Theo geopoliticalmonitor.com, Tổng thống Mỹ Joe Biden đón tiếp các nhà lãnh đạo Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) từ ngày 12 – 13/5 tại Washington, báo hiệu nỗ lực của Washington trong việc can dự với châu Á – Thái Bình Dương trong bối cảnh cạnh tranh ảnh hưởng gia tăng với Trung Quốc ở khu vực này.
Trong khi căng thẳng giữa Washington và Bắc Kinh trở nên trầm trọng hơn do việc khởi động một số hiệp định thương mại châu Á. Hội nghị cấp cao đặc biệt Mỹ – ASEAN lần này mang đến cơ hội giúp xác thực Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của chính quyền Mỹ cũng như vạhc ra hướng đi trong tương lai của Mỹ với 10 quốc gia thành viên ASEAN.
Nếu một trong những mục tiêu của việc đăng cai tổ chức hội nghị ASEAN là nhằm đảo bảo sự tham gia của các nước vào một “Trật tự Mỹ đa đối tác ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” hoặc “trật tự quốc tế dựa trên luật lệ” để kiềm chế sức mạnh gia tăng của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông, thì đây có phải là thời điểm tốt để Mỹ tham gia Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Kể từ khi Washington điều chỉnh lại mối quan hệ chính sách đối ngoại của mình với Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) trong một phản ứng tập thể trước cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine, lợi ích của chính quyền Biden và lợi ích của Quốc hội có thể được thực hiện bằng cách đưa ra biểu quyết phê chuẩn UNCLOS – công cụ pháp lý được công nhận để xác định các vấn đề liên quan đến chủ quyền, lãnh hải, các quyền và nghĩa vụ của một quốc gia có biển.
Mặc dù hội nghị cấp cao đặc biệt Mỹ – ASEAN lần này là nhằm giải thích sứ mệnh của Mỹ ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, với mục đích củng cố cam kết tuân thủ luật pháp quốc tế, nhưng việc phê chuẩn UNCLOS sẽ thuyết phục các nước ASEAN rằng Mỹ không chỉ đơn thuần đưa ra những lời hứa suông và những lời ngụy biện địa chính trị.
Các hoạt động gây hấn cũng như việc quân sự hóa các tiền đồn của Trung Quốc ở Biển Đông là đáng lo ngại hơn nhiều so với việc nêu bật sự cần thiết của việc Thượng viện Mỹ phải phê chuẩn UNCLOS. Hai tháng trước, Hạ viện Mỹ đã thông qua “Đạo luật Cạnh tranh Mỹ năm 2022” nhằm tăng khả năng cạnh tranh kinh tế và công nghệ của Mỹ với Trung Quốc.
UNCLOS đã được thông qua vào năm 1982 với 162 quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc và Nga, là các bên ký hiệp ước quản lý các đại dương trên thế giới, trong khi đó Mỹ không tham gia. Những ủng hộ trong quá khứ từ các đời tổng thống Bill Clinton, Geroge W. Bush và Barack Obama đã không thể dẫn đến việc thông qua công ước này.
Một số nhà quan sát chính sách ở Washington không nghĩ rằng nghị quyết gần đây từ Hạ viện Mỹ là có hiệu quả. Ông Gregory Poling, một học giả cấp cao về Đông Nam Á và là Giám đốc Sáng kiến minh bạch hàng hải (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Washington cho biết: “Chính quyèn Biden tỏ ra không quan tâm đến việc xem xét lại công ước này, và ngay cả khi họ làm vậy, nó cũng sẽ bị bác bỏ. Lần cuối cùng có một nỗ lực như vậy là vào năm 2012 khi ông John Kerry đưa vấn đề này ra cho dù ông giữ chức Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện và Đảng Dân chủ chiếm đa số 53 ghế tại Thượng viện”.
Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người ủng hộ lập luận rằng công ước này sẽ tạo thêm đòn bẩy cho Washington trong việc gây áp lực buộc các quốc gia khác phải làm điều tương tự. Hải quân và Cảnh sát biển Mỹ phần lớn tuân theo các quy tắc hàng hải mà công ước này đưa ra.
Đã đến lúc gạt chính trị đảng phái sang một bên và tập trung vào lợi ích quốc gia. Trong khi Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ tiếp tục củng cố quyền tự do ở vùng biển tranh chấp trên Biển Đông, nhưng UNCLOS xác định giới hạn lãnh hải của một quốc gia và thiết lập các quy tắc rõ ràng cho quá trình đi lại qua “các eo biển quốc tế” và “các Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ)”. Với việc phê chuẩn công ước này, Mỹ sẽ có tư cách pháp lý để đưa bất kỳ khiếu nại nào lên cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế và do đó tránh được sự đối đầu có thể xảy ra với lực lượng hải quân và tàu đánh cá bán quân sự của Trung Quốc ở Quần đảo Trường Sa.
Ngày càng có nhiều sự đồng thuận trong giới lãnh đạo Bộ Quốc phòng Mỹ, các giám đốc điều hành Phòng Thương mại Mỹ, các chuyên gia về dầu khí, chính sách đại dương và các nhóm môi trường ủng hộ việc phê chuẩn công ước này tại Thượng viện.
Hiện tại, Mỹ công nhận hầu hết các phần của UNCLOS là luật tập quán quốc tế, nhưng đó là vị trí yếu hơn nhiều so với việc phê chuẩn và là điều khiến Mỹ luôn hứng chịu sự chỉ trích từ Trung Quốc, một bên ký công ước. Đối với nhiều nhà lãnh đạo ASEAN, việc Mỹ không ký UNCLOS sẽ làm suy yếu các cam kết của nước này ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) của Mỹ và các hoạt động đấu tranh, ngăn chặn đánh bắt cá bất hợp pháp, không có báo cáo và không được kiểm soát (IUFF), vốn là những thách thức đối với luật pháp quốc tế, sẽ bị suy yếu do việc không phê chuẩn công ước.
Chính sách đối ngoại của Mỹ đã nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa đa phương và bác bỏ những nỗ lực do Bắc Kinh dẫn đầu nhằm giải quyết các vấn đề lãnh hải trên Biển Đông với các quốc gia Đông Nam Á. Chắc chắn, Mỹ sẽ đánh mất nền tảng đạo đức nếu không phê chuẩn cơ chế toàn diện nhất cho giải pháp đa phương này đối với các tranh chấp hàng hải.
Hơn nữa, công ước này sẽ cung cấp sự hợp tác chính thức với các quốc gia khác, vì hầu hết các đòng minh, láng giềng và bạn bè của Mỹ đều là thành viên của UNCLOS. Câu thần chú chính trị là rất rõ ràng và đơn giản: Mỹ yêu cầu quyền tự do tối đa cho cả tàu hải quân và tàu thương mại di chuyển và hoạt động ngoài khơi bờ biển nước ngoài mà không bị can thiệp.
Mỹ khẳng định quyền tự do hàng hải thông qua luật quốc tế. Việc phê chuẩn UNCLOS sẽ cho phép Mỹ lấy lại vị trí chiến lược đúng đắn của mình ở Thái Bình Dương và biến những lời nói thành hành động.
Cũng giống như thế giới đang theo dõi và chờ đợi hành động và lời nói của Mỹ hội tụ như thế nào để giúp Ukraine, Mỹ cũng bắt buộc phải đưa ra quyết định táo bạo khi phê chuẩn UNCLOS để thể hiện cam kết làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác với các quốc gia Đông Nam Á.
Nguồn: TKNB – 12/05/2022