Godes và Mayzlin đã phân tích những gì đang diễn ra trong các chatroom trên Internet và phát hiện rằng, dù lượng khán giả ban đầu ít đến mức nào, có hai yếu tố truyền miệng trong lần phát sóng của một chương trình đã chứng minh có thể dự đoán về lượng khán giả cuối cùng.
Thứ nhất, số lần nhắc đến một chương trình cụ thể – Mọi người nhắc đến chương trình đó bao nhiêu lần trên các mạng trực tuyến? Và thứ hai, sự phân bổ của những lần đề cập đó – Cuộc thảo luận đó lan rộng đến mức nào? Mặc dù điều này không khiến cho hai nhà nghiên cứu trở nên giàu có (luôn có những mối quan tâm hiển nhiên trong bất kỳ ngành nghề hay lĩnh vực kinh doanh nào về việc đo lường được mọi thứ theo cách mà chúng ta thường làm) nhưng nỗ lực của họ cho thấy rằng truyền miệng là một công cụ dự báo mạnh mẽ về sự thành công tương lai.
Lại một con số đó
Frederick Reichheld, Emritus Fellow of Bain & Co. – người đàn ông mà tạp chí Economist gọi là bậc thầy về quản lý lòng trung thành – có lẽ là một trong những người có trách nhiệm cho sự phát triển của các thước đo về lòng trung thành. Loyalty Rules, cuốn sách đầu tiên của ông, đã tạo ra một phản ứng dây chuyền về việc đo lường lòng tin và phân tích về loại hình mà tôi đã đề cập ở trên.
Nhưng xứng đáng với uy tín của mình, chỉ vài năm sau, Reichheld có thể công nhận sai sót trong các cách đo lường của mình và đặc biệt là thiếu tính thực tiễn. Thay vào đó, ông đưa ra “một con số” được trích ra từ một câu hỏi khảo sát đơn giản – thứ không chỉ khẳng định hiệu quả hoạt động gần đây của một doanh nghiệp (hoặc một trong các đơn vị của nó) mà còn có thể cho biết hiệu quả hoạt động tương lai. Quá đơn giản – về dễ dàng thu thập, phân tích cũng như nắm rõ – thước đo này có giá trị thực tiễn trong phòng họp, cũng như trong các cuộc trao đổi giữa các nhân viên cho đến vị trí tiếp xúc trực tiếp với khách hàng.
Nói theo cách đơn giản nhất, con số của Reichheld là một thước đo về giá trị truyền miệng thực. Qua quá trình thử – sai, ông và nhóm nghiên cứu của mình đã phát triển được một thước đo 11 điểm – từ 0 đến 10 – với 10 là mức cao nhất và 0 là mức thấp nhất (xét về khả năng khách hàng giới thiệu công ty với bạn bè hoặc đồng nghiệp). So với những câu hỏi đơn giản khác mà Reichheld đã thử nghiệm (ví dụ: mức độ tin tưởng của bạn về việc Công ty X xứng đáng với sự trung thành của bạn?), thước đo này đã chứng tỏ là một công cụ dự đoán dễ hiểu nhất và mạnh mẽ nhất về sự phát triển tương lai.
Thiên tài của Reichheld được bộc lộ trong một khuôn khổ phân tích đơn giản và hữu dụng: thay vì sử dụng một điểm trung bình nào đó, ông đề xuất một cách đơn giản để phân tích dữ liệu, lấy cảm hứng từ lần liên hệ của ông với Enterprise Rent-a-car – đơn vị chỉ quan tâm đến dữ liệu khách hàng hài lòng nhất. Theo sự sắp xếp của Reichheld, chỉ có những người đạt điểm 9 hoặc 10 trên thang giới thiệu đơn giản này mới có thể được xem là những khách hàng thật sự hài lòng; họ có nhiều khả năng là “những người quảng bá” về các dịch vụ của công ty. Bất kỳ người nào dưới 7 điểm đều là những khách hàng không hài lòng và sẽ không khen ngợi công ty với cứ ai; trên thực tế, có nhiều khả năng họ sẽ làm điều ngược lại, lan truyền những tin tức không tốt đến bạn bè và đồng nghiệp. Đối với những người thờ ơ (từ 7 đến 8 điểm), ông chọn cách bỏ qua họ.
Từ đây, ông có thể rút ra một con số của mình: “tỷ lệ giới thiệu thực/cuối cùng” (Minh họa 6.3). Đó là, tỷ lệ phần trăm khách hàng có điểm 9 hoặc 10 trừ đi tỷ lệ phần trăm khách hàng có điểm số từ 0 đến 6. Ông đã phát hiện rằng đây là công cụ chỉ báo mạnh mẽ nhất về mức tăng trưởng tài chính trogn tương lai gần không chỉ ở 14 ngành/lĩnh vực đã được đề cập trong nghiên cứu đầu tiên của mình mà ở rất nhiều ngành nghề khác.
Minh họa 6.3: Cách tính toán tỷ lệ giới thiệu thực/cuối cùng của Reichheld.
Dĩ nhiên, vẫn còn nhiều trường hợp ngoại lệ – một thị trường độc quyền sẽ không thể phát triển bằng những biện pháp tương tự; mặt khác, một số khác lại bị thúc đẩy bởi các yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường thay vì các công ty đơn lẻ. Nhưng một lần nữa, một con số (the one number) thể hiện mối tương quan rất cao với mức tăng trưởng và hiệu quả tài chính trong hầu hết các trường hợp.
Nhiều thách thức đã đặt ra đối với công trình nghiên cứu của Reichheld trong những năm gần đây nhưng nếu xem xét kỹ, không có thách thức nào thật sự gây ảnh hưởng đáng kể. Thứ nhất, nước Mỹ có một nền văn hóa thích phàn nàn – do đó những lời đề cập tiêu cực trở nên phổ biến và làm ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ giới thiệu thực tế. Mặc dù sự khẳng định về yếu tố văn hóa trên vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng có ít bằng chứng cho thấy được tầm quan trọng của nó đối với thước đo này. Reichheld và nhóm nghiên cứu của ông đã lặp lại nghiên cứu bên ngoài nước Mỹ, và Paul Marsden của Trường Kinh tế London đã chứng tỏ rằng thước đo này cũng phát huy tác dụng ở Anh.
Thứ hai, một con số đó không thể cung cấp dữ liệu có tính thực tiễn – nhiều nhà nghiên cứu thị trường sẽ cho rằng thước đo này quá đơn giản đến mức không thể đưa ra bất kỳ sự hỗ trợ nào về mặt dự đoán. Reichheld hoàn toàn hiểu rõ điều này. Nó không nói với bạn nên làm gì mà chỉ cho bạn biết cần đào sâu nghiên cứu ở vị trí nào. Ông đặc biệt nhắc đến cả hai trong bài viết đầu tiên của mình trên Harvard Business Review và trong cuốn sách tiếp sau đó về lý thuyết một con số (one number theory) với nhiều câu hỏi phán đoán khác có thể được bổ sung (nhưng ông cảnh báo về độ dài đáng bực mình của các cuộc khảo sát về mức độ hài lòng của khách hàng cũng như bản chất tự tư tự lợi của quá nhiều dữ liệu theo kiểu silo trong kinh doanh – tất cả chúng ta đều biết rằng bộ phận tiếp thị thích đo lường những điều họ muốn, cả các trung tâm hỗ trợ khách hàng cũng như bộ phận nhân sự. Nếu bạn để những bộ phận này tự hoạt động với những công cụ riêng, họ sẽ tạo thêm nhiều thước đo vi mô khác – những thứ không giúp gì cho việc hiểu được cách thức hoạt động của doanh nghiệp cũng như vị trí mà nó muốn hướng tới).
Reichheld luôn khẳng định về tính hữu dụng của dữ liệu, cả trong phòng họp lẫn ở vị trí tiếp xúc với khách hàng. Một mặt, thước đó đơn giản này cho thấy mức độ tác động của tất cả những nỗ lực trước đây của bạn đối với cơ chế hoạt động ẩn đằng sau hành vi đám đông. Mặt khác, theo cách nói của một hãng bán xe hơi, việc cho rằng “chúng tôi cần tạo ra càng nhiều người quảng bá và càng ít người gièm pha” sẽ dễ hiểu hơn nhiều so với “chúng tôi cần thay đổi các điểm số hài lòng của khách hàng ít nhất là một độ lệch chuẩn”.
Một con số trong thực tiễn
Một con số có ý nghĩa rất quan trọng đối với những ai tin vào lý thuyết bầy đàn của hành vi đám đông. Nó tập trung vào cơ chế chính của hành vi đám đông (sự tương tác và ảnh hưởn giữa khách hàng với khách hàng) và giúp chúng ta định hướng toàn doanh nghiệp cũng như mọi hoạt động xoay quanh cơ chế mấu chốt này. Hơn nữa, nó xem C2C như kết quả của tất cả các hoạt động của một công ty chứ không chỉ những thứ gây ra “tiếng ồn” – mặc dù nó có thể và nên được sử dụng một cách thật hiệu quả để đo lường những thay đổi thực tế về tỷ lệ giới thiệu được tạo ra từ hạot động tiếp thị ngoại sinh – nó giúp ta có được một công cụ chỉ báo đơn giản và hữu ích để biết được thành công chung và tương lai của mình với tư cách một doanh nghiệp.
Tóm tắt
Truyền miệng là hình thức gây ảnh hưởng rõ ràng và dễ đánh giá nhất giữa những người đồng trang lứa. Khi niềm tin của chúng ta vào các nguồn thông tin truyền thống và các cơ quan có thẩm quyền bị suy giảm, vai trò quan trọng tương đối của nó (như một nguồn gây ảnh hưởng) đã trở nên rõ ràng hơn. Nhưng không thể nói rằng nó là một hiện tượng mới. WoM luôn có sức ảnh hưởng rất mạnh mẽ, chỉ là vì chúng ta không nhận thấy mà thôi. Nó là một hiện tượng mang tính toàn cầu chứ không chỉ xảy ra ở Mỹ. Nó diễn ra khắp các chủng loại sản phẩm và ngành nghề. Và nó trở thành một công cụ đo lường thật sự hữu ích đối với tất cả mọi hoạt động kinh doanh – một công cụ đơn giản, thiết thực và hữu ích. Nhưng cái bẫy mà các doanh nghiệp áp dụng WoM gặp phải là hầu hết đều tập trung vào WoM gnoại sinh: tức là WoM được tạo ra bởi hoạt động WoM riêng lẻ. Trong khi hoạt động có tác dụng thật sự chính là WoM nội sinh, thứ được hình thành từ chính hệ thống xã hội xoay quanh sản phẩm, công ty hoặc chiến dịch của bạn. Điều này khó có thể giả mạo, nhưng cũng khó tránh được nếu bạn thực hiện mọi việc theo đúng quy trình của nó.
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Mark Earls – Tâm lý bầy đàn – NXB TH TPHCM 2012