Triển vọng tỷ giá đồng Nhân dân tệ so với đồng USD trong năm 2023 – Phần cuối


Cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, các công cụ vĩ mô và thận trọng

Báo cáo năm 2021 của IMF đã điều chỉnh cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng NDT thành cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh, đặc điểm của cơ chế này là trong xu hướng nhận biết theo thống kê, mức độ biến động của tỷ giá hối đoái cần được duy trì trong phạm vi 2% và kéo dài ít nhất trong 6 tháng; nếu tỷ giá hối đoái tăng hoặc giảm liên tục, và tỷ lệ biến động hàng năm của nó không dưới 1%, thì mới có thể được định nghĩa là cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh.

Báo cáo thực hiện chính sách tiền tệ trong quý 3/2022 của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc cho rằng về lịch sử, cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý đã trải qua thử thách của nhiều cú sốc bên ngoài, tỷ giá của đồng NDT có thể được điều chỉnh linh hoạt, và có thể khôi phục sự cân bằng trong khoảng thời gian tương đối ngắn và phát huy có hiệu quả vai trò làm giảm tác động của các cú sốc bên ngoài. Mặc dù tỷ giá hối đoái của đồng NDT không còn bị ngân hàng nhà nước can thiệp, nhưng vẫn phải duy trì tỷ giá ở mức hợp lý và cân bằng. Do đồng USD chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong rổ tiền tệ, nên tỷ giá của đồng NDT so với đồng USD cũng phải ổn định. Một là, can dự vào tỷ giá hối đoái thông qua công cụ vĩ mô và thận trọng thông dụng trong cộng đồng quốc tế, trong đó có một số công cụ được đưa ra kịp thời trong giai đoạn tỷ giá của đồng NDT so với đồng USD có biến động tương đối lớn. Báo cáo của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc cũng cho rằng cơc hế hình thành giá bình quân của tỷ giá đồng NDT so với đồng USD đang không ngừng được hoàn thiện, mức độ mang tính quy tắc, minh bạch và thị trường hóa được nâng cao. Hai là, sự can thiệp thông qua thị trường ngoại hối. Do tỷ giá hối đoái của đồng NDT là cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh, và Mỹ lại thả nổi hoàn toàn, nên Trung Quốc có thể can thiệp một chiều ở mức độ nhất định nhằm phòng ngừa những tác động tiêu cực từ chính sách tiền tệ cấp tiến của Mỹ, tất nhiên điều này cũng có thể gây bất mãn cho các đối tác thương mại.

Triển vọng xu hướng tỷ giá hối đoái của đồng NDT so với đồng USD trong năm 2023

Về triển vọng xu hướng tỷ giá hối đoái của đồng NDT so với đồng USD trong năm 2023, có thể xem xét hai xu hướng: Một là, dựa trên các yếu tố cơ bản; hai là, dựa trên các đặc điểm của cơ chế tỷ giá hối đoái.

Sự khác biệt cơ bản giữa Trung Quốc và Mỹ: Đồng USD được định giá quá cao và đồng NDT gần ở mức cân bằng

Mục tiêu của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là duy trì tỷ giá đồng NDT ở mức hợp lý và cân bằng, một mặt, phải thể hiện được sự ổn định của tỷ giá trong rổ tiền tệ, mặt khác thể hiện được mức tỷ giá của các loại tiền tệ trong thị trường gần bằng với mức tỷ giá hối đoái thực đa phương (REER). Tháng 9/2022, IMF dự đoán đồng USD được định giá quá cao và tỷ giá hối đoái của đồng NDT được định giá coa một chút, đây là yếu tố cơ bản của đồng NDT so với đồng USD.

Về triển vọng xu hướng của đồng NDT so với đồng USD trong năm 2023, tác giả bài viết cho rằng vẫn phải dựa vào đặc điểm cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh và cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Năm 2023, nền kinh tế thế giới sẽ có nhiều tính khó đoán định do lạm phát cao và rủi ro địa chính trị. Năm 2023, Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy cải cách tỷ giá hối đoái theo định hướng thị trường, tình hình dịch COVID-19, do bất động sản, nhu cầu bên ngoài, tiêu dùng tư nhân và nhu cầu tín dụng có nhiều tính khó đoán định, nên cũng khó có thể dự đoán tỷ giá đồng NDT. Đồng thời, để duy trì tỷ giá của đồng NDT ở mức hợp lý và cân bằng, ngân hàng trung ương cũng tuyên bố sẽ kiên quyết ổn định tỷ giá hối đoái trước những biến động mạnh.

Do đó, tỷ giá hối đoái cân bằng của đồng NDT so với đồng USD trong năm 2023 sẽ tăgn cùng với đồng USD trở lại mức cân bằng, các yếu tố khó đoán định của hai đồng tiền này tăng sẽ khiến tỷ giá của đồng NDT so với đồng USD biến động, mức độ cụ thể sẽ được quyết định bởi sự kịp thời và hiệu quả của chính sách vi mô và thận trọng do ngân hàng trung ương ban hành.

Nguồn: www.ftchinese.com

TLTKĐB – 09/01/2023

Triển vọng tỷ giá đồng Nhân dân tệ so với đồng USD trong năm 2023 – Phần đầu


Đàm Khưu Thái

Do kể từ đầu năm 2022, tỷ giá hối đoái của đồng NDT so với đồng USD đã mất giá mạnh và dao động dữ dội, nên để nhận định xu hướng tỷ giá hối đoái này trong năm 2023, tác giả bài viết cho rằng dưới các cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau, xu hướng tỷ giá hối đoái cũng khác nhau, vì vậy cần phải phân tích xu hướng tỷ giá hối đoái trên cơ sở cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái.

Những thay đổi trong cơ chế hình thành giá hối đoái của đồng NDT

Theo phân loại của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tỷ giá của đồng USD từ lâu đã thuộc kiểu “thả nổi hoàn toàn”. Kể từ khi Trung Quốc thực hiện cải cách tỷ giá hối đoái vào ngày 11/8/2015, cơ chế tỷ giá của đồng NDT có tương đối nhiều thay đổi. Báo cáo hàng năm về cơ chế tỷ giá và những hạn chế ngoại hối (AREAER) do IMF công bố năm 2015 đã điều chỉnh cơ chế tỷ giá đồng NDT thành cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh (crawl-like arrangement), năm 2019 và 2020 điều chỉnh thành cơ chế sắp xếp quản lý khác (other managed arrangement), và đến năm 2021 lại điều chỉnh thành cơ chế tỷ giá hối đoái neo với biên độ điều chỉnh (crawl-like arrangement). Luật pháp Trung Quốc nêu rõ cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý, tức là cơ chế hình thành tỷ giá của đồng NDT tuân theo cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý dựa trên cung và cầu của thị trường, được điều chỉnh theo rổ tiền tệ. Vì vậy, để dự đoán xu hướng tỷ giá của NDT so với đồng USD trong năm 2023, cần phân tích từ các góc độ sau: Một là, yếu tố thị trường; hai là, yếu tố quản lý (yếu tố quản lý của chính phủ được thể hiện ở việc phát huy chức năng tự điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô và ổn định cán cân thanh toán quốc tế, tức là chức năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và duy trì sự ổn định giá cả của tỷ giá hối đoái), và ba là, yếu tố điều chỉnh tỷ giá hối đoái (với mấu chốt là tỷ giá của đồng NDT được duy trì ở mức hợp lý và cân bằng thông qua việc quản lý vĩ mô và thận trọng).

Yếu tố thị trường: Từ cơ bản không can thiệp đến hoàn toàn không can thiệp

Kể từ khi Trung Quốc thực hiện cải cách tỷ giá hối đoái năm 2005, đặc biệt là kể từ khi thực hiện cải cách tỷ giá hối đoái ngày 11/8/2015, tỷ giá của đồng NDT so với đồng USD đã không ngừng được nâng cao. Ngày 18/10/2017, ngay trước khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc (Đại hội XIX) khai mạc, Phan Công Thắng, Phó thống đốc Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (Ngân hàng trung ương), Cục trưởng Cục quản lý ngoại hối Nhà nước, cho biết tỷ giá hối đoái của đồng NDT đã tương đối ổn định trong thời gian gần đây, hơn nữa có thể nhận thấy tỷ giá hối đoái được thúc đẩy bởi thị trường hàng hóa, về cơ bản ngân hàng trung ương đã không can thiệp ngoại hối và tỷ giá hối đoái của đồng NDT sẽ có cơ sở ổn định hơn sau Đại hội XIX. Kết quả đánh giá từ giữa tháng 6 đến đầu tháng 8/2018 của IMF cho thấy Ngân hàng nhân dân Trung Quốc hầu như không còn can thiệp vào ngoại hối. Năm 2019, Thống đốc Ngân hàng nhân dân Trung Quốc Dịch Cương cho biết ngân hàng đã không còn can thiệp vào ngoại hối, mức độ thị trường hóa và tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái đồng NDT đã được nâng cao đáng kể và nó đã duy trì được vị trí ổn định trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Tỷ giá của đồng NDT do cung và cầu thị trường quyết định. Báo cáo thực hiện chính sách tiền tệ trong quý III/2022 của Ngân hàng nhân Trung Quốc tiếp tục cho rằng ngân hàng này đã không còn can thiệp vào ngoại hối và tỷ giá hối đoái của đồng NDT do cung và cầu của thị trường quyết định.

Tỷ giá hối đoái do cung và cầu thị trường quyết định bao gồm cả tỷ giá hối đoái cân bằng do các yếu tố cơ bản quyết định và tỷ giá hối đoái thị trường do các yếu tố gây xáo trộn gây ra. Lý thuyết kinh tế cho rằng các yếu tố cơ bản bao gồm xu hướng giá cả ở hai quốc gia, thay đổi năng suất tương đối, đầu tư quốc tế, điều kiện thương mại, biến số tài chính và chênh lệch lãi suất. Trong khi Ngân hàng nhân dân Trung Quốc cho rằng các yếu tố cơ bản bao gồm một số điểm sau: Một là, kinh tế trong nước ổn định là yếu tố quan trọng nhất để ổn định tỷ giá hối đoái, từ đó khiến các yếu tố cơ bản của nền kinh tế như có khả năng chống chịu, có tiềm năng lớn, tràn đầy sức sống và phát triển tốt trong thời gian dài không thay đổi; hai là, cán cân thanh toán quốc tế có nền tảng vững chắc là cơ sở cho sự hoạt động ổn định của thị trường ngoại hối; ba là, dự trữ ngoại hối đứng đầu thế giới là nền tảng để duy trì ổn định tỷ giá và an ninh tài chính.

Yếu tố chính phủ: Phát huy chức năng tự điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô và ổn định cán cân thanh toán quốc tế

Lý thuyết kinh tế cho rằng cơ chế thuế lũy tiến, cơ chế thanh toán chuyển giao tự động giá cả và tỷ giá hối đoái linh hoạt là những yếu tố tự động ổn định nền kinh tế thị trường, có thể giúp nền kinh tế tự thực hiện sự cân bằng. Cơ chế tự ổn định của tỷ giá hối đoái được thể hiện ở việc đồng nội tệ mất giá sẽ có lợi cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đó, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.

Quản lý tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô của chính phủ. Ví dụ như tỷ giá hối đoái được định giá thấp có thể cải thiện khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong nước và thúc đẩy việc nâng cao xuất khẩu ròng trong cỗ xe tam mã (đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu). Tỷ giá hối đoái tăng có lợi cho việc chống lại áp lực lạm phát do nhập khẩu và đảm bảo vật giá ổn định. Trong khuôn khổ Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20), hầu hết các quốc gia đã từ bỏ cuộc chiến tỷ giá hối đoái nhằm đẩy tai họa cho nước khác để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong Báo cáo về chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Mỹ công bố vào tháng 11/2022, Bộ Tài chính Mỹ đã xác định ba tiêu chí quan trọng đối với các đối tác thương mại chính: (1) Thặng dư thương mại song phương với Mỹ; (2) thặng dư cán cân vãng lai; và (3) can thiệp một chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ.

Hiện vẫn chưa có chính sách cụ thể về việc chính phủ các nước có can thiệp vào tỷ giá hối đoái để đảm bảo ổn định vật giá hay không. Do Mỹ từ lâu đã kiên trì cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn đối với tỷ giá hối đoái của đồng NDT so với đồng USD, nên có ít khả năng can thiệp vào tỷ giá hối đoái để ổn định vật giá. Về phía Trung Quốc, trong Báo cáo thực hiện chính sách tiền tệ quý III/2022, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc hiếm khi đề xuất duy trì sự ổn định cơ bản của giá trị tiền tệ và sức mua của đồng NDT. Vì vậy, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc đã lựa chọn lấy cơ chế tỷ giá hối đoái để bảo vệ sự ổn định của vật giá.

(còn tiếp)

Nguồn: www.ftchinese.com

TLTKĐB – 09/01/2023

Tiết mục biến mất của tư bản – Phần cuối


Cấu trúc ngành kinh tế

Một lời giải thích cho sự gia tăng đầu tư vô hình có thể là sự cân bằng trong sản xuất của doanh nghiệp đã thay đổi. Chúng ta đều biết rằng sản lượng của các nước phát triển, ngay cả những nước có ngành sản xuất chế tạo lớn như Đức hay Nhật Bản, chủ yếu đến từ ngành dịch vụ. Một số nhà xã hội học và tương lai học, những người đầu tiên báo trước về sự trỗi dậy của “xã hội hậu công nghiệp” cũng là những nhà tiên tri về cái được gọi là nền kinh tế tri thức. Vậy có đúng là thế giới hiện đại đang thay thế các nhà máy cũ kỹ [dark satanic mills] bằng các doanh nghiệp dịch vụ đầu tư vào hệ thống, thông tin và ý tưởng không?

Trên thực tế lại không có những bằng chứng rõ ràng cho điều này. Hình 2.7 cho thấy, ở tất cả các quốc gia, ngành dịch vụ có mức độ thâm dụng vốn hữu hình lớn hơn vào cuối những năm 1990, nhưng điều này đã đảo ngược sau đó. Đáng chú ý là lĩnh vực sản xuất chế tạo có mức độ thâm dụng vốn vô hình lớn hơn so với vốn hữu hình, và xu hướng ấy vẫn tiếp tục gia tăng. Vì vậy, cấu trúc của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng đến tầm quan trọng tương đối của tài sản vô hình, nhưng ảnh hưởng đó sẽ thay đổi theo thời gian. Những quan sát này trong ngành sản xuất chế tạo không có gì là bất ngờ, vì đây có thể là một phần của toàn cầu hóa. Khi các nước đang phát triển mở cửa thương mại, như khi Trung Quốc gia nhập WTO năm 2000, các nước phát triển phải chuyên môn hóa hơn nữa vào lĩnh vực mà họ có lợi thế tương đối. Các lĩnh vực sản xuất chế tạo có xu hướng phát triển mạnh ở các nền kinh tế phát triển là những lĩnh vực đầu tư rất nhiều vào tài sản vô hình, từ các chương trình R&D của Pfizer hay Rolls-Royce đến các kỹ thuật sản xuất tinh gọn của ngành công nghiệp xe hơi Nhật Bản (Trong phạm vi toàn cầu hóa đòi hỏi việc xây dựng các mạng lưới và tổ chức phức tạp hơn, nó cũng có thể trực tiếp thúc đẩy sự gia tăng của đầu tư vô hình).

Hình 2.7: Mức độ thâm dụng vốn vô hình trong sản xuất và dịch vụ (tỷ trọng giá trị gia tăng thực của ngành, tại châu Âu và Mỹ, đối với các ngành kinh doanh phi nông nghiệp).

Một môi trường kinh doanh đang thay đổi

Từ sau những năm 1980, hàng loạt các quy định đối với cả sản phẩm và thị trường lao động đã được nới lỏng ở hầu hết các nền kinh tế lớn nhất thế giới. Đồng thời, hầu hết các chính phủ trên khắp thế giới đều tự hào về mức độ thân thiện của môi trường kinh doanh mà thậm chí có thể khiến các chính trị gia của những năm 1960 hoặc 1970 phải ngạc nhiên. Liệu đây có phải điều đã khuyến khích sự gia tăng dài hạn trong đầu tư vô hình?

Quay trở lại việc so sánh tài sản vô hình giữa các quốc gia, chúng ta thấy một số bằng chứng cho thấy việc nới lỏng quy định thị trường sản phẩm và thị trường lao động sẽ khuyến khích đầu tư vô hình. Hình 2.8 cho thấy tỷ trọng GDP của khu vực kinh doanh sử dụng đầu tư hữu hình và vô hình, so với một chỉ số mà OECD gọi là “mức độ nghiêm ngặt của thị trường việc làm”, trong đó một số quốc gia đạt giá trị cao ở chỉ số này, chẳng hạn như Italy, có nghĩa là việc tuyển dụng và sa thải công nhân tương đối tốn kém, trong khi giá trị thấp có nghĩa là tương đối rẻ, với các nước như Mỹ và Anh.

Hình 2.8: Đầu tư hữu hình và đầu tư vô hình, và quy định (tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành, trung bình từ năm 1999 đến năm 2013). Các quốc gia bao gồm Áo (AT), Đan Mạch (DK), Phần Lan (FI), Pháp (FR), Đức (DE), Italy (IT), Hà Lan (NL), Tây Ban Nha (ES), Thụy Điển (SE),Vương quốc Anh (UK), Mỹ (US).

Đồ thị cho thấy một điều thú vị. Các quốc gia nghiêm ngặt hơn trong việc tuyển dụng và sa thải nhân viên thường đầu tư nhiều hơn vào tài sản hữu hình, và ít hơn vào tài sản vô hình. Tác động của các quy định trên thị trường lao động đối với tài sản hữu hình là rất dễ thấy: nếu việc thuê và quản lý nhân viên là thực sự khó khăn, thì doanh nghiệp có thể thay thế bằng đầu tư vào máy móc. Nhưng tác động đối với đầu tư vô hình thì ngược lại. Vì sao lại như vậy? Người lao động thường phải thay đổi cách thức làm việc khi tiếp túc với các tài sản vô hình mới như khi một nhà máy triển khai quy trình sản xuất tinh gọn – một loại hình đầu tư cho phát triển tổ chức – hoặc thay đổi bản chất của sản phẩm. Những tài sản vô hình mới có thể đi kèm với nhiều rủi ro và các ông chủ doanh nghiệp có thể dự báo về khả năng thất bại trong tương lai. Một sự kém linh hoạt của lực lượng lao động có thể ngăn cản khoản đầu tư như vậy ngay từ đầu.

Điều này hoàn toàn không có ý ca ngợi cho việc không coi trọng quyền của người lao động. Nhưng nó cho thấy một khả năng nữa về nguyên nhân của sự thay đổi liên tục trong đầu tư vài thập kỷ qua, và là một lời nhắc nhở rằng chính trị không đứng ngoài những sự thay đổi này.

Hình 2.9 cho thấy có một mối tương quan giữa đầu tư vô hình và chi tiêu công đối với lĩnh vực R&D. Chẳng hạn, các quốc gia như Phần Lan và Thụy Điển có chi tiêu R&D của chính phủ cao đi kèm với đầu tư vô hình cao, trong khi điều ngược lại diễn ra ở Tây Ban Nha và Italy. Do đó, đầu tư vô hình có thể thay đổi theo quốc gia tùy thuộc vào mức độ tham gia đầu tư của khu vực công.

Hình 2.9: Đầu tư vô hình và chi tiêu cho R&D của chính phủ (trung bình từ năm 1999 đến năm 2013). Các quốc gia bao gồm Áo (AT), Đan Mạc (DK), Phần Lan (FI), Đức (DE), Italy (IT), Hà Lan (NL), Tây Ban Nha (ES), Thụy Điển (SE), Vương quốc Anh (UK), Mỹ (US).

Cuối cùng, có vẻ như các nước phát triển hơn có tỷ trọng đầu tư vô hình trong GDP cao hơn. Ví dụ, Corrado và Hao (2013) đã quan sát thấy điều này trong chi tiêu cho thương hiệu, với khoảng 1% GDP bình quân đầu người ở Mỹ so với 0,1% đối với Trung Quốc (theo dữ liệu những năm 1988 – 2011), và chúng ta đều biết rằng hầu hết hoạt động R&D đều thuộc về một số lượng nhỏ các nước phát triển (ví dụ, xem dữ liệu trong Van Ark và các cộng sự, 2009). Điều này có thể là do các quốc gia có thu nhập thấp thường chuyên môn hóa về các ngành sản xuất thâm dụng nhân công, hoặc không có tiềm lực tài chính và khoa học để đầu tư vô hình trên quy mô lớn.

Toàn cầu hóa và mở rộng quy mô thị trường

Yếu tố quyết định cuối cùng là quy mô của thị trường. Nhiều tài sản vô hình, chẳng hạn như thương hiệu của Starbucks hoặc phần mềm của Facebook, có thể được mở rộng một cách không giới hạn. Vì vậy, những thị trường nhỏ hơn (ví dụ như thị trường tại các quốc gia với nhiều rào cản thương mại) sẽ là những nơi kém hấp dẫn hơn để đầu tư vô hình.

Hình 2.10 cho thấy tỷ trọng đầu tư vô hình trong GDP theo chỉ số rào cản thương mại dịch vụ của OECD (các quốc gia bên phải biểu đồ có nhiều rào cản thương mại dịch vụ hơn). Điều này giúp giải thích về một số xu hướng đầu tư theo quốc gia mà chúng ta quan sát thấy: ví dụ, Áo có nền kinh tế ổn định, chi tiêu cho đầu tư vô hình là tương đối ít, nhưng lại có khá nhiều rào cản thương mại, do đó làm hạn chế khả năng mở rộng của đầu tư.

Hình 2.10: Đầu tư vô hình và hạn chế thương mại, năm 2013. Các quốc gia bao gồm Áo (AT), Đan Mạch (DK), Phần Lan (FI), Pháp (FR), Đức (DE), Italy (IT), Hà Lan (NL), Tây Ban Nha (ES), Thụy Điển (SE), Anh (UK), Mỹ (US).

Vì vậy, sự gia tăng mạnh mẽ của thương mại quốc tế trong 50 năm qua sẽ tạo động lực lớn hơn để đầu tư vào tài sản vô hình cho các công ty có khả năng tiếp cận thương mại. Và điều này có nghĩa là nếu các rào cản thương mại được thắt chặt, bằng Brexit hoặc chính sách thương mại, thì động lực cho đầu tư vô hình sẽ giảm.

Kết luận: Tiết mục biến mất của tư bản

Đầu tư vô hình đang ngày càng trở nên quan trọng hơn. Các phương pháp đo lường mới cho thấy hiện nay nó đã vượt qua đầu tư hữu hình ở một số nước phát triển. Trong khi đầu tư vô hình tiếp tục tăng trong những thập kỷ gần đây, đầu tư hữu hình lại giảm dần. Có rất nhiều lý do dẫn đến sự tăng trưởng này của đầu tư vô hình, bao gồm sự thay đổi cân bằng giữa dịch vụ và sản xuất chế tạo trong nền kinh tế, toàn cầu hóa, mở rộng tự do hóa thị trường, sự phát triển của công nghệ quản lý và công nghệ thông tin, cũng như sự thay đổi chi phí đầu vào của dịch vụ (có vai trò quan trọng hơn đối với đầu tư vô hình).

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Jonathan Haskel & Stian Westlake – Chủ nghĩa tư bản không có tư bản – NXB CTQG 2021

Tiết mục biến mất của tư bản – Phần IV


Nếu chúng ta gộp tất cả các quốc gia vào trong một biểu đồ, chúng ta sẽ có được Hình 2.4, cho thấy đầu tư vô hình đã vượt qua đầu tư hữu hình vào khoảng thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Hình 2.4: Đầu tư vô hình và hữu hình ở châu Âu và Hoa Kỳ. Các quốc gia bao gồm Áo, Cộng hòa Czech, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Italy, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Anh, Mỹ.

Phân tích kết quả theo từng quốc gia cho thấy một số nước có mức thâm dụng vốn vô hình cao hơn những quốc gia khác. Hình 2.5 biểu thị tỷ trọng trong GDP của đầu tư hữu hình và vô hình của các quốc gia có số liệu này. Biểu đồ được xếp hạng theo tỷ lệ tài sản vô hình. Bắt đầu từ bên trái là Tây Ban Nha và Italy.

Hình 2.5: Đầu tư vô hình và hữu hình tính theo tỷ trọng trong GDP quốc gia (trung bình từ năm 1999 đến năm 2013). Dữ liệu lấy từ toàn bộn nền kinh tế, GDP được điều chỉnh để bao gồm các yếu tố vô hình. Các quốc gia bao gồm Áo (AT), Đan Mạch (DK), Phần Lan (FI), Pháp (FR), Đức (DE), Italy (IT), Hà Lan (NL), Tây Ban Nha (ES), Thụy Điển (SE), Vương quốc Anh (UK), Mỹ (US).

Cả hai đều có tỷ trọng đầu tư vô hình trong GDP thấp nhất và tỷ trọng đầu tư hữu hình tương đối cao – đây là những nền kinh tế thâm dụng vốn hữu hình. Tiếp theo là Đức, Áo, Đan Mạch, Hà Lan và Pháp, theo thứ tự mức độ thâm dụng vốn vô hình từ thấp đến trung bình và mức độ thâm dụng vốn hữu hình từ cao đến trugn bình; tất cả các quốc gia này đều đầu tư vào tài sản hữu hình nhiều hơn là vô hình. Phần Lan, Anh, Hoa Kỳ và Thụy Điển đều có mức độ thâm dụng vốn vô hình cao hơn hữu hình.

Những khác biệt này giữa các quốc gia dường như đúng với dự đoán của chúng ta. Nhìn chung, các quốc gia Địa Trung Hải nằm ở cuối về tỷ lệ đầu tư vô hình, các quốc gia Bắc Âu, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đứng đầu và phần còn lại nằm ở giữa.

Những biểu đồ này là thành quả của hơn một thập kỷ nghiên cứu để hệ thống hóa và đo lường về đầu tư vô hình. Chúng ta sẽ tiếp tục xem xét nghiên cứu và cách thực hiện các phép đo này. Nhưng trước khi làm vậy, chúng ta cùng suy ngẫm về lý do của sự gia tăng này trong dài hạn của đầu tư vô hình.

Lý do của sự tăng trưởng đầu tư vô hình

Mục đích của chúng tôi không phải là giải thích tại sao đầu tư vô hình lại có sự gia tăng ổn định và lâu dài như vậy: mà chúng tôi quan tâm nhiều hơn đến việc mô tả sự gia tăng và kết quả của nó đối với nền kinh tế. Nhưng trước khi xem xét chi tiết cách đo lường đầu tư vô hình, chúng ta hãy xem xét một lý do dẫn đến sự gia tăng này.

Để hiểu được nguyên nhân của sự thay đổi đáng chú ý này, chúng ta sẽ quay lại một số điểm khác biệt giữa các quốc gia đã được trình bày trong các biểu đồ trên.

Công nghệ và chi phí

Từ lâu, người ta đã hiểu rằng năng suất của khu vực sản xuất chế tạo tăng trưởng nhanh hơn so với các ngành dịch vụ, vì các thiết bị tự động hóa và thiết bị tiết kiệm lao động rất hữu ích đối với các nhà sản xuất. Theo thời gian, điều này có nghĩa là các dịch vụ sử dụng nhiều lao động trở nên đắt hơn một cách tương đối so với hàng hóa được sản xuất (Để tôn vinh mô tả của William Baumol về hiệu ứng này, các nhà kinh tế học gọi nó là Căn bệnh chi phí của Baumol).

Ngày nay, hầu hết các khoản đầu tư hữu hình đều được sản xuất hàng loạt (hãy nhgĩ đến các nhà máy trên khắp thế giới sản xuất mọi thứ từ xe tải đến máy công cụ cho đến chip silicon). Tất nhiên cũng có nhiều lao động tham gia vào các khoản đầu tư hữu hình này (đặt dây cáp, lắp đặt cửa hàng, các công đoạn trong ngành xây dựng), nhưng năng lực sản xuất chế tạo là rất quan trọng.

Mặt khác, các khoản đầu tư vô hình phụ thuộc nhiều hơn vào lao động. Thiết kế phát sinh chi phí cho các nhà thiết kế. R&D phát sinh chi phí cho các nhà khoa học. Công nghệ phần mềm phát sinh chi phí cho các nhà phát triển phần mềm. Vì vậy, theo thời gian, ta kỳ vọng chi tiêu đầu tư vô hình sẽ dần tăng lên so với hữu hình như Baumol đã dự đoán. Sự gia tăng đó có thể được bù đắp phần nào bởi vấn đề mà chúng ta xem xét chi tiết dưới đây, rằng một số chi phí vô hình chủ yếu là “cố định” hoặc một lần, vì vậy đây không thể là toàn bộ câu chuyện, nhưng sẽ là một phần của câu chuyện.

Công nghệ và năng suất của tài sản vô hình

Công nghệ mới dường như cũng gia tăng cơ hội đầu tư hiệu quả vào tài sản vô hình cho các doanh nghiệp. Ví dụ rõ ràng nhất là công nghệ thông tin. Bởi vì có rất nhiều tài sản vô hình liên quan đến thông tin và truyền thông, chúng giúp thực hiện công việc một cách hiệu quả hơn. Hãy nghĩ đến khoản đầu tư cho tổ chức của Uber vào việc xây dựng mạng lưới tài xế rộng lớn của mình: về mặt lý thuyết, điều này có thể thực hiện được trước khi phát minh ra máy tính và điện thoại thông minh (xét cho cùng, mạng taxi vô tuyến đã tồn tại), nhưng lợi tức đầu tư đã tăng lên ồ ạt nhờ điện thoại thông minh, với khả năng kết nối mọi người nhanh chóng, cho phép đánh giá tác phong làm việc của các tài xế và đo lường khoảng cách của các chuyến đi.

Công nghệ cộng đồng cũng đã cải thiện lợi tức đầu tư vô hình. Khái niệm về phòng thí nghiệm R&D của các doanh nghiệp ở Đức vào thế kỷ XIX, và sự phát triển của nó ở cả Đức và Hoa Kỳ (các khoản đầu tư vô hình vào quá trình sản xuất ra các khoản đầu tư vô hình), đã làm cho R&D trở nên có hệ thống hơn và đáng giá hơn. Việc phát minh và phát triển các hệ thống, chẳng hạn như Kanban, kỹ thuật sản xuất tinh gọn gắn với Toyota, đã làm tăng lợi tức đầu tư của tổ chức. Các kho lưu trữ mã nguồn như GitHub và Stack Overflow và cách chúng được sử dụng là một hình thức của công nghệ cộng đồng – một loại công nghệ giúp tăng lợi tức đầu tư vào phần mềm bằng cách giúp các lập trình viên hợp tác với nhau.

Dữ liệu từng quốc gia về đầu tư vô hình sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về điều này. Hình 2.6 cho thấy mối tương quan giữa tỷ trọng đầu tư vô hình trong GDP ở một quốc gia và tỷ trọng đầu tư hữu hình trong ngành công nghệ thông tin.

Hình 2.6: Đầu tư vô hình và công nghệ thông tin (trung bình từ năm 1999 đến năm 2013). Các quốc gia bao gồm Áo (AT), Đan Mạch (DK), Phần Lan (FI), Pháp (FR), Đức (DE), Italy (IT), Hà Lan (NT), Tây Ban Nha (ES), Thụy Điển (SE), Vương quốc Anh (UK), Mỹ (US).

Điều này đặt ra một câu hỏi thú vị: Có lẽ nào sự gia tăng đầu tư vô hình chỉ đơn giản là hệ quả của những cải tiến trong công nghệ thông tin? Nền kinh tế vô hình có phải là một hệ quả của Định luật Moore hay là một hiện tượng mà Erik Brynjolfsson và Andrew McAfee gọi là Thời đại máy móc thứ hai? Rất khó để chứng minh hệ quả này của sự thay đổi công nghệ, nhưng hoàn toàn có cơ sở để nghĩ rằng mối quan hệ này không chỉ đơn giản như thế. Đúng là một số tài sản vô hình hoạt động thông qua hệ thống vi tính – thực vậy, đối với một loại tài sản vô hình như phần mềm, máy tính là điều kiện cần để nó tồn tại. Và có vẻ như quy mô thị trường cho nhiều tài sản vô hình, chẳng hạn như ngành giải trí, đã được mở rộng đáng kể nhờ công nghệ thông tin.

Nhưng hình như sự trỗi dậy của máy tính không phải là nguyên nhân duy nhất của nền kinh tế vô hình. Thứ nhất, như chúng ta đã thấy, sự gia tăng của đầu tư vô hình bắt đầu trước cuộc cách mạng về vật liệu bán dẫn, vào những năm 1940, 1950 và thậm chí là trước đó. Thứ hai, trong khi một số thứ vô hình như phần mềm và dữ liệu phụ thuộc rất nhiều vào máy tính, thì những thứ khác lại không: ví dụ như thương hiệu, phát triển tổ chức và đào tạo. Cuối cùng, một số tác giả trong các nghiên cứu về sự đổi mới lập luận rằng có thể chính sự gia tăng của những tài sản vô hình đã dẫn đến sự phát triển của công nghệ thông tin hiện đại cũng giống như cách mà tài sản vô hình chịu ảnh hưởng từ công nghệ thông tin. Nhà sử học James Beniger (1986) lập luận rằng công nghệ thông tin hiện đại phát triển như vậy là do nhu cầu quá lớn về kiểm soát sản xuất và hoạt động, trước tiên là trong quân đội, và sau đó là trong thế giới kinh doanh – theo logic này, công nghệ thông tin và các nghiên cứu khai sinh ra nó dường như được định hình bởi một nền kinh tế khao khát đầu tư vô hình, thay vì đầu tư vô hình xảy ra như một sự phản ứng đối với phát minh tình cờ của các dạng công nghệ thông tin khác nhau.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Jonathan Haskel & Stian Westlake – Chủ nghĩa tư bản không có tư bản – NXB CTQG 2021

Tiết mục biến mất của tư bản – Phần III


Một số khoản đầu tư này là những ý tưởng công nghệ mới. Một số khác là ý tưởng ít liên quan đến công nghệ cao như: thiết kế sản phẩm mới hoặc mô hình kinh doanh mới . Một số có dạng mối quan hệ lâu dài hoặc độc quyền, chẳng hạn như mạng lưới tài xế của ứng dụng taxi. Một số lại là thông tin được mã hóa, như cơ sở dữ liệu thẻ khách hàng thân thiết. Điểm chung của chúng là không tồn tại ở dạng vật chất. Do đó chúng ta gọi chúng là đầu tư vô hình.

Bảng 1 đưa ra một số ví dụ. Ở phía cột bên trái là các khoản đầu tư kinh doanh hữu hình: tòa nhà, thiết bị công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) như phần cứng máy tính, thiết bị khác và xe cộ. Ở phía cột bên phải là các tài sản vô hình: phần mềm, cơ sở dữ liệu, thiết kế, thăm dò khoáng sản, R&D và quy trình kinh doanh. Tuy nhiên, những yếu tố vô hình ở cột bên phải là những khoản chi tiêu mà kế toán doanh nghiệp và quốc gia rất miễn cưỡng coi là đầu tư, nhưng như chúng ta sẽ thấy, trong 40 năm qua, một số chi tiêu này đã được tính vào là đầu tư.

Bảng 1: Ví dụ về đầu tư kinh doanh hữu hình và vô hình

Khoản đầu tư hữu hìnhKhoản đầu tư vô hình
Tòa nhàPhần mềm
Thiết bị ICT (ví dụ: phần cứng máy tính, các phương tiện liên lạcCơ sở dữ liệu
Các máy móc và thiết bị khác ngoài ICTR&D
Xe cộThăm dò khai thác khoáng sản
 Các sáng tạo về giải trí, văn học và nghệ thuật
 Thiết kế
 Đào tạo
 Nghiên cứu thị trường và xây dựng thương hiệu
 Quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp

Nguồn: Phỏng theo Hệ thống Tài khoảng Quốc gia (SNA) 2008, đoạn 10.67 và Bảng 10.2, và Corrado, Hulten và Sichel, 2005. SNA cũng bao gồm tài sản hữu hình là hệ thống vũ khí và tài nguyên sinh vật được nuôi trồng. Tài sản vô hình bao gồm R&D, thăm dò và đánh giá khoáng sản, phần mềm máy tính và cơ sở dữ liệu, cũng như tạo ra các bản gốc nghệ thuật. Các tài sản vô hình khác là những tài sản được nêu trong Corrado, Hulten và Siche, 2005.

Đầu tư vô hình đã tăng trưởng ổn định

Câu chuyện mở rộng đầu tư vô hình giống như trong lĩnh vực thể hình không phải là chuyện bất thường.

Hãy xem xét một lĩnh vực khác quen thuộc với hầu hết mọi người: siêu thị bán lẻ. Nếu bạn thấy mình đang ở trong một siêu thị tự phục vụ của 40 năm trước, nó trông sẽ cũ kỹ, nhưng không phải là không thể nhận ra. Các siêu thị lúc đó, cũng như bây giờ, là những căn phòng lớn đầy kệ, tủ lạnh và tủ đông; khách hàng tự bỏ hàng hóa của mình vào giỏ hàng và đến quầy thu ngân để thanh toán; phía sau khu mua sắm, các xe tải tiếp tế cho siêu thị từ các kho trung tâm. Tất nhiên, các khía cạnh của tài sản hữu hình của một siêu thị đã thay đổi kể từ đó: các cửa hàng đã thay đổi hình thù (một số lớn hơn và đặt ở ngoại ô, một số khác nhỏ hơn nhiều và ở trung tâm thành phố), các quầy thu ngân sử dụng nhiều chip silicon hơn và một vài trong số đó là quầy tự thanh toán. Nhưng những thay đổi này là rấ tnhỏ so với những thay đổi về tài sản vô hình của siêu thị. Ngya từ những năm 1970, mã vạch đã được sử dụng nhiều hơn để theo dõi hàng tồn kho của siêu thị; cho đến những năm 1980 và 1990, điều này đã giúp hình thành các hệ thống được vi tính hóa để quản lý chuỗi cung ứng, gia tăng năng suất ngành một cách đáng kể. Các siêu thị bắt đầu đầu tư vào hệ thống định giá phức tạp; các chiến dịch tiếp thị và xây dựng thương hiệu trở nên tham vọng hơn (bao gồm việc tung ra các sản phẩm mang nhãn hiệu riêng); các quy trình và hệ thống chi tiết được hỗ trợ bởi công tác đào tạo để nhân viên tuân theo; và hệ thống quản lý để cho phép các cửa hàng và văn phòng trung tâm theo dõi hiệu quả hoạt động, cân bằng lượng hàng tồn kho và lập kế hoạch về các chính sách khuyến mại. Bên cạnh đó, một loạt doanh nghiệp thâm dụng vốn vô hình đã xuất hiện trong lĩnh vực này, từ các đối thủ cạnh tranh trực tuyến sử dụng phần mềm để thay thế các cửa hàng như FreshDirect và Ocado, đến các doanh nghiệp xử lý thông tin để giúp các siêu thị như các chuyên gia dữ liệu khách hàng thân thiết DunnHumby và LMUK.

Các công ty công nghệ phát triển nhanh là những công ty thâm dụng vốn vô hình nhiều nhất. Điều này một phần là do phần mềm và dữ liệu là vô hình, trong khi sức mạnh ngày càng tăng của máy tính và viễn thông lại mở rộng khả năng xử lý của các phần mềm. Nhưng quá trình “phần mềm nuốt chửng thế giới”, theo lời nhà đầu tư mạo hiểm Marc Andreessen, không chỉ là câu chuyện về phần mềm: nó còn liên quan đến rất nhiều tài sản vô hình khác. Hãy xem xét các thiết kế của Apple và chuỗi cung ứng vô song của nó, điều đã giúp hãng đưa các sản phẩm sang trọng ra thị trường một cách nhanh chóng với số lượng đầy đủ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, hoặc mạng lưới tài xế và chủ căn hộ cho thuê mà những gã khổng lồ như Uber và Airbnb đã phát triển, hay bí quyết sản xuất chế tạo của Tesla. Máy tính và Internet là những động lực quan trọng của sự thay đổi hình thái đầu tư này, nhưng sự thay đổi đó đã kéo dài và tồn tại trước khi World Wide Web và thậm chí là Internet và PC ra đời.

Sự gia tăng của đầu tư vô hình trở nên rất rõ ràng nếu chúng ta nhìn vào dữ liệu của nền kinh tế nói chung. Những năm gần đây, các nhà kinh tế đã đo lường các khía cạnh của vốn vô hình không được tính đến trong tài khoản quốc gia và xây dựng các ước tính ngày càng chính xác về lượng đầu tư này. Hình 2.1 sẽ cho chúng ta thấy xu hướng chung này.

Hình 2.1: Đầu tư vô hình và hữu hình tại Mỹ theo thời gian. Dữ liệu là đầu tư kinh doanh của Mỹ vào tài sản vô hình và hữu hình so với sản lượng của lĩnh vực kinh doanh phi nông nghiệp của Mỹ, bao gồm cả sản lượng vô hình. Điểm dữ liệu cuối cùng là năm 2007.

Mặc dù các nhà kinh tế thời kỳ trước không tập trung vào việc đo lường đầu tư vô hình, nhưng trong những năm gần đây, các học giả đã có thể tái tạo lại số tiền mà các doanh nghiệp đã đầu tư vào tài sản vô hình từ nhiều thập kỷ trước.

Trong những năm đầu tiên, ngay cả ở các nước phát triển nhất, đầu tư vô hình chỉ là một hoạt động phụ trong chu kỳ kinh doanh. Như biểu đồ cho thấy, theo thời gian, trạng thái này bắt đầu thay đổi. Đầu tư vô hình đã tăng lên đều đặn. Tỷ trọng đầu tư hữu hình trong toàn bộ nền kinh tế đã tăng chậm hơn và giảm trong một số trường hợp. Ở Hoa Kỳ, có vẻ như đầu tư vô hình đã vượt qua đầu tư hữu hình vào giữa những năm 1990.

Chỉ với Hoa Kỳ, chúng ta mới có thể quay ngược trở lại xa như vậy, còn đối với Vương quốc Anh, chúng ta có một số ước tính của Peter Goodridge và các đồng nghiệp của ông về tới năm 1992 (Goodridge và các cộng sự, 2016). Họ nhận thấy rằng đầu tư vô hình đã vượt qua đầu tư hữu hình vào khoảng cuối những năm 1990 (xem Hình 2.2).

Hình 2.2: Đầu tư vô hình và hữu hình tại Vương quốc Anh theo thời gian. Dữ liệu trên là đầu tư của khu vực thị trường Vương quốc Anh vào tài sản vô hình và hữu hình so với sản lượng của khu vực thị trường Vương quốc Anh, bao gồm cả sản lượng vô hình. Điểm dữ liệu cuối cùng là năm 2014.

Một loạt dự án do EU tài trợ gần đây đã cố gắng thu thập dữ liệu này một cách nhất quán giữa các nước EU. Số liệu về các nền kinh tế lớn của châu Âu được trình bày trong Hình 2.3 và cho thấy dù tỷ trọng tài sản vô hình đang tăng nhưng nó vẫn nhỏ hơn tỷ trọng đầu tư vô hình.

Hình 2.3: Đầu tư vô hình và hữu hình ở châu Âu. Dữ liệu trên là đầu tư của tàon bộ nền kinh tế EU vào tài sản vô hình và hữu hình so với GDP, bao gồm cả sản lượng vô hình. Điểm dữ liệu cuối cùng là năm 2013. Các quốc gia châu Âu bao gồm Áo, Cộng hòa Czech, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Italy, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Vương quốc Anh.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Jonathan Haskel & Stian Westlake – Chủ nghĩa tư bản không có tư bản – NXB CTQG 2021

Tiết mục biến mất của tư bản – Phần II


Chuyến du ngoạn của chúng ta vào thế giới của các phòng tập cho thấy rằng ngay cả một công việc kinh doanh mang đậm tính vật chất  – theo nghĩa đen, kinh doanh về tập luyện thể chất – trong vài thập kỷ qua đã trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào những thứ phi vật chất. Đây không phải là câu chuyện về sự thay thế của Internet theo kiểu mà chúng ta đã quen thuộc từ hàng trăm bài viết trên các tạp chí: các phòng tập Gym không được thay thế bằng một ứng dụng như cách các cửa hàng băng đĩa được thay thế bằng Napster, iTunes và Spotify. Phần mềm không thay thế được nhu cầu vận động và tập luyện của con người. Tuy nhiên, công việc kinh doanh đã thay đổi theo hai bộ phận khác nhau. Đối với phần có bề ngoài tương tự như những năm 1970, tức là bản thân phòng tập, đã trở nên hoàn thiện với các hệ thống, quy trình, mối quan hệ và phần mềm. Đây không phải là sự đổi mới về hình thức, mà là sự thay đổi bên trong – giống như một bộ phận cơ thể được cung cấp các dây thần kinh, giúp nó cảm nhận, hoạt động một cách có trật tự và có kiểm soát. Đối với phần kinh doanh mới được thành lập, hiệu quả hoạt động gần như dựa hoàn toàn vào những thứ mà bạn không thể chạm vào.

Trong phần còn lại của bài này, chúng ta sẽ xem xét những thay đổi trong đầu tư và tài sản diễn ra trong lĩnh vực thể hình diễn ra như thế nào trong toàn bộ nền kinh tế và lý do của những thay đổi ấy. Nhưng trước tiên, chúng ta hãy nghiên cứu kỹ lưỡng hơn xem đầu tư thực sự là gì.

Đầu tư, tài sản, tư bản là gì?

Khi chúng ta xem xét những thứ mà các phòng tập Gym đã mua hoặc phát triển để vận hành và kinh doanh, chúng ta đang nói về tài sản và đầu tư. Đầu tư rất quan trọng đối với các nhà kinh tế học vì nó tạo nên thứ mà họ gọi là “tổng tư bản” (hoặc “tổng vốn”) của nền kinh tế: các công cụ và thiết bị mà người lao động sử dụng để sản xuất hàng hóa và dịch vụ, tạo nên sản lượng kinh tế.

Nhưng “đầu tư”, “tài sản” và “tư bản” có thể là những thuật ngữ khó hiểu. Trước hết, hãy cùng xem xét “đầu tư”. Các nhà báo tài chính thường gọi những người mua và bán chứng khoán là các “nhà đầu tư” và dự đoán một cc1h đầy lo ngại về “tâm trạng của nhà đầu tư”. Cũng nhà báo ấy có thể gọi một nhà tài phiệt dài hạn như Warren Buffett là “nhà đầu tư” và các đối thủ ngắn hạn của ông ta là “nhà đầu cơ”. Người nào đó đang cân nhắc việc vào đại học có thể nhận được lời khuyên rằng “giáo dục là khoản đầu tư tốt nhất mà bạn có thể thực hiện”.

Các thuật ngữ “tài sản” và “tư bản” (“vốn”) cũng được sử dụng theo nhiều cách khó hiệu. Trong cuốn sách nối tiếng Tư bản trong thế kỷ XXI, Thomas Piketty (2014) đã định nghĩa tư bản là “tất cả các dạng của cải mà các cá nhân… có thể sở hữu”. Những nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa Marx nhắc đến “tư bản” không chỉ như một khái niệm kế toán, mà còn đại diện cho toàn bộ một hệ thống bóc lột. “Tài sản” cũng có các định nghĩa khác nhau. Nhiều công ty coi tài sản kinh doanh của họ là kho, xưởng, nhà máy và thiết bị của họ. Đối với một kế toán viên, tài sản kinh doanh lại thường bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng của công ty và các hóa đơn mà khách hàng chưa thanh toán, tức là không phải máy móc được sử dụng trong sản xuất kinh doanh mà là kết quả của hoạt động kinh doanh đó.

Do sự đa đạng về định nghĩa này và vì chúng ta sẽ thường xuyên nhắc đến các thuật ngữ trên, nên sẽ rất hữu ích khi thiết lập các định nghĩa cho “đầu tư”, “tư bản” và “tài sản”. Chúng ta sẽ tuân thủ định nghĩa của đầu tư đã được thống nhất trên quốc tế và được các cơ quan thống kê trên thế giới sử dụng khi đo lường hiệu quả hoạt động của các nền kinh tế quốc gia. Định nghĩa này có lợi thế là được chuẩn hóa, đúc kết từ nhiều nghiên cứu và được liên kết trực tiếp với các số liệu như GDP mà chúng ta thường thấy trong các bản tin thời sự.

Theo Hệ thống Tài khoản Quốc gia của Liên hợp quốc, cuốn kinh thánh của kế toán quốc gia, “đầu tư là những gì xảy ra khi một nhà sản xuất mua một tài sản cố định hoặc sử dụng nguồn lực (tiền bạc, công sức, nguyên vật liệu) để cải thiện nó”. Đây là một khái niệm khá chung chung, hãy cùng phân tích rõ hơn.

Thứ nhất, hãy xem định nghĩa về tài sản. Tài sản là một nguồn lực kinh tế được kỳ vọng sẽ mang lại lợi ích trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu một ngân hàng mua một máy chủ mới hoặc một tòa nhà văn phòng mới, thì ngân hàng đó sẽ thu được lợi ích kéo dài trong một thời gian – chắc chắn nhiều hơn một năm. Nếu họ thanh toán hóa đơn tiền điện hàng quý, lợi ích sẽ kéo dài trong ba tháng. Vì vậy, máy chủ và tòa nhà là tài sản, nhưng điện hay chi phí bỏ ra để thanh toán hóa đơn tiền điện thì không phải tài sản.

Thứ hai, hãy xem xét từ cố định. Tài sản cố định là tài sản được hình thành từ việc sử dụng các nguồn lực trong quá trình sản xuất. Ví dụ, một chiếc máy bay, một chiếc ô tô hay một bằng sáng chế thuốc đều phải được sản xuất ra – ai đó phải lao động để tạo ra nó. Điều này có thể phân biệt với một tài sản tài chính, giống như cổ phần trong một công ty đại chúng. Cổ phần của chủ sở hữu không được tạo ra (ngoại trừ theo nghĩa tầm thường rằng số cổ phiếu được in ra để đại diện cho số cổ phần nắm giữ bởi các cổ đông). Điều này có nghĩa là khi các nhà kinh tế nói về đầu tư, họ không nói về việc đầu tư theo nghĩa tài chính cá nhân, tức là mua cổ phiếu và cổ phần. Và bởi vì họ đang nói về tài sản cố định nên họ không nói về khái niệm kế toán như tiền trong tài khoản ngân hàng của công ty.

Thứ ba, hãy xem xét việc sử dụng các nguồn lực. Để được coi là một khoản đầu tư, doanh nghiệp thực hiện đầu tư phải mua được tài sản từ một đơn vị khác hoặc phải phát sinh các chi phí để tự sản xuất ra nó.

Cuối cùng, hãy xét đến từ nhà sản xuất. Hệ thống Tài khoản Quốc gia đo lường sản xuất của các doanh nghiệp, chính phủ hoặc ngành dịch vụ. Sản xuất của các hộ gia đình (ví dụ, giặt giũ hoặc nấu ăn tại nhà) không được bao gồm trong thuật ngữ trên, và do đó, đầu tư của hộ gia đình vào máy giặt hay bếp cũng không thể coi là một khoản đầu tư. Đây là một đặc điểm mang tính khái niệm của tài khoản quốc gia, và cũng chính là một trong những lý do khiến mọi người chỉ trích GDP (vì nó loại trừ một bộ phận lớn của nền kinh tế mà trước đây được điều hành chủ yếu bởi phụ nữ). Có lẽ một ngày nào đó “sản xuất” sẽ có một định nghĩa rộng hơn trong các tài khoản quốc gia; vì chúng tôi tin rằng hầu hết những thay đổi mà chúng tôi mô tả này đều có thể áp dụng cho cả hộ gia đình cũng như cho những người được coi là nhà sản xuất.

Vì vậy, khi chúng ta nói về “đầu tư”, chúng ta không nói về việc mua hoặc bán các mảnh giấy trên thị trường chứng khoán hay việc các hộ gia đình trả học phí đại học. Thay vào đó, chúng ta đang nói về chi tiêu của doanh nghiệp chính phủ hoặc ngành dịch vụ nhằm tạo ra tài sản cố định (tức là phi tài chính), tức là các nguồn lực được chi tiêu để tạo ra một chuỗi dịch vụ sản xuất lâu dài. Chúng tôi sẽ gọi một tài sản cố định cung cấp các dịch vụ sản xuất lâu dài này là “tư bản” (hoặc “vốn”). Bởi vì cả tư bản và lao động đều tạo ra các dịch vụ sản xuất như vậy, nên các nhà kinh tế học gọi chúng là “các yếu tố sản xuất”.

Không phải tất cả các khoản đầu tư đều là thứ bạn có thể chạm vào

Một trong những ví dụ về khoản đầu tư trong phần nêu trên là bằng sáng chế thuốc, chẳng hạn như một bằng sáng chế thuộc sở hữu của một công ty dược phẩm. Công ty dược ấy rõ ràng là một nhà sản xuất, không phải hộ gia đình; công ty phải sử dụng các nguồn lực để sản xuất hoặc mua lại bằng sáng chế đó; bằng sáng chế phát sinh từ quá trình sản xuất – trong trường hợp này là công việc của các nhà khoa học trong phòng thí nghiệm – và nếu họ thành công trong quá trình sản xuất, thì bằng sáng chế đó sẽ có giá trị lâu dài, vì công ty có thể phát triển nó để sử dụng trong tương lai và có thể bán thuốc dựa trên nó. Bằng sáng chế là một ví dụ về tài sản vô hình, được tạo ra bởi một quá trình đầu tư vô hình. Các tài sản khác nhau trong câu chuyện phòng tập cũng vậy, từ phần mềm dành cho hội viên của phòng tập đến thương hiệu Les Mills International’s Bodypump. Chúng sinh ra từ một quá trình sản xuất, được các nhà sản xuất mua lại hoặc cải tiến và mang lại lợi ích theo thời gian.

Những loại hình đầu tư này có thể được tìm thấy trong toàn bộ nền kinh tế. Giả sử một nhà sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời nghiên cứu và phát hiện ra một quy trình sản xuất tế bào quang điện rẻ hơn; nghĩa là hiện tại họ đang phải trả chi phí để tạo ra lượng tri thức mà họ mong đợi sẽ được hưởng lợi trong tương lai. Hoặc xem xét một công ty khởi nghiệp âm nhạc trực tuyến dành hàng tháng trời để thiết kế và đàm phán thỏa thuận với các hãng thu âm để cho phép công ty sử dụng những bài hát của chính các hãng  thu âm ấy – một lần nữa, chi phí ngắn hạn để tạo ra lợi nhuận dài hạn. Hoặc trường hợp một công ty đào tạo trả tiền cho quyền lâu dài để thực hiện một bài kiểm tra tâm lý phổ biến: đó cũng là đầu tư.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Jonathan Haskel & Stian Westlake – Chủ nghĩa tư bản không có tư bản – NXB CTQG 2021

Tiết mục biến mất của tư bản – Phần I


Đầu tư là một trong những hoạt động quan trọng nhất trong nền kinh tế. Nhưng trong 30 năm qua, bản chất của đầu tư đã thay đổi. Bài này mô tả bản chất của sự thay đổi đó và xem xét đến nguyên nhân tạo ra sự thay đổi.

Đầu tư là trọng tâm trong hoạt động của bất kỳ nền kinh tế nào. Theo quan điểm kinh tế, quá trình đầu tư thời gian, nguồn lực và tiền bạc để chúng ta có thể tạo ra những thứ hữu ích trong tương lai là nội dung chính của những hoạt động của các doanh nghiệp, chính phủ và cá nhân.

Trong những thập kỷ qua, bản chất của đầu tư đã từng bước thay đổi, và tạo ra những chuyển biến đáng kể.

Sự thay đổi không chỉ là về công nghệ thông tin. Các khoản đầu tư mới không chỉ ở dạng robot, máy tính hoặc các chip silicon, mặc dù như chúng ta sẽ thấy, chúng đều đóng vai trò hỗ trợ trong sự thay đổi. Loại hình đầu tư đã tăng không ngừng là các tài sản vô hình: đầu tư vào ý tưởng, vào tri thức, vào nội dung thẩm mỹ, vào phần mềm, vào thương hiệu, vào mạng lưới và các mối quan hệ.

Bài này sẽ mô tả sự thay đổi đó là gì và lý do tại sao nó đã xảy ra.

Một chuyến đi đến phòng Gym

Câu chuyện của chúng ta bắt đầu trong phòng tập gym, hay nói đúng hơn là ở hai phòng tập gym. Chúng ta hãy cùng bước vào bên trong một phòng tập gym năm 2017 và năm 1977 và xem xét một số điểm khác biệt. Như chúng ta thấy, các phòng tập gym cung cấp một ví dụ sinh động nhưng điển hình cho thấy ngay cả những ngành không sử dụng công nghệ cao cũng thay đổi một cách tinh vi các loại hình đầu tư mà họ thực hiện.

Phòng tập gym là một nơi thú vị để bắt đầu cuộc tìm kiếm về nền kinh tế vô hình, bởi thoạt nhìn thì nó chẳng có gì liên quan đến vô hình. Ngya cả khi bạn không bao giờ đặt chân vào phòng tập, bạn vẫn ít nhiều biết về nhữgn thứ ở đây. Phòng tập của chúng ta ở năm 2017 có đầy đủ các thiết bị giúp cho cơ sở này hoạt động: quầy lễ tân với máy tính, cửa quay, máy tập thể dục, tạ, phòng tắm, tủ đồ, thảm và gương (“thiết bị được sử dụng nhiều nhất trong phòng tập” theo lời nói đùa của một chủ phòng tập). Tất cả những thiết bị này được phản ánh trên khía cạnh tài chính của doanh nghiệp sở hữu và điều hành các phòng tập gym; tài khảon kế toán của họ thường phản ánh các loại tài sản mà bạn có thể chạm vào và nhìn thấy, từ mặt bằng đến những quả tạ hay máy chạy bộ mà khách hàng sử dụng.

Bây giờ, hãy xem xét một phòng tập gym từ 40 năm trước. Năm 1977, Hoa Kỳ có rất nhiều phòng tập gym. Bộ phim đột phá của Arnold Schwarzenegger – Pumping Iron vừa được phát hành, với hoạt cảnh anh ấy tập luyện tại Gold’s Gym ở bãi biển Venice, Los Angeles, thương hiệu được  thành lập vào năm 1965 và được cấp quyền rộng rãi trên toàn nước Mỹ. Các phòng tập khác đều sở hữu các loại máy móc như Nautilus, phiên bản đầu tiên của loại máy tập cố định, phát minh bởi Arthur Jones vào cuối những năm 1960. Nếu bạn quan sát một phòng tập gym vào thời điểm đó, bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa chúng với phòng tập gym ngày nay. Tất nhiên, máy móc tại những phòng tập năm 1977 có thể sẻ kém đa dạng hơn, kém tân tiến hơn. Thành viên sẽ được ghi nhận trên thẻ thành viên thay vì lưu trữ trên máy tính; có lẽ các phương tiện vật chất sẽ thô hơn, nhưng rõ ràng, nhiều tài sản hữu hình tại phòng gym hai thời điểm nói trên là giống nhau, như: một số khu tập luyện, phòng thay đồ hay một số thiết bị.

Nhưng nếu chúng ta quay lại phòng tập gym năm 2017 và xem xét kỹ hơn, chúng ta sẽ nhận thấy một số khác biệt. Phòng tập gym hiện đại đã đầu tư vào một loạt những thứ mà người đồng nhiệm năm 1977 của nó không có. Đó là phần mềm máy tính ở quầy lễ tên, giúp lưu trữ danh sách thành viên, đặt lịch các khóa học và xếp ca làm việc cho các nhân viên, được liên kết với cơ sở dữ liệu trung tâm. Phòng tập gym hiện nay có thương hiệu, được xây dựng thông qua các chiến dịch quảng cáo với chi phí thấp hơn và tinh giản hơn so với các phòng tập gym vào những năm 1970. Ngoài ra, phòng gym hiện đại còn có một cuốn sổ tay hướng dẫn nhân viên cách thực hiện các công việc khác nhau, từ thu hút thành viên mới đến xử lý khách hàng quá hạn. Các nhân viên được đào tạo để tuân theo cuốn sổ tay và làm việc với hiệu quả được chuẩn hóa, điều có vẻ kỳ lạ với thế giới đơn giản trong Pumping Iron. Tất cả những thứ này – phần mềm, thương hiệu, quy trình đào tạo – đều giống như máy tập tạ, cửa quay hay tòa nhà của phòng tập, chúng tốn chi phí trong ngắn hạn nhưng trong dài hạn sẽ giúp phòng tập gym hoạt động và sinh lời. Hầu hết những thứ này không sở hữu các đặc điểm vật lý không và không thể chạm vào – chúng chắc chắn không có nguy cơ rơi vào chân bạn. Các doanh nghiệp kinh doanh có phòng tập gym vẫn là những doanh nghiệp sử dụng khá nhiều tài sản hữu hình (tất cả bốn phòng tập gym lớn nhất của Vương quốc Anh đều thuộc sở hữu của các công ty cổ phần tư nhân, có xu hướng đầu tư vào các doanh nghiệp có tài sản lớn), nhưng so với các đồng nhiệm của họ bốn thập kỷ trước, họ đã sở hữu các tài sản vô hình với số lượng lớn hơn rất nhiều.

Và sự biến đổi còn sâu sắc hơn thế. Phòng tập Gym tổ chức các lớp tập thể dục thường xuyên cho các thành viên tại một phòng nhỏ của phòng tập: một trong những loại phổ biến nhất được gọi là Bodypump, hay theo bảng hiệu trên cửa ghi rõ là “Bodypump®”. Hóa ra công ty điều hành phòng tập gym ấy không phải là doanh nghiệp duy nhất hoạt động trong khuôn viên phòng tập – và từ góc độ kinh tế, công việc kinh doanh thứ hai này thậm chí còn thú vị hơn.

Bodypump là một loại bài tập, được gọi là “luyện tập cường độ cao ngắt quãng” (HIIT), trong đó người tham gia vận động mạnh và nâng tạ nhỏ theo nhịp điệu, nhưng khái niệm này không diễn giải hết cường độ tập luyện cao hay sự phóng thích của adrenaline mà các lớp HIIT tạo ra cho khách hàng của họ. Lý do nhãn hiệu Bodypump được đăng ký bảo hộ là vì Bodypump được thiết kế và sở hữu bởi công ty khác đang làm việc trong cùng tòa nhà đó, một doanh nghiệp đến từ New Zealand có tên là Les Mills International.

Les Mills là một vận động viên cử tại Olympic, người đã thành lập một phòng tập gym nhỏ ở Auckland ba năm sau khi Joe Gold mở phòng tập gym đầu tiên của mình ở Los Angeles. Con trai của ông, Philip, sau một chuyến thăm Los Angeles, đã nhìn thấy tiềm năng khi kết hợp âm nhạc với tập thủ dục nhóm: ông đã mang nó trở lại New Zealand và thêm vào đó các động tác nâng tạ nhỏ để tạo ra Bodypump vào năm 1997. Ông nhận ra rằng, bằng cách biên đạo các động tác tuần hoàn và đồng bộ hóa chúng với những bản nhạc hiện đại, tiết tấu nhanh và mạnh, ông đã có một sản phẩm có thể bán cho các phòng tập khác. Đến năm 2005, các lớp học của Les Mills như Bodypump và Bodycombat đã được cung cấp ở khoảng 10.000 địa điểm tại 55 quốc gia với ước tính khoảng 4 triệu người tham gia mỗi tuần (Parviainen, 2011); trang web của công ty hiện ước tính 6 triệu người tham gia mỗi tuần. Ba tháng một lần, các nhà thiết kế của Les Mills lại tạo ra vũ đạo mới cho các chương trình của họ. Họ quay phim và gửi phim cùng các chỉ dẫn, ghi chú vũ đạo và các tệp âm nhạc cho giảng viên được cấp phép. Tại thời điểm hiện tại, họ có 130.000 giảng viên như vậy. Để trở thành một giảng viên, bạn phải hoàn thành ba ngày đào tạo, hiện có giá khoảng 300 bảng Anh, sau đó bạn có thể bắt đầu giảng dạy, nhưng để tiến xa hơn, bạn phải gửi video về một lớp học hoàn chỉnh cho Les Mills, để kiểm tra về kỹ thuật, vũ đạo cũng như kỹ năng huấn luyện của bạn.

Những tài sản mà một doanh nghiệp như Les Mills sử dụng để hoạt động rất khác so với tạ và thảm của một phòng tập Gold’s Gym vào năm 1977. Đúng là một số tài sản của họ là hữu hình – thiết bị ghi âm, máy tính, văn phòng – nhưng phần lớn tài sản thì không phải vậy. Họ có một loạt các thương hiệu rất có giá trị (khách hàng phòng tập gym sẽ rất bức xúc nếu phòng tập của họ ngừng cung cấp dịch vụ Bodypump), sở hữu trí tuệ (IP) được bảo vệ bởi bản quyền và nhãn hiệu, chuyên môn về thiết kế các lớp tập thể dục và mối quan hệ độc quyền với một nhóm nhà cung cấp và các đối tác (chẳng hạn như các nhà sản xuất và phân phối âm nhạc). Ý tưởng kiếm tiền từ những hình thức tập luyện không phải là mới – Charles Atlas đã bán các khóa học hình thể một thập kỷ trước khi Les Mills ra đời – nhưng quy mô mà Les Mills International hoạt động và cách nó kết hợp thương hiệu, âm nhạc, thiết kế khóa học và đào tạo là rất đáng chú ý.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Jonathan Haskel & Stian Westlake – Chủ nghĩa tư bản không có tư bản – NXB CTQG 2021

Tính phản xạ trong các thị trường tài chính – Phần cuối


Ngay cả trong những dịp khi luận đề của tôi hóa ra sai, tôi vẫn thường có thể thoát hiểm với một khoản lợi nhuận vì thái độ phê phán của tôi cho phép tôi nhận dạng những thiếu sót trong luận đề của tôi sớm hơn những người khác. Khi tôi ngửi thấy mùi, tôi đã theo quy tắc đầu tư trước và điều tra sau. Khi luận đề là có vẻ hợp lý, điều này thường tạo cho tôi một cơ hội để chuyển thành thắng với lợi nhuận vì có những người khác sẵn sàng tin ở luận đề đó. Việc nhận ra một thiếu sót ở một luận đề tạo cho tôi một điều an ủi; việc không biết tất cả mọi điểm yếu tiềm tàng đã khiến tôi cảnh giác, vì tôi tin tưởng vững chắc rằng mọi luận đề đều có thiếu sót cố hữu.

Dựa trên cơ sở kinh nghiệm của bản thân, tôi đã lập luận một giả thuyết khá lý thú về thị trường chứng khoán: tôi nêu định đề rằng thị trường chứng khoán biểu diễn lại sự sửa đổi lý thuyết của Popper về phương pháp khoa học cho phù hợp nhiều theo cùng một đường lối như tôi, chỉ với một khác biệt là nó không biết rằng nó đang làm thế. Nói cách khác, nó chấp thuận một luận đề và kiểm định nó; khi nó thất bại, như nó vẫn thường thất bại, nó thử một luận đề khác. Đó chính là điều tạo ra những dao động thị trường. Nó diễn ra ở các cấp độ ý nghĩa khác nhau, và mẫu hình được tạo ra thì mang tính lặp lại, rất giống như những hình dáng bất quy tắc fractal của Mandelbrot [các cơ cấu lặp lại trong đó những hình thể bất quy tắc được lặp lại ở tất cả mọi số tỉ lệ].

Luận đề mà thị trường chấp thuận thường không có gì đặc sắc; nó có thể không đạt đến điều gì hơn là câu nói rằng giá cả các công ty, các tập đoàn hay toàn bộ các thị trường phải đi lên hoặc đi xuống. Trong những trường hợp này, đến lúc một người tham dự nghiền ngẫm hiểu ra vì sao thị trường chấp thuận một luận đề nhất định, có lẽ lúc ấy đã quá muộn – luận đề đó đã bị loại bỏ. Đoán trước những sự dao động bằng cách nghiên cứu các mẫu hình thị trường thì tốt hơn nhiều. Đó chính là điều các nhà phân tích kỹ thuật làm. Tôi không bao giờ đặc biệt quan tâm đến điều này, mà thích đợi một luận đề đặc sắc – tức là một luận đề có tính phản xạ. Dĩ nhiên thị trường đã bắt đầu biểu hiện nó ra trước khi tôi có thể trình bày một luận đề như thế, nhưng tôi vẫn còn có thể đi trước thị trường trong việc trình bày nó. Những luận đề lịch sử, mang tính phản xạ như thế chỉ thể hiện chúng theo cách lúc có lúc không, và giữa những lần thể hiện đó có những thời kỳ không hoạt động gì cả, khi ấy tôi có lẽ tốt hơn là không làm gì.

Tôi hoài nghi liệu mình sẽ vẫn còn có một sự sắc sảo cạnh tranh trong việc nhận ra những luận đề lịch sử rộng lớn nữa hay không, vì bây giờ những người tham dự thị trường đã trở nên ý thức được cái tiềm năng mà tính phản xạ có, ví dụ đã có một sự thay đổi rõ rệt để rời khỏi những đặc điểm cơ bản và hướng tới những suy tính kỹ thuật. Vì niềm tin của những người tham dự vào tầm quan trọng của các đặc điểm cơ bản đã suy giảm, sự phân tích kỹ thuật trở nên quan trọng hơn. Điều này có một số hệ quả đối với sự ổn định của các thị trường, nhưng trước khi xem xét chúng, tôi phải đưa ra một sự phân biệt vẫn đóng một vai trò then chốt trong khung quan niệm của tôi.

Tôi muốn phân biệt giữa những điều kiện gần vị trí cân bằng và xa cân bằng. Tôi đã vay mượn những thuật ngữ này từ “lý thuyết hỗn loạn”, một lý thuyết mà cách tiếp cận của tôi có nhiều quan hệ thân thuộc. Trong những điều kiện gần cân bằng, thị trường hoạt động với những luận đề không có gì đặc sắc, do đó một bước rời khỏi sự cân bằng dễ có khả năng gây ra một bước đối chọi lại nhằm đưa các giá cả trở lại với vị trí nơi chúng xuất phát. Những dao động này giống với những gợn sóng nổi lên trong một bể bơi.

Trái lại, nếu một luận đề có tính phản xạ có thể xác lập được nó, nó sẽ tác động không chỉ các giá cả, mà cả những đặc điểm cơ bản, và một sự đảo ngược sẽ không dẫn đến việc trở lại vị trí xuất phát. Nó sẽ giống nhiều hơn với một con sóng triều hay một đợt lở tuyết. Một chuỗi thực sự bùng nổ/đổ vỡ thâm nhập vào vùng lãnh địa xa vị trí cân bằng. Đó chính là điều tạo cho chúng ý nghĩa lịch sử. Vậy thì đường phân tuyến ở đâu?

Người ta vượt qua bậc thềm của sự mất cân bằng động khi một xu thế thịnh hành trong thế giới thực trở nên phụ thuộc vào một thiên hướng thịnh hành trong tâm trí những người tham dự, và ngược lại. Cả xu thế lẫn thiên hướng khi ấy sẽ phát triển xa hơn khả năng có thể nếu không có một mối liên hệ ngược kép mang tính phản xạ. Ví dụ trong những năm 1990, sự hào hứng của các nhà đầu tư và nhà băng quốc tế đối với các cổ phần và tài sản châu Á đã tạo ra những cuộc bùng nổ nội địa, vốn được thúc đẩy bằng những sự định giá cao và tín dụng dễ dàng. Những cuộc bùng nổ này làm gia tốc sự tăng trưởng trong khu vực đó và tăng những sự định giá, là những điều mà đến lượt chúng lại tạo ra giá trị và khuyến khích dòng vốn tiếp tục chảy vào từ nước ngoài. (Nhưng có một con sâu trong nồi canh: cuộc bùng nổ đã chẳng phát triển xa như nó đã phát triển, nếu như không có việc không chính thức chốt giá đồng USD, một việc đã cho phép các nước chịu đựng một sự thâm hụt thương mại lâu hơn họ lẽ ra nên chịu. Sau sẽ nói thêm về điều này).

Tự thân một thiên hướng thịnh hành thì chưa đủ; nó phải tìm ra cách để trở nên có giá trị bằng việc xác lập hay tăng cường một xu thế trong thế giới thực. Tôi nhận ra rằng điều quan trọng mà tôi đang nêu ra là một sự lặp thừa: khi một liên hệ ngược kép đang hoạt động, chúng ta có thể nói về một sự mất cân bằng động. Nhưng điều quan trọng đáng được nêu ra: tư duy của những người tham dự luôn luôn có thiên hướng, nhưng không phải bao giờ nó cũng chuyển thành một chuỗi bùng nổ/đổ vỡ. Ví dụ cuộc bùng nổ liên hợp công ty đã có thể được dừng lại nếu các nhà đầu tư nhận ra rằng khái niệm tăng trưởng thu nhập mỗi cổ phần là có thiếu sót ngay khi các công ty liên hợp bắt đầu lợi dụng nó. Cuộc bùng nổ châu Á đã có thể bị chặn lại, giá như các nhà đầu tư và người cho vay nhận ra rằng mặc dầu những dòng vốn chảy vào và những thiếu hụt tài khoản hiện nay của khu vực hiện đang tài trợ cho “những đầu tư sinh lãi”, những đầu tư này sẽ vẫn “sinh lãi” chỉ chừng nào có thể duy trì dòng vốn chảy vào.

Đây chưa phải phần kết của câu chuyện. Điều gì sẽ xảy ra khi mối liên hệ có tính phản xạ giữa những đặc điểm cơ bản và sự định giá được những người tham dự thị trường nhận ra? Điều đó cũng có thể trở thành nguồn gốc của sự không ổn định. Nó có thể dẫn tới một sự nhấn mạnh cái gọi là những nhân tố kỹ thuật, tới việc bỏ qua những đặc điểm cơ bản và sinh ra sự đầu cơ theo đuôi xu thế chung. Làm thế nào có thể giữ được ổn định? Chỉ có thể bằng cách tiếp tục dựa vào cái gọi là những đặc điểm cơ bản, mặc dù có một thực tế rằng chúng phụ thuộc vào sự định giá của chúng ta. Có thể đạt được điều này bằng sự dốt nát. Nếu những người tham dự thị trường không ý thức được tính phản xạ, các thị trường sẽ vẫn ổn định chừng nào một kẽ hở nào đó không cho phép phát triển một quá trình bùng nổ/đổ vỡ. Nhưng làm thế nào có thể giữ được sự ổn định khi những người tham dự thị trường trở nên ý thức được tính phản xạ? Câu trả lời là: nó không thể được tiến hành chỉ bởi một mình những người tham dự thị trường; việc gìn giữ sự ổn định phải trở thành một mục tiêu của chính sách công cộng.

Có thể thấy rằng bản thân khái niệm tính phản xạ cũng mang tính phản xạ. Lý thuyết kinh tế thực sự đã đề cao xu thế tiến tới sự cân bằng, bằng việc bỏ qua tính phản xạ, và nhấn mạnh tầm quan trọng của những đặc điểm cơ bản. Trái lại, lập luận của tôi dẫn tới kết luận rằng không thể bỏ mặc cho các thị trường xoay xở lấy. Việc ý thức được tính phản xạ chỉ giúp vào việc tăng sự không ổn định trừ phi các nhà chức trách cũng ý thức được ngang như vậy, và can thiệp khi sự không ổn định đe dọa tuột khỏi tầm tay.

Vấn đề về sự không ổn định đang trở nên gay gắt hơn. Niềm tin vào những đặc điểm cơ bản đang xói mòn, và hành vi theo đuôi xu thế chung đang tăng lên. Nó được nuôi dưỡng bởi ảnh hưởng ngày càng tăng của các nhà đầu tư thể chế, những người mà kết quả thực hiện được đo bằng “thực hiện tương đối” hơn là “tuyệt đối”, và bằng những nhà băng trung tâm tiền tệ lớn hoạt động với tư cách là những “người tạo thị trường” trong tiền tệ và giao dịch phái sinh. Họ thu lợi nhờ tình trạng gia tăng biến động với tư cách người tạo thị trường lẫn tư cách người cung cấp các cơ chế phòng rủi ro. Vai trò của các quỹ phòng rủi ro thì mơ hồ hơn: với tư cách những người dùng đòn bẩy, họ đóng góp vào tính biến động, nhưng ở mức độ động cơ thúc đẩy họ là “thực hiện tuyệt đối” hơn là “tương đối”, họ thường đi theo xu thế đối chọi. Vì bản thân các thị trường phát triển theo một cách thức lịch sử, không nên xem nhẹ nguy cơ tăng sự không ổn định.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: George Soros – Khủng hoảng của Chủ nghĩa tư bản toàn cầu – NXB KHXH 1999

Sự phục hưng của đồng tiền – Phần cuối


Nếu Bitcoin không được dùng để mua cà phê, vậy nó dùng cho việc gì? Bitcoin được hầu hết mọi người sử dụng như một cách trung lập, không chịu tác động của các bên để lưu trữ tiền. Nói đến ví dụ về người được công nghiệp Bitcoin tiếp thêm nhiều sức mạnh nhất. Thử tưởng tượng một người phụ nữ trẻ ở Nigeria. Cô ấy sống trong một làng quê xa xôi và là một nhà thiết kế đồ họa tài năng. Nếu cô ấy có thể tìm một công việc tự do trên mạng, cô ấy có thể kiếm tiền để nuôi gia đình. Nhưng làm sao cô ấy có thể dùng những phương pháp thanh toán truyền thống để nhận tiền lương? Cô ấy không có tài khoản ngân hàng và không thể nhận tiền mặt thông qua chuyển phát nhanh quốc tế. Bitcoin là sự lựa chọn tốt nhất cho cô ấy. Sử dụng chiếc ví của điện thoại thông minh, cô ấy có thể tạo ra địa chỉ BTC cho bản thân, gửi nó cho khách hàng ở Zurich và nhận tiền. Cô ấy không quan tâm giao dịch mất 10 phút để xác nhận; nếu không có Bitcoin thì co ấy không thể kiếm được đồng tiền nào. Với ví dụ này, chúng ta có thể thấy rõ rằng công nghệ Bitcoin đã tác động nhiều như thế nào. Mọi người ở Mỹ và châu Âu đã mua BTC vì những lý do đầu cơ có thể đang gây ảnh hưởng đến sự chấp nhận của toàn thế giới thông qua việc góp phần làm tăng giá trị thị trường, nhưng người mọi người ở Mỹ Latinh, châu Phi và Trung Đông với những đồng tiền địa phương đầy nghi hoặc và nền ngân hàng không đáng tin rất cần đến một đồng tiền kỹ thuật số trung lập như Bitcoin.

Dự định của Satoshi

Satoshi Nakamoto thực sự muốn làm điều với Bitcoin? Vì vậy, chúng ta cần phải đi sâu vào các bài viết và lá thư của ông ấy vào những ngày đầu của mạng lưới Bitcoin. Ông ấy đã rất tuyệt vọng khi tìm kiếm một sự thay thế không chỉ cho các tổ chức tài chính mà còn các loại tiền tệ dễ mất giá bởi chính phủ và ngân hàng trung ương, dự định này thể hiện rõ ràng từ những email và bài đăng trong diễn đàn của ông. Vào ngày 3 tháng 1 năm 2009, khối Bitcoin đầu tiên được khai thác bởi chính Satoshi chứa một thông điệp bí ẩn thay vì một giao dịch (vì chưa từng có giao dịch nào xảy ra).

Thời gian 03 tháng 01 năm 2009 Thủ tướng sắp triển khai gói cứu trợ thứ hai cho các ngân hàng.

Satoshi viết một bài báo ở tờ báo Anh về khủng hoảng tài chính đang diễn ra trực tiếp trên ghi chép vĩnh viễn của sổ cái. Bằng cách nhúng thông điệp khó hiểu này, ông đã suy đoán rằng hệ thống tiền tệ và giao dịch của ông sẽ cung cấp một sự cải tiến cần thiết và một giải pháp tiềm năng đối với hệ thống ngân hàng quốc tế cần đến những gói cứu trợ.

Sau khi Bitcoin ra mắt và hoạt động một vài tuần, Satoshi đề cập chi tiết hơn về động lực của ông đằng sau dự án này và thể hiện nhận thức sâu sắc về sự thiếu ổn định của các hệ thống tiền tín dụng và các lớp dự trữ thấp hơn của kim tự tháp tiền tệ:

Vấn đề gốc rễ của tiền tệ thông thường là tất cả đều phụ thuộc vào lòng tin. Ngân hàng trung ương cần được tin tưởng để không phá giá tiền tệ, nhưng lịch sử của những tiền định day đầy rẫy những vi phạm về sự tin tưởng đó. Các ngân hàng cần được tin tưởng để giữ tiền và chuyển tiền điện tử, nhưng họ lại cho vay trong những đợt bong bóng tín dụng với một phần dự trữ nhỏ.

Satoshi Nakamoto thể hiện tham vọng của mình đối với mục tiêu biến BTC trở thành một mệnh giá tiền tệ, không chỉ đơn thuần là một mạng lưới thanh toán. Ông đã đề cập đến tiền định danh (fiat currencies) ám chỉ những đồng tiền được ngân hàng trung ương phát hành ở lớp thứ hai của tiền tệ bất kể lớp thứ nhất là gì; từ fiat bắt nguồn từ “theo sắc lệnh” trong tiếng Latin. Chỉ trích của Satoshi về tiền định danh phản ánh nhận thức về sự bất ổn trong hệ thống tiền phân lớp và dự trữ theo tỉ lệ của chúng ta. Dường như lời chỉ trích đã thúc đẩy ông tạo ra Bitcoin. Có lẽ nhà chế tạo muốn cung cấp cho thế giới tiền lớp thứ nhất mới mà không bắt nguồn từ bảng cân đối kế toán của ngân hàng trung ương.

Tầm nhìn của Bitcoin phân lớp

Người đầu tiên ủng hộ phần mềm Bitcoin sau Satoshi Nakamoto là nhà mật mã học Hal Finney. Trước khi Bitcoin ra đời và được Adam Back xây dựng nền tảng, Finney đã nâng cao ứng dụng của thuật toán đồng thuận thông qua thiết kế hệ thống thuật toán đồng thuận tái sử dụng được Satoshi Nakamoto dùng khi thiết kế phần mềm của ông; sự đóng góp của Finney với Bitcoin được ủng cố thậm chí trước khi ông trở thành một người dùng Bitcoin. Finney là người ủng hộ Satoshi sớm nhất và nhiệt huyết nhất. Ông là người nhận của giao dịch Bitcoin đầu tiên khi Satoshi gửi cho ông 10 BTC vào ngày 12 tháng 01 năm 2009. Bitcoin được 9 ngày tuổi và BTC chưa được định giá hay có giá trị thị trường nào.

Vào năm 2010, Finney đã giải thích rất hấp dẫn về cách tiền phân lớp Bitcoin sẽ phát triển như thế nào, một sự phát triển đi trước thời đại. Lời nói của ông dường như được viết riêng dành cho cuốn sách này:

Trên thực tế, có lý do thuyết phục cho sự tồn tại của các ngân hàng được Bitcoin hỗ trợ, phát hành tiền tệ kỹ thuật số của riêng họ, có thể đổi sang bitcoin. Bản thân bitcoin không thể mở rộng quy mô từng giao dịch tài chính trên thế giới đ5ươc thông báo đến mọi người và thêm vào trong chuỗi khối. Cần có hệ thống thanh toán cấp độ hai, hệ thống có dung lượng nhẹ hơn và hiệu quả hơn. Tương tự, thời gian cần thiết để giao dịch Bitcoin hoàn tất sẽ trở nên thiếu thực tế với các mua bán có giá trị từ trung bình đến lớn.

Các ngân hàng được bitcoin hỗ trợ sẽ giải quyết những vấn đề này. Chúng có thể hoạt động như các ngân hàng đã hoạt động trước khi quốc hữu hóa tiền tệ. Những ngân hàng khác sẽ có những chính sách khác nhau, một số táo bạo hơn, một số lại thận trọng hơn. Một số sẽ dự trữ một phần trong khi những ngân hàng còn lại được bitcoin hỗ trợ 100%. Lãi suất cũng đa dạng. Tiền mặt từ một số ngân hàng sẽ được giảm giá khi giao dịch với một số ngân hàng khác.

Tôi vẫn tin rằng điều này sẽ trở thành số phận cuối cùng của bitcoin, trở thành “đồng tiền có quyền lực lớn” đóng vai trò như tiền tệ dự trữ cho các ngân hàng tự phát hành tiền kỹ thuật số của mình.

Cùng tóm tắt những điều mà Finney muốn nói trong bối cảnh tiền phân lớp. BTC là một đồng tiền lớp thứ nhất, di chuyển chậm hơn. Vài nghìn giao dịch Bitcoin được xác minh trong từng khối, cách nhau 10 phút. Nếu để so sánh thì các công ty thẻ tín dụng lớn xử lý hàng nghìn giao dịch mỗi giây. Để tăng tốc độ của Bitcoin, các ngân hàng cần sở hữu BTC như tiền lớp thứ nhất và phát hành tiền gửi lớp thứ hai có thể di chuyển nhanh hơn mức cho phép về tốc độ thời gian của blockchain Bitcoin. Bitcoin lớp thứ hai sẽ cho phép các hoạt động kinh tế diễn ra mà không có sự xung đột. Các tổ chức dự trữ một phần và phát hành nợ sẽ tồn tại và thị trường sẽ định giá từng loại BTC lớp thứ hai với mức lãi suất tương ứng. Dự đoán của Finney đi trước sự cải tiến của Bitcoin nhiều năm, điều mà thời gian sẽ chứng minh đó là những điều đầu tiên được viết về nó. Bitcoin đang định nghĩa lại đồng tiền và giành vị trí trên đỉnh của một kim tự tháp tiền tệ hoàn toàn khác. Hal Finney đã qua đời vào năm 2014, nhưng cái nhìn của ông về tiềm năng trở thành đồng tiền dự trữ thế giới của Bitcoin còn vang vọng mãi.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Nik Bhatia – Sự tiến hóa của tiền tệ – NXB CT 2021

Tính phản xạ trong các thị trường tài chính – Phần II


Lúc đầu, vị trí của mỗi công ty được nhận xét theo giá trị của chính nó, nhưng dần dần các liên hợp được thừa nhận với tư cách là một nhóm. Các nhà đầu tư loại mới nổi lên, được gọi là những người quản lý “quỹ rủi ro cao”; những người này phát triển một quan hệ thân cận đặc biệt với những người quản lý các liên hợp. Các tuyến giao tiếp trực tiếp giữa họ được mở, và các liên hợp đã học cách quản lý các giá cổ phiếu của họ cũng như thu nhập của họ. Các cổ phiếu lên cao, nhưng rút cục hiện thực không thể chịu được các kỳ vọng. Việc mua đứt đã phải trở nên lớn hơn mãi để duy trì đà của mình, và rút cục chúng vấp phải giới hạn về quy mô. Sự kiện đỉnh điểm là sự nỗ lực của Saul Steinberg mua đứt Chemical Bank: nó đã bị chống lại và đánh bại bởi nhóm kinh doanh đó.

Khi giá cổ phiếu bắt đầu sụt xuống, sự sụt giá dựa vào chính bản thân nó. Những vấn đề nội tại mà trong giai đoạn tăng trưởng ngoại tại nhanh chóng đã bị giữ bí mật đến lúc này mới nổi lên bề mặt. Các báo cáo về thu nhập tiết lộ những điều kinh ngạc khó chịu. Các nhà đầu tư trở nên thất vọng, và sua những ngày cuồng say với thành công dựa trên cơ sở mua đứt, một số người quản lý sẵn lòng bắt tay vào làm việc với những gánh nặng vận hành các công ty của họ. Tình hình đã bị trầm trọng thêm bởi một cuộc suy thoái, và nhiều liên hợp có tham vọng cao đã tan rã. Đến lúc ấy các nhà đầu tư phải chuẩn bị để tin vào điều tồi tệ nhất, và trong nhiều trường hợp, điều tồi tệ nhất, và trong nhiều trường hợp, điều tồi tệ nhất thực sự đã xảy ra. Nhưng ở các trường hợp khác, hiện thực hóa ra lại tốt hơn kỳ vọng, và rút cục tình hình được ổn định, với các công ty, thường dưới sự quản lý mới, chậm chạp đưa họ đến kết quả tốt dưới đống đổ nát.

Dùng cuộc bùng nổ liên hợp làm hệ chuẩn của tôi, tôi đã sáng chế ra một loại hình lý tưởng về chuỗi bùng nổ/đổ vỡ. Nó khởi đầu với một thiên hướng thịnh hành và một xu thế thịnh hành. Trong trường hợp cuộc bùng nổ liên hợp, thiên hướng thịnh hành là một ý thích đối với sự tăng trưởng thu nhập nhanh chóng theo mỗi cổ phần mà không chú ý nhiều đến cách nó được mang lại như thế nào; xu thế thịnh hành là khả năng của các công ty tạo ra sự tăng trưởng thu nhập cao theo mỗi cổ phần bằng việc dùng cổ phiếu của họ để mua đứt các công ty khác vốn bán với một hế số thu nhập thấp hơn. Trong giai đoạn ban đầu (1), xu thế còn chưa được nhận ra. Rồi đến giai đoạn gia tốc (2) khi xu thế được nhận ra và tăng cường bởi thiên hướng thịnh hành. Một giai đoạn kiểm nghiệm (3) có thể xen vào khi giá cả phải sụt giảm. Nếu thiên hướng và xu thế được duy trì, cả hai sẽ nổi lên mạnh hơn bao giờ hết (4). Rồi đến “thời điểm của chân lý” (5) khi hiện thực không còn có thể chịu được những kỳ vọng phóng đại, tiếp theo đến một giai đoạn tranh tối tranh sáng (6) khi con người ta vẫn tiếp tục chơi trò chơi, mặc dù họ không còn tin ở nó nữa. Rút cục người ta đạt đến một điểm giao nhau (7) khi xu thế giảm đi và thiên hướng được đảo ngược, dẫn tới một gia tốc đầy thảm họa theo hướng đối lập (8) nói chung mọi người gọi là sụp đổ.

Điều này được minh họa ở đồ thị 3.1. Đồ thị này trình bày một trường hợp lý tưởng, nhưng biểu đồ của các liên hợp khác nhau tuân thủ nó rất chặt chẽ. Không phải mọi quá trình bùng nổ/đổ vỡ đều theo cùng một mẫu hình. Trong Giả kim thuật tài chính tôi đã mô tả một trường hợp lý tưởng khác trong đó chiều đi lên và chiều đi xuống cân xứng hơn. Nó là điển hình của các thị trường tiền tệ, nơi chiều đi lên và chiều đi xuống ít nhiều có thể đảo ngược. Trong thực tế, các quá trình phản xạ khác nhau tác động qua lại, tạo ra một mẫu hình khác thường và duy nhất. Mọi trường hợp đều khác nhau, và các đường cong có nhiều hình dạng như chính số trường hợp. Sự sụp đổ bất thình lình của lòng tin ở các thị trường tài chính Viễn Đông năm 1997, một sự sụp đổ đã biến đổi các đặc điểm cơ bản ở khắp châu Á và thậm chí cả phần còn lại của thế giới, là một ví dụ quan trọng rõ ràng (mà tôi sẽ phân tích sau này).

Hình Đồ thị 3.1

Chẳng có gì xác định về trường hợp lý tưởng tôi đã mô tả trên đây. Các giai đoạn khác nhau có thể có biên độ và độ dài thời gian khác nhau. Xem chừng có một logic nào đó trong chuỗi các giai đoạn khác nhau: sẽ thật là lạ nếu gặp một giai đoạn gia tốc sau thời điểm của chân lý, hay một điểm giao nhau trước thời điểm của chân lý. Nhưng quá trình có thể thui chột bất cứ lúc nào; dĩ nhiên nó có thể không bao giờ bắt đầu. Nó được mang lại bởi một sự tác động qua lại tự tăng cường lẫn nhau giữa thiên hướng và xu thế, tư duy và hiện thực. Trong nhiều trường hợp, cơ chế liên hệ ngược mang tính phản xạ là tự sửa chữa hơn là tự tăng cường. Một chuỗi đầy đủ bùng nổ/đổ vỡ là ngoại lệ hơn là quy tắc, nhưng tính phản xạ – dù tự tăng cường hay tự sửa chữa – là quy tắc, và nó bị bỏ qua bởi sự thông thái đang thịnh hành. Ví dụ, có một yếu tố phản xạ trong cuộc bùng nổ hiện nay trong các cổ phiếu Internet: Sự phổ dụng của Internet và của cổ phiếu Internet là tự tăng cường lẫn nhau. Có một mối liên hệ mang tính phản xạ tương tư giữa thu nhập công ty và việc dùng các hợp đồng quyền chọn cổ phiếu để thưởng cho việc quản lý. Điều đó đặc biệt mạnh mẽ ở ngành ngân hàng.

Thực tế, để hiểu các thị trường tài chính, khái niệm tính phản xạ thích hợp hơn nhiều so với khái niệm cân bằng. Nhưng khái niệm cân bằng có công dụng của nó. Dĩ nhiên, như chúng ta vừa thấy, sẽ khó làm sáng tỏ cơ chế thông tin ngược nếu không viện dẫn khái niệm đó. Cân bằng, giống như những đặc điểm cơ bản, là một sai ảo có hiệu năng sinh sản. Suy cho cùng, chúng ta không thể nói nhiều về thiên hướng của những người tham dự nếu không giới thiệu những đặc điểm cơ bản, ngay dù tôi cho rằng cái gọi là những đặc điểm cơ bản có thể bị ảnh hưởng bởi thiên hướng của những người tham dự. Biểu đồ của cuộc bùng nổ liên hợp công ty sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu không có đường biểu thị thu nhập theo mỗi cổ phần (tức là “đặc điểm cơ bản”), ngay nếu như những cái này bị ảnh hưởng bởi giá thị trường.

Vậy thì cân bằng là gì? Tôi định nghĩa nó là một trạng thái trong đó có phù hợp giữa kỳ vọng và kết quả. Không thể đạt được cân bằng trên các thị trường tài chính, nhưng có lẽ có thể xác định rằng liệu một xu thế thịnh hành đang dẫn tới cân bằng hay rời xa khỏi nó. Biết rõ điều đó sẽ là một tiến bộ lớn trong hiểu biết của chúng ta. Nếu chúng ta có thể nhận dạng một xu thế thịnh hành và một sự khác biệt giữa kỳ vọng và kết quả, điều này có thể cho phép ta tiên đoán xem liệu xu thế là tiến tới hay rời khỏi sự cân bằng. Không dễ gì làm điều đó, và không thể làm điều đó một cách khoa học, mặc dù tôi đã thấy rằng việc sửa lại lý thuyết về phương pháp khoa học của Popper cho phù hợp có thể rất hữu ích. Tôi làm điều đó bằng việc lập một giả thuyết (hay để cho gọn, một luận đề) làm cơ sở cho những kỳ vọng của tôi, và kiểm nghiệm nó so với đường hướng tương lai của các sự kiện. Trong những ngày tôi tích cực quản lý tiền tệ, tôi đã thường đặc biệt khoan khoái khi tôi cảm nhận mùi dễ chịu của một quá trình lúc đầu thì mang tính tự tăng cường, nhưng rút cục lại mang tính tự hủy hoại. Miệng bắt đầu ứa nước miếng như thể tôi là một trong những con chó của Pavlov. Hệt như người ta nói các nhà kinh tế đã tiên đoán mười trong số ba cuộc suy thoái vừa qua, tôi đã làm giống thế với chuỗi bùng nổ/đổ vỡ. Tôi đã sai ở hầu hết số lần, vì không phải mọi tình huống đều thích hợp cho sự hình thành một luận đề có tính phản xạ, nhưng những dịp ít ỏi khi tôi đúng đã khiến cho nỗ lực của tôi là đáng tiến hành vì tiềm năng có lợi nhuận lớn hơn rất nhiều so với trong những tình huống gần sự cân bằng. Đó là cách tôi đã hoạt động với tư cách một người quản lý ngân quỹ. Nó đòi hỏi trí tưởng tượng, trực giác, và một thái độ phê phán không thương xót.

Tôi đã tường thuật một ví dụ đặc biệt trong Giả kim thuật tài chính: trường hợp ủy thác đầu tư bất động sản (REIT) vào đầu những năm 1970. Trường hợp đó thật nổi bật về nhiều mặt. Tôi đã công bố một báo cáo về môi giới dự báo một quá trình bùng nổ/đổ vỡ, và sua đó kịch bản diễn ra, như một vở kịch Hy Lạp, đúng như đã được dự đoán. Bản thân tôi cũng là một diễn viên chính, được hưởng lợi đầy đủ từ kịch bản ở cả chiều đi lên lẫn chiều đi xuống. Được thuyết phục bởi sự phân tích của chính tôi rằng hầu hết các REIT sẽ kết thúc bằng sự phá sản, tôi đã tiếp tục bán non các cổ phiếu khi chúng sụt giảm đi, kết cục tạo ra hơn 100% trên vị thế ngắn hạn của tôi – một kỳ công dường như là không thể có.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: George Soros – Khủng hoảng của Chủ nghĩa tư bản toàn cầu – NXB KHXH 1999