Hướng tới một hội đồng quản trị và đội ngũ điều hành cấp cao am hiểu số – Phần II


Ở đa số các công ty, đội ngũ điều hành đang bị cuốn vào các hoạt động kinh doanh và chỉ những lý lẽ thuyết phục mới khiến họ dành thời gian cho việc đào tạo. Vì sao GE đã làm được? Đây là câu trả lời của Krishanmoorthy:

Kỷ nguyên số đang dẫn chúng tôi tới điểm gấp khúc trong đồ thị phát triển với tốc độ nhanh hơn nhiều so với trước đây. Đồ thị bắt đầu gập xuống và chúng tôi cần đảm bảo rằng tốc độ thay đổi ở bên trong tổ chức theo kịp hoặc ở một số trường hợp đi trước, đón đầu sự thay đổi bên ngoài. Nếu không làm như vậy, bạn sẽ luôn phải chạy theo thay vì dẫn dắt sự thay đổi. Đây là cú hích mạnh mẽ nhất mà chúng tôi đã trải nghiệm về việc các trụ cột văn hóa trong công ty này cần được điều chỉnh theo những thay đổi đang diễn ra bên ngoài.

Lý do khiến đội ngũ lãnh đạo tại GE ủy thác cho Krishnamoorthy nhiệm vụ làm mới cách họ tư duy là vì họ biết rằng phải thay đổi từ trên xuống nếu muốn thế hệ lãnh đạo kế cận gặt hái thành công. Họ giao nhiệm vụ cho một nhóm nhân viên thế hệ millennials, còn gọi là nhóm Định hướng Toàn cầu Mới để xác định loại văn hóa tổ chức mà công ty cần xyâ dựng trong tương lai. “Nhóm này cho chúng tôi biết họ đã sẵn sàng cho một mô hình tổ chức theo hàng ngang, linh hoạt, “kết nối và truyền cảm hứng” thay vì mô hình kiểu “mệnh lệnh và kiểm soát” đặc trưng cho thế hệ già nua. Chúng tôi cần phi tập trung và tinh gọn hơn để các đơn vị được trao quyền trong kinh doanh và thẩm quyền được trao về đúng cấp thực thi”. Krishnamoorthy đã viết như thế trong một bài viết trên Harvard Business Review.

Có thể bạn sẽ dừng ý định hủy bỏ phương thức quản trị từ trên xuống vì cách này quá lạ lẫm so với tổ chức của bạn. Sau tất cả, thật lạ lùng, GE vẫn luôn nổi tiếng về cách tư duy đa cấp độ đối với các phương pháp quản trị mới cũng như cách ứng dụng chúng. Tuy nhiên, các hội đồng quản trị đang đặt ra yêu cầu thay đổi sâu sắc đối với các CEOs. Như Maurice Levy tại Publicis chia sẻ với chúng tôi: “Tôi biết thành viên của nhiều hội đồng quản trị đang thúc giục CEO đẩy mạnh tiến tới số hơn. Một vị CEO thường xuyên gọi điện cho tôi và nói: “Maurice, tôi có cuộc họp hội đồng quản trị. Họ đang ép tôi làm việc này, anh có thể xem giúp tôi bài trình bày được không”. Điều này giờ đây đã thực sự thay đổi”.

Mỗi lãnh đạo cần trở thành nhà lãnh đạo số

Mỗi lãnh đạo cần trở thành một nhà lãnh đạo số vì nhìn chung, mỗi công ty đang biến đổi thành một công ty công nghệ – chỉ là ở các mức độ khác nhau mà thôi. Sự thay đổi này diễn ra như để đáp ứng lại với thời điểm và sự xuất hiện của cái gọi là điểm bùng phát trong các không gian thị trường đặc biệt. Quicken Loans chính là một hình mẫu về việc văn hóa định hướng số được hình thành trong tổ chức ngay từ sớm. Quicken Loans không được sinh ra trên mạng Internet, nhưng công ty tiền nhiệm của nó được Intuit – nhà sản xuất những phần mềm quá phổ biến như TurboTax và QuickBooks mua lại trong những năm bùng nổ làn sóng dot-com. Kể từ khi được nhà sáng lập đầu tiên mua lại vào năm 2002, Quicken Loans đã xác định chỉ tập trung vào mảng cho vay trực tuyến và chiến lược của kỷ nguyên Internet. Ngày nay họ là công ty cho vay thế chấp lớn thứ hai ở Mỹ, với dư nợ thế chấp đạt 140 tỷ USD tại thị trường Mỹ trong năm 2013 – 2014. Trong 5 năm liên tiếp, họ được xếp hạng cao nhất trong những đợt khảo sát mức độ hài lòng khách hàng do J.D. Power thực hiện, nhờ vào các dịch vụ dựa trên công nghệ của họ và một phần vì họ đứng đầu ngành về thời gian quay vòng ngắn nhất để chốt một khoản vay mới.

Longlong He – CIO của Quicken nói rằng Quicken Loans là một công ty công nghệ với khả năng vượt trội ở mảng cho vay thế chấp. Cô mô tả mô hình tư duy giúp Amazon cải tổ ngành kinh doanh sách, Netflix tái định hình ngành cho cho thuê băng đĩa video theo hướng điều chỉnh số, và thảo luận cách mà Quicken có thể số hóa quy trình cho vay với hiệu quả cao nhất thị trường. Để làm được việc này, Longlong He không ngừng tự so sánh mình và năng lực của Quicken Loans với các công ty công nghệ thuần chủng khác. Cô nuôi dưỡng một văn hóa số rất giống với loại văn hóa tổ chức phổ biến ở Thung lũng Silicon, nhưng ở một nơi hoàn toàn khác – khu trung tâm Detroit. Và bạn có thể lặp lại điều này bất cứ nơi đâu, vì vấn đề nằm ở tư duy chứ không phải địa điểm.

Tư duy về doanh nghiệp của mình như một công ty công nghệ và nâng cao mức độ am hiểu số là một xu hướng gia tăng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp. Jeff Immelt – CEO của GE đã phát biểu: “Chúng tôi tin rằng mỗi công ty công nghiệp sẽ trở thành một công ty phần mềm”. Mike Bracken, trưởng ban số của Chính phủ Anh đã đưa ra tuyên bố “Số bởi Mặc định” chỉ ra cách mà các dịch vụ công cần phải được triển khai. Nếu muốn các lãnh đạo khác tham gia vào hành trình với niềm tin như đề cập ở các ví dụ trên, tốt hơn cả là nên xuất phát từ chính cấp độ lãnh đạo cao nhất của tổ chức.

Bắt đầu với hội đồng quản trị

Một cuộc khảo sát do Gartner thực hiện với các thành viên hội đồng quản trị năm 2014 cho thấy hơn một nửa số thành viên các hội đồng tham gia trực tiếp vào các sáng kiến kinh doanh số. Tuy nhiên, số không tham gia hoặc tham gia ở mức độ hạn chế cũng khá nhiều. Vậy bạn có thể thay đổi thái độ của một hội đồng quản trị đang ngủ quên để họ thức tỉnh như thế nào?

Ken Daly đã dành toàn bộ sự nghiệp của mình làm việc cùng hoặc quan sát các hội đồng quản trị, ban đầu là đối tác kiểm toán và trưởng bộ phận quản trị rủi ro tại KPMG và gần đây là CEO của Hiệp hội quốc gia các giám đốc doanh nghiệp (NACD). Ông đã điều trần trước quốc hội về tác động của Dodd-Frank và thường được Wall Street Journal, New York Times cùng những tờ báo khác đề nghị đưa ra quan điểm về các xu hướng liên quan đến hội đồng quản trị hiện đại. Daly phát hiện một vài yếu tố đóng vai trò xúc tác cho quá trình thay đổi tinh thần làm việc của hội đồng quản trị khi chuyển sang phương thức số. Đầu tiên là những mối đe dọa trên mạng “An ninh mạng chắc chắn là điều khiến mọi người, đặc biệt là những lãnh đạo cấp cao nhất cảm thấy lo ngại. Tôi nghĩ rằng hội đồng quản trị không chỉ thay đổi quan điểm mà một số hội đồng đã có thái độ rất chủ động về vấn đề này”, Daly nói.

Mặc dù các rủi ro về an ninh mạng có thể dẫn đến một khả năng tiêu cực thay vì tích cực, nhưng vì nó là tiếng chuông cảnh tỉnh, do vậy bất cứ ai tìm cách mở rộng nội dung đối thoại của hội đồng quản trị về kinh doanh số đều có thể bắt đầu từ chủ đề này. Tuy nhiên, theo Daly, an ninh mạng không chỉ là một vấn đề của doanh nghiệp. “Tôi nghĩ rằng điểm bùng phát ở đây là nhiều giám đốc đã trở thành đối tượng bị tấn công mạng hoặc là nạn nhân của các vụ việc khác khiến cho vấn đề mang nặng tính cá nhân”, và những hệ lụy mang tính cá nhân cũng như các tổ chức – đóng vai trò chủ đạo khiến các giám đốc suy nghĩ nghiêm túc hơn về kinh doanh số. Đầu tiên, hãy cân nhắc tư vấn riêng cho từng giám đốc về cách đảm bảo an toàn trên không gian mạng, sau đó mới mở rộng các nội dung trao đổi.

Một yếu tố khác khiến các giám đốc thay đổi tầm nhìn là việc họ sử dụng thiết bị di động và cách mà nó đang len lỏi vào cuộc sống và gia đình cảu họ. Những thiết bị này có thể tạo ra một cơ hội lớn gây ảnh hưởng. Daly cho rằng: “Việc mọi giám đốc đều sử dụng iPhone và iPad cho thấy họ nhận thức rõ về quá trình số hóa mọi thức trong cuộc sống hàng ngày”. Hãy nhìn vào cơ hội bạn được trao: những thiết bị này chính là một “kênh” truyền thông tới hội đồng quản trị. Bạn có thể đưa nội dung nào vào kênh đó để bắt đầu tác động tới cách hội đồng quản trị tư duy về số?

Hãy nhìn vào bức tranh tổng thể

Tận dụng các cơ hội đối thoại dù là nhỏ – về thành công trên khái cạnh thương mại của ứng dụng di động ưa thích nhất của họ như Uber – để mở rộng ra những vấn đề tổng thể, ví dụ vận hành trong một bối cảnh bất ổn kỹ thuật số mang lại ý nghĩa gì, ranh giới giữa các ngành công nghiệp đang bị xóa nhòa thế nào, và các sản phẩm cũng như các năng lực cốt lõi của bạn cần phải thay đổi thế nào. Các hội đồng quản trị vượt ra khỏi những nội dung thảo luận đang gia tăng về an ninh mạng và ứng dụng di động thế nào để bàn tới các nội dung có tính chiến lược hơn? Daly cho rằng việc tìm kiếm các cơ hội lớn hơn trong bối cảnh kỹ thuật số còn phụ thuộc vào loại hình công ty:

Yếu tố chìa khóa thành công là lúc công ty nắm lấy những cơ hội khôn ngoan trong khi vẫn tạo ra lợi nhuận và có nguồn vốn dồi dào. GE đã là công ty như thế. 3M cũng vậy. Nhưng cũng có những công ty, do nhiều lý do, đa phần liên quan đến chính trị, không thể làm như vậy. Đó là câu chuyện của Kodak. Những người chịu trách nhiệm về những nguồn thu truyền thống không thực sự muốn các bộ phận khác nhau trong công ty phát triển, trái lại họ bóp nghẹt sự tăng trưởng. Tôi nghĩ rằng đó là một ví dụ điển hình về việc bạn cần tránh đi theo vết xe đổ.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Mark Raskino & Graham Waller – Digital to the core/Chuyển đổi số đến cốt lõi – Bản tiếng Anh 2015/ Bản tiếng Việt – NXB TT&TT 2020

“Thống nhất suy nghĩ và hành động”: Đại chiến lược và trật tự bá quyền – Phần II


Nhìn chung, các cách tiếp cận đặt ra một số câu hỏi quan trọng được liệt kê trong Bảng 1 nhằm xác định đại chiến lược của Trung Quốc. Giáo sư Barry Posen của Học viện Công nghệ Massachusetts từng nói rằng, để tìm ra đại chiến lược, chúng ta phải “thống nhất trong suy nghĩ và hành động” và các câu hỏi dưới đây giúp định hình cách xác định này.

Bảng 1: Các câu hỏi để xác định đại chiến lược

Xác định đại chiến lược: Các câu hỏi chính
Các nội hàm (Các văn bản)1. Mục tiêu: Liệu có một quan điểm nhất quán cho rằng trong số các mối đe dọa mà một quốc gia phải đối mặt, thì các mối đe dọa an ninh nào là quan trọng nhất hoặc cơ bản nhất?
2. Cách thức: Liệu có một tập hợp nhất quán các quan điểm về việc làm thế nào để giải quyết các mối đe dọa quan trọng hoặc cơ bản này trong các văn bản cốt lõi?
3. Phương tiện: Liệu có một lý thuyết về vai trò của từng biện pháp quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước để xử lý mối đe dọa an ninh cụ thể trong các văn bản cốt lõi?
Năng lực (Các thể chế)4. Sự điều phối: Liệu chúng ta có tìm ra bằng chứng cho thấy các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng các thể chế mang tính quan liêu để điều phối nhiều công cụ quản lý nhà nước?
5. Sự tự chủ: Các thể chế chính sách đối ngoại và nhà nước có mức độ tự chủ đối với xã hội và các lực lượng khác nhau ở trong nước liệu có thể thay thế đại chiến lược.
Triển khai (Hành vi)6. Sự biến đổi trong phạm vi các phương tiện: Liệu lý thuyết của chúng ta về đại chiến lược của một quốc gia nhất định có giải thích được sự thay đổi hành vi trong các lĩnh vực chính sách cụ thể tốt hơn các lý thuyết phổ biến về hành vi của nhà nước trong các lĩnh vực đó không?
7. Sự biến đổi giữa các phương tiện: Liệu lý thuyết của chúng ta về đại chiến lược của một quốc gia nhất định có thể áp dụng không chỉ cho một mà cho nhiều lĩnh vực chính sách như quân sự, kinh tế và chính trị?
8. Sự biến đổi đã được đồng bộ hóa: Khi đại chiến lược thay đổi, liệu chúng ta có nhận thấy sự thay đổi trong hành vi đã được đồng bộ hóa giữa một trong ba phương tiện thực thi hoạt động quản lý nhà nước nói trên?

Bên cạnh đó, những câu hỏi này không chỉ hỗ trợ xác định liệu một đại chiến lược có tồn tại hay không, mà còn giúp xác định nó là gì cũng như khi nàotại sao nó thay đổi. Đại chiến lược thường rất hiếm gặp và những thay đổi trong đại chiến lược còn hiếm gặp hơn nữa. Học giả Daniel Drezner của Đại học Tufts lưu ý rằng, thay đổi đại chiến lược “giống như cố gắng bắt một tầu sân bay quay đầu: tốt nhất là nó nên diễn ra từ từ”, để “đại chiến lược là một hằng số thay vì một biến số”. Tính “kết dính” torng đại chiến lược của quốc gia đến từ cả yếu tố tâm lý và tính tổ chức. Nghiên cứu tâm lý học cho thấy, “mọi người không sẵn sàng thay đổi niềm tin của họ về thế giới và không dễ dàng đối mặt với sia lầm của chính mình”, và “một khi họ đã cam kết với một quan điểm, nhận định hoặc hành động cụ thể, thì rất khó để thay đổi suy nghĩ của họ”. Nghiên cứu về tính tổ chức phát hiện ra rằng, “những hạn chế về nguồn lực, chi phí giao dịch, chính trị nội bộ và môi trường trong nước”, kết hợp với các quy tắc chính thức và quy trình vận hành tiêu chuẩn, cùng giúp giải thích “tại sao những nhà hoạch định chính sách thường cảm thấy áp lực để tránh không đi chệch hướng khỏi nguyên trạng”. Những yếu tố này kết hợp với nhau sẽ tạo nên một đại chiến lược.

Nếu các đại chiến lược có tính “kết dính” thì điều gì khiến chúng thay đổi? Tôi lập luận rằng, các đại chiến lược phụ thuộc vào nhận thức về quyền lực và mối đe dọa, và sự thay đổi về nhận thức “được thúc đẩy nhiều hơn bởi các sự kiện, đặc biệt là các cú sốc, hơn là các biện pháp thống kê”, giống như sự thay đổi dần dần của tỷ lệ tăng trưởng GDP hoặc quy mô của các hạm đội tàu chiến. Bằng cách so sánh các mô tả về quyền lực và mối đe dọa trong các văn bản của Trung Quốc trước và sau khi xảy ra các cú sốc về chính sách đối ngoại như sự kiện Thiên An Môn, chiến tranh vùng Vịnh, sự tan rã của Liên Xô và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,… ta có thể xác định liệu nhận thức về quyền lực và mối đe dọa có thay đổi, và điều này cũng sẽ dẫn đến sự điều chỉnh về chiến lược hay không.

Tranh đấu để tạo dựng trật tự

Khi sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng trong vài năm trở lại đây, một số nhà hoạch định chính sách và học giả thường xuyên đặt lại câu hỏi: “Cuộc cạnh tranh này là vì điều gì?”. Tôi cho rằng, cạnh tranh Mỹ – Trung xoay quanh vấn đề ai sẽ lãnh đạo trật tự khu vực và toàn cầu.

Mặc dù các học giả chuyên ngành quan hệ quốc tế thường cho rằng thế giới là vô chính phủ, nhưng thực tế, thế giới thường mang tính thứ bậc, trong đó một số quốc gia sử dụng quyền lực đối với các quốc gia khác. Số lượng, phạm vi và mật độ của các mối quan hệ thứ bậc này tạo ra trật tự, hoặc “các quy tắc và dàn xếp giữa các quốc gia” có thể chi phối cả hành vi bên trong và bên ngoài của họ. Trong một trật tự bá quyền, quốc gia ưu việt hơn sẽ ưu tiên “sử dụng quyền lãnh đạo của mình” cao nhất trong hệ thống thứ bậc để cơ cấu mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau và trong phạm vi các quốc gia. Các trật tự bá quyền bao hàm khái niệm mà Giáo sư Robert Gilpin của Đại học Princeton gọi là một số “hình thức kiểm soát” của một quốc gia thống trị để quản lý các quốc gia dưới quyền, và việc kiểm soát đó thường bao hàm sự kết hợp năng lực gây sức ép (để bắt buộc tuân thủ), thu phục (để thuyết phục tuân thủ) và tạo tính chính danh (để sử dụng quyền lực lãnh đạo hợp pháp).

Việc gây sức ép xuất phát từ mối đe dọa trừng phạt. Năng lực gây sức ép có thể xuất phát từ sức mạnh quân sự của một quốc gia hoặc sức mạnh cấu trúc quốc gia đó đối với các lĩnh vực quan trọng của hệ thống, bao gồm tiền tệ, thương mại và công nghệ,… Thu phục là khả năng khuyến khích hoặc thậm chí “mua chuộc” sự hợp tác thông qua giao kèo hoặc cám dỗ cùng có lợi. Điều này thường bao hàm các cơ hội được phát ngôn, bảo đảm an ninh, cung cấp lợi ích chung hoặc riêng, hoặc thu hút nhóm tinh hoa. Cuối cùng, tạo tính chính danh là năng lực chỉ huy có được nhờ đặc tính hoặc hệ tư tưởng của quốc gia thống trị. Tính chính danh có thể xuất phát từ mối quan hệ về tư tưởng, vốn biểu tượng, hoặc các nguồn lực khác và có thể hoạt động như một loại quyền lực. Ví dụ, nhiều thế kỷ trước, do vai trò tín ngưỡng của mình mà Vatican vẫn có thể chỉ huy các quốc gia cho dù không sử dụng nhiều sức mạnh vật chất. Sự kết hợp khả năng gây sức ép, thu phục và tạo tính chính danh đã bảo đảm sự tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia trong trật tự.

Sự kết hợp này hiếm khi tạo nên sự đồng nhất và do đó, các trật tự bá quyền có thể thay đổi về nội dung và phạm vi địa lý. Một số hình thức của trật tự như đế chế thường dựa nhiều hơn vào việc gây sức ép; những hình thức khác như trật tự tự do của Mỹ nhấn mạnh đến sự thu phục và tính chính danh. Đa số các trật tự sẽ mạnh hơn ở một số khu vực so với những khu vực khác, và cuối cùng, hầu hết đều phải đối mặt với những thách thức cạnh tranh có thể khiến các trật tự này thay đổi.

Trật tự thay đổi như thế nào là một câu hỏi đã có từ lâu, song vẫn là một câu hỏi phù hợp trong bối cảnh ngày nay. Các trật tự bá quyền giống trật tự do Mỹ dẫn dắt hiện nay được cho là đã thay đổi một cách cơ bản thông qua chiến tranh quy mô lớn giữa các cường quốc cùng với các cuộc xung đột như Chiến tranh thế giới thứ hai đã khép lại một trật tự cũ và mở ra một trật tự mới. Ngày nay, chiến tranh giữa các cường quốc ít có khả năng xảy ra hơn so với trước đây do khả năng răn đe hạt nhân, điều này khiến một số người lầm tưởng rằng trật tự hiện tại về cơ  bản là ổn định. Quan điểm đó đã đánh giá thấp bản chất cạnh tranh giữa các nước lớn trong thời bình và khả năng thay đổi trật tự trong bối cảnh “xung đột ngầm” mà không cần tới chiến tranh. Các trật tự có thể thay đổi một cách hòa bình khi các hình thức kiểm soát gồm năng lực gây sức ép, thu phục và tạo tính chính danh bị suy yếu, đồng thời các trật tự này có thể cường thịnh khi các hình thức kiểm soát này được củng cố. Những quá trình này có thể xảy ra từ từ hoặc cùng lúc, nhưng giống như sự tan vỡ tương đối hòa bình của Liên Xô, không nên để xảy ra chiến tranh.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Rush Doshi – Cuộc chiến dài hơi, đại chiến lược của Trung Quốc nhằm thay đổi trật tự của Mỹ – NXB CTQGST 2022

Trung Quốc gây ảnh hưởng đến bầu cử Canada như thế nào? – Phần cuối


Trung Quốc muốn có được sự công nhận của nước ngoài về các tuyên bố của nước này đối với Đài Loan, hòn đảo tự trị mà Trung Quốc coi là một tỉnh ly khai và vẫn bảo lưu quyền sáp nhập bằng vũ lực. Và nước này cũng tìm cách làm giảm các cáo buộc về vi phạm ở Tân Cương, khu vực mà văn phòng cựu Ủy viên nhân quyền Liên hợp quốc Michelle Bachelet năm ngoái cho rằng Trung Quốc đã có “những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng” trong khu vực, có thể dẫn đến tội ác chống lại loài người. Tương tự, Trung Quốc muốn tạo sự ủng hộ cho luật an ninh quốc gia hà khắc năm 2020 nhằm bịt miệng phe đối lập và bất đồng chính kiến ở Hong Kong, thuộc địa cũ của Anh mà Bắc Kinh từng hứa sẽ được phép duy trì các quyền tự do dân sự kiểu phương Tây trong 50 năm. Bắc Kinh cũng tìm cách dập tắt sự ủng hộ của nước ngoài đối với Tây Tạng, khu vực mà Trung Quốc đã xâm chiếm và sáp nhập hơn 70 năm trước, đồng thời ngăn cản sự phản đối việc Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông và các yêu sách trên biển sâu rộng trong khu vực.

Một tháng sau cuộc bỏ phiếu vào tháng 9/2021, CSIS đã báo cáo rằng “cộng đồng người Canada gốc Hoa ở British Columbia” đã biết rõ rằng bà Đồng Hiểu Linh, khi đó là Tổng lãnh sự tại Vancouver, “muốn đảng Tự do giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2021”. CSIS lưu ý rằng bà Đồng, người đã trở lại Trung Quốc vào tháng 7/2022 và cựu nhân viên lãnh sự Vương Tiến đã thực hiện “những nỗ lực kín đáo và tinh tế” để khuyến khích các thành viên của các tổ chức Canada gốc Hoa tập hợp phiếu bầu cho đảng Tự do và đánh bại các ứng cử viên đảng Bảo thủ. Vương Tiến có quan hệ trực tiếp với Ban công tác mặt trận thống nhất (UFWD) của Đảng Cộng sản Trung Quốc, một tổ chức rộng lớn sử dụng các hoạt động chủ yếu là bí mật và thường là thao túng để gây ảnh hưởng đến các cộng đồng người Hoa ở hải ngoại và các ch1inh phủ nước ngoài. Ông Vương đóng vai trò trung gian giữa UFWD và các nhà lãnh đạo cộng đồng người Canada gốc Hoa ở Bristish Columbia.

Theo báo cáo của CSIS vào đầu tháng 11/2021, bà Đồng đã thảo luận về thất bại của thành viên đảng Bảo thủ Kenny Chiu ở khu vực Vancouver. Ông Chiu là mục tiêu trả đũa vì những lời chỉ trích đối với việc Trung Quốc đàn áp ở Hong Kong và dự luật năm 2021 của ông nhằm thành lập cơ quan kiểm soát các đặc vụ nước ngoài, một nỗ lực lấy cảm hứng từ luật tương tự của Australia nhằm chống lại sự can thiệp của nước ngoài. Ông Chiu, người được bầu làm đại diện cho khu vực Steveston-Richmond East vào năm 2019, đã thua trong cuộc bầu cử liên bang năm 2021 trước ứng cử viên đảng Tự do Parm Bains và được nhhiều người cho là nạn nhân của một chiến dịch tung tin sai lệch trực tuyến do Bắc Kinh lãnh đạo.

Theo CSIS, bà Đồng đã nói về những nỗ lực của Trung Quốc nhằm gây ảnh hưởng đến cử tri Canada gốc Hoa đại lục chống lại đảng Bảo thủ. Thất bại của ông Chiu đã chứng tỏ “chiến lược và chiến thuật của họ tốt, góp phần đạt được mục tiêu trong khi vẫn tuân thủ các quy định chính trị địa phương một cách tài tình”. Vào giữa tháng 11/2022, CSIS đã báo cáo rằng một quan chức lãnh sự Trung Quốc giấu tên đã cho biết sự ra đi của ông Chiu và nghị sĩ đảng Bảo thủ Alice Wong đã chứng minh ảnh hưởng đến bầu cử ngày càng tăng của người Canada gốc Hoa đại lục.

Cựu lãnh đạo đảng Bảo thủ liên bang Erin O’Toole đã cáo buộc rằng sự can thiệp của Trung Quốc vào chiến dịch bầu cử năm 2021 bằng việc sử dụng thông tin sai lệch đã khiến đảng này mất 8 hoặc 9 ghế. Đảng Tự do giành được 160 ghế so với 119 ghế của đảng Bảo thủ, 32 ghế cho Khối Quebec và 25 ghế cho đảng Dân chủ mới (NDP), trong khi đảng Xanh giành được 2 ghế. Mặc dù tỷ lệ tổng thể của đảng Bảo thủ trong tổng số phiếu phổ thông tăng nhẹ trong cuộc bầu cử, song đảng này đã thu do một lượng phiếu đáng kể từ người Canada gốc Hoa.

Tuy nhiên, lực lượng đặc nhiệm phụ trách về các mối đe dọa tình báo và an ninh đối với bầu cử (SITE) do Chính quyền Trudeau thành lập để theo dõi các mối đe dọa đối với các cuộc bầu cử liên bang chưa bao giờ đưa ra bất kỳ cảnh báo công khai nào về sự can thiệp của nước ngoài trong các chiến dịch năm 2019 hoặc 2021.

Phát biểu trước Hạ viện vào tháng 11/2022, Thủ tướng Trudeau cho rằng lực lượng đặc nhiệm “đã xác định rằng tính toàn vẹn của các cuộc bầu cử không bị xâm phạm vào năm 2019 hoặc 2021”. Ông cũng nói với các phóng viên rằng “Người dân Canada có thể yên tâm rằng cuộc bầu cử được đảm bảo liểm chính” trong hai cuộc bầu cử.

Theo globeandmail, Thủ tướng Trudeau đã nhận được một báo cáo ngắn gọn về an ninh quốc gia vào mùa Thu năm ngoái, trong đó ông được biết lãnh sự quán Trung Quốc tại Toronto đã nhắm mục tiêu vào 11 ứng cử viên trong cuộc bầu cử liên bang năm 2019. Giám đốc CSIS David Vigneault báo cáo với Thủ tướng Trudeau về việc không có dấu hiệu nào cho thấy nỗ lực can thiệp của Trung Quốc đã giúp bất kỳ ai trong số họ được bầu chọn, bất chấp nỗ lực của lãnh sự quán nhằm quảng bá cho các chiến dịch trên mạng xã hội và phương tiện truyền thông tiếng Trung.

Theo nguồn tin an ninh quốc gia, có 9 ứng cử viên đảng Tự do và 2 ứng cử viên đảng Bảo thủ được Bắc Kinh ủng hộ, trong đó 2 ứng cử viên đảng Bảo thủ được xem như những người bạn của Trung Quốc.

Nguồn: TLTKĐB – 08/05/2023

Hệ thống an ninh mạng: Một trụ cột thiết yếu của thành phố thông minh – Phần I


Lata Nautiyal, Preeti Malik & Amit Agarwal

Tóm tắt: Từ điện thoại thông minh đến thành phố thông minh, thế giới đã thay đổi gần như mọi khía cạnh. Các thành phố hiện đại được coi là một tập hợp của các thành phần quan trọng thiết yếu và các khía cạnh thứ nguyên như là chất lượng cuộc sống và sự phát triển kinh tế xã hội. Thành phố thông minh là thành phố được phát triển cùng với sự nỗ lực nhằm tạo ra một tổ chức tốt hơn mà có thể duy trì, bảo mật, dựa trên công nghệ và một nơi thuận tiện để sinh sống. Trong bối cảnh này, các thành phố thông minh cũng gặp phải một số thách thức, đặc biệt là liên quan đến các vnấ đề phức tạp về luật pháp, môi trường và các vấn đề pháp lý khác, những điều là nền tảng cho các chính sách triển vọng sau này. Có một số yếu tố quan trọng mang tính sống còn đối với sự phát triển và quản lý các thành phố thông minh. Những yếu tố này được sử dụng để tạo ra một Khuôn khổ cho những ý tưởng tiên tiến đặt nền móng cho sự phát triển ban đầu của thành phố thông minh. Các trụ cột hoặc yếu tố liên quan đó là các khía cạnh xã hội, quản lý, kinh tế và pháp lý. Ngoài ra, các công nghệ và thiết bị thông minh được sử dụng trong các thành phố thông minh lưu giữ mọi dạng dữ liệu, điều đó đặt ra câu hỏi về vấn đề bảo mật và quyền riêng tư. Tính bảo mật có thể bị đe dọa và bị gián đoạn bằng một số lượng lớn các hành động thường được coi là không thể chấp nhận; tuy nhiên, đây là một phần hoạt động trong một hệ sinh thái của thành phố thông minh. Bài này thảo luận một cách chi tiết về các vấn đề an ninh và cung cấp một số giải pháp an ninh trong các thành phố thông minh.

1/ Giới thiệu

Ngày nay, chúng ta đang chuyển sang thời đại mà mọi thứ ngày càng thông minh hơn, từ điện thoại thông minh đến đồng hồ thông minh và thậm chí cả nhà ở của chúng ta ngày càng thông minh hơn. Một thành phố thông minh có thể được mô tả là một thành phố triển khai những tiến bộ trong công nghệ thông tin và truyền thông, và sử dụng các thiết bị thông minh thuộc mọi yếu tố để tạo thành một cơ sở hạ tầng đô thị hóa. Thành phố thông minh cung cấp dịch vụ cho đô thị và người dân của nó bao gồm tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền văn minh hiện đại gồm: quản lý nước hiệu quả, chăm sóc sức khỏe ban đầu, năng lượng tái tạo và năng lượng sạch, mạng lưới điện thông minh, an toàn đường bộ thông minh, chính phủ điện tử, truy cập Internet  không dây, tái chế chất thải hiệu quả, vận chuyển, giáo dục, an toàn công cộng, và bất động sản được hỗ trợ bằng trí tuệ nhân tạo, bằng biện pháp toàn diện và hiệu quả hơn.

Chỉ có 10% dân số thế giới sống trong 30 siêu đô thị hàng đầu và 600 thành phố chiếm một phần tư dân số thế giới. Hiện nay, có 1/2 dân số thế giới đang sống tại các đô thị. Mặc dù thực tế là các đô thị chỉ chiếm 2% diện tích tái đất, người dân đô thị chiếm 3/4 tài nguyên thiên nhiên thế giới. Trong hoàn cảnh hiện nay, một nửa dân số thế giới được cho là đô thị hóa khi cư trú tại các thành phố. Hành tinh đang tiến gần đến sự đô thị hóa hoàn toàn. Sự gia tăng dân số đô thị cần phải chú ý một số thách thức trong đô thị như các vấn đề trong quản lý chất thải, thiếu tài nguyên và ô nhiễm.

Các mối nguy hại về sức khỏe con người, quá tải giao thông, sự xuống cấp của cơ sở hạ tầng và sự gia tăng đô thị hóa nhanh chóng đặt ra một thách thức nữa và ngoài các vấn đề kỹ thuật, vật lý và vật chất còn có các vấn đề xã hội và tổ chức, đòi hỏi sự chú ý đến các bên liên quan, sự phụ thuộc lẫn nhau, mức độ cạnh tranh lợi ích và tính chính trị phức tạp. Vì vậy, vấn đề đô thị hóa nhanh đã trở nên quan trọng. Đẩy mạnh đô thị hóa cần được giải quyết với sự hiểu biết đúng đắn và cân nhắc cẩn thận để hạn chế nó trở thành một cuộc khủng hoảng. Sự cần thiết được xem như mẹ đẻ của phát minh sáng chế, là một thành ngữ phổ biến và nó cũng thực hiện trong cuộc khủng hoảng thành phố thông minh. Cần có các thành phố thông minh vì sự di cư từ nông thôn đến thành thị dường như đang gia tăng với tốc độ nhanh chóng.

Vấn đề đô thị hóa nhanh có thể được giải quyết bằng cách tiếp cận thành phố thông minh nhưng chúng ta phải ghi nhớ rằng thành phố thông minh là một kết quả của sự hợp tác đổi mới trong Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), quy hoạch đô thị và chính sách quản lý đô thị. Triển vọng của chính sách quản lý về đổi mới công nghệ phải được kết hợp với việc triển khai công nghệ thực tế nhằm xây dựng một thành phố thông minh phúc lợi bền vững cho người dân. Nhiệm vụ không chỉ là công nghệ, mà còn là cách thiết kế, sử dụng công gnhệ và quản lý vì lợi ích thực sự của hạnh phúc nhân dân.

Trong khi phần lớn các tác giả mô tả các thành phố thông minh về mặt phát triển công nghệ, họ bỏ qua các chính sách cốt lõi về quy hoạch và phát triển đô thị. Trong tất cả sự phản đối kịch liệt cho sự thiết lập thành phố thông minh, chúng ta phải hiểu thực tế rằng một thành phố thông minh không chỉ là sản phẩm của sự đổi mới trong ICT, và nó cần một sự xem xét rất lớn về chính sách và kế hoạch cho khía cạnh quản lý công nghệ.

Trong bài này, chúng tôi thảo luận về các khía cạnh phi công nghệ của các thành phố thông minh trong khi tích hợp nó với công nghệ. Nội dung của bài này được tổ chức như sau: Mục 2 thảo luận về khái niệm của thành phố thông minh; Mục 3 trình bày các trụ cột thiết yếu của một thành phố thông minh, gồm các khía cạnh xã hội, quản lý, kinh tế và khuôn khổ pháp lý; Mục 4 được dành riêng để thảo luận về an ninh trong các thành phố thông minh; Mục 5 đưa ra bảo mật thông tin trong các thành phố thông minh; Mục 6 trình bày an ninh từ quan điểm quản trị, xã hội và kinh tế; Mục 7 bao gồm các yếu tố côn gnghệ. Sự gia tăng của các mối đe dọa an ninh mạng và các thách thức bảo mật được trình bày trong mục 8 và Phần cuối cùng mục 9 là kết luận.

2/ Khái niệm thành phố thông minh

Mặc dù đã có rất nhiều tài liệu nhấn mạnh về việc giải thích khái niệm thành phố thông minh, nhưng việc mô tả chúng thường mơ hồ. Một số tài liệu đề cập đến các nghiên cứu điển hình, trong khi những tài liệu khác giải thích những tiến bộ công nghệ về dự phòng điện thông minh, mạng lưới điện thông minh, y tế thông minh, hệ thống an toàn giao thông thông minh, hệ thống quản lý nước thông minh,… Nhưng không có định nghĩa rõ ràng nào mô tả các tính năng của thành phố thông minh theo nghĩa rộng hơn. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc này, thật hữu ích khi đào sâu vào các nghiên cứu trong quá khứ được đưa ra bởi các tác giả khác nhau. Các phần sau đây giới thiệu kỹ lưỡng hơn về vấn đề này.

2.1/ Trong quá khứ: Thành phố dựa trên công nghệ truyền thông (IC), Thành phố hiệu quả, Thành phố điện tử, Thành phố kỹ thuạt số và Thành phố U-City

Thời đại của các thành phố thông minh ra đời từ năm 1994 tại Hà Lan, khi thuật ngữ Thành phố kỹ thuật số (DDS) lần đầu tiên được đặt ra như một miền công cộng ảo (virtual public domain). Khoảng thời gian đó được công nhận nổi bật cho sự bùng nổ về tăng trưởng và mức phổ biến của các ứng dụng dựa trên Internet. Nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu tập trung vào ICT và thiết bị trí tuệ thông minh. Một số nhà nghiên cứu, ví dụ như các chuyên gia của Phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven đã tiết lộ khái niệm về điều lớn tiếp theo: thành phố thông minh hiệu quả. Đến cuối năm 1999, khi Internet được thương mại hóa và trở thành một nhu cầu thiết yếu, các khái niệm về điện toán có mặt khắp nơi, thành phố U-City và thành phố ảo đã được đề xuất, và cuối cùng vào năm 2000, ý tưởng về thành phố thông minh đã được đưa ra.

Trong năm 1998, Hàn Quốc dẫn đầu trong việc phát triển các thành phố U-City cùng với sự phổ biến của điện toán. Mark Weiser, nhà công nghệ đứng đầu của Trung tâm nghiên cứu Xerox Palo Alto, đã đưa ra một mô hình màn hình tương tác giữa người và máy tính. Chính phủ Hàn Quốc đã đưa khái niệm về U-City vào sử dụng cho nhiều dự án kể từ năm 2005.

U-City là sự kết hợp của điện toán có mặt ở khắp mọi nơi trong một môi trường đô thị. Nó có thể được giải thích là sự hợp nhất của các hệ thống thông tin với các hệ thống xã hội, nơi tất cả các thiết bị và dịch vụ được kết nối với wifi, cảm biến và thẻ RFID. Anthony Townsend, một giám đốc nghiên cứu tại Viện Tương lai ở Palo Alto, và một cựu học giả Fulbright ở Seoul hình dung U-City là một ý tưởng độc quyền của Hàn Quốc.

(còn tiếp)

Hiệu đính: T.Giang – CSCI

Nguồn: Zaigham Mahmood – Thành phố thông minh: khung quản trị và phát triển – NXB XD 2020.

Kỹ thuật thông tin và chiến tranh hiện đại – Phần IV


Trong cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ tư năm 1973, quân đội các nước Arab như Ai Cập, Syria đã sử dụng tên lửa phòng không SAM-6 do Liên Xô sản xuất bắn rơi 114 máy bay chiến đấu của Israel, khiến không quân Israel tổn thất nghiêm trọng; Israel đã ngấm ngầm nghiên cứu và cuối cùng năm 1982 mở kế hoạch đáp trả Syria tại Beka.

Khi đó không quân của Israel đã sử dụng kỹ thuật nhử điện tử, thiết bị gây nhiễu điện tử, máy bay không người lái, máy bay cảnh báo và tên lửa chống phản xạ. Không quân Israel sử dụng tổng hợp các kỹ thuật này cùng với các thiết bị vũ khí, và vận dụng những thiết bị này thông qua việc vận dụng những kỹ thuật nhất định. Ngày đầu tiên Israel đã phá hủy 19 đại đội tên lửa phòng không SAM-6 và bắn rơi 30 máy bay của Syria. Quân đội Israel lúc đầu sử dụng máy bay không người lái dụ radar cảnh giới Syria hoạt động để thu lại các thông số kỹ thuật như vị trí, bố trí, đặc điểm sử dụng chiến thuật và tham số sóng vô tuyến của radar Syria. Hành động tiếp theo của máy bay không người lái là dụ bộ đội tên lửa của Syria phóng tên lửa phòng không SAM-6, từ đó thu được các tham số của radar dẫn đường cho tên lửa. Tiếp theo, Israel lại tổ chức một biên đội hỗn hợp gồm máy bay gây nhiễu điện tử, máy bay cảnh giới và máy bay oanh tạc; máy bay cảnh giới của Israel trinh sát và theo dõi không quân Syria, thiết bị gây nhiễu điện tử tiến công radar Syria, tên lửa chống bức xạ và bom của Israel phá hủy các căn cứ phóng tên lửa của Syria. Thời gian tiến công chỉ vẻn vẹn trong 6 phút.

Ngày thứ hai, Syria không tin rằng uy lực tên lửa SAM lại mất linh nghiệm nên đưa 4 đại đội tên lửa “SAM-6” và 3 đại đội tên lửa “SAM-8” tới Beka, đồng thời điều 53 máy bay tới chiến đấu với không quân Israel. Không thể ngờ rằng, khi đối mặt với không quân Israel được trang bị tên lửa mồi bẫy và máy bay gây nhiễu điện tử, tên lửa và máy bay của Syria hoàn toàn bị đè bẹp. Trong trận đó Israel chỉ mất 9 máy bay. Trận chiến ở Beka là trận tác chiến trên không điển hình đầu tiên có sử dụng kỹ thuật và vũ khí đối kháng điện tử, trận chiến này đã thể hiện rõ vai trò quan trọng của đối kháng điện tử. Ở đây, đối kháng thông tin bằng năng lượng điện từ tiến công hệ thống trinh sát, dẫn đường, kiểm soát hỏa lực của đối phương là trung tâm kỹ thuật của đối kháng điện tử. Cuộc chiến ở Beka có ảnh hưởng rất lớn đối với giới quân sự của các nước trên thế giới.

Trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, quân đội đa quốc gia do Mỹ đứng đầu đã sử dụng một lượng lớn kỹ thuật thông tin tiên tiến nhất vào việc tác chiến trong chiến dịch “Bão táp sa mạc”. Trong cuộc chiến này, quân đội đa quốc gia phía trên sử dụng vệ tinh gián điệp, máy bay cảnh báo, máy bay trinh sát điện tử, máy bay gây nhiễu điện tử, còn phía dưới họ sử dụng các thiết bị trinh sát và gây nhiễu điện tử. Các hành động trinh sát và gây nhiễu toàn diện, nhiều tầng, mọi nơi, mọi lúc, tiến sâu vào bên trong lãnh thổ Iraq đã khiến cho hệ thống trinh sát, chỉ huy, truyền thông tin của Iraq rơi vào trạng thái tê liệt. Trong khi đó hành động trinh sát và gây nhiễu của liên quan lại thông suốt toàn bộ cuộc chiến, trợ giúp đắc lực cho các cuộc tiến công trên không và dưới mặt đất của liên quân.

Chiến tranh thông tin của quân đội Mỹ không chỉ sử dụng trong tác chiến, máy bay trinh sát tầm cao của Mỹ nhiều lần xâm phạm không phận của Liên Xô, tiến hành hoạt động trinh sát. Liên Xô cũng xây dựng hệ thống thu thập tin tức gồm các trạm giám sát ở Cu Ba để trinh sát tin tức tình báo của Mỹ – một siêu cường quốc trên thế giới. Để bảo vệ địa vị về kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật của mình, Mỹ luôn tiến hành trinh sát đối với các nước khác. Họ phái gián điệp được trang bị, thiết bị nghe trộm, sử dụng các biện pháp kỹ thuật đi khắp nơi trên thế giới. Để tiến hành các hoạt động trinh sát và theo dõi, Mỹ thường điều các loại máy bay gián điệp tiến hành trinh sát các khu vực xung quanh biên giới của họ.

Có người nói, các tàu chiến với đại diện chính là hàng không mẫu hạm; các loại xe thiết giáp với đại diện là tăng chủ lực và các khí cụ bay với đại diện là máy bay oanh tạc đã đóng vai trò chính trong chiến trường thế kỷ 20. Nhưng cùng với cuộc cách mạng kỹ thuật thông tin và trao lưu cách mạng quân sự mới, mặt bằng vũ khí được cải thiện nhờ vào kỹ thuật thông tin và bắt đầu phát huy vai trò chủ đạo trên chiến trường. Trong các cuộc chiến tranh cục bộ, dưới điều kiện kỹ thuật cao, gần đây máy bay tàng hình, đạn điều khiển từ xa chính xác cao, vũ khí thông tin, vũ khí thông minh thi nhau trổ tài. Điều này cho thấy, chiến trường thế kỷ 21 sẽ là một vũ đài để kỹ thuật thông tin tranh nhau thể hiện, các cuộc tranh giành thông tin sẽ diễn ra hết sức quyết liệt.

Trong việc tìm kiếm thăm dò thông tin, các thiết bị như radar tầm xa, radar laser, thiết bị thăm dò hồng ngoại tính năng cao, hệ thống thiết bị cảm ứng tiên tiến đã không ngừng nâng cao trình độ chính xác về trinh sát, theo đuổi và định tầm cao, xa. Khoảng cách tìm kiếm thăm dò của radar tầm xa đối với tàu chiến có thể đạt đến hàng nghìn mét. Trong khi đó, radar laser gắn trên thiết bị vận tải do Mỹ thử nghiệm có thể phát hiện và bám đuổi tên lửa đang bay cách xa 10.000 m. Đây là một hệ thống nhỏ quan trọng trong hệ thống phòng thủ tên lửa.

Mỹ đã phát triển hệ thống vũ khí loại mới trên cơ sở máy bay F-17 và máy bay oanh tạc chiến lược tàng hình B-2. Các nhà quân sự dự đoán rằng , vũ khí tàng hình sẽ trở thành vũ khí tác chiến quan trọng trên chiến trường thế kỷ 21. Sự phát triển của kỹ thuật tàng hình cũng là để đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh thông tin hóa, nó khiến cho cuộc chiến trinh sát và chống trinh sát ngày càng trở nên ác liệt và tăng thêm tính bất ngờ trong chiến đấu. Máy bay chiến đấu tàng hình F-22 và máy bay trinh sát tàng hình “Northern Light” được trang bị cho quân đội Mỹ vào năm 2010. Trong khi đó, Nga cũng đang nghiên cứu chế tạo máy bay chiến đấu tàng hình tính năng cao Su-37, T-50.

Tàu chiến do thể tích quá lớn, rất dễ bị đối phương phát hiện, cho nên kỹ thuật tàng hình của nó luôn được các nhà khoa học hết sức coi trọng. Ngày 11 tháng 4 năm 1993, tàu chiến tàng hình đầu tiên của Mỹ “Sea Shadow” lần đầu tiên được chạy thử, vẻ ngoài độc đáo và vật liệu hấp thụ sóng của nó khiến cho radar dẫn đường tên lửa của đối phương rất khó khăn trong việc bám đuôi nó. Tàu bảo vệ “Lafayetta” của Pháp, tàu bảo vệ “Visby” của Thụy Điển đều là tàu chiến có tính năng tàng hình.

Các cuộc chiến tranh trong tương lai, việc sử dụng các loại vũ khí thông thường có độ chính xác và thông minh cao sẽ rất phổ biến. Mặc dù chưa thể thay thế được vị trí của vũ khí hạt nhân, nhưng nó cũng đóng vai trò uy hiếp trong chiến tranh. Hai nhà nghiên cứu của trung tâm dự đoán ngân sách và chiến lược Mỹ Andrew Mikhnevich và Steven đã có bài phát biểu trên “Công báo nhà khoa học nguyên tử” rằng, vũ khí thế hệ mới kết hợp giữa độ sát thương lớn và độ chính xác cao, sẽ khiến cho tư duy về cơ cấu quân sự thay đổi về phương thức chiến tranh tương lai.

Kỹ thuật then chốt của vũ khí điều khiển chính xác có liên quan tới kỹ thuật vi điện tử, kỹ thuật thiết bị cảm biến, kỹ thuật phần mềm, kỹ thuật kiểm soát, đồng thời có sử dụng loại đầu đạn kỹ thuật thuốc nổ năng lượng cao. Đầu đạn trong tương lai chỉ cần mang một lượng nhỏ thuốc nổ năng lượng cao là có thể hoàn thành nhiệm vụ tiến công và độ chính xác của vũ khí dẫn đường chính xác sẽ được nâng cao rõ rệt, độ sai lệch của nó từ mười mấy mét hiện nay rút ngắn còn 1 mét, thậm chí 1/10 mét. Như vậy hình dáng của tên lửa có thể thu nhỏ hơn, giá thành có thể hạ thấp hơn, phạm vi sử dụng của mặt bằng phóng tên lửa có thể mở rộng hơn, từ máy bay oanh tạc, máy bay chiến đấu đến cả máy bay không người lái đều có thể sử dụng.

Sự xuất hiện của tên lửa tàng hình đã giúp tên lửa thế hệ mới không bị phát hiện trên cơ sở tìm kiếm chính xác. Nó là loại hệ thống vũ khí lấy việc tự bảo vệ làm điều kiện và tiến công địch làm mục tiêu. Quan niệm thiết kế của nó hoàn toàn mới, là hệ thống vũ khí với khả năng đột phá phòng thủ cao trong tương lai. Tên lửa hành trình tàn ghình AGM-29 do công ty General Motors của Mỹ đang nghiên cứu và chế tạo là tên lửa hành trình chiến lược phóng từ không gian của không quân Mỹ. Loại tên lửa áp dụng đường khí vào dạng ẩn, viền sau của nó hình răng cưa, giúp nó làm phân tán các chùm sóng của radar ra mọi hướng, mặt phản xạ sóng radar không đến 0,01m2. Tên lửa này còn được trang bị các thiết bị gây nhiễu âm thanh, khiến các radar không dễ gì phát hiện và theo đuổi nó. Tên lửa chống chiến của Nga X-65C3 tàng hình bằng cách áp dụng phương pháp giảm mặt phản xạ sóng radar của đầu đạn. Tên lửa hành trình do Pháp sản xuất có sự hợp nhất giữa thân và cánh, sử dụng chất liệu hấp thụ sóng để giảm mặt phản xạ sóng radar. Cánh cửa tên lửa không đối hạm ASM-1 do Nhật Bản nghiên cứu phát triển cũng tàng hình bằng phương pháp áp dụng chất liệu hấp thụ sóng radar.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Vương Kiến Hoa – Kỹ thuật thông tin và chiến tranh hiện đại – NXB QĐND 2013

Tại sao triết học không ngừng quay về kinh điển? – Phần II


Nói về khoa học, phần trên bài viết đã chỉ ra, nhiều đặc trưng của khoa học không phải đều có mức độ như nhau vào mọi lúc, mọi nơi, mọi phân ngành. Từ đó, trong “không gian kiểu chủ nghĩa Darwin” này, khoa học thể hiện trạng thái đa dạng hóa, luôn diễn biến. Triết học cũng như vậy. Cho nên, khi thảo luận về khoa học, triết học (thậm chí thần học tôn giáo) và bất kỳ đặc trưng nào của chúng, bài viết này đều cân nhắc bằng góc nhìn “không gian kiểu chủ nghĩa Darwin”, điều này cũng có nghĩa là, một đặc trưng nào đó cho phép sự thể hiện kiểu mẫu mực rất mạnh và sự thể hiện kiểu ngoại vi rất yếu.

Về vấn đề thái độ đối với kinh điển mà bài viết này muốn thảo luận, chúng ta có thể coi nó là một chiều cạnh đặc trưng của triết học và khoa học trong “không gian kiểu chủ nghĩa Darwin”. Từng nhà triết học cụ thể – thí dụ, Wittgenstein và Heidegger – có thể có được biểu trưng tương ứng tại một điểm cụ thể của chiều cạnh đặc trưng này. Trong nghiên cứu có tính sáng tạo rất lớn của Wittgenstein, tên tuổi và tư tưởng của các nhà triết học truyền thống ít được nhắc đến. Còn một bộ phận rất lớn nghiên cứu có tính sáng tạo của Heidegger thì được triển khai thông qua phân tích và làm sáng tỏ kinh điển. Như vậy, biểu trưng của các “nhà triết học phân tích” mà trước đây được miêu tả một cách chung chung là không chú trọng kinh điển trong không gian này sẽ ở vào vị trí tương đối thấp, còn biểu trưng của các “nhà triết học Lục địa” trong không gian này sẽ ở vào vị trí tương đối cao. Tương tự, vị trí mà nhiều nhà tư tưởng Trung Quốc từ Tần, Hán về sau chiếm cứ trên chiều cạnh đặc trưng này cũng tương đối cao, các nhà nghiên cứu từ đời này qua đời nọ chủ yếu thông qua việc chú thích kinh điển để biểu đạt kiến giải của mình, dù là rượu mới cũng phải đựng trong bình cũ. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp tương tự, dùng chiều kích đặc trưng này trong “không gian kiểu chủ nghĩa Darwin” để miêu tả từng nhà khoa học cụ thể.

Nói tóm lại, chúng ta phát hiện, trạng thái phân bố của khoa học trên chiều kích đặc trưng trong “không gian kiểu chủ nghĩa Darwin” này có sự khu biệt rõ rệt với khoa học. Chúng ta có thể dùng Hình 1 và Hình 2 dưới đây để biểu thị sự khác biệt giữa hai bên:

Hai hình này là sự chiếu xạ hai chiều của chiều kích đặc trưng “thái độ đối với kinh điển” trong “không gian kiểu chủ nghĩa Darwin”. Trục dọc biểu thị mức độ tin cậy của việc nghiên cứu tiến hành giải thích kinh điển, điểm tương đối cao biểu thị công việc nghiên cứu được triển khai dựa nhiều vào việc giải thích kinh điển. Về tổng thể, nghiên cứu của các nhà triết học phần nhiều là được triển khai thông qua việc giải thích kinh điển triết học; còn nghiên cứu khoa học thì rất ít xuất phát từ kinh điển khoa học, các nhà khoa học phần nhiều trực diện với hiện tượng và vấn đề, tiến hành khám phá và sáng tạo tư tưởng. Vì vậy, về tổng thể, vị trí điểm biểu trưng trong Hình 1 để biểu trưng, Heidegger có thể dùng điểm ở góc phải trên trong hình này để biểu trưng. Trong số các nhà khoa học, điểm biểu trưng thí dụ của nhà sinh học Ernst Mayr (ông rất chú trọng lịch sử tư tưởng sinh học và triết học sinh học, tác giả cuốn Lịch sử phát triển tư tưởng sinh học), nhà toán học ứng dụng và nhà vật lý học Morris Kline (tác phẩm về lịch sử tư tưởng toán học và triết học toán học của ông ảnh hưởng rất rộng), nhà sinh học Rao Yi (Nhiêu Nghị) (ông mở ra “khái niệm và con đường sinh học”, giới thiệu một số khái niệm và lý luận quan trọng về lịch sử sinh học được đề xuất như thế nào, một số con đường và phương pháp quan trọng được áp dụng như thế nào để giải quyết vấn đề sinh học) trong Hình 2 đều tương đối cao (thậm chí chúng ta có thể nghĩ dùng phương thức tương tự để biểu trưng tôn giáo, trong biểu đồ có được, điểm biểu trưng sẽ chủ yếu tập trung vào vùng phía trên bên trái của biểu đồ này).

II/ Thế nào gọi là “Kinh điển”

Tác giả sử dụng công cụ tư tưởng “không gian kiểu chủ nghĩa Darwin”, một phương thức theo chủ nghĩa phi bản chất luận để khắc họa sự khác biệt giữa triết học và khoa học về thái độ đối với kinh điển. Nhưng vẫn còn một vấn đề quan trọng chưa giải quyết, tức “kinh điển” là gì, nói cụ thể hơn, “kinh điển triết học” và “kinh điển khoa học” là gì.

Trong Hán ngữ, nghĩa gốc của “kinh” là đường dọc bố trí trên máy dệt để dựa vào đó mà dệt đường ngang, nghĩa mở rộng là đã được kiểm nghiệm, có căn cứ, từ đó mở rộng thêm thành quy định, quy tắc, chân lý đã được nghiệm chứng; còn nghĩa gốc của “điển” là dùng kinh tịch cổ làm căn cứ để giải quyết công việc, nghĩa mở rộng là các tài liệu có thể làm căn cứ. Vì vậy, trong cách hiểu thông thường, từ “kinh điển” có ý nghĩa ảnh hưởng rất mạnh, nó thường được hiểu là đạo lý (chân lý) đúng đắn không thể nghi ngờ.

Còn theo Anh ngữ hay Đức ngữ, classic/Klassiker thoạt tiên đụng chạm đến một thứ hàm nghĩa theo ý nghĩa phân loại học, chúng chỉ các tác phẩm văn học, sử học, triết học được viết bằng tiếng Hy Lạp cổ, tiếng Latin, về sau mở rộng thành những tác phẩm có giá trị cao nhất trong một loạt tác phẩm, tuy nhiên chúng chưa bao giờ được coi là “thuyết không công bố”. Tác phẩm tôn giáo lại có tính quyền uy, thậm chí tính thần thánh to lớn, nói chung được gọi là “thánh thư” (the sacred book/das heilige Buchf), cho nên rất dễ được dịch sang Hán ngữ thành “kinh” (như Kinh Thánh, Kinh Koran, các loại Kinh Phật). Nhưng triết học, ngay từ lúc mới ra đời, không chỉ thông qua cách tiếp cận khám phá kiểu tự nhiên chủ nghĩa đối với thế giới để khu biệt với tôn giáo, mà điều quan trọng hơn là, nó xác lập một thứ tinh thần triết học khác với tinh thần tôn giáo. Tinh thần tôn giáo nhấn mạnh thành tín và tiếp nhận, tinh thần triết học nhấn mạnh năng lực tự phủ định và phê phán. Ở đây quan hệ thầy trò mạch lạc giữa Socrates – Plato – Aristoteles đã xác lập cho người sau một mẫu hình sáng chói: Socrates tự định vị mình là “theo đuổi trí tuệ” chứ không phải là “có trí tuệ”. Còn Aristoteles thì nói rõ “tôi yêu thầy tôi, tôi càng yêu chân lý”, điều đó có nghĩa là Plato tuy vĩ đại, nhưng rốt cuộc không phải là “đạo đã thành thân xác”, rốt cuộc là có thể sai, có thể phê phán; quan trọng hơn là, Plato không hề nói hết tất cả mọi đạo lý, Aristoteles sau khi theo học Plato 20 năm, tự mình mở ra một chân trời triết học mới. Nói theo lời Feng Youlan (Phùng Hữu Lan), triết học phần lớn là “nói tiếp” chứ không cơ bản là “nói theo” như thần học. Vì vậy, “Thánh thư” là đã quy định, tuy cách giải thích chúng có thể không ngừng xuất hiện’ còn “triết học thư” thì không ngừng tăng thêm.

Kant từng nêu, muốn phán đoán một bộ môn khoa học đi lên con đường đáng tin cậy của khoa học hay không, thứ nhất, có thể xem liệu, bộ môn khoa học này “sau khi làm một loạt công việc trù bị và chuẩn bị, một khi sắp đạt tới mục đích”, có “rơi vào cục diện cứng nhắc, hoặc có thường xuyên phải quay đầu chọn một con đường khác để đạt tới mục đích hay không”; thứ hai, có thể xem liệu các nhà nghiên cứu có thể “phối hợp nhất trí như là việc tuân thủ mục tiêu chung này đòi hỏi hay không”. Căn cứ vào tiêu chuẩn này, theo quan điểm của Kan, toán học, logic học, khoa học tự nhiên đều có một nền tảng vĩnh viễn, các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực tương quan đều dồn sức vào mục tiêu chung, phối hợp nhất trí, do đó các lĩnh vực này đều đã bước lên con đường khoa học. Lấy những bộ môn này làm mẫu mực, Kant hy vọng thông qua công việc phê phán lý tính thuần túy của mình, đặt cơ sở vững chắc cho siêu hình khoa học tương lai. Tuy nhiên, loại công việc có tính đặt nền móng đó đều đã từng xuất hiện dưới những hình thức khác nhau ở những người trước Kan như Descartes, Lock, Hume…, triết học sau Kant cũng kh6ong có việc không “quay đầu lại”, chọn con đường khác như ông mong đợi, những người như Fichte, Hegel, Heidegger đã nhiều lần bắt đầu lại dưới những hình thức m1ơi. Ye Xiushan (Diệp Tú Sơn) đưa ra một so sánh, nhà triết học thường không cam tâm ở trong “lâu đài” triế thọc của người trước, cũng không phải là “thêm gạch thêm ngói” trên “lâu dài” của người trước, mà “xây lâu đài khác”. “Cho nên trong lịch sử triết học có rất nhiều “lâu dài” triết học, những người theo đuổi sự nghiệp triết học đều muốn vào trong đó trú ngụ, nhưng phàm là nhà triết học đích thực, đều tuyệt nhiên không cư trú lâu dài trong bất kỳ lâu đài nào, cho nên “chủ hộ” đích thực của những tòa lâu đài đó chỉ là chính những nhà triết học đã xây nên nó, nhà ai người ấy ở”.

Không những lịch trình triết học không giống như dự tưởng của Kant, mà lịch trình của khao học cũng khác với cách hiểu của Kant. Kant từng chú ý đến một điều là, tinh thần hoàn hảo kiểu Đức (Gründlichkeit) được thể hiện điển hình trong triết học Hy Lạp cổ đại, nhưng trong thời hiện đại, chính khoa học đã kế thừa và duy trì nó tốt hơn, điều này cũng tạo ra sự phát triển vũ bão của khoa học. Ông cho rằng, ở (logic học) Aristoteles, ở các bậc thầy toán học Hy Lạp cổ đại, ở những người như Galilei, Newton, khoa học tự nhiên đã được đặt nền móng vững chắc, từ đó đi lên một con đường khang trang đơn nhất. Nhưng ông đã hiểu sai khoa học tự nhiên, cũng hiểu sai toán học và logic học. Kant không trải qua khủng hoảng của toán học và vật lý học cuối thế kỷ XIX, cũng không trải qua bước phát triển to lớn của logic học cuối thế kỷ XIX. Nếu nói rằng trong triết học, với tính cách là “thuyết không công bố”, “kinh điển” là đáng ngờ thì trong khoa học, theo ý nghĩa này, “kinh điển” càng đáng ngờ hơn. Theo chủ trương của Popper, bất kỳ lý luận khoa học nào về nguyên tắc đều có thể sai, những lý luận được người ta tiếp nhận rộng rãi chỉ là những học thuyết có độ xác nhận (degree of corroboration) hoặc độ chân thực (degree of versimilitude) cao; vì vậy, “chân thực” trong khoa học tuyệt nhiên không phải là bất biến, chỉ là cho đến nay nó chưa bị chứng minh là sai mà thôi.

Nói tóm lại, theo ý nghĩa “chính xác không nghi ngờ gì” của “quyền uy”, sẽ không tồn tại cái gọi là “kinh điển triết học” hoặc “kinh điển khoa học”. Nhưng hai từ này rốt cục liên tục được người ta nói đến, nên giải thích điều này như thế nào? Tác giả kiến nghị áp dụng quan hệ đặt nền và quan hệ gợi mở trong công tác của các nhà nghiên cứu khác nhau để khắc họa “kinh điển” là gì.

(còn tiếp)

Biên dịch: Viễn Phố

Nguồn: TN 2020 – 66, 67

Trung Quốc gây ảnh hưởng đến bầu cử Canada như thế nào? – Phần đầu


Theo trang mạng globeandmail.com, Cơ quan tình báo An ninh Canada (CSIS) đã tiết lộ toàn bộ phạm vi hoạt động can thiệp của Trung Quốc (cả tài liệu bí mật và tuyệt mật) trong khoảng thời gian trước và sau cuộc bầu cử tháng 9/2021. Cụ thể như sau:

Trung Quốc đã sử dụng chiến lược tinh vi để phá vỡ nền dân chủ của Canada trong chiến dịch bầu cử liên bang năm 2021. Khi đó, các nhà ngoại giao Trung Quốc và những mạng lưới ủy quyền của nước này ủng hộ cuộc bầu cử của đảng Tự do của Justin Trudeau, nhưng chỉ hình thành một chính phủ thiểu số khác, và nỗ lực đánh bại các chính trị gia bảo thủ được coi là không thân thiện với Bắc Kinh.

Báo cáo của CSIS được chia sẻ cho các quan chức chính phủ cấp cao và các đồng minh tình báo “Ngũ Nhãn” (Five Eyes) của Canada gồm Mỹ, Anh, Australia và New Zealand. Một số thông tin tình báo này cũng được chia sẻ với các cơ quan tình báo của Pháp và Đức. Trong thập kỷ qua, Trung Quốc dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình đã áp dụng chính sách đối ngoại hung hăng hơn khi nước này tìm cách mở rộng ảnh hưởng chính trị, kinh tế và quân sự trên khắp thế giới.

Các nghị sĩ trong Hạ viện Canada đã xem xét các cáo buộc về việc Trung Quốc can thiệp vào chiến dịch bầu cử năm 2019 để hỗ trợ 11 ứng cử viên hầu hết là đảng Tự do, ở khu vực đại đô thị Toronto (GTA). Được trích dẫn từ một loạt hoạt động thu thập thông tin tình báo của CSIS, các tài liệu minh họa cách một cỗ máy chỉ huy hoạt động ở Canada với hai mục tiêu chính: đảm bảo rằng chính phủ thiểu số của Đảng Tự do tiếp tục nắm quyền vào năm 2021 và một số ứng cử viên đảng Bảo thủ được Trung Quốc xác định sẽ bị đánh bại.

Các tài liệu cho rằng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Bắc Kinh đang “gây áp lực với lãnh sự quán ở nước ngoài để tạo ra các chiến lược nhằm thúc đẩy các thành viên và hiệp hội cộng đồng người Hoa hoạt động ch1inh trị trong xã hội Canada”. Bắc Kinh sử dụng các tổ chức của Canada để thay mặt họ vận động “trong khi vẫn che giấu mối liên hệ với Trung Quốc”.

Theo globeanmail, cựu Tổng lãnh sự Trung Quốc tại Vancouver Đồng Hiểu Linh đã kheo khoang vào năm 2021 về cách bà giúp đánh bại hai nghị sĩ đảng Bảo thủ. Mặc dù được Trung Quốc coi là nhà lãnh đạo tốt nhất cho Canada, Bắc Kinh cũng muốn kiểm soát quyền lực của ông Trudeau – với một chính phủ đảng Tự do thiểu số lần thứ hai trong Quốc hội là kết quả lý tưởng. Đầu tháng 7/2021 – 8 tuần trước ngày bầu cử – một quan chức lãnh sự tại cơ quan ngoại giao Trung Quốc giấu tên ở Canada cho biết bắc Kinh “vui mừng khi các đảng phái trong Quốc hội đấu đá lẫn nhau, trong khi nếu chiếm đa số thì đảng cầm quyền có thể dễ dàng thực hiện các chính sách không có lợi cho Trung Quốc”.

Quan trọng nhất là các báo cáo tình báo cho thấy Bắc Kinh xác định rằng đảng Bảo thủ không giành chiến thắng. Trung Quốc đã sử dụng các chiến dịch tung tin sai lệch và mạng lưới ủy nhiệm có liên hệ với các tổ chức người Canada gốc Hoa ở Vancouver và GTA, nơi có nhiều cộng đồng người nhập cư Trung Quốc đại lục, để lên tiếng phản đối đảng Bảo thủ và ủng hộ đảng Tự do của Thủ tướng Trudeau.

Các tài liệu của CSIS tiết lộ rằng các nhà ngoại giao Trung Quốc và những người được ủy quyền, bao gồm một số thành viên cảu phương tiện truyền thông tiếng Trung, đã nhận chỉ thị về việc nhấn mạnh vấn đề trogn nước rằng đảng Bảo thủ quá chỉ trích Trung Quốc và nếu được bầu, đảng này sẽ đi theo sự lãnh đạo của cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump và cấm sinh viên Trung Quốc vào một số trường đại học hoặc chương trình giáo dục. Báo cáo cảu CSIS dẫn lời quan chức lãnh sự quán Trung Quốc cho biết: “Điều này sẽ đe dọa tương lai con cái của các cử tri, vì nó sẽ hạn chế cơ hội giáo dục của chúng. Đảng Tự do Canada đang trở thành đảng duy nhất mà Trung Quốc có thể ủng hộ”.

CSCI cũng đã giải thích cách các nhà ngoại giao Trung Quốc tiến hành hoạt động can thiệp ở nước ngoài để hỗ trợ các ứng cử viên chính trị và quan chức được bầu. Chiến thuật bao gồm quyên góp tiền mặt không khai báo cho các chiến dịch chính trị hoặc để các chủ doanh nghiệp thuê sinh viên quốc tế Trung Quốc và “phân công họ làm tình nguyện toàn thời gian trong các chiến dịch bầu cử”.

Các nhà tài trợ có thiện cảm cũng được khuyến khích đóng góp cho chiến dịch tranh cử của các ứng cử viên được Trung Quốc ủng hộ. Sau đó, các chiến dịch chính trị lặng lẽ và bất hợp pháp sẽ trả lại một phần khoản đóng góp cho những người quyên góp. Phần quan trọng trong hoạt động can thiệp là gây ảnh hưởng đến những người nhập cư Trung Quốc dễ bị tổn thương ở Canada. Các báo cáo tình báo dẫn lời một quan chức lãnh sự quán Trung Quốc giấu tên nói rằng “rất dễ gây ảnh hưởng đến những người nhập cư Trung Quốc để họ đồng ý với lập trường của nước này”.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 08/05/2023

Tiến hóa của kỹ thuật cơ sở dữ liệu – Phần VII


4.3/ Các cơ sở dữ liệu dùng cho phân xưởng

Thuật ngữ “phân xưởng” nhằm vào đơn vị chức năng trong tổ chức. Thí dụ điển hình về đơn vị này là phòng nhân sự, phòng kế toán tài chính, phân xưởng sản xuất. Nhìn chung phân xưởng có quy mô lớn hơn nhóm công tác, giới hạn trong vòng 25 đến 100 người, liên quan đến nhiều loại chức năng.

Các cơ sở dữ liệu quy mô phân xưởng được thiết kế để phục vụ nhiều chức năng và hoạt động của phân xưởng, phòng ban. Loại cơ sở dữ liệu này là loại phổ biến nhất trong số bốn loại cơ sở dữ liệu đang kể ra. Chẳng hạn người ta thiết kế cơ sở dữ liệu về nhân sự liên quan đến nhân viên, công việc, khả năng làm việc và phân công công tác. Sơ đồ đơn giản hóa về cơ sở dữ liệu này có thể được thể hiện qua các hình, gồm các thực thể và các mối quan hệ. Người dùng cơ sở dữ liệu có thể đặt các câu hỏi đại loại như (i) Có cơ hội làm việc nào không trong cơ quan này vào thời điểm hiện tại?; (ii) Với công việc lựa chọn thì đòi hỏi kỹ năng nghề nghiệp ra sao?; (iii) Nếu biết một nhân viên, liệu có thể biết những công tác mà họ được phân công không? hay có thể biết những nhân viên nào đã từng làm công việc đang quân tâm không?…

Các vấn đề đặt ra khi thiết kế cơ sở dữ liệu dùng cho ứng dụng quy mô nhỏ như phân xưởng là:

+ Trên các nhiệm vụ đặt ra và với số người sử dụng đã biết, thiết kế nào cho phép xây dựng môi trường cơ sở dữ liệu phù hợp?

+ Biện pháp đảm bảo an toàn dữ liệu trong điều kiện có thể có người dùng không hợp pháp và luôn muốn truy cập các dữ liệu nhạy cảm, quan trọng;

+ Khi môi trường sản xuất trở nên phức tạp, người ta có các công cụ phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu nào?

+ Khi đơn vị quy mô phân xưởng cũng cần các dữ liệu như cơ sở dữ liệu đang có, người ta quản lý siêu dữ liệu, quản lý tính dư thừa dữ liệu và tính tương hợp giữa các dữ liệu như thế nào thì tốt nhất?

+ Cơ sở dữ liệu phân tán có cần thiết không, khi kích thước cơ sở dữ liệu đang dùng trở nên quá lớn?

4.4/ Cơ sở dữ liệu dùng cho toàn xí nghiệp

Cơ sở dữ liệu loại này dùng cho toàn tổ chức hay toàn xí nghiệp, chí ít cũng cho nhiều phân xưởng khác nhau. Nó được dùng cho các hoạt động quy mô toàn xí nghiệp và đặc biệt là trợ giúp ra quyết định. Do một tổ chức có nhiều cơ sở dữ liệu loại này, nên không nhất thiết mỗi cơ sở dữ liệu đều lưu trữ tất cả các dữ liệu về tổ chức. Việc thiết kế một cơ sở dữ liệu cho toàn xí nghiệp là không thực tế, bởi lẽ (i) khó có thể quản lý một cơ sở dữ liệu cực lớn; (ii) độ phức tạp tăng cao khi có nhiều người dùng cơ sở dữ liệu, với những yêu cầu khác nhau, tức là siêu dữ liệu khác nhau; (iii) cần thiết sử dụng những thông tin từ các cơ sở dữ liệu phân xưởng. Một giải pháp cho tổ chức lớn là kho dữ liệu, cho phép truy cập dữ liệu từ nhiều cơ sở dữ liệu phân xưởng.

Định nghĩa: Kho dữ liệu (datawarehouse) là cơ sở dữ liệu tích hợp trợ giúp quyết định, bao gồm thông tin trích từ các cơ sở dữ liệu khác.

Kho dữ liệu sẽ dùng nhiều công cụ để trích dữ liệu, tổng hợp dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu đang phục vụ công tác hàng ngày, tức các cơ sở dữ liệu tác nghiệp. Tổ chức sử dụng mô hình dữ liệu xí nghiệp để thiết kế cơ sở dữ liệu xí nghiệp, kho dữ liệu.

Định nghĩa: Mô hình dữ liệu xí nghiệp (enterprise data model) là mô hình đồ họa, cho biết các thực thể ở mức cao trong tổ chức, xí nghiệp và mối quan hệ giữa các thực thể đó.

Một số vấn đề đặt ra khi thiết kế loại cơ sở dữ liệu quy mô xí nghiệp là:

+ Các dữ liệu được phân bố ra sao trên các vị trí khác nhau của tổ chức?

+ Liên quan đến chuẩn hóa dữ liệu, khuôn dạng riêng của tổ chức, cách xác định dữ liệu,… người ta cần đưa ra công cụ phát triển và bảo trì phù hợp.

4.5/ Những ưu điểm tiếp cận cơ sở dữ liệu

Tiếp cận sử dụng các nguyên lý của cơ sở dữ liệu đảm bảo nhiều ưu điểm tiềm tàng so với các hệ thống xử lý tệp truyền thống. Trước tiên là các ứng dụng đa dạng, được liệt kê trong bảng, theo thống kê năm 1995 của White.

Bảng 2: Tổng quan về các ứng dụng của cơ sở dữ liệu

Loại cơ sở dữ liệuSố lượng người dùng điển hìnhKiến trúc điển hìnhKích cỡ điển hình
Máy tính cá nhân1Máy tính đặt bànMegabyte
Nhóm công tác5 – 25Khách/chủ (hai phần ba)Megabyte, Gigabyte
Phân xưởng25 – 100Khách/chủ (ba phần ba)Gigabyte
Xí nghiệpTrên 100Khách/chủ (máy chủ song song hoặc phân tán)Gigabyte đến Terabyte

Các ưu điểm của tiếp cận cơ sở dữ liệu gồm có:

1/ Độc lập giữa dữ liệu và chương trình. Việc tách mô tả dữ liệu, tức là siêu dữ liệu, ra khỏi chương trình ứng dụng sử dụng dữ liệu đó gọi là độc lập dữ liệu. Theo cách làm của cơ sở dữ liệu, người ta lưu trữ siêu dữ liệu tại nơi khác, gọi là từ điển dữ liệu. Người ta có thể thay đổi dữ liệu về tổ chức mà không cần thay đổi chương trình ứng dụng;

Định nghĩa: Độc lập dữ liệu (program-data independence) là việc tách các mô tả dữ liệu ra khỏi các chương trình ứng dụng sử dụng dữ liệu đó;

2/ Giảm thiểu dư thừa dữ liệu. Khác với các hệ thống xử lý tệp, các dữ liệu trong cơ sở dữ liệu được tổ chức theo cấu trúc thống nhất, hợp lý nên hạn chế được việc lưu trữ dữ liệu tại nhiều nơi khác nhau. Tuy nhiên việc dư thừa dữ liệu không thể hết được; chẳng hạn như các dữ liệu liên kết các tệp dữ liệu khác nhau vẫn được lưu trữ trên nhiều tệp;

3/ Tăng tính nhất quán dữ liệu. Tính nhất quán của dữ liệu là tính chất phù hợp của dữ liệu dưới các điều kiện mà nó phải tuân theo. Đôi khi do sơ suất mà giá trị của dữ liệu thay đổi ngoài ý muốn, tức là mất sự nhất quán. Cơ sở dữ liệu đã giảm được dư thừa thì khả năng rủi ro do thay đổi giá trị đó cũng giảm đi.

4/ Tăng tính dùng chung dữ liệu. Một cơ sở dữ liệu được thiết kế để phục vụ chung; mỗi nhóm người dùng nhìn nhận cơ sở dữ liệu như chỉ có một mình họ sử dụng dữ liệu. Khái niệm “khung nhìn”, hay “khung nhìn người dùng” được giới thiệu như mô tả logic về một phần của cơ sở dữ liệu, dùng cho một nhóm công việc;

Định nghĩa: Khung nhìn (user view) là mô tả logic của một phần cơ sở dữ liệu, do đòi hỏi của người dùng khi cần thực hiện công việc nào đó;

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Đỗ Trung Tuấn – An toàn cơ sở dữ liệu – NXB ĐHQGHN 2018

Lực lượng, năng lực và triển khai sức mạnh của Trung Quốc – Phần XIII


Các căn cứ của Mỹ ở Guam nằm trong tầm bắn của ngày càng nhiều tên lửa hành trình và đạn đạo của PLA. Trong tương lai, LACM cũng có thể sẽ triển khai trên các nền tảng nổi như tàu tuần dương tên lửa dẫn đường lớp RENHAI. Các chuyến bay của máy bay ném bom H-6K vào biển Philippines chứng tỏ khả năng của Trung Quốc vươn tới Guam bằng các LACM phóng từ trên không. Tên lửa đạn đạo tầm trung DF-26 có khả năng vươn tới đảo Guam và có khả năng tiến hành các cuộc tấn công hạt nhân, thông thường chính xác và trên biển.

Trung Quốc coi khả năng có được thông tin kịp thời với độ chính xác cao là rất quan trọng đối với việc thực hiện các cuộc tấn công chính xác. Hệ thống hỗ trợ thông tin của PLA cho các cuộc tấn công chính xác phụ thuộc rất nhiều vào khí tài của Lực lượng hỗ trợ chiến lược (SSF) để phát hiện, xác định, nhắm mục tiêu và tiến hành đánh giá thiệt hại trên chiến trường. Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của khả năng giám sát trên không gian trong việc hỗ trợ tấn công chính xác. Trong năm 2021, Trung Quốc tiếp tục phát triển chùm vệ tinh quan sát quân sự có thể hỗ trợ giám sát, theo dõi và nhắm mục tiêu vào các lực lượng Mỹ và đồng minh, đồng thời đầu tư vào các hệ thống trinh sát, giám sát, chỉ huy, kiểm soát và liên lạc ở các cấp độ chiến lược, tác chiến, và chiến thuật để cung cấp cho các phương tiện tấn công của Trung Quốc thông tin có độ chính xác cao nhắm vào mục tiêu OTH.

Hệ thống phòng không tích hợp (IADS). PRC sở hữu hệ thống IADS mạnh mẽ và phong phú trên các khu vực đất liền và trong phạm vi 300 hải lý (556 km) tính tờ bờ biển của nước này, hoạt động dựa vào mạng lưới radar cảnh báo sớm rộng khắp, máy bay chiến đấu và nhiều hệ thống SAM. Trung Quốc cũng đã lắp đặt radar và vũ khí phòng không trên các tiền đồn ở biển Nam Trung Hoa, mở rộng hơn nữa tầm hoạt động của IADS. Họ cũng sử dụng hệ thống phòng thủ điểm, chủ yếu để bảo vệ các mục tiêu chiến lược trước tên lửa hành trình tầm xa và các phương tiện tấn công trên không của đối phương.

PLA ngày càng có nhiều tên lửa SAM tầm xa tiên tiến, bao gồm CSA-9 (HQ-9) bản địa và HQ-9B tiếp nối, SA-10 của Nga (S-300PMU) và SA-20 (S-300PMU1/PMU2), tất cả đều được quảng cáo là có khả năng bảo vệ chống lại cả máy bay và tên lửa hành trình bay thấp. Để cải thiện khả năng phòng không chiến lược, PLA sở hữu các hệ thống SAM SA-21 (S-400) Triumf do Nga chế tạo, tiếp nối cho SA-20. So với các hệ thống khác này, các hệ thống SA-21 sở hữu tầm bắn tối đa dài hơn, đầu dò tên lửa được cải tiến và các radar tinh vi hơn.

Trung Quốc sản xuất nhiều loại radar giám sát đường không tầm xa, bao gồm các mẫu được tuyên bố là hỗ trợ phòng thủ tên lửa đạn đạo (BMD) và các mẫu khác được khẳng định có thể phát hiện máy bay tàng hình. Các tài liệu tiếp thị cũng nhấn mạnh khả năng của các hệ thống này trong việc chống tấn công đường không tầm xa và tấn công máy bay hỗ trợ chiến đấu. Các máy bay AEW&C của PLAAF như KJ-2000 và KJ-500 có thể mở rộng hơn nữa phạm vi phủ sóng radar của Trung Quốc vượt xa phạm vi của các radar trên mặt đất.

Phòng thủ tên lửa đạn đạo và hành trình. Kho SAM tầm xa của PLA cũng cung cấp khả năng chống tên lửa đạn đạo ở mức hạn chế. Hệ thống SAM tầm xa CSA-9 (HQ-9) nội địa của Trung Quốc có năng lực hạn chế trong phòng thủ điểm trước các tên lửa đạn đạo chiến thuật. PLA có SAM SA-20 (S-300 PMU2) và SA-21 (S-400) mà có thể sở hữu một số khả năng tấn công tên lửa đạn đạo, tùy thuộc vào tên lửa đánh chặn và cơ sở hạ tầng hỗ trợ. Trung Quốc đang nỗ lực phát triển các hệ thống BMD bao gồm các thiết bị đánh chặn động năng ngoài và trong khí quyển. Trung Quốc đang theo đuổi một tên lửa đánh chặn tầm trung có khả năng chống IRBM và có thể cả ICBM. Tàu tuần dương RENHAI đã được xác định là phương tiện được sử dụng cho khả năng đánh chặn giữa chừng, cho thấy Trung Quốc sẽ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa ở tiền phương trong tương lai gần. Ngoài ra, tên lửa đánh chặn HQ-19 đã trải qua các cuộc thử nghiệm để xác minh khả năng chống tên lửa đạn đạo loại 3000 km. Năng lực phòng thủ tên lửa hành trình của PLA mạnh mẽ hơn năng lực phòng thủ tên lửa đạn đạo của họ, với các SAM tầm ngắn đến trung bình, chẳng hạn như HQ-22, bổ sung cho các SAM tầm xa của PLA trong vai trò này.

Vũ khí siêu thanh. Việc Trung Quốc triển khai MRBM trang bị HGV DF-17 sẽ tiếp tục biến đổi lực lượng tên lửa của PLA. Hệ thống này được đưa vào sử dụng vào năm 2020, theo truyền thông Trung Quốc thì có thể nhằm thay thế một số đơn vị SRBM cũ hơn, và theo một chuyên gia quân sự tại Trung Quốc thì nhằm tấn công các căn cứ quân sự và hạm đội nước ngoài ở Tây Thái Bình Dương.

Lực lượng không quân (PLAAF, Không quân PLAA, Không quân PLAN). Các lực lượng không quân của PLA đang triển khai phương tiện tiên tiến có khả năng hỗ trợ các hoạt động đường dài trong tương lai, khi nhiệm vụ của họ phát triển từ bảo vệ không gian lãnh thổ của Trung Quốc sang phát động các hoạt động các hoạt động tấn công ở khoảng cách xa hơn Chuỗi đảo thứ nhất. Mặc dù khả năng phối hợp vận hành là ưu tiên đã được tuyên bố, nhưng các cuộc tập trận chung giữa các lực lượng hàng không chỉ ở mức hạn chế. PLAAF, Không quân PLAN và Không quân PLAA tiếp tục cải thiện năng lực tiến hành các hoạt động tấn công và phòng thủ ngoài khơi, bao gồm tấn công, phòng không và phòng thủ tên lửa, cơ động chiến lược, các nhiệm vụ trinh sát và cảnh báo sớm, cũng như can thiệp. Đặc biệt, đã có nhiều lời kêu gọi từ ban lãnh đạo để PLAAF trở thành một lực lượng không quân “chiến lược” thực sự, có khả năng triển khai sức mạnh ở khoảng cách xa để tiến quân và bảo vệ lợi ích toàn cầu của Trung Quốc.

+ Năm 2021, máy bay tiếp dầu Y-20U đi vào hoạt động, hỗ trợ PLAAF tiếp tục mở rộng các máy bay chiến đấu, máy bay ném bom và máy bay SMA có thể tiếp nhiên liệu trên không như máy bay AEW&C KJ-500. Những máy bay tiếp nhiên liệu trên không mới này sẽ mở rộng đáng kể khả năng của Trung Quốc trong việc tiến hành các hoạt động tấn công trên không tầm xa.

+ Trung Quốc đang phát triển một thế hệ máy bay ném bom tầm xa mới, có khả năng được đặt tên là H-20, theo nhiều báo cáo và một tuyên bố công khai năm 2016 của Tư lệnh PLAAF khi đó là Tướng Mã Hiểu Thiên. Có thể ra mắt trong thập kỷ tới, H-20 sẽ có tầm hoạt động hơn 10.000 km, cho phép PLAAF bao quát Chuỗi đảo thứ hai và đi vào khu vực Tây Thái Bình Dương. Phạm vi của máy bay ném bom H-20 có thể được mở rộng để bao quát toàn cầu bằng cách tiếp nhiên liệu trên không. Máy bay này cũng dự kiến sẽ sử dụng cả vũ khí thông thường và hạt nhân, cũng như có thiết kế tàng hình.

+ Các đơn vị không kích và không quân của Lục quân PLA đang tạo điều kiện phát triển lực lượng đặc nhiệm mặt đất theo module, cơ động cao, có khả năng thực hiện các chiến dịch viễn chinh. Trong năm 2021, PLAA đã bổ sung ít nhất 6 trực thăng vận tải hạng nặng Z-8 và 12 trực thăng vận tải hạng trung Z-20. Theo truyền thông Trung Quốc, 3 tiểu đoàn máy bay vận tải Z-8 có thể thả dù một tiểu đoàn chiến đấu trong một lần cất cánh. Z-20 cũng được cho là sẽ thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, bao gồm triển khai lực lượng đặc biệt và chống ngầm trên tàu.

+ Các tiền đồn của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa mở rộng phạm vi hoạt động của lực lượng không quân PLA.

THÚC ĐẨY XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI THÔNG TIN HÓA

Những điểm chính

+ PLA coi hoạt động tác chiến thông tin (IO) là một phương tiện để đạt được sự chi phối thông tin sớm trong một cuộc xung đột và tiếp tục mở rộng phạm vi và tính thường xuyên của IO trong các cuộc tập trận quân sự.

+ Hoạt động gián điệp và tấn công trên không gian mạng của Trung Quốc là mối đe dọa mạnh mẽ và liên tục đối với quân đội cũng như các hệ thống cơ sở vật chất then chốt của đối thủ.

+ PLA đang theo đuổi các năng lực chiến đấu thế hệ tiếp theo dựa trên tầm nhìn của họ về cuộc xung đột trong tương lai, mà họ gọi là “chiến tranh trí tuệ hóa”, tức là mở rộng việc sử dụng AI và các công nghệ tiên tiến khác ở tất cả các cấp độ chiến tranh.

(còn tiếp)

Nguồn: Annual report to Congress – Military and Security Development’s involving the People’s Republic China 2022 – Office of the Secretary ofe Defense, Nov 2022 – CĐ tháng 4 & 5/2023

Những điều khó chấp nhận nhất về bản thân chúng ta – Phần VI


Đưa trí tuệ con người vào vòng lặp một cách thông minh

Con người nên đóng vai trò gì trong việc đưa ra quyết định? Với tất cả kiến thức về sai số và lỗi của Hệ thống 1 cùng với vô vàn dữ liệu cũng như khả năng tính toán có sẵn, có vẻ như nền kinh tế thứ hai sẽ tiếp quản nền tảng thứ nhất và Hệ thống số 2 của chúng ta sẽ sớm đưa ra hầu hết các quyết định. Có một câu nói đùa cũ rích rằng nhà máy của tương lai sẽ gồm hai nhân viên: một người và một chó. Công việc của con người sẽ là cho chó ăn, và công việc của con chó sẽ là giữ cho con người không chạm vào bất kỳ máy móc nào. Đó có thật sự là bộ mặt của các công ty trong tương lai.

Chúng tôi không nghĩ vậy. Mặc dù thực tế là chúng ta mắc những định kiến mà máy tính không mắc, nhưng chúng ta cũng có những điểm mạnh mà máy tính không thể nào có. Nhưng có một điều chắc chắn là chúng ta nhận được một lượng dữ liệu khổng lồ từ các giác quan và chúng ta không chọn trước chúng: chúng ta chỉ tiếp nhận tất cả thông tin như cách mà chúng xuất hiện. Chúng ta gặp khó khăn khi chỉ nghe một số âm thanh nhất định hoặc nhìn thấy một số thứ nhất định, ngay cả trong một thời gian ngắn. Máy tính làm điều hoàn toàn ngược lại; nó gặp khó khăn lớn trong việc thu thập thêm dữ liệu hay thu thập các dữ liệu khác ngàoi những gì người thiết kế và lập trình viên cho phép.

Sự khác biệt này làm phát sinh một công việc quan trọng cho những người mà Meehl gọi là “vai trò của cái chân gãy”. Hãy xem ví dụ của ông về một vị giáo sư, người này có thói quen đi xem phim vào mỗi tối thứ Ba hàng tuần trong vài năm. Việc một mô hình máy tính dự đoán rằng vị giáo sư này sẽ đi xem phim vào tuần tới là hợp lý. Thật không may, vị giáo sư này bị gãy chân vào sáng thứ Ba và sẽ phải bó bột, điều này khiến bà không thể đến rạp chiếu phim (ví dụ này đã được nghĩ ra vào năm 1954). Ai cũng sẽ biết ngay rằng vị giáo sư không thể đi xem phim vào buổi tối, nhưng “sức mạnh đặc biệt này” không dễ gì được sao chép bởi một thuật toán máy tính. Đơn giản là tồn tại quá nhiều “yếu tố khác biệt, bất ngờ” có thể ảnh hưởng đến hành vi của vị giáo sư đó. Bất cứ ai thiết kế hệ thống máy tính đều không thể thu thập dữ liệu về tất cả các yếu tố này để chương trình có thể xem xét. Cách duy nhất để làm điều đó là xây dựng một mô hình toàn diện hơn nhiều so với bất kỳ hệ thống máy tính nào trên thế giới.

Một lợi thế lớn khác của con người là kiến thức thông thường. Một số trong chúng ta có nhiều thứ hơn những người khác, nhưng tất cả chúng ta đều có kiến thức nhiều hơn những máy tính tiên tiến nhất. Ngay khi chúng ta được sinh ra, chúng ta đã bắt đầu học hỏi những điều cơ bản về cách thế giới này vận hành, và học chúng một cách nhanh chóng. Mặc dù đã tiến hành nghiên cứu trong nhiều thập kỷ, chúng ta vẫn chưa thể hiểu rõ cách con người có được kiến thức thông thường và những nỗ lực để thấm nhuần những kiến thức này vào máy tính cho đến nay đều thất bại thảm hại.

Do đó, trong nhiều trường hợp, việc có một người kiểm tra các quyết định của máy tính để đảm bảo tính hợp lý là một ý tưởng hay. Thomas Davenport, một học giả lâu năm về phân tích và công nghệ, gọi việc này là “một cái nhìn ra ngoài cửa sổ”. Cụm từ này không đơn thuần là một phép ẩn dụ gợi mở. Nó được lấy cảm hứng từ một phi công mà ông từng gặp. Người phi công này đã mô tả cách anh phụ thuộc rất nhiều vào vào thiết bị trên máy bay để quan sát, nhưng bản thân anh cũng nhận thấy việc thỉnh thoảng tự quan sát đường chân trời là cần thiết. Cách tiếp cận này có thể mang lại lợi ích rất lớn, không chỉ ngăn ngừa lỗi mà còn giúp quản lý uy tín của công ty.

Dịch vụ thuê xe Uber đã có một bài học đắt giá về điều này vào cuối năm 2014. Vào thời điểm đó, công ty nổi tiếng với việc tăng giá đột biến (tăng giá vé tạm thời trong các khung giờ cao điểm), một chiến thuật mà nhiều người tiêu dùng không thể chấp nhận được. Uber khăng khăng (và chúng tôi đồng ý) rằng tăng giá có lợi cho việc cân bằng cung và cầu trong những thời điểm này. Các thuật toán của công ty đã tăng giá để khuyến khích nhiều tài xế tham gia khi nguồn cung cấp xe thực tế hoặc dự đoán không theo kịp nhu cầu của người tiêu dùng.

Cách làm này khiến công ty bị báo chí chỉ trích khi một tu sĩ người Iran bắt 18 người làm con tin tại một quán cà phê ở Sydney, Australia vào tháng 12 năm 2014. Nhiều người đã bỏ trốn khỏi khu vực xảy ra vụ việc và một số người đã cố gắng sử dụng dịch vụ Uber để bỏ trốn. Các hệ thống máy tính của Uber đã phản ứng với nhu cầu tăng đột biến này bằng cách bắt đầu tăng giá. Đối với nhiều người, đây là một phản ứng cực kỳ không phù hợp trong một tình huống khủng hoảng như vậy, và điều này khiến công ty phải đối mặt với sự chỉ trích dữ dội.

Uber đã đưa ra tuyên bố: “Chúng tôi đã không ngừng việc tăng giá ngay lập tức [trong cuộc bao vây tại Sydney]. Đây là một quyết định sai lầm”. Công ty cũng lập trình khả năng khống chế hành động tăng giá đột biến trong một số trường hợp. Bắt đầu vào tối ngày 13 tháng 11 năm 2015, những kẻ tấn công Hồi giáo đã thực hiện một loạt các cuộc tấn công trên khắp Paris. Trong vòng 30 phút kể từ khi tiếng súng đầu tiên nổ ra, Uber đã khống chế lệnh tăng giá đột biến trong thành phố và cảnh báo tất cả người dùng về tình trạng khẩn cấp.

Các ví dụ như thế này cho thấy sự khôn ngoan trong việc kết hợp phán đoán của con người và các thuật toán. Tuy nhiên, khi các công ty áp dụng phương pháp này, họ sẽ cần phải cẩn thận. Bởi vì bản thân con người rất thích các phán đoán của mình và quá tự tin vào nó, nhiều người, nếu không muốn nói là hầu hết chúng ta, thường đưa ra phán đoán quá vội vàng để khống chế lệnh của máy tính, ngay cả khi câu trả lời của nó là tốt hơn. Nhưng Chris Snijder – người thực hiện nghiên cứu về dự đoán của các nhà quản lý mua sắm đã được nhấn mạnh – nhận thấy rằng “những gì bạn thường thường thấy [đó là] sự phán đoán của các chuyên gia được hỗ trợ nằm đâu đó giữa một mô hình và một chuyên gia không được hỗ trợ. Vì vậy, các chuyên gia sẽ làm tốt công việc của họ hơn nếu bạn cũng cấp cho họ một mô hình. Nhưng bản thân mô hình vẫn hoạt động tốt hơn”.

Chúng tôi ủng hộ việc con người tham gia vào vòng lặp chính vì những lý do mà Meehl và Davenport đã mô tả, nhưng chúng tôi cũng ủng hộ việc các công ty có thể “ghi điểm” bất cứ khi nào có thể – họ theo dõi độ chí nh xác của các quyết định của thuật toán so với quyết định của con người theo thời gian. Nếu phần khống chế của con người hiệu quả hơn thuật toán cơ bản, mọi thứ sẽ hoạt động như bình thường. Nếu không, mọi thứ cần phải thay đổi, và bước đầu tiên là làm cho mọi người nhận thức được tỷ lệ thành công thật sự.

Phản hồi cực kỳ quan trọng bởi đó là cách thức Hệ thống 1 học hỏi và cải thiện. Như Kahneman và nhà tâm lý học Gary Klein đã viết: “Đừng bao giờ tin vào trực giác của bản thân. Bạn cần coi trực giác của mình là một điểm dữ liệu quan trọng, nhưng cũng phải đánh giá một cách có chủ ý và có ý thức để xem trực giác đó có ý nghĩa gì trong bối cảnh này hay không”. Cách tốt nhất để cải thiện độ chính xác và giảm sai số của Hệ thống 1 là cung cấp cho nó nhiều ví dụ, đưa ra phản hồi thường xuyên và nhanh chóng về độ chính xác của nó.

Một mối quan hệ cộng tác đảo ngược dẫn đến một ranh giới rõ ràng

Một kỹ thuật giá trị cuối cùng, và là một kỹ thuật mà một số công ty bắt đầu sử dụng, là biến đổi hoàn toàn sự sắp xếp tiêu chuẩn: thay vì dùng máy móc cung cấp dữ liệu đầu vào cho phán đoán của con người, họ có những phán đoán đóng vai trò là đầu vào cho một thuật toán. Google đang tiên phong áp dụng phương pháp này trong tuyển dụng, một lĩnh vực quan trọng đối với công ty, nhưng một phân tích kỹ thuật cho thấy sự sắp xếp tiêu chuẩn đang hoạt động kém hiệu quả.

Trong khi là người đứng đầu bộ phận Vận hành Nhân sự tại Google, Laszlo Bock nhận ra rằng hầu hết các kỹ thuật được sử dụng để tuyển dụng nhân viên mới đều gần như vô dụng. Khi nhóm của ông xem xét đâu là lý do dẫn đến sự khác biệt trong hiệu suất làm việc tại công ty, họ thấy rằng kiểm tra thông tin trước khi tuyển dụng chỉ giải thích được khoảng 7% sự khác biệt, nhận định dựa trên kinh nghiệm nhiều năm chiếm 3% lý do và chỉ 14% bắt nguồn từ các cuộc phỏng vấn việc làm không có cấu trúc – loại phỏng vấn vẫn còn phổ biến nhất, bắt đầu bằng các câu hỏi như “Thế mạnh lớn nhất của bạn là gì?” hay “Vui lòng giới thiệu về bản thân bạn”. Theo Bock, vấn đề với các cuộc phỏng vấn này là:

Họ tạo ra một tình huống phỏng vấn để cố gắng xác nhận những gì họ nghĩ về ai đó, thay vì thật sự đánh giá người đó. Các nhà tâm lý học gọi đây là thiên kiến xác nhận. Dựa trên sự tương tác nhỏ nhất, chúng ta nhanh chóng đưa ra một đánh giá, vô thức bị ảnh hưởng nặng nề bởi chính những định kiến và niềm tin hiện có của bản thân. Vì không nhận ra điều đó, chúng ta vô hình chuyển từ đánh giá một ứng viên sang tìm kiếm bằng chứng xác nhận ấn tượng ban đầu của mình.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Andrew McCafee, Erik Brynjolfsson – Máy móc, nền tảng, cộng đồng – NXB TTTT 2020