ngoài khai thác tài nguyên thiên nhiên của Philippines vì quyền khai thác là dành cho công dân Philippines hoặc các tập đoàn có ít nhất 60% sở hữu của người dân Philippines.

Thỏa thuận thăm dò dầu khí chung bao gồm 6 đảo do Philippines tuyên bố chủ quyền và chiếm đóng ở Trường Sa như đảo Thị Thứ, đảo Bến Lạc, đảo Vĩnh Viễn, đảo Loại Ta, đảo Bình Nguyên và bãi An Nhơn. Thỏa thuận này hết hiệu lực vào năm 2008 trong bối cảnh có nhiều tranh cãi.

Bà Lazaro-Javier chỉ ra rằng những người khởi kiện đã đến thẳng tòa án tối cao mà không qua các tòa án xét xử nhằm có được một bảo sao thật của thỏa thuận JMSU (bản sao này chỉ được cung cấp cho tòa) và bản đồ chính thức của khu vực tiến hành thăm dò (bản đồ này không được cung cấp cho những người khởi kiện vì điều khoản bảo mật của thỏa thuận): “Đối với vụ kiện này, tòa đã chấp nhận một bản đồ không chính thức do những người khởi kiện gửi và dựng bản đồ bằng các tọa độ được nêu trong bài báo điện tử nào đó”.

Phó Thẩm phán Zalameda cho rằng ý kiến đa số tại tòa “giả định” rằng khu vực này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines dù “vị trí chính xác không được các bên tranh tụng đầy đủ” và rằng bản đồ “chỉ dựa trên sự ước tính gần đúng chưa bị bác bỏ”. Ông Zalameda nhận định: “Tôi thấy ý kiến của chúng tôi về các vấn đề hiến pháp liên quan đến một thỏa thuận bị chấm dứt mà ý nghĩa và phạm vi không được các bên thông báo đầy đủ là mang tính suy đoán và chỉ mang tính chất tham khảo”.

Đối với bà Lazaro-Javier, vụ việc liên quan đến vấn đề “quan hệ đối ngoại” chứ không phải vấn đề thăm dò, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, do đó “đòi hỏi sự tôn trọng đối với các hành động hợp lý của bị đơn” liên quan đến chính sách đối ngoại của chính quyền Arroyo.

Bà Lazaro-Javier cho rằng: “Thỏa thuận JMSU chủ yếu không nhằm mục đích mời nước ngoài khai thác tài nguyên thiên nhiên của Philippines. Thay vào đó, mục đích ban đầu là thúc đẩy những nỗ lực tiên phong trong việc thiết lập bộ quy tắc ứng xử giữa các bên yêu sách để giải quyết các yêu sách lãnh thổ xung đột một cách hòa hảo đối với các vùng lãnh thổ tranh chấp. Làm thế nào chúng ta đối phó với những nước láng giềng là vấn đề dành cho các quan chức đối ngoại giải quyết. Tòa án không được nhúng tay vào những vấn đề này trong các trường hợp khả nghi vì có nguy cơ gây bất lợi cho cả an ninh quốc gia và vị thế quốc tế của Philippines”.

Nguồn: TKNB – 21/03/2023

Tác hại của việc áp đặt “lằn ranh đỏ” cho Luật Đất đai


PGS.TS. Phạm Quý Thọ

Lần sửa đổi Luật Đất đai năm 2023 diễn ra trong bối cảnh thực tế đã có những thay đổi mạnh mẽ và mang tính xu thế thị trường.

Trước hết, kinh tế thị trường đã biến đất đai trở thành nguồn vốn tư bản có vai trò ngày càng lớn đối với tăng trưởng kinh tế và hiệu ứng lan tỏa. Lĩnh vực bất động sản trở thành một trụ cột quan trọng của nền kinh tế, hơn thế cần được chú ý như một trụ cột “nội” đảm bảo an ninh kinh tế.

Tuy nhiên, Luật Đất đai đang chứa đựng những bất cập cản trở phát triển thị trường phục vụ cho tăng trưởng kinh tế dài hạn mà còn tạo khoảng trống cho tha hóa quyền lực công ở các cấp chính quyền – tác nhân gây bất ổn thể chế.

Ngoài ra, do thiếu các thể chế mang tính nguyên tắc của thị trường nói chung và bất động sản nói riêng cho hoạt động khiến sự vận hành chính sách liên quan đến lĩnh vực bất động sản trở nên rất nhạy cảm, thách thức. Chỉ cần một sai lầm chính sách cũng để lại hậu quả nghiêm trọng.

Thực tế trên đòi hỏi sửa đổi cơ bản Luật Đất đai theo hướng phát triển thị trường và kiểm soát quyền lực. Tuy nhiên, lo ngại sự bất ổn, Đảng đã quyết định áp đặt “lằn ranh đỏ” cho quá trình sửa đổi với việc ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW năm 2022 về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất…”. Đảng coi đây là khung khổ chính trị không được vượt qua, trong đó tái nhấn mạnh các quan điểm: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và phát triển kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa” dưới sự lãnh đạo của Đảng.

“Lằn ranh đỏ” nêu trên đã loại trừ cách tiếp cận “từ dưới lên” được xác định trong Luật 63/2020/QH14 về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, theo đó việc thể chế hóa hay luật hóa cần phân tích chính sách khoa học theo quy trình với điểm xuất phát là xác định “vấn đề” thực tế. Chỉ như vậy thì tính hiệu quả, hiệu lực trong việc xây dựng thể chế mới được đảm bảo.

Người ra, việc áp đặt “lằn ranh đỏ” trong sửa đổi Luật Đất đai đã không tuân tủ quan điểm “dân là gốc” của Đảng, trong đó sự thiếu vắng những nghiên cứu độc lập, phản biện xã hội về nguyện vọng và nhu cầu của người dân. Bởi vậy, những vấn đề như: “Nếu đất đai thuộc sở hữu toàn dân thì dân cũng có phần nào quyền sở hữu..” – vậy, cơ chế giao quyền cho dân như thế nào; “Nền tảng của kinh tế thị trường là sở hữu tư nhân” – vậy, xác định giá đất thế nào khi không có nền tảng này? Khi tha hóa quyền lực nghiêm trọng và thiếu cơ chế kiểm soát thì “Nhà nước đại diện quản lý” thế nào? Thể chế kiểm soát trục lợi là gì?… đang là những bất cập trong luật hiện hành sẽ vẫn tiếp tục thách thức cải cách thể chế thị trường.

Không thể đảo ngược được xu hướng thị trường, nhưng xa rời thực tế vì ý thức hệ thì Luật Đất đai sẽ cản trở sự phát triển. Những tín hiệu mạnh từ thị trường vẫn tiếp tục thu hút sự chú ý của các nhà làm luật. Mới đây, việc xác định giá đất năm 2023 tại TPHCM để bồi thường khi giải phóng mặt bằng đối với đất ở tối đa cao gấp 25 lần và đất nông nghiệp gấp 38 lần giá nhà nước! Đó là một thực tế.

Nguồn: RFA

TKNB – 21/03/2023

Về việc sửa đổi Luật Đất đai


Đài VOA dẫn lời chuyên gia trong nước nhận định, dự thảo Luật Đất đai mới của Việt Nam vẫn chưa giải quyết được vấn đề cốt lõi là xác định giá đất theo giá thị trường, nên vẫn còn khả năng người dân bị đền bù theo giá rẻ mạt hay quan chức giao đất công cho tư nhân với giá hời để trục lợi.

Quốc hội Việt Nam đã tiến hành sửa đổi Luật Đất đai để loại bỏ những bất cập. Đợt lấy ý kiến nhân dân về dự thảo luật này được tiến hành từ ngày 3/01 – 15/03/2023. Dự thảo luật mới có những điểm quan trọng như đặt ra cơ chế xác định giá đất theo cơ chế thị trường thay vì căn cứ theo bảng giá của nhà nước lâu nay; quy định rõ phạm vi, mục đích thu hồi đất, bồi thường cho người dân mất đất làm sao để họ có điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn chỗ cũ cũng như quy định chặt chẽ việc lấy đất công giao cho doanh nghiệp phải thông qua đấu giá.

Hội đồng định giá đất

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Hùng Võ, cựu Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, dù Dự thảo đã có những điểm sửa đổi theo hướng tích cực, nhưng những vấn đề cốt lõi vẫn chưa được sửa đổi triệt để. Ông nêu rõ: “Vấn đề cốt lõi gây ra những bất cập lâu nay là không có một cơ chế định giá đất một cách rõ ràng, minh bạch, thỏa đáng. Trên thế giới đã có định nghĩa thế nào là giá trị trường “theo tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế”. Ngân hàng Thế giới đã nhiều lần khuyến nghị Việt Nam về cách thức, lộ trình để xác định giá thị trường được ghi trên hợp đồng mua bán đất, nhưng Việt Nam vẫn chưa tiếp thu”.

Ông Đặng Hùng Võ cho rằng: “Giá thị trường vẫn do một hội đồng cấp tỉnh, cấp huyện họp và quyết định. Đây là những quy định thoát ly thị trường… Cần xác định rõ thành phần hội đồng, phải có 50% là các chuyên gia độc lập. Nếu đã xác định giá đất theo đúng giá thị trường, các quan chức không còn cơ hội để tham nhũng đất đai”.

Thu hồi đất “chưa rõ ràng”

Ông Đặng Hùng Võ nhận xét, Dự luật đã có bước tiến là làm rõ các trường hợp áp dụng cơ chế nhà nước cưỡng chế thu hồi đất theo hướng thu hẹp lại trên tinh thần “cực chẳng đã mới làm”. Do đó, sẽ không xảy ra tình trạng nhà nước tùy tiện thu hồi đất rồi giao cho doanh nghiệp làm dự án như trước. Tuy nhiên, Dự thảo luật chưa thật sự minh bạch. Khi áp dụng, có những điều kiện tạo ra sự lỏng lẻo: “Ví dụ, chính quyền có thể đẻ ra dự án thuộc diện nhà nước thu hồi đất, nhưng sau khi thu hồi đất xong, chờ một thời gian thì chủ dự án có thể xin điều chỉnh quy hoạch và nó sẽ rơi vào diện nhà nước không thể thu hồi đất… Những thuật ngữ pháp lý không được định nghĩa rõ ràng, nên chính quyền có thể đưa ra những dự án mơ hồ để nói rằng nó nằm trong diện được phép thu hồi đất”.

Ông cho biết, đã có ý kiến đề xuất Việt Nam học theo cơ chế được áp dụng ở các nước là “đồng thuận theo số đông”, nhưng không được tiếp thu. Tuy nhiên, ông chỉ ra điểm tích cực mà Dự luật đã tiếp thu khi đưa ra lấy ý kiến là “phải bồi thường cho người bị thu hồi đất bằng đất và tài sản gắn với đất có giá trị tương đương”.

Cho phép “ly nông”

Một điểm tích cực nữa trong dự thảo luật mà ông Đặng Hùng Võ đánh giá cao là “đã dỡ bỏ được những rào chắn để cho phép người nông dân được chuyển nhượng đất nông nghiệp”.

Trước đây, do e ngại Việt Nam sẽ hình thành lớp địa chủ mới nên Luật Đất đai cũ quy định “đất lúy chỉ được chuyển nhượng cho người dân cùng xã” hay “đất nông nghiệp không được chuyển nhượng cho người không làm nông nghiệp”. Bây giờ, dự thảo Luật Đất đai sửa đổi đều bỏ hết những nội dung trên và coi đất nông nghiệp cũng như các loại đất khác được phép chuyển nhượng cho tất cả mọi người. Quy định mới này có thể tạo điều kiện cho người nông dân bán đất đai để làm giàu nếu muốn, đồng thời gúip cho các doanh nghiệp có thể thu gom đất nông nghiệp để “tạo nên một nền nông nghiệp hiện đại hơn với sự đầu tư từ nhiều phía”.

Nguồn: TKNB – 21/03/2023

Nghĩa vụ hợp tác và hợp tác thực tế ở Biển Đông


Ngày 25/07/2022, hội thảo quốc tế kỷ niệm 20 năm DOC được Vụ Biên giới và Đại dương thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc phối hợp tổ chức với Viện Nghiên cứu biên giới và đại dương thuộc Đại học Vũ Hán và Viện Nghiên cứu Biển Đông quốc gia. Hội thảo quy tụ các quan chức, học giả và chuyên gia từ các nước ASEAN và Trung Quốc, bao gồm cả những người đóng vai trò quan trọng trong việc đàm phán văn kiện này.

Tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa là một trong những điểm nóng liên quan đến nhiều bên, kéo dài nhất trên thế giới. Do đó, các sự cố liên tục đã dẫn đến nhiều lời chỉ trích đối với DOC. Đặt ra những kỳ vọng cao và đôi khi phi thực tế, người ta dễ dàng bỏ qua sự đóng góp của văn kiện này trong việc bình định vùng biển bão tố. Thế nhưng không ai có thể phủ nhận rằng không có cuộc xung đột lớn nào nổ ra ở điểm nóng này, kể cả trong những thời điểm căng thẳng và “nóng” nhất trong thời gian qua. Mặc dù văn kiện này thiếu chặt chẽ và không có tính ràng buộc, nhưng bóng ma về phản ứng dữ dội của khu vực trước những vi phạm nghiêm trọng đối với Tuyên bố đã ngăn cản các quốc gia hung hăng lại gần hơn các điểm nóng. Tuy nhiên, việc Philippines đệ đơn kiện Trung Quốc và Tòa trọng tài vào năm 2013 và việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo khổng lồ từ năm 2013 đến năm 2016 khiến thỏa thuận này thất bại.

DOC có thể đã đáp ứng được mục đích của nó, đặc biệt là trong những năm đầu, nhưng thời thế đã thay đổi. Chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy. Năng lực của các quốc gia ven biển ngày càng lớn. Nhu cầu tiếp cận nhiều tài nguyên ngày càng tăng. Cạnh tranh nước lớn cũng gia tăng trong bối cảnh các vùng biển nửa kín nổi lên như một trong những đấu trường chủ chốt. Việc biến biển Nam Trung Hoa thành một vùng biển hòa bình, ổn định và thịnh vượng trở nên khó thực hiện hơn. Trong hai thập kỷ trôi qua, nhiều người đã mất niềm tin vào DOC và hiện đang đặt hy vọng vào COC.

Dự thảo thứ nhất COC là một cột mốc quan trọng. Mặc dù mong muốn ký kết sớm nhất có thể, nhưng nhiều người nhận ra những điểm tồn đọng nghiêm trọng, đặc biệt là các phương thức giải quyết tranh chấp được chấp nhận, vai trò của bên thứ ba và bản chất của văn kiện. Ngay cả phần quy định nghĩa vụ hợp tác và hợp tác hàng hải thực tế cũng chứa đựng cả sự chồng chéo và khác biệt. Tuy nhiên, phần đó vẫn có thể đóng vai trò gắn kết các bên lại với nhau. Xét đến tiềm năng và những diễn biến liên quan gần đây, 3 lĩnh vực có nhiều hứa hẹn là kết nối và thương mại hàng hải, nghiên cứu khoa học biển và bảo tồn nguồn lợi thủy sản.

Kết nối hàng hải và thương mại

Biển Nam Trung Hoa kết nối Trung Quốc với Đông Nam Á. Biển này kết nối vịnh Thái Lan và Đồng bằng sông Cửu Long với biển Sulu-Sulawesi, và Hợp tác Lan Thương-Mekong với Khu vực tăng trưởng Đông ASEAN Brunei-Indonesia-Malaysia-Philippines (BIMP-EAGA). Các cảng và tàu kết nối BIMP-EAGA trong khi đường bộ và đường sắt kết nối Đông Dương. Tuy nhiên, các tuyến phà luân chuyển trong tiểu vùng hàng hải phải đối mặt với một trong những thách thức là lượng hàng hóa thấp. Việc tiếp cận bán đảo Đông Nam Á là một cách giúp cho việc kết nối trở nên khả thi hơn.

Công ty vận tải biển Reefer Express Line Filipinas Inc. có trụ sở tại Manila đề xuất bổ sung Thành phố Hồ Chí Minh vào hành trình của mình để mở rộng tuyến đường biển. Tuyến đường được mở rộng sẽ bắt đầu từ Davao ở Mindanao đến Bitung ở Bắc Sulawesi, sau đó tàu ghé vào Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, tuyến đường rẽ sang phía Bắc Borneo, dừng lại ở Muara ở Brunei và Lahad Datu ở Sabah, trước khi quay trở lại Bitung và Davao. Tuyến đường dài hơn này thậm chí có thể bao gồm nhiều cảng ở Đông Nam Á lục địa hơn, như Kuantan ở bán đảo Malaysia, Sihanoukville ở Campuchia và Laem Chabang ở Thái Lan. Nó thậm chí có thể được mở rộng thêm sang phía Bắc đến Cảng Thương mại tự do Hải Nam. Làm như vậy có thể giúp tăng cường giao thông trên biển ASEAN-Trung Quốc và bổ sung thương mại.

Ngoài việc thúc đẩy thương mại nội vùng thông qua biển Nam Trung Hoa, hành trình mở rộng cũng có thể phục vụ du lịch tàu biển. Dự kiến loại hình du lịch này được đẩy mạnh khi biên giới mở cửa trở lại và các hạn chế đi lại chống dịch được giảm bớt. Philippines, Indonesia và Malaysia đã và đang nỗ lực tăng cường an ninh cho biển Sulu-Sulawesi. Một thỏa thuận ba bên đã giúp ổn định khu vực biển này, làm cho thương mại giữa các đảo trở nên thuận lợi hơn. Đầu tư vào các cảng và khu vực kinh tế dọc theo tuyến đường biển này, đặc biệt là vào BIMP-EAGA vì chúng là các nhánh truyền thống ở các quốc gia tương ứng, là rất quan trọng. Việc cung cấp sự hỗ trợ trong việc xây dựng và nâng cao thủ tục hải quan, nhập cư, kiểm dịch và an ninh (CIQS) tại các cảng biên giới trong tuyến đường này, làm hài hòa các biện pháp và tiêu chuẩn, cũng là việc cần làm.

Nghiên cứu khoa học biển

Nỗ lực này có thể tập trung vào việc nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu đối với môi trường biển và nguồn lợi thủy sản ở biển Nam Trung Hoa. Nó phù hợp và kịp thời, đặc biệt là đối với các cộng đồng ven biển và các ngành công nghiệp phụ thuộc vào biển. Ngoại giao khoa học là một biện pháp xây dựng lòng tin quan trọng. Nó kích hoạt một bộ phận cử tri quan trọng – các nhà khoa học nghiên cứu biển và các chuyên gia thủy sản trong khu vực – vốn có thể khuyến khích và tư vấn cho chính phủ về giá trị và điểm mạnh của việc theo đuổi hợp tác thực tế mà không gây phương hại và mang lại lợi ích cho tất cả các bên trong vùng biển giàu tài nguyên. Một bộ phận cử tri như vậy có thể tham gia các cuộc đối thoại liên quan đến Lộ trình 1.5 và Lộ trình 2 để hỗ trợ chính sách của các nước tham gia. Năng lực của các nước ASEAN và Trung Quốc trong nghiên cứu khoa học biển đã tăng lên trong những năm qua và các bên đều có thể hưởng lợi từ việc tổng hợp các nguồn lực và học hỏi lẫn nhau. Các phát hiện chung có thể được chia sẻ thông qua các hội nghị, ấn phẩm hoặc trao đổi. Các báo cáo và khuyến nghị do hội đồng chuyên gia khu vực đưa ra có thể được đệ trình lên các cơ quan nhà nước liên quan để đưa ra hành động thích hợp.

Một diễn biến đáng hoan nghênh liên quan đến vấn đề này là việc khôi phục Đoàn thám hiểu nghiên cứu khoa học biển và hải dương học (JOMSRE) ở biển Nam Trung Hoa giữa Philippines và Việt Nam vào tháng 11/2021. Từ năm 1996 đến 2007, trong giai đoạn đầu, JOMSRE đã thực hiện 4 chuyến thám hiểm trên biển. Hành trình của đoàn trong giai đoạn này bao gồm phần lớn phía Nam biển Nam Trung Hoa, vì vậy một đề xuất nghiên cứu khu vực phía Bắc đã được đưa ra với sự tham gia của Trung Quốc. Ba cuộc họp trù bị đã được tổ chức tại Manila, Quảng Châu và Nha Trang, nhưng cuộc họp thứ tư đã không được triệu tập. Chính trị cản đường, làm nản lòng những nỗ lực mở rộng hợp tác sang khu vực còn lại của biển Nam Trung Hoa. JOMSRE được gia hạn có thể bắt đầu ngay từ điểm kết thúc lần trước và mở cửa cho các quốc gia khác và thậm chí cả các tổ chức quốc tế.

Bảo tồn nguồn lợi thủy sản

Biển Nam Trung Hoa là một hệ sinh thái biển tổng hợp, vòng đời và sự di chuyển của các loài sinh vật biển sống trong vùng biển này là không có ranh giới. Do đó, các nỗ lực bảo tồn, gìn giữ và quản lý các nguồn lợi thủy sang đang bị suy giảm của vùng biển này cũng nên được thực hiện trên cơ sở xuyên biên giới nếu muốn hiệu quả hơn. ASEAN và Trung Quốc có thể cân nhắc một số bước đi nổi bật. Một là 11 bên có thể tiến hành đánh giá trữ lượng cá chung ở biển Nam Trung Hoa, đề xuất các biện pháp bổ sung và tăng cường nguồn thủy sản. Hai là họ có thể đàm phán về lệnh cấm đánh bắt chung hoặc phối hợp để thay thế những áp đặt đơn phương làm mếch lòng nhau. Ba là họ có thể xác định các khu bảo tồn biển ở biển Nam Trung Hoa, vốn là nơi cấm đánh bắt, nếu không muốn nói là hạn chế nghiêm trọng đánh bắt thủy sản. Bốn là họ có thể thương lượng để giảm đánh bắt, tạo các khoản trợ cấp cho đánh bắt truyền thống hoặc thủy công, và hướng tới đánh bắt thương mại sao cho vẫn đảm bảo tính bền vững của biển. Trong tất cả những điều này, thông tin mà các chuyên gia về biển và thủy sản cung cấp sẽ rất quan trọng.

DOC đã được ký kết tại Campuchia. Ban đầu, một số người hy vọng rằng COC cũng sẽ được phê chuẩn ở nước này. Thế nhưng, đại dịch diễn biến phức tạp, ngoại giao của từng quốc gia rất quan trọng trong các cuộc đàm phán dễ sụp đổ. Do đó, việc ký kết COC trong năm nay là điều được mong đợi hơn cả. Các rào cản, đặc biệt là sự tham gia của các bên ngoài khu vực, là rất đáng kể. Những sự khích lệ trong phần về nghĩa vụ hợp tác và thúc đẩy hợp tác thực tế, bao gồm cả 3 điểm được trích dẫn ở trên, có thể hấp dẫn các bên. Phần thưởng như vậy có thể “giữ chân” các quốc gia khi đàm phán trở nên khó khăn.

Nguồn: www.chinausfocus.com

TLTKĐB – 03/11/2022

UNCLOS liên quan thế nào đến đàm phán COC?


Việc đàm phán để thông qua Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa các nước ASEAN và Trung Quốc thường gây tranh cãi. Sự cần thiết của một COC điều chỉnh các hoạt động hàng hải trong khu vực lần đầu tiên được đề cập trong một văn kiện của ASEAN vào năm 1992 và xuất hiện trong tuyên bố chung của ASEAN và Trung Quốc vào năm 2002. Tuy nhiên, 20 năm sau, hai bên vẫn đang thảo luận về cấu trúc và chủ đề của văn kiện. Tiến trình này kéo dài hơn nhiều so với việc đàm phán Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, vốn mất 9 năm để đạt được sự đồng thuận giữa hơn 100 quốc gia. Một số nhà quan sát kêu gọi từ bỏ đàm phán COC vì nó chẳng đi đến đâu. Những người khác vẫn kiên trì ủng hộ tiến trình này vì cho rằng đó là một cơ chế xây dựng lòng tin cần thiết cho khu vực.

Một trong những nguyên nhân khiến đàm phán COC kéo dài được cho là do những khác biệt căn bản giữa các nước ASEAN với Trung Quốc trong việc giải thích và áp dụng UNCLOS ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Đối với Trung Quốc, UNCLOS không bao trùm mọi vấn đề trên biển, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến quyền lịch sử nằm ngoài phạm vi của Công ước. Về phía mình, ASEAN tái khẳng định: “Công ước đặt ra khuôn khổ pháp lý mà trong đó mọi hoạt động trên biển và đại dương phải được thực hiện”.

Để vượt qua sự bất đồng đó, điều cần thiết là phải phân biệt giữa các vấn đề không được UNCLOS điều chỉnh và các vấn đề bị UNCLOS hoặc luật quốc tế nói chung bác bỏ. Mặc dù UNCLOS thường được ca tụng là “hiến pháp của biển và đại dương”, người ta phải thừa nhận rằng vẫn tồn tại những vấn đề nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Công ước. Lời mở đầu của Công ước nêu rõ: “Các vấn đề không được điều chỉnh theo khuôn khổ Công ước tiếp tục được điều chỉnh bởi các quy tắc và nguyên tắc của luật quốc tế chung”. Thật vậy, các quy định liên quan đến biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đa dạng sinh học biển của các khu vực nằm ngoài quyền tài phán quốc gia, hoặc các phương tiện tự hành trên biển thường được coi là kẽ hở của UNCLOS vì tại thời điểm đàm phán, các đại biểu chưa có sự hiểu biết về chúng.

Tình hình lại khác khi đề cập đến trường hợp các quyền lịch sử ở biển Nam Trung Hoa. Nếu cuộc đàm phán bắt đầu với lập luận rằng UNCLOS không nên được coi là nguồn luật duy nhất cho đàm phán COC vì các vấn đề liên quan đến quyền lịch sử vượt ra ngoài phạm vi của Công ước, thì điều đó ám chỉ tiền đề rằng tồn tại các quyền lịch sử do một quốc gia ở biển Nam Trung Hoa thiết lập. Tiền đề này là không để đạt được. Trên thực tế, các bên có tuyên bố chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa không thể đưa ra lập luận ủng hộ các quyền lịch sử vốn có thể loại trừ các tuyên bố chủ quyền và hoạt động hài hải của các nước khác trong lãnh hải này.

Thứ nhất, về mặt địa lý, đây là điều không thể. Biển Nam Trung Hoa là một vùng biển rộng lớn có diện tích khoảng 4 triệu km2. Không thể có chuyện một quốc gia lại một tay kiểm soát, thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở biển Nam Trung Hoa một thời gian dài trong “lịch sử không đáng nhớ”, chưa kể đến việc sản xuất dầu khí ngoài khơi đã được tăng cường kể từ năm 1947, thời điểm được coi là bắt đầu thời hiện đại. Do đó, bằng chứng lịch sử về đánh bắt cá và các hoạt động khác liên quan đến biển trong vùng biển này không thể thiết lập cái gọi là quyền lịch sử cho phép một quốc gia ở biển Nam Trung Hoa loại trừ các quốc gia khác thực hiện các hoạt động tương tự.

Thứ hai, tiền đề này là bất khả thi về mặt pháp lý. Các quyền lịch sử thường được coi là “đặc quyền” xuất hiện từ “hoàn cảnh đặc biệt”. Trước khi UNCLOS được thông qua, các quyền mà các quốc gia được hưởng ở biển Nam Trung Hoa ngoài ranh giới lãnh hải của họ là một phần của quyền tự do trên hải phận quốc tế. Quyền đánh bắt cá và các quyền hàng hải khác xuất phát từ khái niệm pháp lý thông thường về tự do trên hải phận quốc tế không thể được coi là “quyền độc quyền” hoặc “đặc quyền” để sử dụng lập luận cho quyền lịch sử.

Với việc UNCLOS có hiệu lực, các chế độ cụ thể quy định việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên ngoài lãnh hải được ban hành. Đó là các chế độ vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (CS) nhấn mạnh quyền kiểm soát độc quyền của các quốc gia ven biển đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển đó. Theo nguyên tắc chung “lex specialis derogat legi” (nguyên tắc áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung), lập luận ủng hộ các quyền lịch sử độc quyền ở biển Nam Trung Hoa không được các cơ quan liên quan của UNCLOS được chấp nhận.

Sau khi UNCLOS có hiệu lực, theo đó tất cả các bên có tuyên bố chủ quyền ở biển Nam Trung Hoa đều là bên liên quan, các tuyên bố về các quyền lịch sử trong EEZ và CS của các quốc gia ven biển khác là hành vi vi phạm Công ước.

Cuối cùng, tiền đề này không thể có tính pháp lý. Đối với việc thiết lập các quyền lịch sử độc quyền, sự chấp thuận của các quốc gia bị ảnh hưởng trực tiếp là điều cần thiết. Yêu cầu này không thể đạt được trong trường hợp biển Nam Trung Hoa. Ví dụ điển hình là cuộc chiến công hàm năm 2019 giữa các nước ở biển Nam Trung Hoa tại Ủy ban Ranh giới thềm lục địa. 4 trong số 5 quốc gia liên quan trong khu vực (Malaysia, Philippines, Việt Nam và Indonesia) đã bác bỏ các tuyên bố về quyền lịch sử của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa, điều mà họ cho là vượt quá phạm vi pháp lý của UNCLOS.

Nói tóm lại, lập luận ủng hộ việc làm suy yếu vai trò của UNCLOS trong đàm phán COC dựa trên các vấn đề quyền lịch sử là không thể đạt được vì các quyền đó không thể được thiết lập ở biển Nam Trung Hoa dựa trên các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế hoặc chính Công ước. Cần tránh lập luận này để các nước ASEAN là Trung Quốc có thể đạt được một cuộc đàm phán COC thành công. Điều quan trọng hơn là khuôn khổ pháp lý quy định trong UNCLOS cần được tất cả các bên công nhận, tôn trọng và áp dụng trung thực nhằm xây dựng một trật tự dựa trên luật lệ ở biển Nam Trung Hoa.

Nguồn: www.amti.csis.org

TLTKĐB – 03/11/2022

Trung Quốc nêu quan điểm về UNCLOS


Các quan chức và chuyên gia cho biết Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) đã góp phần thúc đẩy hợp tác hàng hải quốc tế và bác bỏ quyền bá chủ hàng hải, do đó cần phải được giải thích và áp dụng một cách đầy đủ và thiện chí để cải thiện hơn nữa quản trị hàng hải toàn cầu. UNCLOS, được thông qua vào năm 1982, đã dẫn đến việc bảo vệ và sử dụng biển tốt hơn. Trung Quốc là một trong những quốc gia đầu tiên ký công ước và phê chuẩn vào năm 1996.

Tại một hội thảo quốc tế trực tuyến do Bộ Ngoại giao và Bộ Tài nguyên Turng Quốc phối hợp tổ chức hôm 1/9 để kỷ niệm 40 năm ngày mở đầu quá trình ký kết UNCLOS, Ủy viên Quốc vụ kiêm Ngoại trưởng Vương Nghị cho biết Trung Quốc luôn tôn vinh tinh thần của UNCLOS và thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ của mình. Đáng chú ý, Tổng thư ký Liên hợp quốc và Cố vấn pháp lý Miguel de serpa Soares cũng tham dự lễ khai mạc qua cầu truyền hình.

Tại cuộc hội thảo, Vương Nghị đã thúc giục cộng đồng quốc tế giải quyết các tranh chấp trên biển bằng các cách thức hòa bình và duy trì hòa bình trên biển thay vì phô trương vũ lực. Ông nói: “Trung Quốc khẳng định thúc đẩy sự phát triển bền vững của các đại dương, làm sâu sắc hơn hợp tác thực tế trên biển, thúc đẩy các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc và biến các đại dương trở thành động lực không ngừng cho sự phát triển bền vững của tất cả các quốc gia”.

Vương Nghị ủng hộ hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường sinh thái biển. Theo ông, cộng đồng quốc tế cần tuân thủ khái niệm phát triển xanh, thúc đẩy hợp tác toàn cầu trong bảo vệ môi trường biển và cùng nhau xây dựng một biển xanh và bầu trời xanh cho các thế hệ tương lai. Vương Nghị nhấn mạnh: “Chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc luật pháp quốc tế và cải thiện quản trị đại dương toàn cầu. Chúng ta nên giải thích và áp dụng Công ước một cách hoàn chỉnh, chính xác và thiện chí, đồng thời phát triển và cải thiện các quy tắc quốc tế về đại dương một cách công bằng và hợp lý, giải quyết các thử thách của lịch sử và thực tiễn”.

Ngoài ra, Vương Nghị nhấn mạnh Trung Quốc phản đối các nỗ lực lạm dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp của UCLOS và khai thác công ước này như một công cụ để trấn áp và bôi nhọ các nước. Theo Vương Nghị, đối thoại và tham vấn để duy trì hòa bình trên biển là hết sức cần thiết. Các tranh chấp hàng hải nên được các bên liên quan trực tiếp giải quyết thông qua tham vấn hữu nghị trên cơ sở tôn trọng sự thật lịch sử và luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.

Cũng tại cuộc hội thảo này, Thứ trưởng Ngoại giao Tạ Phong đã lặp lại nhận xét của ông Vương Nghị và kêu gọi các nước “từ chối việc thực hiện các tiêu chuẩn kép và áp dụng có chọn lọc”. Trước cáo buộc của Washington rằng Trung Quốc vi phạm công ước, ông Tạ Phong cho rằng Mỹ “không có tư cách viện dẫn UNCLOS để buộc tội nước khác”.

Theo Tạ Phong, Mỹ, nước không phê chuẩn Công ước, đã cường điệu cái gọi là tự do hàng hải để duy trì quyền bá chủ hàng hải của Mỹ và thách thức yêu sách hàng hải của các nước khác mà không có bất kỳ cơ sở nào trong luật pháp quốc tế. Tạ Phong nói: “Trung Quốc tôn trọng quyền hàng hải hợp pháp của tất cả các quốc gia, nhưng kiên quyết phản đối động thái của một nước nào đó nhằm đe dọa chủ quyền và an ninh của Trung Quốc nhân danh tự do hàng hải. Những nỗ lực trái pháp luật của Mỹ cũng sẽ bị cộng đồng quốc tế bác bỏ”.

Các chuyên gia nhận xét rằng UNCLOS là hiện thân của chủ nghĩa đa phương, cung cấp các biện pháp bảo vệ thể chế cho các nước đang phát triển tham gia vào các vấn đề hàng hải toàn cầu và đảm bảo việc sử dụng bền vững và hòa bình biển cả.

Ông Sun Nanxiang, nhà nghiên cứu tại Viện Luật Quốc tế thuộc Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, cho biết Trung Quốc đã duy trì tính hiệu quả và thẩm quyền của công ước với các tiêu chuẩn cao. Theo ông Sun Nanxiang, Trung Quốc đã tích cực hỗ trợ các hình thức hợp tác khác nhau theo công ước và xây dựng các luật và quy định liên quan trong nước phù hợp với các yêu cầu của công ước.

Còn He Xianqing, chuyên gia địa chính trị thuộc Viện Nghiên cứu quốc gia về Biển Đông cho biết, cái gọi là tự do hàng hải của Mỹ là “tự do cố ý” và chính Mỹ đã điều máy bay quân sự và tàu chiến đến vùng biển ngoài khơi Trung Quốc và làm gia tăng căng thẳng trong khu vực. Ông He nhận định: “Washington cũng lạm dụng công ước trong nỗ lực gây bất hòa giữa Bắc Kinh và các quốc gia có tranh chấp khác ở Biển Hoa Nam (Biển Đông) để kiềm chế Trung Quốc. Các hoạt động đơn phương của Mỹ đã phá hoại nghiêm trọng luật pháp và trật tự hàng hải toàn cầu”.

Đối với các tranh chấp trên Biển Đông, ông He cho rằng các hiệp ước liên quan và luật tục quốc tế ngoài công ước cũng cần được xem xét và các lựa chọn của các bên tranh chấp cần được coi trọng.

Nguồn: TKNB – 08/09/2022

Doanh nghiệp Mỹ quan ngại nghị định “mơ hồ” về lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam


Theo đài VOA, đại diện các hiệp hội thương mại lớn nhất của Mỹ và Liên minh Internet châu Á (AIC) vừa gửi một thư chung đến lãnh đạo Việt Nam bày tỏ quan ngại về một nghị định mới nhất của chính phủ, cho rằng quy định này với những điều khoản “mơ hồ”, không nhất quán với luật ra trước đó, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các công ty tại Việt Nam và làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư chung của nước này.

Thư chung đề cập Nghị định số 53/2022/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam “quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng (LANM)” – đặc biệt lưu ý về yêu cầu lưu trữ dữ liệu và đặt chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam.

Bức thư đề ngày 9/9 gửi đến Thủ tướng Phạm Minh Chính có đoạn viết: “Chúng tôi kiến nghị Ngài cân nhắc những yêu cầu do Nghị định 53/2022/NĐ-CP quy định đặc biệt vấn đề bản địa hóa dữ liệu”.

Bức thư do đại diện của Phòng Thương mại Mỹ, Hiệp hội Thương mại Mỹ (AmCham) AIC ký, nêu rõ: “Những yêu cầu này gây gánh nặng đáng kể đối với các doanh nghiệp trực tiếp liên quan và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam”.

AIC – đại diện cho hàng loạt công ty công nghệ của Mỹ và châu Á, trong đó công ty Meta (trước đây là Facebook), Google, Twitter cho biết trong một thông cáo, tóm tắt bức thư nêu rằng cách diễn đạt của một số điều, khoản mục trong Nghị định 53 còn “mơ hồ” khiến doanh nghiệp không biết phải đáp ứng như thế nào để phù hợp với quy định.

Bức thư đồng kính gửi Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Nguyễn Quốc Dũng và Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc Knapper, viết: “Ở thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam liên quan chưa thể đánh giá chính xác chi phí và nỗ lực cần thiết để hoạt động kinh doanh tại Việt Nam”.

Những điều khoản mà doanh nghiệp Mỹ cho là “mơ hồ” bao gồm phạm vi áp dụng các yêu cầu về lưu trữ dữ liệu, mâu thuẫn giữa Điều 26.2 của Nghị định 53, diễn giải theo Điều 26.3 của Luật An ninh mạng và Điều 26.3 của Nghị định 53; đồng thời cho rằng thời gian lưu trữ dữ liệt ít nhất 24 tháng “có thể khiến quyền riêng tư, an ninh và quyền lợi của các chủ thể liên quan gặp rủi ro”. Thư kiến nghị viết: “Chúng tôi cho rằng vẫn còn nhiều mâu thuẫn tiềm ẩn khác trong các quy định của pháp luật khiến các doanh nghiệp không chắc chắn về quy trình tuân thủ và do đó cần làm rõ thêm”.

Meta và Google chưa phản hồi yêu cầu bình luận của báo chí về Nghị định 53. Đại diện các doanh nghiệp Mỹ kiến nghị rằng chính phủ nên làm rõ quy định về đối tượng áp dụng việc lưu trữ dữ liệu để đảm bảo tính thống nhất giữa nghị định và luật; xem xét quy mô và mức độ hoạt động của doanh nghiệp khi đưa ra yêu cầu về lưu trữ dữ liệu và thành lập chi nhánh hoặc đại diện; giảm thời gian lưu trữ dữ liệu; có một quy trình tham vấn các bên liên quan và các chủ thể dữ liệu để đảm bảo quyền riêng tư.

Tờ Bloomberg nhận định thư kiến nghị của giới doanh nghiệp Mỹ được đưa ra giữa lúc Việt Nam đang tìm cách củng cố sức hấp dẫn như một điểm đến cho đầu tư nước ngoài trong bối cảnh căng thẳng thương mại và địa chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc.

Thủ tướng Phạm Minh Chính nhiều lần phát biểu rằng ông mong muốn các doanh nghiệp công nghệ hàng đầu (Big Tech) hiện diện nhiều hơn nữa tại Việt Nam.

Mặc dù thị trường Việt Nam là nơi có lượng người dùng lớn và tạo doanh thu đáng kể cho cả Google và Meta, nhưng cả hai đều không có văn phòng chính thức tại quốc gia này.

Ngày 15/9, tờ Nikkei Asia có bài viết nhận định yêu cầu lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam không những gây trở ngại cho các công ty Big Tech, đồng thời có thể khiến Hà Nội rơi vào một tình huống vi phạm Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà theo đó các nước ký kết phải bảo vệ cá nhân trong thương mại điện tử, bảo đảm sự tự do luân chuyển thông tin điện tử giữa các thành viên CPTPP, đồng thời bảo đảm quyền tự do kinh doanh của thương nhân mà không hạn chế về nơi đặt trung tâm máy chủ.

Nguồn: TKNB – 19/09/2022

Giao dịch và luật về giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán – Phần cuối


3/ Điều kiện cơ bản để phát triển hoạt động giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán

Sự phát triển cảu giao dịch điện tử trên thế giới làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, để phát triển hoạt động giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán, cần hội tụ đủ các điều kiện sau:

+ Hạ tầng kỹ thuật:

Do sự phụ thuộc vào máy tính ngày càng tăng nên công nghệ thông tin đã trở thành vấn đề chiến lược đối với ngành chứng khoán. Tự động hóa là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh của ngành chứng khoán, đây cũng là phần quan trọng trong cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc quản lý có hiệu quả hoạt động thị trường chứng khoán. Để bắt kịp nhịp độ phát triển của thị trường chứng khoán và tốc độ phát triển nhanh của công nghệ thông tin, hầu hết các quốc gia đã tự động hóa thị trường chứng khoán của mình để đáp ứng các nội dung sau:

Thứ nhất, hệ thống thanh toán điện tử an toàn bảo mật. Thanh toán điện tử qua thẻ, qua tiền điện tử, thanh toán qua EDI. Các ngân hàng phải triển khai hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp. Trình độ phát triển thanh toán của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến quy trình thanh toán của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán. Do vậy, để lựa chọn hình thức thanh toán trong giao dịch điện tử, nhà đầu tư phải lựa chọn ngân hàng có khả năng đầu tư công nghệ thanh toán tiên tiến nhằm giúp nhà đầu tư mở rộng khả năng thanh toán, đồng thời bảo mật các giá trị thanh toán.

Thứ hai, hệ thống cơ sở công nghệ tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán phải hiện đại, nhanh chóng, kịp thời và tin cậy. Hệ thống giao dịch chứng khoán tại các Sở giao dịch chứng khoán cần được tự động hoàn toàn. Hệ thống này có thể áp dụng phương thức khớp lệnh liên tục hoặc khớp lệnh định kỳ, tùy thuộc vào tình hình thực tế về khả năng thanh khoản của thị trường, quy mô luồng lưu chuyển liên tục giữa các lệnh mua và lệnh bán với số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường là nhiều hay ít. Các Sở giao dịch chứng khoán có kết nối mạng diện rộng với các công ty chứng khoán thành viên, bảo đảm giao dịch thông suốt, kịp thời. Bên cạnh đó, hệ thống lưu ký chứ và thanh toán bù trừ chứng khoán cần tự động hóa nhằm giảm thời gian thanh toán xuống còn T+2 (thường áp dụng ở những thị trường phát triển); kết nối mạng giữa các thành viên lưu ký và Trung tâm lưu ký chứng khoán để cung cấp chính xác, kịp thời những thông tin về người sở hữu chứng khoán; Trung tâm lưu ký chứng khoán có thể quản lý tài khoản của từng nhà đầu tư.

Thứ ba, phải có hệ thống an toàn bảo mật cho các giao dịch, chống xâm nhập trái phép, chống virus, chống thất thoát. Vấn đề bảo mật, an ninh trên mạng là một trong những vấn đề nóng hổi trong hoạt động thực tiễn của giao dịch điện tử. Liệu khách hàng có thể tin tưởng vào giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán? Và liệu các nhà cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử có bảo đảm được những thông tin của khách hàng giao dịch an toàn không? Có rất nhiều giải pháp công nghệ và không công nghệ để bảo đảm an toàn, bảo mật trên mạng. Một trong những giải pháp quan trọng ứng dụng trong giao dịch điện tử là sử dụng kỹ thuật mật mã và các giao thức bảo mật.

+ Hạ tầng pháp lý

Thứ nhất, phải có Luật về giao dịch điện tử công nhận tính pháp lý của các chứng từ điện tử, chữ ký điện tử, chữ ký số, các hợp đồng điện tử ký qua mạng; phải có hệ thống chứng thực quốc gia (CA) bởi đây là “cơ sở hạ tầng” cho việc triển khai giao dịch điện tử. Dưới Luật về giao dịch điện tử phải có các văn bản hướng dẫn như nghị định, thông tư và các quyết định, quy chế nhằm quy định chi tiết quy trình, thủ tục giao dịch điện tử riêng trong từng lĩnh vực.

Chữ ký là phương thức phổ biến để ghi nhận tính xác thực của thông tin được chứa đựng trong văn bản. Trong các hoạt động thương mại và quản lý hành chính, chữ ký đóng vai trò quan trọng như một bằng chứng nhằm chứng minh những nội dung đã nêu trong văn bản, hợp đồng là chính xác và đáng tin cậy. Vì vậy, luật pháp điều chỉnh lĩnh vực chữ ký điện tử chủ yếu tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ ký điện tử cho phép các bên không liên quan hoặc có ít thông tin về nhau có thể xác định được độ chính xác của các bên đối tác. Và trong trường hợp này, để xác định được độ tin cậy của chữ ký điện tử, người ta trù liệu đến sự hình thành một cơ quan trung gian (CA) nhằm chứng thực tính xác thực và bảo đảm độ tin cậy của chữ ký điện tử.

Thứ hai phải có luật bảo vệ quyền sở hữu riêng tư, bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ nhà đầu tư… để điều chỉnh các giao dịch qua mạng và các phương tiện điện tử. Cá nhân, tổ chức khi tham gia vào giao dịch điện tử phải được bảo đảm quyền riêng tư: bí mật về loại chứng khoán mua, bán, về thanh toán… mà cả người mua và người bán đều phải tôn trọng. Nguy cơ lộ bí mật riêng tư là rất lớn, các công ty chứng khoán có thể lợi dụng việc nắm các bí mật của khách hàng để lập kế hoạch tự doanh, bán bí mật cho người khác hoặc sử dụng vào các mục đích kiếm lợi khác. Giao dịch điện tử là hình thức giao dịch qua mạng và các phương tiện điện tử nên việc bảo vệ quyền riêng tư là một vấn đề quan trọng đặt ra cho cả khía cạnh pháp lý và công nghệ. Ngoài ra, luật pháp về bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ nhà đầu tư cũng là khía cạnh pháp lý quan trọng, thúc đẩy các bên tham gia giao dịch điện tử có niềm tin vào tính minh bạch và công bằng của thị trường.

Ngoài các điều kiện chung này, trong lĩnh vực chứng khoán, để phát triển giao dịch điện tử còn phải đáp ứng một số điều kiện riêng sau:

+ Thị trường: cần xác định số lượng nhà đầu tư có nhận thức về giao dịch điện tử và tỷ lệ sử dụng Internet. Trong giao dịch điện tử, nhà đầu tư cần có điều kiện tiếp cận Internet, các phương tiện điện tử, các tổ chức cung cấp dịch vụ cần nhận thức được tầm quan trọng của chia sẻ thông tin, phối hợp hoạt động giao dịch điện tử để nâng cao hiệu quả, giảm chi phí, tăng cường năng lực cạnh tranh.

+ Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ: nhận thức của các tổ chức kinh doanh chứng khoán về tầm quan trọng và ý nghĩa sống còn của ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh chứng khoán, đánh giá được lợi ích của đầu tư vào giao dịch điện tử cũng như đánh giá được các nguy cơ, hiểm họa nếu không tham gia giao dịch điện tử.

+ Sự phát triển của các ứng dụng giao dịch điện tử: hầu hết các hoạt động giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán đều có thể ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin, như nghiên cứu thị trường, công bố thông tin; phát hành chứng khoán, quảng cáo; tư vấn đều tư, giao dịch chứng khoán trực tuyến.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn: Phạm Thị Giang Thu, Nguyễn Thu Trang, Nguyễn Ngọc Lương – Pháp luật về giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam – NXB CTQG 2020

Giao dịch và luật về giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán – Phần III


2/ Sự tiện ích và rủi ro của giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán

Giao dịch điện tử ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội vì đó là phương thức giao dịch nhanh nhất, hiệu quả nhất, tận dụng được tối đa mọi nguồn lực. Giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán là kết hợp của những thành tựu khoa học kỹ thuật vào việc kinh doanh chứng khoán, thay thế cho phương thức “gạch và vữa” (brick-and-mortar) truyền thống.

Bằng phương thức giao dịch điện tử, các nhà đầu tư có thể nhận được những lợi ích sau:

+ Giảm chi phí giao dịch: một trong những lợi ích lớn nhất của giao dịch chứng khoán trực tuyến là giảm thiểu chi phí giao dịch. Nếu như theo phương thức truyền thống, nhà đầu tư sẽ phải trả từ 5 đến 9 USD cho việc thực hiện một giao dịch thì với phương thức điện tử, những giao dịch nhỏ sẽ được hưởng một mức phí thấp hơn. Còn với những giao dịch lớn, nhà đầu tư có thể thương lượng với công ty cung cấp dịch vụ để đạt mức chi phí giao dịch rất thấp (có thể chỉ là 0,01% giá trị giao dịch). Nguyên nhân là do hình thức giao dịch điện tử có thể tiết kiệm được những chi phí cố định như tiền thuê văn phòng, thiết bị, giấy tờ, lương nhân viên…

+ Tự kiểm soát lệnh giao dịch: đối với một giao dịch chứng khoán thông thường, nhà đầu tư phải thông qua người môi giới để đặt lệnh. Tuy nhiên, khi sử dụng dịch vụ giao dịch chứng khoán trực tuyến nhà đầu tư có thể tự đặt lệnh mua và bán bất cứ loại cổ phiếu nào mình thích mà không phải đối thoại hay thương lượng với người môi giới chứng khoán, vì vậy làm giảm thiểu những lỗi chủ quan của nhân viên nhập lệnh.

+ Cập nhật thông tin nhanh nhạy: cùng với việc sử dụng các chương trình phần mềm máy tính do công ty chứng khoán cung cấp, nhà đầu tư có thể tra cứu thông tin thị trường, tự sử dụng các biểu đồ phân tích về cổ phiếu, các chỉ dẫn phân tích kỹ thuật và xem các mức giá cổ phiếu ngay tức thì trên bảng hiển thị giá cổ phiếu, các lệnh mua, bán chứng khoán đều được thể hiện trên cùng một màn hình. Các thông tin thị trường rất đa dạng và luôn được cập nhật tức thời trên Internet và các thiết bị không dây. Tất cả những thông tin hỗ trợ trên giúp nhà đầu tư đưa ra những quyết định đầu tư cho mình. Ngoài ra, giao dịch điện tử có thể vượt qua nhiều trở ngại về thời gian và không gian, nhà đầu tư có thể truy cập hệ thống giao dịch 24/24 ở bất cứ nơi đâu.

+ Tiết kiệm thời gian: một trong những nhân tố thiết yếu của giao dịch chứng khoán trực tuyến là việc tiết kiệm thời gian để thực hiện lệnh giao dịch, điều này ảnh hưởng đến việc tạo ra lợi nhuận hay phải chịu thiệt hại cho nhà đầu tư. Trong hệ thống giao dịch thông thường, nhà đầu tư phải gọi điện cho nhà môi giới, hay phải đến tận công ty chứng khoán để đặt lệnh mua, bán cổ phiếu. Nhà môi giới sẽ thông báo cho nhà đầu tư những thông tin về tài khoản, về giá hiện thời của cổ phiếu và nhà đầu tư có thể quyết định mua hoặc không mua loại cổ phiếu đó. Tuy nhiên, đối với giao dịch chứng khoán trực tuyến, nhà đầu tư bằng những thông tin nhận được qua mạng Internet, chỉ cần nhấn chuột vào lệnh mua hoặc bán.

+ Tránh được các xu hướng môi giới: bằng cách tự mình đưa ra các quyết định mua, bán, nhà đầu tư có thể loại bỏ xu hướng môi giới. Bởi trên thực tế, có nhiều trường hợp người môi giới sẽ đưa ra một lời khuyên có lợi cho họ (ví dụ như người môi giới được một công ty hứa chia “hoa hồng” cho mỗi nhà đầu tư mua cổ phiếu của công ty này) và có khả năng lời khuyên này sẽ gây thiệt cho nhà đầu tư. Nhưng khi sử dụng phương thức giao dịch điện tử, nhà đầu tư hoàn toàn có thể tự mình tìm hiểu trước khi ra các quyết định mà không bị ảnh hưởng bởi ý kiến, quan điểm của một bên nào khác.

+ Đa dạng hóa đầu tư: giao dịch điện tử cho phép nhà đầu tư có thể tham gia vào bất kỳ thị trường nào trên thế giới. Do vậy, bằng phương tiện điện tử hiện đại, nhà đầu tư có thể tiến hành đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán phái sinh ở bất cứ Sở giao dịch chứng khoán nào trong phạm vi một quốc gia hoặc trên nhiều quốc gia khác nhau.

Giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán khá đơn giản và thuận tiện nên đã thu hút được lượng lớn nhà đầu tư tham gia vào loại hình giao dịch này. Tuy nhiên, thực tế luôn xuất hiện một rủi ro đối với những người tham gia vào các giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán.

+ Rủi ro về thông tin sai lệch: một trong những rủi ro có thể xuất hiện là những trò lừa đảo thông qua phương tiện điện tử thông dụng (điện thoại, email…). Những kẻ lừa đảo sử dụng các công cụ Internet khác nhau để thực hiện hành vi lừa đảo của họ. Các công cụ đó bao gồm spam (thư rác), chat (hội thoại), thư quảng cáo để gửi tới các nhà đầu tư những thông tin mang tính lừa đảo. Một công cụ khác là việc xây dựng những website mà có giao diện khá phức tạp với nhà đầu tư, và một số nhà đầu tư cho rằng, những website như vậy có độ xác thực cao. Ngoài ra, rất nhiều thư điện tử được tìm thấy trên Internet với nội dung cố gắng thuyết phục người đọc đưa ra quyết định mua nhanh chóng hoặc bán ngay cổ phiếu của họ trước khi giá cổ phiếu đó tăng hoặc giảm. Những người viết những thư điện tử này sư dụng những dữ liệu kinh tế và cổ phiếu danh tiếng để tạo ra sức thuyết phục mạnh mẽ, hoặc họ đưa ra bằng chứng sở hữu thông tin nội gián về loại cổ phiếu đặc biệt nào đó. Mục tiêu của kẻ lừa đảo là kiếm lời dựa trên những nhà đầu tư ngây thơ và cả tin. Sự thực là nếu nhà đầu tư tin vào những điều họ nói thì sẽ bị mất tiền.

+ Rủi ro về thời gian nhập lệnh và khớp lệnh: rủi ro về tốc độ đường truyền tác động đến khả năng thâm nhập vào tài khoản của nhà đầu tư và chuyển lệnh đầu tư, hoặc trong khi truyền tải qua mạng Internet, lệnh giao dịch có thể bị treo, bị ngừng, bị trì hoãn, hoặc có lỗi dữ liệu, hoặc việc nhận dạng các tổ chức hoặc nhà đầu tư có thể không chính xác, hay giá cả thị trường và các thông tin chứng khoán khác có thể có lỗi hoặc sai lệch. Khi đường truyền của nhà cung cấp dịch vụ kém hoặc sử dụng quá tải, nhà đầu tư không thể đăng nhập vào tài khoản của mình hoặc không thể chuyển lệnh mua, bán chứng khoán của mình vào đúng thời điểm cần thiết, hoặc căn cứ trên những thông tin sai lệch do lỗi mạng mà nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư không chính xác. Rủi ro này đôi khi là bất khả kháng, đòi hỏi nhà đầu tư khi lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ phải tìm hiểu kỹ về khả năng, năng lực thực sự của các công ty cung cấp dịch vụ này.

+ Rủi ro về bảo mật: rủi ro là các giao dịch điện tử có thể bị xâm nhập và lộ thông tin bởi những kẻ đột nhập; tuy nhiên, cũng có rất nhiều cách để có thể làm cho các giao dịch điện tử trở nên an toàn. Công nghệ phổ biến nhất được sử dụng để làm cho giao dịch điện tử an toàn là mã hóa. Mã hóa thay đổi các ký tự của giao dịch và do đó chúng không thể đọc được trừ khi có khóa giải mã. Nếu muốn gửi một lệnh điện tử trên Internet hoặc qua điện thoại và muốn bảo đảm rằng bên duy nhất có thể nhận lệnh này là người nhận thì người gửi cung cấp cho người nhận từ khóa. Mã hóa là một phương pháp tin cậy và an toàn để gửi thông tin trên Internet. Các máy chủ và các bộ trình duyệt đều có chương trình mã hóa. Vì vậy, từ khóa được gửi và nhận mà không cần đến sự can thiệp của con người. Tuy nhiên, lỗi về bảo mật cũng vẫn có thể xảy ra.

+ Rủi ro về hành vi đầu tư: nhà đầu tư căn cứ trên những thông tin nhận được qua các nhà cung cấp dịch vụ có thể thực hiện giao dịch quá nhiều, vượt kế hoạch, làm tăng chi phí giao dịch, tăng thuế liên quan… Đây là loại rủi ro chủ quan do chính sự hiểu biết của nhà đầu tư gây nên và đòi hỏi có sự rèn luyện kỹ năng, sự hiểu biết, khả năng kiềm chế của chính nhà đầu tư. Theo nghiên cứu về buôn bán quá mức được công bố trên Tạp chí Addictive Behaviors, các nhà đầu tư thực hiện giao dịch chứng khoán trực tuyến có khả năng bị “nghiện” và coi đầu tư như hành vi đánh bạc.

+ Rủi ro thị trường: giao dịch điện tử làm giảm mức độ tiếp xúc giữa các công ty chứng khoán với các nhà đầu tư, do đó nhà đầu tư dễ gặp phải những rủi ro thị trường. Trong phạm vi giao dịch trực tuyến, những tác nhân thao túng thị trường sẽ dễ gây ra các hành vi gian lận hơn. Khi đó, rất cần tới vai trò quan trọng của các nhà chức trách nhằm thiết lập một thị trường ổn định.

Mạng Internet gần như là yếu tố quyết định cho mọi hình thức thực hiện giao dịch điện tử. Công nghệ càng hiện đại thì giao dịch điện tử càng có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, điều đó cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp sẽ phải tăng chi phí đầu tư cho công nghệ và người sử dụng phải luôn luôn học hỏi để nâng cao kiến thức sử dụng công nghệ.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn: Phạm Thị Giang Thu, Nguyễn Thu Trang, Nguyễn Ngọc Lương – Pháp luật về giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam – NXB CTQG 2020