Nhật Bản tái vũ trang nhằm đối phó với Trung Quốc – Phần cuối


Tên lửa Tomahawk của Mỹ

Chiến lược an ninh quốc gia Nhật Bản năm 2013 còn cho biết thêm: “Do tầm quan trọng của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở, điều cần thiết sống còn đối với an ninh của Nhật Bản là hợp tác với các đồng minh và các quốc gia khác, như Mỹ, Australia, Ấn Độ, Anh, Pháp, Đức, Italy, Canada, New Zealand và nhiều quốc gia Đông Nam Á để đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực”.

Theo các nguồn tin quân sự Nhật Bản được Reuters trích dẫn, một trong số những điểm yếu “kinh niên” của lực lượng vũ trang Nhật Bản là thiếu đạn dược cũng như phụ tùng thay thế cho máy bay, trong khi sự chuẩn bị chiến đấu của Nhật Bản là không đủ để chống lại hạm đội Trung Quốc ở cửa ngõ Nhật Bản.

Theo chương trình quân sự đã công bố, Nhật Bản dự kiến mua số lượng lớn tên lửa hành trình Tomahawk của Mỹ, cũng như tên lửa đánh chặn để thiết lập hệ thống phòng thủ chống tên lửa đạn đạo của kẻ thù, máy bay trinh sát không người lái, thiết bị cho vệ tinh quân sự, máy bay chiến đấu tàng hình F-35, máy bay trực thăng vũ trang, tàu ngầm, tàu chiến và máy bay vận tải. Để tài trợ cho các gói ngân sách này, ngày 23/12/2022, đảng Dân chủ Tự do (PLD) cầm quyền đã tuyên bố tăng thuế thuốc lá và thuế doanh nghiệp.

Theo trích dẫn của tạp chí The Diplomat (Mỹ), các quan chức Nhật Bản cam kết việc Nhật Bản mua các phương tiện phản công trên cơ sở tôn trọng tinh thần và nội dung của Hiến pháp Nhật Bản cũng như luật pháp quốc tế và không làm tổn hại tới khái niệm một “chính sách hoàn toàn dựa vào phòng thủ”.

Quốc gia yêu chuộng hòa bình

Về mặt chính thức, sẽ không có chuyện Tokyo thực hiện các cuộc tấn công phòng ngừa. Vả lại, các biện pháp phản công này sẽ chỉ được sử dụng trong 3 trường hợp: Nếu một cuộc tấn công vào Nhật Bản hay một quốc gia nước ngoài có mối quan hệ chặt chẽ với Tokyo đe dọa sự tồn vong của đất nước, nếu không có biện pháp thích hợp nào khác để loại bỏ mối đe dọa, và nếu việc sử dụng vũ lực được coi là cần thiết.

Cho dù Trung Quốc rõ ràng là lý do chính khiến Nhật Bản áp dụng các biện pháp mới này, nhưng Tokyo chưa khi nào sử dụng cụm từ “mối đe dọa Trung Quốc”. Cơ quan chiến lược an ninh quốc gia Nhật Bản chỉ nói Trung Quốc là “thách thức chiến lược lớn nhất mà Nhật Bản từng phải đối mặt”.

Mặt khác, Tokyo đã công bố ý định thiết kế một máy bay chiến đấu thế hệ mới nhất với sự hợp tác của các nhà sản xuất BAE Systems PLC của Anh và Leonardo SPA của Italy. Đây là chương trình quân sự đầu tiên mà Nhật Bản thực hiện cùng các đối tác không phải Mỹ, một minh chứng cho quyết tâm của Nhật Bản đa dạng hóa hợp tác quân sự để không phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ.

Trong một bài báo đăng ngày 23/12/2022 trên Geopolitical Monitor, một ấn phẩm có trụ sở tại Toronto chuyên về các sự kiện tình báo quốc tế quan trọng, Giáo sư Stephen Nagy thuộc khoa Nghiên cứu chính trị và quốc tế, Đại học Cơ đốc giáo quốc tế tại Tokyo, nhận định rằng chương trình quân sự mới này “vừa làm thay đổi Nhật Bản bằng việc tập trung vào năng lực phản công và củng cố quốc phòng, đồng thời phù hợp với cam kết của Nhật Bản là một quốc gia hòa bình”.

Chuyên gia địa chiến lược này nói: “Những nội dung được công bố làm nổi bật thực tế rằng Nhật Bản đã đạt được những bước tiến từ nhiều thập kỷ qua trong lĩnh vực quân sự, trong khi vẫn duy trì chính sách cơ bản của một nền quốc phòng chỉ hướng về quốc gia” bởi Tokyo luôn chú ý để không trở thành mối đe dọa đối với một quốc gia khác và vẫn quyết tâm không trở thành một cường quốc hạt nhân.

Mỹ sẽ không chịu thua kém bởi vì sau Hạ viện, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu vào ngày 22/12/2022 về một đạo luật cấp viện trợ quân sự trị giá 10 tỷ USD cho Đài Loan trong năm tới. Khoản viện trợ này sẽ cho phép Đài Loan tăng cường năng lực quốc phòng trước mối đe dọa xâm lược từ Trung Quốc đại lục, vốn đã trở nên rõ ràng kể từ chuyến thăm của bà Nancy Pelosi, nhân vật có vai vế thứ ba của Mỹ, tới Đài Loan Mùa hè năm 2022.

Quốc hội Mỹ đã bật đèn xanh cho “sự hỗ trợ quân sự nước ngoài” dành cho Đài Loan lên tới 2 tỷ USD mỗi năm từ năm 2023 đến năm 2027 để hòn đảo này mua các thiết bị quân sự khác. Quốc hội cũng cho phép Tổng thống Joe Biden triển khai “các kho dự trữ khẩn cấp khu vực” vì Đài Loan. Điều này cho phép Đài Loan có được “các phương tiện phòng thủ”. Cuối cùng, Quốc hội Mỹ đã thông qua đạo luật cho phép các lực lượng vũ trang Đài Loan tham gia các cuộc tập trận quân sự chung của Mỹ ở Thái Bình Dương (RIMPAC) vào năm 2024. Kể từ khi bà Thái Anh Văn được bầu làm tổng thống vào năm 2016, Đài Loan đã phải đương đầu với các chiến dịch đe dọa của Chính quyền Bắc Kinh nhằm làm suy yếu hòn đảo về mặt ngoại giao, kinh tế và quân sự.

Đạo luật này cũng nhấn mạnh rằng quyết định của Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào năm 1979 xuất phát từ ý tưởng rằng tương lai của Đài Loan sẽ được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình. Do đó, mọi ý đồ áp đặt tương lai cho hòn đảo này bằng bất kỳ phương tiện nào khác, bao gồm tẩy chay và cấm vận, đều là một lý do gây lo ngại nghiêm trọng đối với Mỹ.

Các cuộc tập trận hải quân Trung – Nga

Những căng thẳng xung quanh Đài Loan không có dấu hiệu giảm bớt. Vào giữa tháng 12/2022, có tới 21 máy bay quân sự Trung Quốc, trong đó có 18 máy bay ném bom H-6 có khả năng mang vũ khí hạt nhân đã xâm nhập Vùng nhận diện phòng không (ADIZ) của Đài Loan chỉ trong một ngày.

Trung Quốc đã gia tăng đáng kể số lần xâm nhập vào phía Tây Nam của Đài Loan trong 2 năm qua. Như vậy, kể từ đầu năm 2022, Bắc Kinh đã thực hiện 1068 lần xâm nhập vào ADIZ của Đài Loan, vượt con số 969 lần của năm 2021.

Ngày 21/2/2022, các tàu chiến của Nga đã bắt đầu các cuộc tập trận chung với Hải quân Trung Quốc ở biển Hoa Đông kéo dài 1 tuần (đến ngày 27/12/2022). Nhân dịp này, hải quân hai nước tiến hành diễn tập chung tên lửa, pháo binh và tác chiến chống ngầm.

Trong tuyên bố của mình, Moskva cho biết: “Mục tiêu chính của cuộc tập trận chung này là tăng cường hợp tác hải quân giữa Nga và Trung Quốc nhằm duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương”. Đây không phải là lần đầu tiên trong năm 2022 quân đội Nga và quân đội Trung Quốc tham gia diễn tập hải quân chung. Quả thực, cuộc diễn tập hải quân chung hồi tháng 9/2022 tại biển Hoa Đông dường như là một minh chứng mới cho việc xích lại gần nhau về mặt quân sự giữa Moskva và Bắc Kinh.

Tên lửa Đài Loan có khả năng tấn công Bắc Kinh

Ngày 26/12/2022, Tiến sĩ Cung Gia Chính, cựu Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ quốc gia Trung Sơn của Đài Loan, tiết lộ rằng quân đội Đài Loan hiện đã có tên lửa có khả năng tấn công Bắc Kinh. Vũ khí mang tên Hsiung Feng 2 là một tên lửa hành trình đất đối đất từng được biết đến nhưng tầm bắn được công bố hiện đã xa hơn rất nhiều. Nó có thể mang các đầu đạn có khả năng bắn tới các trung tâm chỉ huy quân sự hoặc căn cứ không quân sâu bên trong lãnh thổ Trung Quốc đại lục.

Thay đổi địa chiến lược này của Nhật Bản chắc chắn thể hiện sự thay đổi cơ bản trong cán cân địa chiến lược ở Đông Á, khu vực được coi là trọng tâm của tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong những năm tới. Nó dường như làm gia tăng sự cô lập đối với Trung Quốc ở khu vực này khi một số nước láng giềng của Trung Quốc thiết lập các mối liên minh ngày càng sâu sắc với Mỹ.

Nguồn: www.asialyst.com

TLTKĐB – 18/02/2023

Nhật Bản tái vũ trang nhằm đối phó với Trung Quốc – Phần đầu


Nhật Bản đã bắt đầu một sự thay đổi địa chiến lược hoàn toàn với quyết định tái vũ trang ồ ạt và quay lưng lại với chính sách hòa bình được tuân thủ từ năm 1945. Như vậy, Nhật Bản đã đứng cùng Mỹ – đối thủ chính lâu đời của chế độ cộng sản ở Bắc Kinh – trên tuyến đầu chống Trung Quốc.

Ngày 16/12/2022, Chính phủ Nhật Bản đã công bố một chương trình quân sự trị giá 320 tỷ USD để mua tên lửa tầm trung có khả năng tấn công lãnh thổ Trung Quốc. Ngân sách quốc phòng của Nhật Bản đã tăng gấp đôi. Trong 5 năm tới, chi tiêu quốc phòng của nước này sẽ tăng lên 2% GDP, một mức chưa từng đạt được kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

Để biện minh cho những quyết định sẽ sớm đưa Nhật Bản trở thành quốc gia thứ ba trên thế giới về chi tiêu quân sự sau Mỹ và Trung Quốc, Thủ tướng Kishida Fumio tuyên bố đất nước và người dân Nhật Bản đang ở trong “một bước ngoặt mang tính lịch sử”. Ông nói rằng chương trình này “là phản ứng của Nhật Bản trước những thách thức an ninh mà chúng tôi phải đối mặt. Môi trường an ninh xung quanh Nhật Bản đang thay đổi nhanh chóng. Tôi sẽ quyết tâm hoàn thành vai trò Thủ tướng của mình, đó là bảo vệ đất nước và người dân Nhật Bản”.

Ông Kishida nói thêm: “Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện một thử nghiệm mô phỏng để xác định xem năng lực quốc phòng của Nhật Bản có đủ để đảm bảo an ninh quốc gia hay không. Tôi cho rằng năng lực hiện tại là không đủ. Nhật Bản cần tăng cường năng lực của mình trong một số lĩnh vực quan trọng như khả năng đáp trả một cuộc tấn công. Nhật Bản cũng cần tăng cường phòng thủ trong không gian mạng, nơi ranh giới giữa tình trạng khẩn cấp và hòa bình đang trở nên mờ nhạt”.

Toshimichi Nagaiwa, một tướng về hưu, nhận định: “Ukraine đã cho chúng tôi thấy sự cần thiết phải có khả năng lãnh đạo một cuộc chiến và Nhật Bản chưa hề có sự chuẩn bị cho điều này. Nhật Bản xuất phát chậm, cư như thể bị tụt lại phía sau 200m trong cuộc đua 400m. Về phần mình, cựu đô đốc hải quân Yoji Koda khẳng định: “Điều này mở ra một con đường mới cho Nhật Bản. Nếu chương trình này được thực hiện đúng cách, lực lượng phòng vệ Nhật Bản sẽ trở thành một lực lượng thực sự, đẳng cấp thế giới và hoạt động hiệu quả”.

Trong một tuyên bố chính thức vào ngày 23/12/2022, Ngoại trưởng Mỹ Anthony Blinken đã hoan nghênh chương trình này và chỉ ra rằng Nhật Bản là “đối tác không thể thiếu của Mỹ để đối phó với những thách thức cấp bách nhất đối với sự ổn định toàn cầu. Các văn kiện mới của Nhật Bản đã xác định lại năng lực của Liên minh chúng ta trong việc thúc đẩy hòa bình và một trật tự dựa trên các quy tắc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cũng như trong phần còn lại của thế giới”.

Trong khi Chính phủ Trung Quốc cáo buộc Nhật Bản “hung hăng” và “khiêu khích”, Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn đã tận dụng cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Hiệp hội trao đổi Nhật Bản- Đài Loan Mitsuo Ohashi vào ngày 23/12/2022 tại Đài Bắc để bày tỏ hy vọng hai bên “sẽ tiếp tục đạt được những thành công mới trong sự hợp tác trên các lĩnh vực như quốc phòng, an ninh, kinh tế, thương mại và chế biến công nghiệp”.

Môi trường an ninh nghiêm trọng nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai

Do sức ép của Mỹ, sau khi đầu hàng vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã phải chấp nhận một Hiến pháp hòa bình vào năm 1948, theo đó cấm họ tiến hành các hoạt động quân sự bên ngoài lãnh thổ của mình. Nhưng việc nhận thấy mối đe dọa Trung Quốc ngày càng tăng đã khiến Chính quyền Tokyo thay đổi hoàn toàn thái độ trong những năm gần đây.

Những quyết định mới nhất này đã gây ra một số hậu quả nặng nề đối với khu vực Đông Á. Trên thực tế, trong những năm gần đây, Nhật Bản đã trang bị cho mình một lực lượng hải quân rất tối tân và một lực lượng không quân không kém phần hiệu quả, đóng vai trò quyết định trong trường hợp Bắc Kinh quyết định tấn công Đài Loan mà Chính quyền Bắc Kinh chỉ coi là một tỉnh của Trung Quốc.

Chiến lược an ninh quốc gia Nhật Bản công bố năm 2013 cho biết Nhật Bản đang “ở trong tình trạng an ninh nghiêm trọng nhất” kể từ khi kết thúc chiến tranh khi phải đối đầu với một Triều Tiên hiếu chiến và một Trung Quốc đang gia tăng đáng kể những hoạt động quân sự trong những năm gần đây. Chiến lược này còn cho hay Nhật Bản “sẽ chuẩn bị đặt nền móng cho một kịch bản xấu nhất”, bởi vì trong khi trọng tâm của thế giới chuyển sang châu Á – Thái Bình Dương, “một số quốc gia” tìm cách tăng cường ảnh hưởng và các hành động cưỡng ép đối với các quốc gia khác.

Kể từ năm 1945, ngân sách quốc phòng của Nhật Bản chưa bao giờ vượt quá 1% GDP, một giới hạn mà các chính phủ kế tiếp nhau đã cam kết tuân thủ. Người đầu tiên công khai nói về mối đe dọa Trung Quốc là Thủ tướng Abe Shinzo (bị ám sát ngày 8/7/2022). Ông Abe đã công khai tuyên bố rằng một cuộc xâm lược của Trung Quốc chống Đài Loan sẽ gây ra mối đe dọa trực tiếp cho Nhật Bản và tuyên bố rằng đất nước của ông phải sẵn sàng về mặt quân sự cho một cuộc xung đột như vậy.

Ngân sách quân sự của Trung Quốc, không ngừng tăng (+130% trong thập kỷ qua), hiện gấp 5 lần so với Nhật Bản và 12 lần so với Đài Loan, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với Mỹ, quốc gia có ngân sách quốc phòng vượt quá tổng ngân sách quốc phòng của các quốc gia khác trên hành tinh. Riêng năm 2021, tổng chi tiêu quân sự của Trung Quốc lên tới 293 tỷ USD.

(còn tiếp)

Nguồn: www.asialyst.com

TLTKĐB – 18/02/2023

Những toan tính của Nhật Bản trong kế hoạch mới Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương – Phần cuối


Việc lựa chọn công bố “Kế hoạch mới” ở Ấn Độ cũng liên quan mật thiết đến giấc mơ về một “cường quốc chính trị” của Nhật Bản. Thứ nhất, Nhật Bản coi Ấn Độ là “mảnh đất thuận lợi” cho ngoại giao. Mở đầu bài phát biểu, Kishida đã nêu rõ lý do công bố chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương giữa Ấn Độ và Nhật Bản: Abe lần đầu tiên đề xuất ý tưởng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ở Ấn Độ năm 2007, Kishida có bài phát biểu tại Hội đồng vấn đề thế giới ở Ấn Độ cũng là lặp lại việc làm này. Năm 2015, trong nhiệm kỳ ngoại trưởng, ở Ấn Độ, Kishida đề xuất thế giới đã bước vào thời kỳ Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Thứ hai, Nhật Bản coi Ấn Độ là đối tác hợp tác tiềm năng nhất. Kishida coi “phía Nam của thế giới” (các nước đang phát triển) là trọng điểm mới về ngoại giao và Ấn Độ là lực lượng chính ở “phía Nam của thế giới”. Nhật Bản cho rằng Ấn Độ sẽ vượt qua chính Nhật Bản để trở thành quốc gia lớn thứ ba trên thế giới về GDP trong một vài năm tới, cũng là một “quốc gia biển” và “quốc gia dân chủ” giống với họ, kết nối những giá trị giống nhau. Vì vậy, để hiện thực hóa giấc mơ “cường quốc chính trị” và thúc đẩy thực hiện “Kế hoạch mới” thì hợp tác Nhật Bản-Ấn Độ không thể thiếu. Thứ ba, năm 2023 là “Năm tương trợ” đối với ngoại giao chủ nhà Nhật Bản-Ấn Độ. Hai bên lần lượt là chủ tịch của G7 và G20, Kishida đã mời Modi đến Nhật Bản dự hội thượng đỉnh G7 vào tháng 5 và dự kiến sẽ thăm lại Ấn Độ để dự hội nghị thượng đỉnh G20 vào tháng 9. Hai nước hy vọng sẽ nhân cơ hội tư cách chủ nhà để giữ vai trò chủ đạo hoặc điều phối chương trình nghị sự của hội nghị thượng đỉnh và tiến hành các cuộc đàm phán cho mục đích này.

Hai là rất khó để che giấu tham vọng xấu xa đối đầu địa chính trị. “Kế hoạch mới” của Nhật Bản vẫn tràn ngập bầu không khí bài trừ và ngăn chặn Trung Quốc. Tuyên bố của Kishida về nội dung “hợp tác với các quốc đảo Nam Thái Bình Dương để đối phó với tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp, viện trợ máy bay không người lái cho các nước đang phát triển và tăng cường chia sẻ thông tin để nhận thức tình hình hàng hải”, giống như tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao của cơ chế an ninh bốn bên (Bộ tứ) bao gồm Mỹ, Nhật, Ấn Độ và Australia vào đầu tháng 3. Còn nội dung “tăng cường hợp tác giữa các cơ quan an ninh trên biển, viện trợ tàu bè, đào tạo nhân tài” là sao chép nội dung bài phát biểu của Kishida tại Hội nghị cấp cao Shangri-La năm 2022. Trong bài phát biểu đó, Kishida đã tuyên truyền về “mối đe dọa trên biển” của Trung Quốc và đưa ra những nhận xét vô trách nhiệm về tình hình ở eo biển Đài Loan. Ngoài ra, trong bài phát biểu ở Ấn Độ, Kishida tuyên bố “không nên phụ thuộc quá nhiều vào một quốc gia duy nhất”, đồng thời coi việc Nhật Bản đạt được Hiệp định tiếp cận tạo thuận lợi cho nhau với Australia và Anh, ký kết Hiệp định cung cấp nguyên vật liệu và lao động chung với Ấn Độ, tăng cường tổ chức các cuộc tập trận chung trên biển với Mỹ và Ấn Độ là nỗ lực và đóng góp kết nối ở nhiều cấp độ, nhiều hình thức.

Ba là phản ánh những lo ngại của Nhật Bản về ảnh hưởng địa kinh tế đang giảm sút. Những dự án cơ sở hạ tầng kinh tế như giao thông, thông tin liên lạc, điện lực… luôn là những thành phần chính trong viện trợ nước ngoài của Nhật Bản. Mặc dù châu Âu và Mỹ thường chỉ trích Nhật Bản vì thiếu các khoản vay và viện trợ không hoàn lại cũng như thiếu nhiều dự án kinh tế xã hội, nhưng Nhật Bản lại thực sự phát huy vai trò quan trọng về tăng cường ảnh hưởng kinh tế quốc tế.

Trong những năm gần đây, Nhật Bản đã đưa ra chiến lược “vươn ra toàn cầu bằng cơ sở hạ tầng”, nhưng khi đề cập đến “sự kết nối”, Kishida tuyên bố “đối mặt với thách thức từ nhà nước độc tài, cần phải hợp tác liên kết với chính phủ và người dân để triển khai cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia. Xem xét liên kết với chính phủ và người dân để thúc đẩy hợp tác phát triển đối ngoại là biện pháp lâu dài của Nhật Bản. Do đó phát biểu của Kishida thực chất là sự pha trộn màu sắc ý thức hệ trong cuộc cạnh tranh kinh tế quốc tế được cho là công bằng và chính đáng, giành lấy dự án một cách hợp lý bằng cách bôi nhọ Trung Quốc.

“Kế hoạch mới” được phương tiện truyền thông Nhật Bản coi là điểm sáng trong chuyến thăm Ấn Độ của Kishida, được đông đảo cộng đồng quốc tế quan tâm. Nhật Bản lấy hợp tác Mỹ-Nhật Bản-Ấn Độ-Australia làm nền tảng, ra sức lôi kéo các nước đang phát triển ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để thúc đẩy Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và kết nối khu vực Nam bán cầu rộng lớn hơn với chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nhật Bản không còn hài lòng chỉ là một “cường quốc kinh tế”, việc sử dụng phối hợp hợp tác an ninh trên biển và trên không cũng như viện trợ nước ngoài sẽ là trọng tâm của các nỗ lực tiếp theo. Nếu Nhật Bản tiếp tục tăng cường cuộc đọ sức an ninh và đối đầu địa chính trị, những thay đổi lớn có thể làm tăng thêm sự hỗn loạn.

Nguồn: TLTKĐB – 15/05/2023

Những toan tính của Nhật Bản trong kế hoạch mới Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương – Phần đầu


Ngày 20/3/2023, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida đã có bài phát biểu tại Hội đồng các vấn đề thế giới của tổ chức tư vấn Ấn Độ, trình bày khá chi tiết về Kế hoạch hành động mới trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mới (“Kế hoạch mới”) của Nhật Bản. “Kế hoạch mới” lộ rõ toan tính theo đuổi tham vọng chính trị nước lớn của Nhật Bản, kiềm chế Trung Quốc, đồng thời cũng có mục đích tranh chấp về ảnh hưởng địa kinh tế.

Kế hoạch Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Nhật Bản có gì mới?

Từ góc độ chủ thể hợp tác, trong bài phát biểu tại Ấn Độ, Kishida lần đầu tiên tuyên bố ông sẽ tăng cường kết nối chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương với nhiều quốc gia lớn hơn, bao gồm Hàn Quốc, Canada, các quốc gia châu Âu, Trung Đông và Nam Mỹ. Ông nhiều lần nhấn mạnh khái niệm “Phương Nam của toàn cầu” và “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của chúng ta”, sẵn sàng mở rộng hợp tác quanh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương sang những quốc gia biển ở các châu lục. Về khái niệm, ông đã làm nổi bật trọng điểm nỗ lực trong tương lai là “đặt ra các quy tắc thông qua đối thoại”, xây dựng “quan hệ đối tác bình đẳng” và “giao lưu nhân dân” chặt chẽ. Kishida cũng đề xuất tôn trọng đa dạng lịch sử và văn hóa của các quốc gia. Thế giới không nên bị đơn cực, lưỡng cực hoặc do một vài cường quốc lãnh đạo. Ông kêu gọi tránh để bị rơi vào cạm bẫy cạnh tranh địa lý và hướng tới “thế giới mà nhiều quốc gia cùng tồn tại và cùng thịnh vượng dưới sự quản lý của pháp luật”.

Điểm mới lớn nhất là đề xuất bốn trụ cột mới. Một là hòa bình và thịnh vượng. Đi đôi với tuyên bố lập trường chống Nga, Kishida tập trung tuyên truyền khái niệm hợp tác kinh tế quốc tế của Nhật Bản, bao gồm trật tự kinh tế tự do, công bằng, tuân thủ các quy tắc cảu Tổ chức thương mại thế giới (WTO), giới thiệu Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) do Nhật Bản thúc đẩy có tiêu chuẩn quy tắc cao hơn.

Hai là để đối phó với vấn đề toàn cầu, Kishida nêu rõ vấn đề quản trị toàn cầu như biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, y tế cộng đồng và an ninh vũ trụ… ngày càng trở nên quan trọng. Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương phải đưa ra những chương trình nghị sự đó vào phạm vi hợp tác, các bên sẽ cùng xây dựng “quan hệ đối tác bình đẳng” và “cộng đồng châu Á không carbon”.

Ba là thực hiện kết nối chiều cơ chế và đa cấp độ. Biện pháp chính bao gồm cam kết cung cấp một khoản vốn mới trị giá 100 triệu USD vào Quỹ liên kết Nhật Bản-ASEAN, tăng cường kết nối Nhật Bản-ASEAN trên nhiều lĩnh vực; hỗ trợ liên kết kinh tế Nam Á, đặc biệt là phối hợp phát triển igữa khu vực Đông Bắc Ấn Độ và Bangladesh; tiếp tục hỗ trợ các đảo quốc Nam Thái Bình Dương quản lý biển, ứng phó với dịch COVID-19, phòng chống thiên tai, thúc đẩy xây dựng sân bay Palau và Nhật Bản, Mỹ, Australia cùng xây dựng tuyến cáp quang ở Nam Thái Bình Dương.

Bốn là đảm bảo an ninh trên biển và trên không. Không phận được đưa vào phạm vi hợp tác an ninh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đề xuất tăng cường xuất khẩu thiết bị kiểm soát và cảnh báo sớm như radar, đào tạo nhân viên an ninh không phận, tăng cường hợp tác sử dụng máy bay không người lái (UAV).

Mục đích “Kế hoạch mới” của Nhật Bản là gì?

Một là Nhật Bản mơ ước trở thành “cường quốc chính trị” dưới quyền bá chủ của Mỹ. Trong bài phát biểu của mình, Kishida nhấn mạnh những thay đổi lớn của tình hình quốc tế, thực chất là dọn đường cho đề xuất Nhật Bản sẽ ứng biến theo cách chưa từng có. Theo quan điểm của mình, tình hình thay đổi là cơ hội để Nhật Bản hiện thực hóa giấc mơ trở thành một “cường quốc chính trị”. Bài phát biểu của Kishida tại Ấn Độ tuyên truyền về Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ổn định và tiên tiến, phải trở thành tầm nhìn chung của cộng đồng quốc tế. Việc cao giọng nhấn mạnh tương tự đối với tình hình quốc tế cũng từng xuất hiện trong bài phát biểu tại Hội nghị cấp cao Shangri-La. Việc làm này phản ánh đặc điểm của Kishida: Có “tầm nhìn toàn cầu” và ý thức “nắm quyền lực chính trị của nước lớn”. Việc nhấn mạnh mối quan tâm đến các nước nhỏ yếu và cam kết sẽ hỗ trợ nhiều hơn cho khu vực các nước đang phát triển trên thế giới, rõ ràng có ý định là lôi kéo thêm nhiều quốc gia bằng thái độ nhún nhường và chính trị đúng đắn, đồng thời tăng cường khả năng hiện diện của Nhật Bản trên chính trường quốc tế. Chủ trương Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Nhật Bản đã chuyển từ tập trung vào biển sang khái quát hóa, chương trình nghị sự, đối tác hợp tác. Đây là biểu hiện của Nhật Bản muốn nỗ lực trở thành điểm kết nối quan hệ quốc tế, đại diện phát ngôn về trật tự quốc tế trong bối cảnh kiên trì tăng cường liên minh Mỹ-Nhật và cho rằng liên minh Mỹ-Nhật đã được tăng cường chưa từng có.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 15/05/2023

An ninh mạng: Bước nhảy vọt của Nhật Bản – Phần cuối


Tăng cường hợp tác quốc tế

Hai tài liệu chiến lược được công bố vào tháng 12/2022 cũng nhấn mạnh sự cần thiết của Nhật Bản, trong quá trình thích ứng với các hình thức chiến tranh mới, bao gồm cả chiến tranh mạng, phải hợp tác chặt chẽ hơn với “các đồng minh của mình, các quốc gia có cùng giá trị và các quốc gia khác”. Đối với các đồng minh, Mỹ luôn đi đầu trong lĩnh vực mạng cũng như trong các lĩnh vực khác. Nhưng hợp tác quốc tế và thiết lập “quan hệ đối tác kỹ thuật số” với các cường quốc khác như Pháp trong không gian Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cũng có thể giúp cải thiện việc giám sát các hoạt động bất hợp pháp gây bất ổn trong lĩnh vực hàng hải, và việc giám sát các tuyến cáp ngầm. Tổng quát hơn, các hành động chung có thể được thực hiện dựa trên sự hợp tác trong lĩnh vực công gnhệ mạng trong bối cảnh cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.

Năm 2018, Nhật Bản cũng đã tài trợ cho một trung tâm “xây dựng năng lực” trong lĩnh vực công nghệ mạng với ASEAN, nhằm đào tạo 700 chuyên gia trong 4 năm. Trung tâm này – cũng là một phần trong cuộc tấn công ngoại giao của Nhật Bản đối với các nước Đông Nam Á nhằm chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc – đã tổ chức một loạt các khóa học đào tạo về phần mềm độc hại, tấn công mạng hoặc diễn tập phòng thủ mạng.

Trên trường quốc tế, lĩnh vực điều khiển học thực sự tạo ra cho Nhật Bản, giống như giải trừ hạt nhân, một cảm hứng trong chính sách đối ngoại thích hợp với việc đưa ra khái niệm về lưu thông dữ liệu tự do tin cậy (DFFT) vào năm 2019 nhân dịp hội nghị thượng đỉnh G20 ở Osaka. Điều này nhằm khuyến khích lưu thông tự do dữ liệu công khai giữa các đối tác đáng tin cậy như Mỹ, Liên minh châu Âu hoặc Ấn Độ, đồng thời kiểm soát việc phổ biến hoặc đánh cắp thông tin nhạy cảm – thông tin cá nhân, công nghệ và bất kỳ loại thông tin nào có hại cho an ninh quốc gia. Khái niệm DFFT là một sự đáp trả mô hình kiểm soát thông tin độc quyền của Trung Quốc thông qua kiểm duyệt và lợi dụng sơ hở của đối thủ, đặc biệt liên quan đến hành vi đánh cắp tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, mức độ còn chưa đầy đủ về bảo mật và bảo vệ dữ liệu của Nhật Bản có thể cản trở việc thực hiện quyền tự do di chuyển hoàn toàn các dữ liệu giữa các “đồng minh đáng tin cậy”.

Kết luận

Kể từ năm 2015 và việc thông qua Chiến lược an ninh mạng đầu tiên, Nhật Bản đã đạt được những tiến bộ đáng kể về an ninh mạng, đặc biệt là trong việc nâng cao nhận thức và xác định mục tiêu thông qua hai văn bản cơ bản về an ninh và quốc phòng được công bố vào tháng 12/2022. Năm 2015, triển vọng của Thế vận hội Olympic 2020 đã đóng một vai trò thúc đẩy trong nhận thức này cũng như trong việc thành lập các tổ chức dành riêng cho an ninh mạng. Từ năm 2020, đại dịch COVID-19 và nhu cầu phi vật chất hóa mà nó tạo ra đã đẩy nhanh đáng kể động lực ban đầu. Sự trỗi dậy về công nghệ của Trung Quốc trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và thái độ hung hăng thể hiện trong chiến lược đối ngoại của nước này cũng đóng một vai trò quan trọng. Trong nội bộ nhóm các nền dân chủ tiên tiến, Nhật Bản không thể bị bỏ lại phía sau, nếu không muốn trở thành một mắt xích yếu trong lĩnh vực chiến lược về bảo mật dữ liệu và chiến đấu trong tương lai. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trở ngại khó vượt qua. Như chúng ta đã thấy, mức độ số háo thấp của một xã hội già hóa có thể là một hình thức bảo vệ “tiêu cực” nhưng cũng là một nguồn dễ bị tổn thương trước các hoạt động xâm nhập hoặc gây ảnh hưởng. Sự ngờ vực của quần chúng trước những nguy cơ xâm nhập của chính quyền (muốn đạt được một sự lưu thông dữ liệu tự do và để có được sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức chính phủ) đã hạn chế những tiến bộ có thể có. Do đó, bất chấp áp lực ngày càng tăng, hiện người Nhật vẫn dè dặt khi sử dụng mã số định danh phổ thông “My Number”, đặc biệt là do khả năng bảo vệ dữ liệu kém ở cấp chính quyền địa phương. Nhưng những trở ngại cũng nằm ở cấp độ chính trị và lập pháp. Mặc dù các đảng chính trị tham gia chính phủ nhất trí về sự cần thiết phải cải thiện khả năng an ninh mạng của Nhật Bản, các vấn đề về ngân sách để tài trợ cho các mục tiêu đã nêu vẫn chưa được giải quyết. Ngay cả trong nội bộ đảng Dân chủ Tự do (LDP) đang nắm quyền, vẫn tồn tại sự chia rẽ về các phương thức tài trợ, nhất là bằng cách tăng thuế, cũng như về vấn đề tăng ngân sách quốc phòng (sẽ có thể chiếm 2% GDP) vào năm 2027). Bất chấp các thông báo, không có thời gian biểu chính xác nào được đưa ra để tài trợ cho ngân sách mà một phần trong đó liên quan đến an ninh mạng.

Cuối cùng, việc thực hiện các biện pháp đã công bố đòi hỏi phải xem xét lại khuôn khổ lập pháp và hiến pháp của Nhật Bản. Ở cấp độ hiến pháp, Điều 21 của Hiến pháp đảm bảo việc bảo vệ các thông tin cá nhân. Điều này cấm giám sát các trao đổi và xác định nguồn gốc của một cuộc tấn công phủ đầu trong lĩnh vực an ninh. Ngoài khuôn khổ một tình thế khẩn cấp đòi hỏi phải huy động các lực lượng, thì lực lượng phòng vệ cũng không thể áp đặt việc hỗ trợ và chia sẻ thông tin với các công ty tư nhân. Ở một cấp độ khác, khái niệm phòng thủ chủ động áp dụng cho không gian mạng, với việc khiển khai khả năng giám sát hoặc các biện pháp đối phó phủ đầu (xâm nhập và chống hack), bị tranh cãi nhân danh sự tôn trọng tính chất phòng thủ độc quyền của chính sách quốc phòng Nhật Bản; có nguy cơ làm chậm lại hoặc ảnh hưởng đến các tiến trình nhằm ứng phó tốt hơn với các mối đe dọa mà quần đảo đang phải đương đầu.

Nếu không cải cách hiến pháp và lập pháp, Nhật Bản sẽ không thể thực hiện các mục tiêu an ninh mạng đã đề ra. Mặt khác, việc dư luận chấp nhận những tiến trình này cũng là một yếu tố càng quan trọng hơn nữa vì các phương tiện hành động của cơ quan Hành pháp vẫn còn hạn chế do chống lại ý chí của Nghị viện, và cả của dư luận. Một trong những trở gnại cho việc chấp nhận những tiến trình này vẫn là mức độ bảo vệ dữ liệu cá nhân thấp và sự yếu kém của luật pháp. Vì vậy, một cuộc đối thoại sâu sắc hơn nữa với Liên minh châu Âu – tổ chức này đã triển khai Quy định chung về bảo vệ dữ liệu (GDPR) vào năm 2018, một trong những quy định nghiêm ngặt nhất về bảo vệ dữ liệu – có thể tỏ ra rất tích cực. Tại Pháp, Đạo luật bảo vệ dữ liệu, có từ năm 1978 và được cập nhật vào năm 2019 để tích hợp các điều khoản của GDPR, cũng là một mô hình mà Nhật Bản có thể áp dụng trong hành trình hướng tới triển khai một hệ thống an ninh mạn ghiệu quảk an toàn và công bằng.

Nguồn: www.frstrategie.org – số 5/2023

TLTKĐB – 28/04/2023

An ninh mạng: Bước nhảy vọt của Nhật Bản – Phần II


Vị trí của không gian mạng trong Chiến lược an ninh quốc gia và Chiến lược phòng thủ quốc gia

Hai tài liệu do Nhật Bản công bố tháng 12/2022 nhấn mạnh đến sự phát triển của an ninh mạng, thông qua việc tăng cường đáng kể năng lực của Nhật Bản và cải cách cấu trúc phòng thủ để xử lý tốt nhất trong lĩnh vực này. Nó cũng liên quan đến việc nâng cao nhận thức về những thách thức, cải thiện khả năng ứng phó của tất cả các cơ quan chính phủ (các bộ, lực lượng tự vệ, cảnh sát…) và chú ý vấn đề bảo mật đối với các công nghệ nhạy cảm trong các lĩnh vực dân sự và quân sự.

Vấn đề ứng phó với các phương pháp chiến tranh hỗn hợp mới, trong đó có không gian mạng, được coi là một thách thức lớn đối với khả năng phòng thủ trong tương lai của đất nước. Việc củng cố cấu trúc phòng thủ phải huy động tất cả các khía cạnh sức mạnh, quân sự cũng như khoa học, công nghệ, dân sự… đặc biệt trong lĩnh vực mạng.

Như vậy, trong Chiến lược an ninh quốc gia, một văn bản dài 36 trang, từ “không gian mạng” được nhắc đến 29 lần. An ninh mạng là chủ đề của một phần riêng biệt có tựa đề “Cải thiện khả năng ứng phó trong lĩnh vực an ninh mạng”. Còn trong văn bản Chiến lược phòng thủ quốc gia, dài 38 trang từ “không gian mạng” xuất hiện 41 lần. Sở dĩ không có phần dành riêng là vì khái niệm không gian mạng có mặt trong mọi lĩnh vực. Do đó, khía cạnh không gian mạng của quốc phòng và an ninh có một tầm quan trọng ngày càng tăng và bao quát đối với Nhật Bản. Điều này được phản ánh trong việc xác định các mục tiêu rất rộng và nghiên cứu các biện pháp mới.

Một tư duy sâu rộng và các biện pháp đa dạng

Biện pháp đầu tiên là hợp lý hóa và củng cố các cơ quan chịu trách nhiệm về an ninh mạng. Chiến lược an ninh quốc gia chủ trương tái cơ cấu NCIS (Cơ quan điều tra hình sự hải quân), chuyển đổi thành một tổ chức mới để điều phối tất cả các chính sách an ninh và phụ trách về tất cả các lĩnh vực của phòng thủ mạng quốc gia.

Tài liệu “Quốc phòng Nhật Bản năm 2022” cũng đề cập đến việc thành lập một đơn vị phòng thủ mạng vào tháng 3/2021, nằm trong trụ sở Bộ quốc phòng ở Tokyo, phụ trách toàn bộ các lực lượng (mỗi lực lượng có các đơn vị phòng thủ mạng riêng).

Chúng ta đang chứng kiến, về mặt quan niệm, một sự phát triển tương tự như đã thấy trong lĩnh vực tên lửa, với sự tư duy sâu sắc về khả năng tấn công phủ đầu. Quan niệm phòng thủ chủ động này giờ đây được áp dụng cho không gian mạng. Để tăng cường năng lực chống lại các cuộc tấn công mạng, cần tuân thủ một lập trường phòng thủ “tiên tiến”, cho phép đánh giá liên tục nguy cơ đối với các hệ thống thông tin quan trọng. Muốn vậy, các lực lượng phòng vệ phải được trang bị các phương tiện “để xâm nhập, ngăn chặn hoặc vô hiệu hóa việc sử dụng tên miền mạng của đối phương”, giám sát những kẻ tấn công tiềm năng và có thể chống lại hệ thống của chúng, cũng cần có những khả năng giám sát và đánh giá liên tục hệ thống thông tin của tất cả các cơ quan chính phủ, để thực hiệ bất kỳ hành động cần thiết nào nhằm phát hiện các máy chủ – bao gồm cả máy chủ tư nhân – dễ bị tấn công bằng cách sử dụng những thông tin được các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông cung cấp. Trong trường hợp bị tấn công, việc chia sẻ thông tin giữa các thực thể tư nhân và các tổ chức chính phủ cũng phải được tăng cường.

Khả năng huy động một hệ thống phòng thủ không gian mạng chủ động nhằm loại bỏ trước nguy cơ xảy ra một cuộc tấn công mạng “nghiêm trọng” có thể được thực hiện ngay cả khi cuộc tấn công mạng đó không được coi là một cuộc tấn công vũ trang. Một cuộc tấn công mạng “nghiêm trọng” được định nghĩa là một cuộc tấn công chống lại các tổ chức chính phủ hoặc cơ sở hạ tầng quan trọng.

Nhật Bản cũng có tham vọng phát triển năng lực của mình khi lưu ý đến khía cạnh nhận thức và chiến tranh thông tin – vốn cũng dựa vào các nguồn tài nguyên mạng và trí tuệ nhân tạo – mà các nền dân chủ đang phải đối mặt. Về vấn đề này, mối đe dọa lớn nhất – trong trường hợp của Nhật Bản – đến từ Trung Quốc, quốc gia đã đặt việc thao túng thông tin và chiếm ưu thế thông tin trong mọi lĩnh vực vào trung tâm tư duy chiến lược của mình trong bối cảnh chiến tranh bất đối xứng. Đối mặt với cuộc tấn công này, những khả năng phản kháng cũng như khả năng “phản thông tin” phải được tăng cường ở tất cả các cấp chính quyền.

Về mặt tác chiến, và xuất phát từ một cấp độ rất khiêm tốn, các lực lượng phòng vệ muốn thiết lập vào năm 2027 một vị thế an ninh mạng có khả năng bảo vệ các hoạt động kiểm soát và chỉ huy cũn gnhư các hệ thống ưu tiên trước một cuộc tấn công mạng đồng thời hỗ trợ mọi năng lực phòng thủ mạng của ngành công nghiệp quốc phòng. Đến năm 2030, mục tiêu là có thể hoàn thành tất cả các nhiệm vụ trong những điều kiện bị một cuộc tấn công mạng đồng thời tăng cường năng lực của các lực lượng phòng vệ để đảm bảo khả năng phòng thủ mạng trước các thực thể bên ngoài.

Đối với các lực lượng Nhật Bản cũng vậy, cũng cần tích hợp những khả năng của ba lĩnh vực không gian, mạng và điện từ nhằm tạo ra những sự hiệp đồng thuận lợi cho một sự đáp trả tốt nhất, thực hiện tham vọng chính thức là đạt đến một cấp độ năng lực đáp trả “cao hơn hoặc tốt nhất so với cấp độ của các nước phương Tây”.

Về nhân sự, mục tiêu là tăng cường các đơn vị chuyên trách của các lực lượng phòng vệ lên tới 5000 người vào năm 2027. Năm 2022, quân số của đơn vị phòng thủ mạng được thành lập vào tháng 3 là 540 người, tính toàn bộ số nhân viên được giao các nhiệm vụ khác là 890 người. Dự kiến thành lập một chuyên khoa giảng dạy về không gian mạng nằm trong chương trình giảng dạy kỹ thuật đại học của các lực lượng phòng vệ mặt đất, cũng như việc gia tăng các cuộc diễn tập, kể cả với NATO. Từ ngày 13 – 16/4/2021, một đội thuộc các lực lượng phòng vệ đã lần đầu tiên tham gia các cuộc tập trận Lock Shield do Trung tâm hợp tác phòng thủ mạng của NATO (CCDCE) tổ chức. Nhật Bản cũng tham gia từ xa các cuộc tập trận vào tháng 6/2022, cùng với Anh. Quần đảo này cần những cơ hội để đánh giá và xác định đúng hơn các năng lực của mình trong 30 quốc gia liên quan, vì họ đã chậm trễ khoảng 10 năm so với các nền dân chủ lớn khác.

Tuy nhiên, sự gia tăng nguồn nhân lực có trình độ vấp phải sự yếu kém về mức độ số hóa và năng lực của xã hội. Về mặt đổi mới, mạng lưới các công ty khởi nghiệp vẫn còn rất thiếu ở quần đảo này, và ít được ưu ái bởi các nguồn cung tài chính, mà theo truyền thống thường hướng tới các công ty rất lớn. Các công ty rất lớn này từ lâu đã là nguồn sáng tạo chính, đặc biệt trong lĩnh vực ô tô hoặc điện tử tiêu dùng, nhưng vào thời điểm hiện tại, rất ít sáng tạo trong lĩnh vực mạng.

Trong dân chúng nói chung, vào năm 2015, chỉ 46% thế hệ 16 – 25 tuổi có khả năng giải quyết các vấn đề trong một môi trường công nghệ phức tạp. Tỷ lệ này chỉ là 10% ở thế hệ 55 – 65 tuổi, những người nằm trong khung cán bộ ở tất cả các cấp. Tương tự, tỷ lệ sử dụng các dịch vụ tin học trong hành chính chỉ là 7,9% trong khi tỷ lệ trung bình của các nước OECD là 63,3%. Cuối cùng, trong khi 91,5% công ty ở Nhật Bản có một hình thức hiện diện trên Internet, thì chỉ có 30% nhân viên có kỹ năng thấp được đào tạo trong nội bộ sẵn sàng thực hiện quá trình chuyển đổi kỹ thuật số mà Nhật Bản mong muốn.

Tất cả những yếu tố này, cũng có thể được giải thích là do sự già hóa dân số, một hệ thống phân cấp vẫn còn mang đậm dấu ấn của truyền thống tôn trọng người già, hoặc do việc sử dụng Internet từ điện thoại di động hoặc máy chơi game chủ yếu nhằm mục đích giải trí, đã hạn chế khả năng tuyển dụng nhân sự có trình độ trong các công ty tư nhân cũng như trong chính quyền và để đáp ứng nhu cầu của các lực lượng phòng vệ.

(còn tiếp )

Nguồn: www.frstrategie.org – số 5/2023

TLTKĐB – 28/04/2023

An ninh mạng: Bước nhảy vọt của Nhật Bản – Phần I


Giới thiệu

Khía cạnh không gian mạng là trung tâm của tư duy chiến lược ở Nhật Bản. Tháng 12/2022, hai tài liệu về Chiến lược an ninh quốc gia (NSS) và Chiến lược phòng thủ quốc gia (NDS) đã bổ sung và làm sâu sắc thêm chiến lược an ninh mạng được công bố lần đầu tiên vào năm 2015 và được cập nhật vào năm 2018. Tài liệu về an ninh mạng của Nhật Bản này đã xác định các nguyên tắc chung trọng tâm như lưu chuyển tự do thông tin, tôn trọng pháp luật, cởi mở, tự chủ và hợp tác giữa các tổ chức.

Việc nhấn mạnh vào khía cạnh không gian mạng trong hai văn bản cơ bản thể hiện nhận thức của Chính phủ Nhật Bản về tính phức tạp của những thách htức mà Nhật Bản – giống như các nền dân chủ lớn khác – phải đối mặt trong lĩnh vực này, cũng như những khó khăn trong việc phát triển và thực hiện một phản ứng thích hợp trong một khoảng thời gian hạn chế.

Nhận thức về các mối đe dọa đối với Nhật Bản đã khiến ta lo lắng kể từ khi Chiến lược an ninh quốc gia đầu tiên được công bố năm 2013. Môi trường an ninh của Nhật Bản từ nay được mô tả là “nghiêm trọng và phức tạp nhất kể từ cuộc Chiến tranh thế giới thế giới lần thứ hai”. Những cạnh tranh địa chính trị toàn cầu, đặc biệt là sự gia tăng căng htẳng giữa Trung Quốc và Mỹ, việc theo đuổi phát triển năng lực hạt nhân và tên lửa đạn đạo của Triều Tiên, nhưng trên hết là sự gia tăng sức mạnh của một Trung Quốc hung hăng, bị cáo buộc muốn thay đổi hiện trạng bằng vũ lực và các phương tiện cưỡng chế của chiến tranh hỗn hợp, là trung tâm của những mối quan ngại ngày càng tăng này. Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine đã đóng vai trò như một hồi chuông cảnh tỉnh, khiến người ta lo ngại về một cuộc tấn công tương tự của Trung Quốc ở eo biển Đài Loan.

Trong bối cảnh này, các mối đe dọa kiểu hỗn hợp ngày càng tăng cùng với các hoạt động trong vùng xám, giáp ranh giữa dân sự và quân sự, cho dù trên biển hay trong lĩnh vực không gian mạng. Mối đe dọa không gian mạng toàn cầu, đang đè nặng lên quần đảo, là rất đáng kể. Giống như các quốc gia khác, dân chủ hay không, Nhật Bản phải hứng chịu hàng trăm cuộc tấn công mạng mỗi năm. Trong quý I năm 2022, Cơ quan cảnh sát quốc gia nước này đã chính thức ghi nhận 114 vụ tấn công mạng, tăng 87% so với năm trước. Có tới 59 trong số các vụ tấn công này nhằm vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ 36 vụ nhằm vào các doanh nghiệp lớn; đôi khi đối với hãng Toyota, thông qua một công ty con (Kojima). Hầu hết các cuộc tấn công nhằm mục đích lừa đảo, gian lận, đánh cắp danh tính và tôi phạm tài chính, nhưng cũng có các cuộc tấn công bằng phần mềm độc hại, từ chối dịch vụ và phá hoại trang web. Các cơ sở hạ tầng y tế, giống như ở Pháp, đặc biệt dễ bị tổn thương như sự cố lớn tại một bệnh viện ở Osaka vào tháng 10/2022. Theo số liệu của cảnh sát, 70% các cuộc tấn công này đến từ Mỹ, Anh, Trung Quốc và Nga. Trong số các quốc gia này, dù khó xác nhận, Tokyo coi Trung Quốc là mối đe dọa chính, đặc biệt liên quan đến hành vi đánh cắp các dữ liệu công nghệ dân sự hoặc quân sự.

Chính trong lĩnh vực quân sự thuần túy, các phương pháp chiến tranh đã thay đổi. Giờ đây ngoài các hình thức chiến tranh truyền thống và xâm lược lãnh thổ quốc gia đã có thêm các hình thức mới như chiến tranh hỗn hợp, chiến tranh thông tin và chiến tranh phi đối xứng. Các năng lực không gian, đện từ và không gian mạng được sử dụng và tiềm năng của chúng được nhân lên nhờ các công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) đặc biệt được phát triển ở Trung Quốc. Ranh giới giữa chiến tranh và hòa bình đang bị xóa nhòa giữa các hệ thống phòng thủ và tấn công, kể cả trong hệ thống mạng. Hơn nữa, những khó khăn trong việc quy kết, với việc viện đến các nhóm hành động vì bản thân họ như những tên cướp, hoặc vì lợi ích quốc gia như các tàu cướp biển, càng củng cố hiện tượng xóa nhòa chiến tranh và hòa bình này. Trong lĩnh vực không gian mạng, các mối đe dọa trong thời bình càng nghiêm trọng hơn nữa vì chúng ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của người dân và các cơ sở hạ tầng quan trọng như bệnh viện hoặc cơ sở hạ tầng năng lượng. Các mối đe dọa đó  cũng rất nghiêm trọng khiến người ta phải duy trì các khả năng phòng thủ trong cuộc chiến tranh hiện đại. Chúng tác động đến chiến tranh thông tin và các hoạt động gây ảnh hưởng cũng như mất ổn định, dù hỗ trợ hay không các hoạt động quân sự. Trong lĩnh vực dân sự cũng như trong lĩnh vực quân sự, các urỉ ro đang gia tăng cùng với nhu cầu tăng cường số hóa các năng lực.

Những hệ thống dễ bị tổn thương

Ngày 1/9/2021, trước sức ép của cuộc khủng hoảng COVID-19, chính phủ Nhật Bản đã thành lập một “Cơ quan số hóa”, trong đó có 150 trên tổng số 500 nhân viên đến từ khu vực tư nhân. Sự phá bỏ các thông lệ này của chính quyền, cũng như sự chú trọng dành cho các mối đe dọa không gian mạng trong hai chiến lược an ninh và quốc phòng được công bố vào tháng 12/2022, là dấu hiệu cho thấy nhận thức ở cấp cao nhất về những hạn chế và những yếu điểm của Nhà nước và quốc gia trong lĩnh vực an ninh mạng.

Bất chấp vị thế là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới và hình ảnh của một cường quốc đổi mới được kế thừa từ những năm 1970 và 1980, năm 2022, Nhật Bản chỉ đứng thứ 29/63 quốc gia trong lĩnh vực cạnh tranh kỹ thuật số, giảm một điểm so với năm trước đó, theo Bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh kỹ thuật số thế giới của Viện quản lý phát triển quốc tế (IMD World Digital Competitiveness Ranking). Mãi gần đây Nhật Bản mới nhận thức được sự tụt hậu và những hậu quả của sự tụt hậu này về mặt an ninh, đặc biệt là do một hệ thống lãnh đạo vẫn ưu tiên sử dụng những người lớn tuổi thường không am hiểu về công nghệ và nhận thức không đầy đủ về những vấn đề này.

Ở cấp độ thể chế, trách nhiệm từ lâu đã bị phân tán giữa nhiều tổ chức, không có sự trao đổi thực sự hoặc sự nhất quán trong các mục tiêu và nhiệm vụ. Ngày 1/9/2021, Cơ quan kỹ thuật số đã được thành lập để đối phó với những thách thức do đại dịch COVID-19 gây ra. Cơ quan này phụ trách công việc số hóa và hợp lý hóa các phương tiện được các cơ quan chính thức cấp trung ương và địa phương sử dụng, nhưng không chịu trách nhiệm về an ninh mạng. Thành lập năm 2015 sau khi luật cơ bản về an ninh mạng được thông qua, CSH “tổng hành dinh an ninh mạng” nằm dưới sự chỉ đạo của Tổng thư ký Văn phòng Thủ tướng, phụ trách điều phối và ứng phó khẩn cấp trong lĩnh vực an ninh mạng. Trung tâm quốc gia ứng phó sự cố và Chiến lược an ninh mạng (NSCI) – thay thế (2015) Trung tâm an ninh thông tin quốc gia (2005) – là cánh tay tác chiến của CSH, chịu trách nhiệm xây dựng chính sách an ninh mạng và huy động mọi người lực nhà nước và tư nhân. Cuối cùng, Lực lượng phòng vệ (SDF) chỉ có trách nhiệm với an ninh mạng của chính họ và không thể can thiệp thay cho các tổ chức khác. Hơn nữa, trong SDF, mỗi vũ khí kiểm soát những năng lực của riêng mình.

Về xã hội, mặc dù đã có chủ trương từ năm 2015, Nhật Bản vẫn còn rất chậm trễ trong lĩnh vực số hóa, cho dù ở cấp cơ quan chính phủ, chính quyền trung ương hay địa phương, khả năng tiếp cận dịch vụ hay khu vực tư nhân. Mong muốn hợp lý hóa vẫn chưa được thể hiện bằng một sự đồng bộ các hệ thống và phần mềm được sử dụng. Kiến trúc của các trang web, kể cả các trang của các trường đại học lớn nhất, thường lỗi thời. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, nếu như các tập đoàn lớn có những tiến bộ không thể phủ nhận, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ với mạng lưới đày đặc ở quốc đảo lại không đạt được tiến bộ nào rõ rệt kể cả trong nhận thức về các vấn đề bảo mật. Hơn nữa, ngay cả khi chủ trương số hóa được thực hiện, thì nhìn chung nó vẫn chưa dẫn đến một sự chuyển đổi lớn trong phương thức quản lý.

Để khắc phục những thiếu sót và ứng phó với những thách thức này, giờ đây Nhật Bản chú trọng đến lĩnh vực an ninh mạng.

(còn tiếp)

Nguồn: www.frstrategie.org – số 5/2023

TLTKĐB – 28/04/2023

Vấn đề Đài Loan trong quan hệ Trung – Hàn – Phần cuối


Sự chỉ trích của Trung Quốc dường như chạm vào lòng tự tôn của Hàn Quốc

Bốn luận điểm của Yoon Suk-yeol về vấn đề eo biển Đài Loan đều động chạm đến thần kinh nhạy cảm về tư duy chủ quyền cảu Bắc Kinh. Nói cách khác, không có gì ngạc nhiên khi Bắc Kinh có những phản ứng gay gắt như vậy. Phản ứng của người phát ngôn Uông Văn Bân vào ngày 20/4/23 dường như cũng chạm vào lòng tự trọng của Hàn Quốc. Đáp lại, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hàn Quốc Lim Soo-suk nhấn mạnh rằng tuyên bố của Yoon Suk-yeol phản đối việc bất kỳ bên nào sử dụng vũ lực để thay đổi hiện trạng chỉ đơn thuần là sự tái khẳng định các nguyên tắc phổ quát được cộng đồng quốc tế chấp nhận, nhưng người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại đưa ra những bình luận khó nghe đối với phát biểu của Yoon Suk-yeol, chỉ trích Uông Văn Bân thất lẽ nghiêm trọng, khiến người ta phải đặt câu hỏi về Trung Quốc.

Hơn thế nữa, cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Hàn Quốc dường như đang phát triển theo chiều hướng phản ứng dây chuyền. Bộ Ngoại giao Hàn Quốc đã triệu Đại sứ Trung Quốc tại Hàn Quốc Hình Hải Minh để bày tỏ sự bất mãn mạnh mẽ. Ngày 21/4/23, Ngoại trưởng Trung Quốc Tần Cương đe dọa những ai đùa với lửa trong vấn đề Đài Loan sẽ tự thiêu chính mình khi đề cập đến vấn đề eo biển Đài Loan. Mặc dù nhận xét này không đề cập đến Hàn Quốc hay Yoon Suk-yeol, nhưng một lần nữa làm dấy lên sự chỉ trích từ Bộ Ngoại giao Hàn Quốc, gọi đó là việc không thể dung thứ.

Trung Quốc và Hàn Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao hơn 30 năm, trong quãng thời gian này có hai xung đột chính. Một là vấn đề lịch sử của Cao Câu Ly từ năm 2001 – 2004. “Dự án Đông Bắc” do Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc thành lập năm 2001 đã bị Hàn Quốc đặt câu hỏi rằng Trung Quốc đã xác định Vương triều Cao Câu Ly trong lịch sử là một chính quyền địa phương ở Trung Quốc, cố gắng chuẩn bị cho việc sáp nhập bán đảo Triều Tiên vào lãnh thổ Trung Quốc trong tương lai, gây ra phản ứng dữ dội từ Hàn Quốc. Sau đó, Trung Quốc và Hàn Quốc đã tổ chức tham vấn khẩn cấp trong 9 tiếng rưỡi và đạt được “5 điểm hiểu biết”, Trung Quốc ngay lập tức đình chỉ dự án, giải quyết khủng hoảng trong quan hệ giữa hai nước.

Một sự kiện khác tác động đến quan hệ Trung-Hàn là việc Hàn Quốc chấp thuận triển khai Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) do Mỹ đứng đầu vào năm 2016. Động thái này đã gây ra phản ứng gay gắt từ phía Trung Quốc và tin tức về các biện pháp đáp trả như lệnh hạn chế đối với Hàn Quốc đã lan rộng. Đến năm 2017, Trung Quốc và Hàn Quốc đã đạt được thống nhất, Chính quyền Moon Jae-in khi đó đã thỏa hiệp và tuyên bố sẽ không xem xét bổ sung hệ thống THAAD, không tham gia hệ thống chống tên lửa của Mỹ, không phát triển liên minh quân sự ba bên Hàn-Mỹ-Nhật và không có ý định làm tổn hại đến lợi ích an ninh của Trung Quốc, khiến vụ việc đã không bị leo thang hơn nữa.

Về vấn đề Đài Loan có thể trở thành quả bom hẹn giờ trong quan hệ Trung-Hàn

Nói cách khác, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Hàn Quốc về vấn đề eo biển Đài Loan là một xung đột khác giữa hai nước sau vấn đề lịch sử Cao Câu Ly và THAAD. Cả ba vấn đề này khác nhau về bản chất, nhưng dường như tạo thành ba yếu tố ảnh hưởng chính đến quan hệ Trung – Hàn.

Vấn đề Đài Loan, mà Trung Quốc coi là vấn đề cốt lõi, không phải là vấn đề đột ngột phát sinh vào thời điểm này. Giờ đây, Hàn Quốc đã làm rõ quan điểm về vấn đề nhạy cảm trước đây vốn được xử lý một cách mơ hồ này, đồng thời không chấp nhận lập trường và thái độ của Trung Quốc, đồng thời không chấp nhận lập trường và thái độ của Trung Quốc, điều này có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ Trung – Hàn trong 4 năm tới dưới thời Yoon Suk-yeol, thậm chí còn trở thành quả bom hẹn giờ trong quan hệ giữa hai nước.

Liệu Yoon Suk-yeol đã sẵn sàng điều chỉnh hoàn toàn lập trường về vấn đề eo biển Đài Loan và động thái này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tương lai của Đông Bắc Á,  bốn bên gồm Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan dưới sự lãnh đạo của Mỹ sẽ cùng nhau đối phó với các hành động của Bắc Kinh ở eo biển Đài Loan, những thay đổi lớn có thể xyả ra bất cứ lúc nào.

Nguồn: TLTKĐB – 28/04/2023

Vấn đề Đài Loan trong quan hệ Trung – Hàn – Phần đầu


Theo tờ Minh Báo (Hong Kong), trong cuộc phỏng vấn độc quyền với Reuters, Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol đã đưa ra những phát biểu nhạy cảm liên quan đến vấn đề chủ quyền của Đài Loan, chẳng hạn như vấn đề Đài Loan không chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc, mà còn là vấn đề mang tính toàn cầu giống như Hàn Quốc và Triều Tiên. Điều này ngay lập tức châm ngòi cho cuộc khẩu chiến gay gắt đầu tiên giữa Trung Quốc và Hàn Quốc về vấn đề eo biển Đài Loan trên lĩnh vực ngoại giao. Nếu không thể giải quyết vấn đề này trong thời gian ngắn, nó thậm chí có thể phát triển thành một cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa hai nước. Trung Quốc và Hàn Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao hơn 30 năm, Hàn Quốc luôn thận trọng hơn Nhật Bản trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến Đài Loan, vì sao Tổng thống Yoon Suk-yeol lại có những nhận định như vậy vào thời điểm này? Phải chăng Hàn Quốc đang điều chỉnh lại mối quan hệ ba bên mong manh với Trung Quốc và Đài Loan?

Bốn luận điểm của Yoon Suk-yeol đã chạm vào lằn ranh đỏ của Bắc Kinh

Trong cuộc phỏng vấn do Reuters đăng tải ngày 19/4/23, Yoon Suk-yeol đã thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình về tình hình căng thẳng ở eo biển Đài Loan. Những nhận xét liên quan đến Đài Loan này có thể tóm tắt thành 4 lập luận chính, mỗi luận điểm đều chạm vào dây thần kinh nhạy cảm của Bắc Kinh.

Trước tiên Yoon Suk-yeol công khai chỉ trích Bắc Kinh là người khởi xướng cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài Loan. Ông thẳng thừng tuyên bố rằng căng thẳng ở eo biển Đài Loan là do nỗ lực thay đổi hiện trạng bằng vũ lực. Mặc dù phe phương Tây do Mỹ đứng đầu dường như đã đạt được sự đồng thuận trong vấn đề này, nhưng dường như đều không có tuyên bố rõ ràng như vậy về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài Loan. Đối với Bắc Kinh, cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài Loan là Mỹ và Đài Loan câu kết và chính quyền đảng Dân tiến (DPP) dựa vào Mỹ để đòi độc lập”, vì vậy tuyệt đối không thể chấp nhận được quan điểm “đổi trắng thay đen” của Yoon Suk-yeol.

Thứ hai, Hàn Quốc rõ ràng đứng về bên phản đối thay đổi hiện trạng trong vấn đề eo biển Đài Loan. Yoon Suk-yeol không những chỉ ra một cách dứt khoát rằng Bắc Kinh đang thay đổi hiện trạng ở eo biển Đài Loan, mà còn thể hiện rõ lập trường đứng về  phía Mỹ, nghĩa là Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế phản đối sự thay đổi này, một lần nữa lại chĩa mùi dùi vào Bắc Kinh.

Đến nay, lập trường của Hàn Quốc về vấn đề eo biển Đài Loan đã trở nên rõ ràng, tức là không còn giữ thái độ của chính phủ Hàn Quốc trước đây về vấn đề này, cho phép mình có nhiều không gian đệm hơn. Đối với Bắc Kinh, vấn đề Đài Loan là vấn đề chủ quyền, do đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Uông Văn Bân đã chỉ trích nhận xét của Yoon Suk-yeol, rằng giải quyết vấn đề Đài Loan là việc riêng của người dân Trung Quốc và không cho phép người khác có thể bình luận về điều đó.

Thứ ba, Yoon Suk-yeol so sánh vấn đề Đài Loan với vấn đề Triều Tiên và Hàn Quốc, giống như vấn đề giữa hai miền Triều Tiên, điều này cũng chạm đến lằn ranh đỏ của Bắc Kinh. Việc Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc, trước vào năm 1992 đã khiến Triều Tiên tức giận, khiến quan hệ Trung –Triều-Hàn có xu hướng phức tạp. Sau đó, điều mà Bắc Kinh lo sợ nhất là bị cáo buộc công nhận và thậm chí tham gia vào việc tạo ra “hai miền Triều Tiên”. Do đó, Uông Văn Bân đặc biệt nhắc nhở rằng Triều Tiên và Hàn Quốc đều là những quốc gia có chủ quyền đã tham gia Liên hợp quốc. Tính chất, vĩ độ và kinh độ của vấn đề bán đảo Triều Tiên và vấn đề Đài Loan là hoàn toàn khác nhau, hoàn toàn không thể so sánh được.

Tuy nhiên, cách giải thích này dường như có sơ hở – nếu tham gia Liên hợp quốc thì mới là một quốc gia có chủ quyền hoặc có tính hợp pháp, thì từ năm 1949 – 1971, Đài Loan đã duy trì một ghế tại Liên hợp quốc dưới tên gọi Trung Hoa dân quốc, hoặc nước Trung Quốc mới khi đó không thể tham gia Liên hợp quốc và nên định vị điều này như thế nào?

Thứ tư, Yoon Suk-yeol đã trực tiếp nâng vấn đề Đài Loan thành vấn đề mang tính toàn cầu, một lần nữa động chạm đến lằn ranh đỏ của Bắc Kinh. Điều mà Trung Quốc đại lục không mong muốn thấy trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan là vấn đề này bị quốc tế hóa. Sau khi nhậm chức, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã tích cực phối hợp cùng với các quốc gia dân chủ đối phó với Trung Quốc đại lục, muốn thông qua hội nghị thượng đỉnh do Mỹ giữ vai trò chủ đạo nhằm đưa vấn đề eo biển Đài Loan vào chương trình nghị  sự, nhấn mạnh cái gọi là tầm quan trọng của hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan. Yoon Suk-yeol phát biểu rằng vấn đề eo biểu Đài Loan đã vượt ra ngoài phạm vi khu vực và chỉ có thể được goi là vấn đề toàn cầu. Theo quan điểm của Bắc Kinh, đó là sự can thiệp vào công việc nội bộ một cách trắng trợn.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 28/04/2023

Động thái mới của Chính quyền Yoon Suk-yeol đối với chính sách Triều Tiên – Phần cuối


Thứ hai, điều mà Yoon Suk-yeol đang theo đuổi là “thống nhất bằng sáp nhập” do Hàn Quốc giữ vai trò chủ đạo. Khi nghe báo cáo công việc của Bộ Thống nhất, ông đã chỉ rõ nguyên tắc cơ bản để thống nhất Nam-Bắc là “thống nhất với thể chế phía Nam làm trung tâm”. Dư luận Hàn Quốc nêu rõ một cách sâu sắc là sự thống nhất do Yoon Suk-yeol chủ trương thực chất là “thống nhất bằng sáp nhập”.

Có lẽ vì lý do mang tiếng không hay là “thống nhất bằng sáp nhập” nên Kwon Young-se đã ngay lập tức phủ nhận, ông nhấn mạnh rằng quan điểm của Yoon Suk-yeol “không có nghĩa là thống nhất bằng sáp nhập”. Ông nói nguyên tắc mà Yoon Suk-yeol đưa ra là “khi hai xã hội với các thể chế khác nhau được thống nhất, phải lấy thể chế thành công làm tiêu chuẩn thực hiện”. Ngay sau đó, ông thẳng thắn chỉ rõ do Hàn Quốc “dựa trên nền tảng trật tự cơ bản của tự do và dân chủ”, có nền kinh tế “thịnh vượng hơn” và nhân dân “được hưởng nhiều tự do hơn”, nên chủ trương lấy thể chế này làm tiêu chuẩn để thống nhất chắc chắn là điều đúng đắn. Tuy nhiên, thống nhất dựa trên tiêu chuẩn “trật tự tự to và dân chủ” thực chất là lật đổ thể chế của Triều Tiên và đưa chế độ đó vào thể chế của Hàn Quốc, dù thúc đẩy bằng phương thức như thế nào thì cũng khó thay đổi bản chất của “thống nhất bằng sáp nhập”. Đương nhiên, lời giải thích của Kwon Young-se không những không biện minh được cho Yoon Suk-yeol, mà chẳng khác nào “đổ thêm dầu vào lửa”, khẳng định đánh giá của mọi người rằng chủ trương của ông là “thống nhất bằng sáp nhập”.

Thứ ba, bản chất của cách tiếp cận thống nhất của Yoon Suk-yeol là “cách mạng màu” Kwon Young-se nêu rõ ý tưởng thống nhất mới trong tương lai sẽ bao gồm những giá trị phổ quát như tự do, nhân quyền, kết nối và cởi mở do Chính quyền Yoon Suk-yeol đưa ra, đồng thời xây dựng nền tảng tự do, dân chủ và thống nhất hòa bình. Về phương thức thực hiện thống nhất, đó không phải là “sáp nhận xã hội bất chấp mong muốn của họ”, mà là “thực hiện thống nhất tự do và hòa bình theo nguyện vọng của người dân thông qua cuộc bỏ phiếu của toàn quốc”. Xét cho cùng, kiểu thống nhất này thúc đẩy “cách mạng màu” ở Triều Tiên thông qua “diễn biến hòa bình”, và cuối cùng là xóa bỏ chính quyền và thể chế của Triều Tiên.

Một phần nội dung của “sự chuẩn bị thống nhất” đã có dấu hiệu đầu tiên. Yoon Suk-yeol đề xuất một thực hiện sự thống nhất, “cả miền Nam và miền Bắc cũng như môi trường địa chính trị xung quanh phải được thay đổi”. Ông chỉ thị cho Bộ Thống nhất nghiên cứu sâu hơn về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của Triều Tiên để người dân Hàn Quốc và các nước láng giềng có thể hiểu đúng tình hình thực tế ở Triều Tiên. Đồng thời, việc tăng cường tấn công về “nhân quyền” đối với Triều Tiên đã được đặt ở vị trí nổi bật. Bộ Thống nhất tuyên bố họ sẽ tăng cường hợp tác quốc tế và nhanh chóng thành lập Quỹ nhân quyền Triều Tiên. Trong năm 2023, họ có kế hoạch đầu tư 2 tỷ won, viện trợ cho các hoạt động nhân quyền của các tổ chức phi chính phủ. Tháng 3/2023, Hàn Quốc công bố Báo cáo thường niên về tình hình nhân quyền ở Triều Tiên. Ý đồ của Chính quyền Yoon Suk-yeol đã lộ rõ.

Dưới sự dẫn dắt từ “thuyết về sự sụp đổ” của Triều Tiên, Chính quyền Yoon Suk-yeol đã “chuẩn bị cho sự thống nhất” theo hướng “thống nhất thể chế”, đó là “thống nhất bằng sáp nhập”. Mục tiêu một phần là giành quyền chủ đạo thống nhất, tấn công và chèn ép Triều Tiên về chính trị, đồng thời tăng cường cơ sở đồng thuận và ủng hộ trong nội bộ. Kế hoạch cơ bản là thúc đẩy mạnh mẽ việc đẩy nhanh “sự lung lay” và “cách mạng màu” trong nội bộ Triều Tiên, nhằm đạt mục tiêu thay đổi chính quyền ở Triều Tiên.

Tuy nhiên, ý tưởng mới về sự thống nhất của Chính quyền Yoon Suk-yeol không phù hợp với thực tế khách quan của bán đảo. Trái ngược với nguyên tắc độc lập, hòa bình và đoàn kết dân tộc do Triều Tiên chủ trương, đồng thời xa rời phương án thống nhất theo từng giai đoạn mà những chính phủ tiền nhiệm của Hàn Quốc đã chấp nhận, thông qua hòa giải hợp tác, hai miền Triều Tiên liên kết đi đến thống nhất đất nước. Hành động đi ngược xu thế nào chắc chắn sẽ bị Triều Tiên kiên quyết bác bỏ và phản đối đến cùng, đồng thời sẽ dẫn đến tình trạng chia rẽ và đấu tranh nghiêm trọng hơn trong nội bộ Hàn Quốc, kết quả cuối cùng không phải là đi theo hướng hòa bình thống nhất, mà dẫn đến hỗn loạn và chiến tranh, hoàn toàn không thể đem lại sự tốt lành cho Hàn Quốc.

Chính quyền Yoon Suk-yeol có kế hoạch công bố “Ý tưởng thống nhất tương lai mới” trong năm 2023, đồng thời hoàn thành việc sử đổi và hoàn thiện “Phương án thống nhất ba giai đoạn” vào năm 2024. Cộng đồng quốc tế đang chờ đợi quan sát hướng đi chính sách thống nhất của Hàn Quốc. Trong vấn đề liên quan đến vận mệnh tiền đồ dân tộc, đại cục hòa bình và ổn định của bán đảo, Chính quyền Yoon Suk-yeol cần phải giữ bình tĩnh, hành động thận trọng, tránh phạm phải sai lầm mang tính lịch sử.

Nguồn: www.comment.cfisnet.com

TLTKĐB – 19/04/2023