Một nguồn gốc khác nữa của thế bất ổn tiềm tàng là xuất phát từ hình thức Quỹ tương hỗ (Mutual Fund). Các quản trị gia phụ trách quỹ này được đánh giá căn cứ vào thành tích thực hiện (performance) tương đối của họ đối chiếu với quản trị gia ở các quỹ khác chứ không dựa trên cơ sở sở hiện thực tuyệt đối. Điều này có thể xem như một hiện tượng ẩn giấu ít nhiều nét bí hiểm, thế nhưng thật sự chứa đựng những ràng buộc dẫn dắt đi rất xa, thể hiện ở chỗ trong thực tiễn nó thúc đẩy các quản trị gia phải có ứng xử theo đuôi xu thế. Chừng nào các quản trị gia còn giữ được niềm tin của đông đảo cổ đông với tâm lý “bầy đàn”, thì chưa xảy ra nguy cơ gì đến với họ, dù là các nhà đầu tư có bị thua thiệt về đồng tiền; nhưng đến lúc họ tìm cách ở vị thế đối chọi với xu thế chung và thực hiện tương đối của họ sút kém, dù chỉ tạm thời thôi, chắc chắn họ bị mất việc ngay. (Đây chính là trường hợp đã xảy đến với Jeff Vinik, nhà quản trị phụ trách Quỹ Fidelity có vốn lớn nhất. Ông này đã thành công bằng cố gắng bản thân suốt từ đó về sau do hưởng các khoản lệ phị hoa hồng dựa trên thực hiện tuyệt đối). Hồi mùa Thu năm 1998 các khoản vốn của quỹ tương hỗ, vẫn quen với dòng tiền mặt mới luôn luôn rót vào, bỗng mắc tình trạng số dư tiền mặt sút giảm tới mức chưa từng thấy. Giả sử xu hướng đảo ngược lại, các quỹ ấy buộc phải nâng cao khoản tiền mặt, bồi thêm cho sức ép đi xuống.
Tình trạng này dù có đáng phàn nàn thật, nhưng cội nguồn chính của bất ổn lại ở vũ đài quốc tế. Hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu lúc này đây đang trải qua một cuộc thử nghiệm nghiệt ngã nhất về khả năng tồn tại của nó, đó là cuộc khủng hoảng ở châu Á và hậu quả kế tiếp. Thử nghiệm là giai đoạn thứ ba của quá trình bùng nổ/đổ vỡ. Cũng như mọi chu kỳ bùng nổ/đổ vỡ, không thể dự đoán một cách xác thực rằng phải chăng một xu thế sẽ được thử nghiệm thành công hay đột ngột đảo ngược lại. Có lẽ sẽ bổ ích hơn nếu thử đề xuất những kịch bản khả dĩ về một thử nghiệm thành công hoặc không thành công.
Nếu hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu vẫn còn tồn tại sau giai đoạn thử nghiệm hiện thời, thì tiếp theo đó sẽ là một giai đoạn tiếp tục tăng tốc hơn nữa khiến cho hệ thống bị đưa tới một địa bàn xa vị trí cân bằng, nếu chưa nằm sẵn ở đó từ trước. Một trong những đặc điểm của hình thức mới này với nhiều tính chất cực đoan hơn của chủ nghĩa tư bản toàn cầu sẽ là sự loại trừ một phương án tạm đủ thuyết phục để thay thế cho ý thức hệ thị trường tự do, và phương án này cũng mới xuất hiện gần đây, đó là cái gọi bằng “mô hình châu Á” hay “mô hình Khổng giáo”. Một kết quả của cuộc khủng hoảng hiện thời là các chủ nghĩa tư bản người Trung Hoa và Hàn Quốc ở hải ngoại mà gia tài đã bị tổn thất nặng nề sẽ phải đoạn tuỵet với lối kiểm soát của gia đình, gia tộc. Những ai tự nguyện hành động cách này sẽ còn sống sót, còn những người khác ắt sẽ tiêu vong. Khủng hoảng cũng làm trầm trọng thêm tình cảnh những công ty đã nợ nần chồng chất ở mọi quốc gia châu Á. Công ty nào mắc nợ nước ngoài sẽ rơi vào tình thế tỷ suất nợ so với vốn góp cổ phần càng tồi tệ hơn, công ty nào mắc nợ trong nước sẽ bị tấn công đồng thời bởi mức lãi suất tăng, kết hợp với thu nhập giảm. Lối thoát duy nhất là chuyển đổi khoản nợ thành vốn góp hoặc nâng số vốn góp thêm. Những động tác ấy không thể nào thực hiện được trong phạm vi gia đình, và nói chung ngay đối với phạm vi nội địa cũng không được. Sẽ chẳng có mộ tlựa chọn nào khác là đem bán hết cho người ngoại quốc. Rốt cuộc, kết cục hiển nhiên là sự cáo chung của mô hình châu Á và sự khởi đầu cho một kỷ nguyên mới, trong đó các nước hữu quan hội nhập thậm chí còn chặt chẽ hơn trước trong hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu. Các ngân hàng quốc tế và công ty đa quốc gia lúc ấy sẽ dành được những chỗ đứng rất vững chắc. Tại nội bộ các công ty bản địa, một thế hệ mới các thành viên gia đình hoặc quản trị gia chuyên nghiệp được đào tạo ở nước ngoài sẽ vươn lên vai trò hàng đầu. Động cơ kiếm lời sẽ lấn át đạo lý Khổng giáo và lòng tự hào dân tộc chủ nghĩa, còn nguyên giáo thị trường sẽ là một thiên hướng được tăng cường thêm mạnh mẽ hơn nữa. Một vài nước, như Malaysia, có thể bị ngã xuống vệ đường nếu cứ khư khư giữ các đường lối bài ngoại và chống đối thị trường, nhưng các nước khác sẽ có thể hồi phục.
Như vậy, nếu hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu ra khỏi được cuộc khủng hoảng hiện tại với tư thế kẻ chiến thắng thì nền kinh tế thế giới sẽ bị ngự trị mạnh mẽ thậm chí hơn cả bây giờ nữa bởi các công ty đa quốc gia thuộc sở hữu công cộng. Sức cạnh tranh khốc liệt sẽ không cho phép công ty ấy quan tâm nhiều đến các vấn đề xã hội. Tất nhiên họ cũng sẽ trả tiền cho một số dịch vụ thiết yếu đối với những vấn đề quan trọng chẳng hạn như vấn đề môi trường, đặc biệt là khi họ trực tiếp làm ăn với quảng đại quần chúng, nhưng họ không thể đủ sức để đảm bảo việc làm đến nỗi phương hại tới lợi nhuận của họ.
Mặt khác, lại cũng có thể hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu không sống sót nổi sau cuộc thử nghiệm hiện thời. Con đường xuống dốc của nền kinh tế chưa đi trọn ở các nước vùng ngoại vi, quá trình xuống dốc không thể đảo ngược được nếu không qua vô số đau khổ. Ngân hàng và công ty đều phải cải tổ, rất nhiều người bị mất việc làm. Tình trạng căng thẳng về chính trị tới mức cao hoặc sẽ còn đẩy lên nữa. Những thay đổi về chính trị do khủng hoảng tài chính mang đến đã dẫn tới ở nhiều nước cái chết của những chế độ tham nhũng và chuyên quyền trước đây. Hàn Quốc thật là may vừa bầu được tổng thống mới, ông Kim Dae Jung, một nhân vật suốt đời công khai chỉ trích mối quan hệ ám muội giữa chính quyền và giới kinh doanh. Thủ tướng đương nhiệm ở Thái Lan được đánh giá rộng rãi là người trung thực, lại tập hợp được một nội các với các thành viên được đào tạo ở phương Tây và có xu hướng thị trường. Ỏ Indonesia, ông Suharto bị mất chức do một cuộc cách mạng. Ở Malaysia, ông Mahathir bị vây hãm. Ở Trung Quốc, các nhà cải cách kinh tế đang giữ trọng trách, nhưng một nguy cơ thật sự là nếu điều kiện kinh tế tiếp tục xấu đi thì e rằng các nhà cải cách sẽ bị mất quyền lực. Có một câu nói cửa miệng đại ý là “cách mạng ăn thịt con cái mình”. Ngay giờ đây, tâm trạng chống Mỹ, chống Quỹ Tiền tệ quốc tế, chống ngoại quốc, đã lan tràn khắp châu Á, kể ả ở Nhật Bản. Những cuộc tuyển cử ở Indonesia rất có thể làm nảy sinh một chính quyền Hồi giáo mang tính chất dân tộc chủ nghĩa chịu ảnh hưởng các tư tưởng của Mahathir.
Nhưng việc xảy ra ở khu trung tâm sẽ có tác dụng quyết định. Cho đến gần đây, tình hình rối ren ở vùng ngoại vi đã tỏ ra có lợi cho trung tâm. Nó đã phản kích các sức ép lạm phát vừa chớm xuất hiện, khiến cho giới chức tiền tệ không tăng lãi suất, tạo điều kiện để các thị trường chứng khoán vươn tới những mức giá cao mới. Tuy nhiên, các hiệu ứng tích cực của cuộc khủng hoảng châu Á đã bắt giảm bớt dần để các hiệu ứng tiêu cực bắt đầu nổi lên. Đặt cọc lợi nhuận đang chịu sức ép thêm gia tăng. Một số công ty đang chịu tác động trực tiếp của tình hình giảm cầu hoặc sức cạnh tranh ác liệt hơn từ bên ngoài: một số công ty khác trong ngành dịch vụ tuy không chịu tác động trực tiếp của cạnh tranh quốc tế nhưng đã cảm thấy tác động của chi phí nhân lực tăng lên.
Tình trạng bùng nổ thị trường chứng khoán vẫn còn tiếp diễn hành trình của nó. Giả dụ thị trường sẽ chuyển hướng đi xuống, “hiệu ứng của cải” có khả năng biến suy giảm thị trường thành suy giảm kinh tế. Rồi suy giảm kinh tế đến lượt nó lại kích động sức kháng cự nhập khẩu và tiếp đó sẽ gây ra ảnh hưởng nóng bỏng tại khu ngoại vi.
Từ khi cuộc khủng hoảng châu Á nổ ra, tư bản đua nhau thoát hiểm khỏi ngoại vi. Nếu các ngoại vi vứt bỏ hy vọng dòng vốn có lúc quay trở lại, họ có thể khởi sự thực hiện vận dụng chủ quyền để ngăn chặn vốn tháo chạy đi. Hoa Kỳ cũng đang phải gia tăng chú ý đến nội lực. Hành động của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) có thể đóng một vai trò hiện tại giống như của luật thuế Smoot-Hawley trong thời kỳ Đại suy thoái.
Vậy thử hỏi trong hai kịch bản trên đây, cái nào sẽ có nhiều khả năng hiện thực? Tôi có thiên hướng muốn “đặt cá” vào kịch bản sau, nhưng với tư cách một người tham gia thị trường, tôi tự nhủ phải giữ một thái độ tỉnh táo. Tuy nhiên, tôi không hề ngại ngần chút nào khi xác định rằng tới đây hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu sẽ suy sụp do các khuyết tật của bản thân nó, dẫu không phải ngay dịp này thì cũng vào dịp tới nữa, nếu chúng ta không dám thú nhận rằng nó mang nhiều khuyết tật và không hành động kịp thời để sửa chữa những bất cập ấy.
Tôi đã sẵn sàng để có thể nhận ra những động thái do cuộc khủng hoảng cuối cùng, nó mang tính chất chính trị. Những phong trào chính trị ở các nước sở tại dường như sẽ dấy lên để tìm cách tước đoạt các tổ hợp đa quốc gia và thu hồi của cải của “dân tộc” họ. Vài phong trào trong số đó có thể tiếp diễn theo kiểu Nghĩa hòa đoàn ở Trung Quốc đời nhà Thanh (cũng gọi là phiến loạn của “võ sĩ”) hoặc kiểu cách mạng Zapatista. Thành công của những phong trào ấy hẳn sẽ làm rung động mạnh mẽ lòng tin của thị trường tài chính, dẫn tới một quá trình tự thân củng cố trong thế làm ăn thua lỗ. Điều ấy sẽ diễn ra ngay trong cuộc khủng hoảng đương thời hay phải đợi tới cuộc khủng hoảng sau, đó là một câu hỏi còn để ngỏ.
Quá trình bùng nổ/đổ vỡ nếu vẫn tồn tại được sau cuộc thử nghiệm thì nó sẽ trỗi dậy trong thế đã được tăng cường. Thử nghiệm càng khắt khe thì tăng cường càng mạnh. Sau mỗi thử nghiệm thành công là một giai đoạn gia tốc, sau một giai đoạn gia tốc sẽ đến một “thời điểm thực sự”. Hiện nay chúng ta đang đứng ở đâu trong tiến trình đó thì chưa thể xác định thật đúng được, nếu không nhìn lại thời quá khứ.
(còn tiếp)
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: George Soros – Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản toàn cầu – NXB KHXH 1999