Sự khác biệt này còn thể hiện ở những cấp độ khác nhau trong cùng một tổ chức. Đối với các nhân viên trẻ, sự tăng lương hoặc được giao phó công việc tốt hơn là phần tưởng thưởng quan trọng, trong khi đối với các nhà quản lý kỳ cựu thì chỉ có sự thăng tiến với phạm vi trách nhiệm lớn hơn mới là điều đáng quan tâm. Được nghe những bí mật của công ty cũng có thể là phần thưởng lớn, trong khi không được nghe có thể là sự trừng phạt cho thấy dấu hiệu của sự “rút phép thông công”. Việc không còn thuộc về một nhóm và không được chia sẻ thông tin rõ ràng là biểu hiện cho thấy một cá nhân đã làm điều gì sai trái.
Nói tóm lại, chế độ khen thưởng và trừng phạt của một tổ chức cùng với các giả định của tổ chức đó về sự ủy quyền và sự thân mật hình thành nên các tiêu chuẩn rộng của văn hóa, theo đó xác định cách thức con người đặt quan hệ với nhau, quản lý sự lo ngại và cho thấy ý nghĩa trong những hành động tương tác hàng ngày. Việc bạn đối xử với sếp và các đồng nghiệp như thế nào, và làm thế nào để bạn biết được là mình làm đúng hay sai là cấp độ thấp nhất trong DNA văn hóa. Vậy nên, một lần nữa, khi tổ chức phát triển thành đa văn hóa, chúng ta sẽ thấy nhiều hệ thống khác nhau va đập vào nhau dẫn đến những cảm xúc tổn thương, xúc phạm, lo ngại và những hành vi sai chức năng cho đến khi nào việc tìm hiểu lẫn nhau trên một hòn đảo văn hóa cho ra sự thấu hiểu và đồng thuận mới.
Quản lý những thứ không thể quản lý được và lý giải những điều không thể lý giải được
Mỗi nhóm đượng nhiên phải đối mặt với một số vấn đề ngoài tầm kiểm soát, những sự kiện thực sự huyền bí, không lường trước được và do đó gây ra sự sợ hãi. Tại cấp độ vật lý, các sự kiện như thiên tai và diễn biến thời tiết cần được giải thích. Tại cấp độ sinh học và xã hội, các sự kiện như sinh sản, trưởng thành, dậy thì, bệnh tật và cái chết đòi hỏi phải đưa ra một lý thuyết giải thích sự việc và nguyên nhân của nó, nhằm tránh nỗi lo ngại và sự vô nghĩa.
Trong một văn hóa vĩ mô dựa nhiều vào lý lẽ và khoa học, người ta có xu hướng coi mọi thứ đều là có thể giải được; sự huyền bí chỉ là những gì chưa được giải thích mà thôi. Nhưng cho đến khi khoa học làm sáng tỏ những sự kiện mà chúng ta không thể kiể soát hoặc không hiểu được, chúng ta vẫn cần những cơ sở thay thế để đặt những sự việc đã diễn ra vào trong một bối cảnh có ý nghĩa của nó. Các niềm tin tôn giáo có thể đem lại những bối cảnh này và có thể biện minh cho các sự kiện mà nếu không giải thích thì chúng dường như vô nghĩa và không hợp lý. Sự mê tín giải thích những gì không thể giải thích được và hướng dẫn việc cần làm, trong những tình huống mơ hồ, không chắc chắn và không muốn có.
Sự mê tín và tính chất hoang đường thường hình thành xoay quanh những sự kiện trọng yếu trong lịch sử của tổ chức, đặc biệt là những sự kiện khó lý giải hay biện minh bởi vì chúng ngoài tầm kiểm soát của tổ chức. Các tổ chức có năng lực phát triển nên thứ tương đương như tôn giáo và/hoặc ý thức hệ trên cơ sở là phương pháp đã được dùng để quản lý những sự kiện trọng yếu trong quá khứ. Sự hoang đường và các câu chuyện hình thành quanh việc thành lập công ty, những thời điểm công ty gặp khó khăn nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến sự sống còn hay khi công ty phát triển bùng nổ khác thường, những thời điểm mà thách thức đối với các giả định cốt lõi đã đem lại lời giải thích mới cho các giả định đó, và những khi công ty có dịch chuyển hoặc thay đổi.
Ví dụ, một số người cộng tác và các nhà quản lý tại DEC đã gắn liền với việc đưa công ty ra khỏi những rắc rối khi có một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Một số quy trình nhất định đã được “thần thánh hóa” thành những con đường thoát hiểm. Một trong số đó là quy trình xây dựng nên nhóm đặc nhiệm được hoàn toàn quyền tự do hành động trong một giai đoạn nhất định. Ý thức hệ về “sự tăng trưởng” đã trở thành một giải pháp hiển nhiên đối với nhiều vấn đề trước mắt và những phản hồi tích cực từ một nhóm nhỏ khách hàng đặc biệt lại là quan trọng hơn so với nhiều dạng thông tin thị trường khác. Đôi khi các nhà tư vấn được đưa vào trong những tổ chức cùng với một niềm tin dạng như: sẽ có một số thứ tích cực diễn ra khi có sự xuất hiện của người ngoài.
Trong nghiên cứu về sự giới thiệu công nghệ máy tính vào nghiệp vụ soi chụp X-quang tại các bệnh viện, Barley (1984a, 1984b) đã quan sát thấy rằng nếu máy tính bị trục trặc vào đúng thời điểm khó chịu nhất, chẳng hạn như đang ở giữa quá trình chụp cho bệnh nhân, nhà kỹ thuật sẽ cố gắng dùng mọi cách để khắc phục, kể cả việc dùng chân đá vào máy. Nếu nó hoạt độnglại, thỉnh thoảng cũng có trường hợp này, nhà kỹ thuật sẽ cẩn thận ghi chép lại những gì mình vừa làm. Khi các kỹ sư đến hiện trường, nhà kỹ thuật mới biết hóa ra mình vừa có những thao tác chẳng liên quan gì đến việc phục hồi hoạt động của máy tính, nhưng “kiến thức” này vẫn được ghi chú vào sổ tay và chuyển đến những đồng nghiệp mới như một phần trong nội dung đào tạo. Xét trên thực tế thì đây là dạng hành vi mê tín, ngay cả trong lĩnh vực đòi hỏi những lý giải logic.
Các câu chuyện và huyền thoại không những giải thích cho những sự việc không lý giải được mà chúng còn tái khẳng định bản thân hình ảnh của công chúng, chủ thuyết của tổ chức đó về việc làm thế nào để công việc trôi chảy, và làm thế nào để quản lý những mối quan hệ nội bộ (Hatch và Schultz, 2004; Pettigrew, 1979; Wilkins, 1983). Ví dụ, có một câu chuyện được lưu truyền rộng rãi về Hewlett-Packard rằng trong giai đoạn suy thoái không có người nào bị sa thải bởi vì các cấp quản lý lẫn những nhân viên làm việc theo giờ đều sẵn lòng làm việc ít thời gian hơn và nhận lương thấp hơn, theo đó công ty có thể giảm bớt chi phí và không cần cắt giảm nhân sự. Bài học rút ra là sự khẳng địnhcác giá trị lớn về con người (Ouchi, 1981). Một câu chuyện tương tự về DEC cũng cho thấy “sự phục hồi” của một kỹ sư chính đã tham gia vào nhiều dự án then chốt của công ty nhưng chúng đều hoàn toàn thất bại. Thay vì sa thải nhân sự, công ty này – củng cố cho giả định rằng nếu ai đó thất bại thì nguyên nhân là sự không phù hợp trong công việc – tìm ra một vị trí công việc mới cho anh ta, từ đó anh ta có thể thành công và trở thành người hùng sau đó. Nằm sâu dưới câu chuyện kia là giả định về sự quan tâm của công ty đến từng cá nhân, và mọi người một khi đã được công ty tuyển dụng đều có năng lực làm việc.
Một câu chuyện khác, trong giai đoạn mới ra đời của DEC, lại kể về một kỹ sư được cử sang vùng Bờ Tây để sửa chữa thiết bị. Anh ta đi chuyến bay đêm và không đủ thời gian để thu xếp quần áo. Công việc mất một tuần, nên anh phải mua quần áo và có quyền yêu cầu công ty thanh toán chi phí này. Khi phòng kế toán từ chối khoản phí, người kỹ sư dọa nghỉ việc. Ken Olsen nghe được thông tin và đã nghiêm khắc trừng phạt phòng kế toán, qua đó khẳng định lại sự ưu ái của công ty đối với các giá trị kỹ thuật và khích lệ cao độ các nhân viên kỹ thuật.
Tóm tất và những kết luận
Mỗi nhóm đều phải học hỏi cách thức để trở thành một nhóm. Quy trình này không phải là tự động diễn ra, mà trong thực tế nó phức tạp và có nhiều khía cạnh khác nhau. Con người, như bản chất của họ, phải xử lý một tập hợp các vấn đề hữu hạn và có thể miêu tả được trong điều kiện nhóm mới thành lập. Tại cấp độ căn bản nhất, họ phải phát triển được một ngôn ngữ chung và hệ thống các loại hạng để xác định rõ ràng về ý nghĩa. Các ngôn ngữ chính thống không thể làm rõ một cách chính xác ý nghĩa của các từ ngữ như làm việc, tinh thần đồng đội, tôn trọng, chất lượng… Các nhóm phải đạt đến sự đồng thuận về những biên giới của mình, ai là “người đằng mình” và ai thuộc về “phía bên kia”. Họ còn phải thống nhất được về cách thức phân bố tầm ảnh hưởng và quyền lực, sao cho sự công kích có thể được lan tỏa một cách tích cực và các vị thế chính thống được ấn định chính xác. Họ phải hình thành nên các nguyên tắc để xác định quan hệ đồng cấp và quan hệ thân mật, sao cho kiểm soát được một cách hiệu quả tình yêu thương và quý mến trong nội bộ. Sự đồng thuận cũng phải đạt được về việc các mối quan hệ có tầm quan trọng như thế nào đối với việc thực thi nhiệm vụ.
Các nhóm phải hình thành được những giả định rõ ràng về phần thưởng và hình phạt, sao cho các thành viên trong nhóm giải mã được việc họ làm. Sau cùng, các nhóm cũng cần phát triển nên các cách lý giải nhằm giúp cho thành viên xử lý được các vấn đề không lường trước được và không lý giải được – chức năng tương đương với tôn giáo và thần học. Các câu chuyện xoay quanh những vấn đề trên mang đến ý nghĩa và cũng là nguồn gốc cho việc khẳng định ý nghĩa nhận diện của tổ chức.
Các giả định được hình thành xung quanh những vấn đề nội bộ – cùng với những giả định về sứ mạng, mục tiêu, phương tiện, tìm kiếm kết quả và cơ chế điều chỉnh – sẽ hình thành nên một tập hợp các khía cạnh mà theo đó chúng ta có thể phân tích và mô tả văn hóa. Chúng không những đúng là những khía cạnh hữu ích đối với chúng ta, mà còn có nhiều lợi thế vì gắn liền với nội dung nghiên cứu về nhóm và cho phép chúng ta bắt đầu hiểu được các động lực cảu văn hóa – các giả định văn hóa được ra đời và phát triển như thế nào.Các khía cạnh này cũng cho thấy các ranh giới thuộc về khái niệm, từ đó chúng ta có thể phân loại các dữ liệu đã quan sát thấy.
Sự lãnh đạo một lần nữa lại trở thành nguồn gốc của các ý tưởng hoặc mô hình hành vi nguyên thủy, chúng sau đó được kiểm chứng bởi môi trường bên trong và bên ngoài. Sự lãnh đạo có thể xuất phát từ bất cứ thành viên nào, nhưng ai đó phải khởi xướng ra một điều gì đó để nhóm sau đó thông qua, hoặc chối bỏ nó. Một vai trò đặc biệt của lãnh đạo chính thức sẽ được nâng lên khi nhóm bắt đầu mang tính chất đa văn hóa xét từ góc độ quốc gia, dân tộc, và nghề nghiệp. Đa văn hóa mang đến các khía cạnh văn hóa vĩ mô bổ sung và sâu sắc hơn.
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Edgar H. Schein – Văn hóa doanh nghiệp và sự lãnh đạo – NXB TĐ 2012.