Chính sách của Trung Quốc đối với Đài Loan – Phần cuối


Thái Duệ, Ủy viên Ủy ban toàn quốc Hội nghị Chính trị Hiệp thương, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Liêu Ninh chia sẻ rằng nội dung liên quan đến Đài Loan năm nay tuy không dài nhưng chứa đầy tình cảm chân thành, hướng tới sự hội nhập và phát triển cuaả người dân ở cả hai bờ eo biển và tin tưởng phương án tổng thể của Đảng về giải quyết vấn đề Đài Loan thời đại mới đã làm phong phú thêm hệ thống lý luận về “thống nhất hòa bình và một quốc gia, hai chế độ”. Trung Quốc phải cố gắng thực hiện những đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc về vấn đề Đài Loan, đặc biệt cả việc thúc đẩy giao lưu, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa hai bờ eo biển, làm tốt việc thực hiện bước cuối cùng trong loạt chính sách Đài Loan của Chính quyền trung ương để giúp Đài Loan thu được lợi ích, tạo điều kiện để thêm nhiều người dân ở Đài Loan đến Đại lục phát triển và chia sẻ những thành tựu phát triển của Đại lục, đồng thời hiện thực hóa sự hòa hợp tinh thần và phát triển chung của người dân hai bờ eo biển thông qua giao lưu, trao đổi trên nhiều lĩnh vực.

Một Ủy viên Ủy ban toàn quốc của Hội nghị Chính trị HIệp thương là Lý Đại Tráng cho biết điểm đáng chú ý của phần liên quan đến Đài Loan trong Báo cáo công tác Chính phủ năm nay là việc thúc đẩy giao lưu, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa hai bờ eo biển và cùng quảng bá văn hóa Trung Quốc. Có thể thấy đây là đường lối rất rõ ràng của Chính quyền trung ương. Kể từ khi nhậm chức Chủ nhiệm Văn phòng các vấn đề Đài Loan của Quốc vụ viện, Tổng Đào đã cho triển khai nhiều hoạt động giao lưu, bao gồm chuyến thăm Đài Loan của phái đoàn do Lý Hiểu Đông, Phó Chủ nhiệm Văn phòng các vấn đề Đài Loan của Thượng Hải, dẫn đầu. Ông tin rằng bước tiếp theo là nỗ lực tìm các biện pháp thúc đẩy giao lưu giữa hai bờ eo biển và nâng cao hệ thống phúc lợi của người dân ở Đài Loan, đặc biệt là mưu cầu hạnh phúc cho người dân ở Đài Loan. Hội nghị Chính trị Hiệp thương Trung Quốc có thể đóng một vai trò lớn trong vấn đề này khi các thành viên có các nền tảng chuyên môn khác nhau nên có thể đóng góp từ nhiều khía cạnh.

Còn Lâm Thanh, Phó đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh Đài Loan, Phó Chủ tịch Hiệp hội Đài Loan tỉnh Sơn Đông, cho biết Báo cáo công tác Chính phủ đã đề cập hai lần đến việc thực hiện phương án tổng thể của Đảng về giải quyết vấn đề Đài Loan trong thời đại mới. Đặc biệt, phần đề xuất, khuyến nghị về vấn đề Đài Loan trong Báo cáo năm nay đã nhấn mạnh phải kiên trì thực hiện chiến lược này, đồng thời nhắc lại một lần nữa sự cần thiết phải tiếp tục thúc đẩy sự phát triển hòa bình của hai bờ eo biển và quá trình thống nhất hòa bình đất nước. Đồng thời, điểm ấn tượng là chính phủ một lần nữa tái khẳng định quyết tâm mạnh mẽ thực hiện thống nhất hoàn toàn đất nước, kiên quyết chống lại phe ly khai “Đài Loan độc lập” và sự can thiệp của các thế lực bên ngoài, cũn gnhư ý định từ đầu là mưu cầu hạnh phúc cho người dân ở cả hai bờ eo biển Đài Loan, điều rất quan trọng là tìm ra các biện pháp để tích hợp tất cả các khía cạnh kinh tế, văn hóa, công nghệ, thương mại và đặc biệt là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân Đài Loan ở Đại lục. Trước hết, cần để họ được đối xử như người dân Đại lục. Đặc biệt là trong tình hình hiện tại, cần tìm cách tối ưu hóa dịch vụ, giúp cung cấp các dịch vụ đến đúng đối tượng vào thời điểm chính xác hơn và bằng cách ấm áp hơn, đưa người dân Đài Loan hội nhập vào mô hình phát triển mới của đất nước, xây dựng cộng đồng công nghiệp xuyên eo biển và để người dân Đài Loan tự tin hơn trong việc hội nhập vào quá trình phát triển chất lượng cao của đất nước thông qua việc tối ưu hóa các dịch vụ. Với tư cách là người làm việc ở tuyến đầu về công tác Đài Loan và là thành viên của đoàn đại biểu Quốc hội đại diện cho Đài Loan, nhiệm vụ của Lâm Thanh là triển khai các chính sách Đài Loan của chính phủ trung ương, vì lợi ích của người dân hai bờ eo biển, thúc đẩy hơn nữa các hoạt động giao lưu giữa hai bờ eo biển trên tất cả các lĩnh vực, tham mưu nhiều sách lược hơn nữa để thắt chặt quan hệ giữa người dân hai bờ eo biển, cùng người dân hai bờ eo biển chung tay thúc đẩy công cuộc hiện đại hóa mô hình Trung Quốc và sự phục hưng dân tộc Trung Hoa.

Trong khi đó, Đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Hiệp hội Đài Loan của tỉnh Quý Châu Tăng Lập Quần đánh giá công tác Đài Loan năm nay có sự nhất quán với các nội dung về Đài Loan trong Báo cáo của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cho thấy việc giải quyết vấn đề Đài Loan và thực hiện thống nhất hoàn toàn đất nước là mục tiêu bất biến của Trung Quốc; thực hiện phương án tổng thể của Đảng về giải quyết vấn đề Đài Loan trong thời đại mới là nguyên tắc luôn được tuân theo; nâng cao đời sống của người dân ở Đài Loan với sự chân thành cao nhất là ý định từ đầu và không thay đổi; chống các phần tử ly khai “Đài Loan độc lập” và sự can thiệp của các thế lực bên ngoài là điểm mấu chốt luôn được giữ vững. Những điểm này thể hiện sứ mệnh lịch sử và trách nhiệm của đảng Cộng sản và Chính phủ Trung Quốc trong việc thực hiện sự nghiệp thống nhất đất nước. Những tràng pháo tay nồng nhiệt ở Hội nghị cho thấy việc thực hiện thống nhất hoàn toàn đất nước là nguyện vọng chung của tất cả người dân Trung Quốc. Thống nhất đất nước là xu thế của thời đại và là nguyện vọng của nhân dân.

Nguồn: TKTKĐB – 10/05/2023

Chính sách của Trung Quốc đối với Đài Loan – Phần đầu


Theo bài viết trên trang Bình luận Trung Quốc tại Hong Kong, ngày 5/3/2023, Thủ tướng khi đó là Lý Khắc Cường đã trình bày Báo cáo công tác Chính phủ tại kỳ họp thứ nhất Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội) Trung Quốc khóa XIV. Sau cuộc họp, phóng viên của trang Bình luận Trung Quốc đã phỏng vấn các thành viên Ủy ban toàn quốc của Hội nghị Chính trị Hiệp thương nhân dân Trung Quốc và các đại biểu Quốc hội của Đài Loan về đánh giá xung quanh nội dung Đài Loan trong Báo cáo công tác Chính phủ. Nhìn chung, các đại biểu cho rằng về vấn đề Đài Loan, báo cáo công tác chính phủ năm nay đã thể hiện sự tự tin hơn, làm ấm lòng người dân, định rõ phương hướng, một lần nữa đề ra những chuẩn bị quan trọng để thúc đẩy phát triển hòa bình quan hệ hai bờ eo biển, thống nhất đất nước và đưa ra đường lối hành động.

Trong Báo cáo công tác chính phủ, ông Lý Khắc Cường khẳng định rằng Trung Quốc phải kiên định phương án tổng thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc về giải quyết vấn đề Đài Loan trong thời đại mới, tuân thủ nguyên tắc một Trung Quốc và “Nhận thức chung 1992”, kiên quyết phản đối “Đài Loan độc lập”, thúc đẩy thống nhất đất nước, thúc đẩy phát triển hòa bình quan hệ hai bờ eo biển và đẩy nhanh quá trình thống nhất đất nước bằng biện pháp hòa bình. Người dân hai bờ eo biển có chung một nguồn cội, cần thúc đẩy giao lưu, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa hai bờ eo biển, hoàn thiện chế độ, hoàn thiện chế độ, chính sách để nâng cao đời sống của người dân ở Đài Loan, cùng quảng bá văn hóa Trung Quốc ở cả hai bờ eo biển, cùng hợp tác để hoàn thành sự nghiệp phục hưng dân tộc vĩ đại.

Dương Nghị Châu, Ủy viên Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Chính trị hiệp thương, Phó Chủ tịch của Hiệp hội Đài Loan toàn quốc đã nói rằng sau khi nghe thủ tướng trình bày các nội dung liên quan đến Đài Loan trong Báo cáo công tác Chính phủ, ông thấy có 3 điểm chính. Thứ nhất là thúc đẩy 3 điểm “nhất quán”. Kiên quyết thực hiện phương án tổng thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc về giải quyết vấn đề Đài Loan trong thời đại mới; Tuân thủ nguyên tắc một nước Trung Quốc và “Đồng thuận 1992”; kiên quyết phản đối “Đài Loan độc lập”, thúc đẩy thống nhất. Thứ hai là việc làm nổi bật chữ “hòa bình”. Các cụm từ “phát triển hòa bình” và “thống nhất hòa bình” được nhắc đến trong Báo cáo phản ánh sự tin tưởng chân thành cũng như quyết tâm của Đại lục trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan một cách hòa bình. Điều này cho thấy Trung Quốc tràn đầy niềm tin vào sự thống nhất hòa bình và sẽ tiếp tục thúc đẩy một cách kiên định. Thứ ba là nhấn mạnh sự “thực dụng”. Từ việc thúc đẩy trao đổi và hợp tác, cải thiện chính sách để nâng cao đời sống của người dân ở Đài Loan hay quảng bá văn hóa Trung Quốc, tất cả đều là cách tiếp cận rất thực dụng. Điều này cho thấy Đại lục đang cố gắng giải quyết vấn đề Đài Loan dựa trên thực tiễn và thúc đẩy trao đổi, hội nhập giữa hai bờ eo biển.

Còn Diêu Chí Thắng, Ủy viên Ủy ban toàn quốc Hội nghị Chính trị Hiệp thương, Chủ tịch HIệp hội Hong Kong về Thúc đẩy thống nhất hòa bình Trung Quốc, cho biết xu hướng hội nhập và phát triển giữa hai bờ eo biển là không thể ngăn cản và công tác Đài Loan của Trung Quốc cũng có những bước tiến triển mới. Theo đó trong 5 năm qua, Trung Quốc đã thực hiện phương án tổng thể của Đảng về giải quyết vấn đề Đài Loan trong thời đại mới, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa ly khai và sự can dự của các thế lực bên ngoài, đồng thời tiếp tục thúc đẩy sự phát triển hòa bình giữa hai bờ eo biển. Trong báo cáo của Đại hội XX, phương án tổng thể về giải quyết vấn đề Đài Loan trong thời đại mới là trung tâm và cốt lõi của việc giải quyết vấn đề Đài Loan. Trung Quốc đã bước vào thời đại của một quốc gia lớn mạnh, với quyết tâm và năng lực mạnh mẽ để bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, ngăn chặn “Đài Loan độc lập”, 5 năm qua đã thúc đẩy vững chắc quá trình thống nhất đất nước. Hiện nay, Trung Quốc đang nỗ lực hết mình để tạo không gian rộng lớn cho việc thống nhất hòa bình, đồng thời cũng thể hiện ý chí mạnh mẽ không để cho bất kỳ hoạt động thúc đẩy “Đài Loan độc lập” nào có kẽ hở tồn tại. Diêu Chí Thắng chia sẻ rằng Báo cáo công tác Chính phủ đã nêu thêm trong phần đề xuất rằng cần thúc đẩy giao lưu và hợp tác kinh tế, văn hóa giữa hai bờ eo biển, cải thiện hệ thống, chính sách để nâng cao đời sống của người dân ở Đài Loan, bày tỏ thiện chí chân thành đối với đời sống của người dân ở Đài Loan, đồng thời liên tục truyền tải sự tôn trọng và quan tâm dành cho người dân ở Đài Loan. Việc này đóng một vai trò quan trọng trong việc trấn an lòng người dân ở Đài Loan.

Trong khi đó, Lâm Ngát, Ủy viên Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Chính trị Hiệp thương, Chủ tịch Hiệp hội Đìa Loan của Thành phố Thâm Quyến đánh giá các nội dung thảo luận về công tác công việc chuẩn bị quan trọng để thúc đấy phát triển hòa bình quan hệ giữa hai bờ eo biển, thống nhất đất nước và đưa ra đường lối hành động. Ông cho biết: “Là một người Đài Loan, nhiệm vụ mà thời đại giao phó cho tôi là thúc đẩy sự hội nhập, phát triển giữa hai bờ eo biển và thúc đẩy sự thống nhất hai bờ eo biển. Tôi sẽ phát huy hết tình cảm gia đình và nỗi nhớ quê hương, kiên trì làm những việc thiết thực có lợi cho hòa bình, ổn định ở eo biển Đài Loan, làm tốt việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đồng bào Đài Loan ở Đại lục và đối xử bình đẳng với họ, đoàn kết đồng bào Đài Loan ở cả hai bờ eo biển để nhận ra xu hướng chung của lịch sử, kiên định với chính nghĩa quốc gia và phấn đấu không ngừng cho sự thống nhất hai bờ eo biển và sự nghiệp phục hưng dân tộc”. Lâm Ngát cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy giao lưu, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa hai bờ eo biển, cùng nhau kế thừa văn hóa truyền thống Trung Hoa và cùng nhau tạo nên sự nghiệp phục hưng dân tộc vĩ đại. Đó chính là “linh hồn của đất nước được biểu hiện qua văn hóa”, người dân hai bờ eo biển có chung cội nguồn, văn hóa Trung Quốc là gốc rễ và thuộc về linh hồn của người dân hai bờ eo biển. Ông nói: “Là đảng viên người Đài Loan, chúng ta phải phát huy hết tình cảm gia đình và nỗi nhớ quê hương, làm tốt vai trò cầu nói giữa đảng và quần chúng, tích cực thực hiện các hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền và truyền thông liên quan đến Đài Loan, nâng cao đời sống của đồng bào Đài Loan, thúc đẩy sự hội nhập của đồng bào Đài Loan với Đại lục và đặt nền móng cho sự phát triển”.

(còn tiếp)

Nguồn: TKTKĐB – 10/05/2023

Định hướng châu Phi trong chính sách đối ngoại của Nga – Phần cuối


Thứ ba, Moskva luôn phát triển ý tưởng rằng mô hình cấu trúc đa trung tâm của trật tự thế giới do Nga đề xuất, dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa đa phương, có thể tính đến lợi ích của các nước châu Phi một cách tốt nhất, và trở nên thực sự bao trùm và công bằng. Trong chuyến công du châu Phi, Ngoại trưởng Sergey Lavrov không chỉ nhắc lại luận điểm Nga sẵn sàng thảo luận về việc nâng cao vai trò của châu Phi trên thế giới thông qua cải tổ Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, mà còn bày tỏ sự ủng hộ của Nga đối với việc Liên minh châu Phi tham gia công việc của G20. Gần đây, như đã lưu ý, những luận điểm này được củng cố bởi quy tắc tân thực dân của các nước phương Tây, mà theo ông Lavrov “chưa bao giờ biến mất”. Cần phải lưu ý rằng luận điểm này không phải không thành công, bởi vì nó gây tiếng vang trong các nước châu Phi. Ví dụ, Bộ trưởng Ngoại giao Nam Phi N. Pandor nhận định rằng xu thế được ông Lavrov nêu lên xuất hiện rõ ràng trong hoạt động của cơ chế Bretton Woods, vốn không phản ánh lợi ích của các nước đang phát triển dễ bị tổn thương nhất. Hơn nữa, bà còn lựa chọn một đặc trưng trong chính sách đối ngoại của Nga, về việc không áp dụng “tiêu chuẩn kép” để ám chỉ rõ ràng Washington khi nói đến cuộc tập trận hải quân ba bên giữa Nam Phi, Nga và Trung Quốc. Kết quả đáng chú ý trong cuộc gặp giữa Bộ trưởng Ngoại giao Sergey Lavrov và Tổng thống Angola J. Lourenco là ý tưởng triệu tập hội nghị thượng đỉnh Liên minh châu Phi để thảo luận về quan điểm của châu Phi trong trật tự thế giới mới nổi, cả về kinh tế (là trước tiên) lẫn chính trị.

Thứ tư, đó là về sự hỗ trợ của Nga trong việc giải quyết toàn bộ thách thức an ninh, bao gồm cả giải quyết các xung đột gốc rễ ở châu Phi. Rõ ràng là việc “xuất khẩu an ninh” sang châu Phi đã trở thành một đặc điểm nổi bật của Nga. Nhiều hoạt động đã được thực hiện để đào tạo lực lượng gìn giữ hòa bình, sĩ quan thực thi pháp luật và quân nhân. Theo ông Lavrov, tất cả những điều này sẽ tiếp diễn. Một bước phát triển mới và tích cực trong vấn đề này là mong muốn của Moskva nhằm hỗ trợ các mối quan hệ chính trị một cách hợp pháp. Ví dụ, có thông báo rằng dự thảo Hiệp ước về Nền tảng Hữu nghị và Hợp tác với Eswatini đang được tiến hành xây dựng. Cả khả năng các điều khoản của hiệp ước này có thể mang tới sự phối hợp chặt chẽ hơn trong nhiều vấn đề quốc tế, bao gồm ở cả Liên hợp quốc. Điều này có tầm quan trọng cơ bản đối với Moskva trong bối cảnh sau khi Nga bắt đầu chiến dịch quân sự đặc biệt, áp lực gia tăng lên các nước châu Phi buộc các nước này ủng hộ nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc do phương Tây đề xuất.

Thứ năm, không thể không chú ý đến một phương thức hợp tác truyền thống khác của Nga với các quốc gia thuộc lục địa châu Phi – đó là thăm dò địa chất và trao đổi công nghệ, cũng như kinh nghiệm trong ngành khai thác.

Tất cả những nội dung nói trên rõ ràng là sẽ được phản ảnh trong chương trình nghị sự của Hội nghị Thượng đỉnh sắp tới và Diễn đàn kinh tế ở St-Petersburg. Được biết, chương trình kinh tế sẽ được chia làm 4 nhóm vấn đề: an ninh lương thực và năng lượng, chuyển giao công nghệ và chăm sóc sức khỏe. Kể từ năm 2019, Nga đã xây dựng năng lực trong nhiều lĩnh vực chủ đề này và các chuyến thăm gần đây của phái đoàn Nga tới châu Phi sẽ giúp tiếp cận việc xây dựng “gói đề xuất” theo một cách đa sắc thái hơn, có tính đến nhu cầu và yêu cầu thực sự của các nước châu Phi.

Mua và ngăn chặn

Tất nhiên, chuyến thăm thứ hai của ông Lavrov tới châu Phi đã được chú ý và có những phản ứng từ phương Tây. Ngay cả trước khi ông Lavrov đến Nam Phi, Bộ Ngoại giao Đức đã đăng một bài gây tranh cãi trên Twitter, trong đó cho biết Ngoại trưởng Lavrov đến châu Phi “không phải để ngắm báo hoa, mà để nói một cách thô lỗ rằng các đối tác của Ukraine muốn tiêu diệt mọi thứ ở Nga”. Nhưng thay vì liên kết châu Phi với những sự kiện gần đây liên quan đến việc cung cấp vũ khí do Đức sản xuất cho Ukraine một cách hiệu quả, họ đã vấp phải một loạt chỉ trích, bao gồm cả từ thư ký báo chí của Liên minh châu Phi Ebba Colonbo. Bà coi dòng Tweet là “sự nhạo báo đối với lục địa và cư dân của lục địa này”.

Trong các cuộc tiếp xúc báo chí của bộ trưởng sau đàm phán, các nhà báo đại diện cho phương tiện truyền thông phương Tây thường đặt trực tiếp những câu hỏi đầy tính khiêu khích. Ví dụ, Bộ trưởng Ngoại giao Nam Phi Pandor được nhắc lại rằng vào ngày chiến dịch quân sự đặc biệt bắt đầu, bà đã kêu gọi Nga “ngay lập tức rút quân khỏi lãnh thổ Ukraine” và được hỏi liệu bà có lặp lại lời kêu gọi này trong các cuộc đàm phán hay không. Câu trả lời là: “Việc lặp lại tuyên bố này ngày hôm nay có vẻ đơn giản và trẻ con, xét đến việc Ukraine được bơm vũ khí quy mô lớn, mức độ hiện tại của cuộc xung đột và tất cả các sự kiện diễn ra trong gần một năm (kể từ thời điểm đó). Vì vậy, tôi không lặp lại tuyên bố này với Bộ trưởng Lavrov vì tôi không muốn như thể tôi không biết chuyện gì đang xảy ra trên thế giới”. Đây là lần đầu tiên quan điểm của Nam Phi được trình bày một cách thẳng thắn như vậy.

Bằng cách này hay cách khác, các mối liên hệ của châu Phi với thế giới phương Tây không dừng lại, ngay cả trong bối cảnh quân đội Pháp rút khỏi Burkina Faso (rõ ràng, đây là một bất ngờ nhất định đối với Paris, nơi có lẽ họ tin rằng Ouagadougou sẽ không dám làm điều này). Ngày 27/1, cuộc họp lần thứ 15 của Đối thoại Chính trị EU-Nam Phi ở cấp bộ trưởng đã được tổ chức tại Pretoria, nơi Bộ trưởng Ngoại giao N. Pandor tiếp ông J. Borrell. Trong nửa đầu năm 2023, Nam Phi tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Nam Phi-EU lần thứ 8, chương trình nghị sự không chỉ bao gồm các vấn đề về thương mại, đầu tư và hỗ trợ phát triển bền vững, mà còn cả những vấn đề liên quan đến chính trị và an ninh. Vào giữa tháng 1, sau một thời gian dài tạm dừng do xung đột nội bộ, Ngoại trưởng Pháp và Đức đã đến thăm Ethiopia. Không lâu trước chuyến công du châu Phi của ông Sergey Lavrov, Bộ trưởng Tài chính Mỹ J. Yellen đã đến thăm Senegal, Zambia và Nam Phi, và ngay sau khi chuyến công du bắt đầu, Đại diện Mỹ tại Liên hợp quốc Thomas-Greenfield đã tới châu Phi – chuyến công du của bà bao gồm Ghana, Mozambique và Kenya. Vào ngày 29-30/01, Ngoại trưởng Mỹ Blinken đã đến thăm Ai Cập. Hoạt động như vậy chỉ nói lên một điều: “Mỹ và các đối tác của họ đang cố gắng giành lấy thế chủ động từ Nga, dựa vào những quốc gia có quan hệ ít thân thiết hơn với Moskva và có đủ ảnh hưởng để “tráo bài” ngay trước thềm Hội nghị Thượng đỉnh ở St-Petersburg.

Vị thế của châu Phi trong chính sách đối ngoại của Nga đang trở nên rõ ràng hơn so với trước đây. Điều này không chỉ liên quan đến quá trình chuẩn bị cho hội nghị Thượng đỉnh lần thứ hai giữa các nhà lãnh đạo châu Phi và Tổng thống Vladimir Putin, mà còn với sự tin tưởng sâu sắc về triển vọng hợp tác tích cực với châu Phi.

Nguồn: TLTKĐB – 08/05/2023

“Thống nhất suy nghĩ và hành động”: Đại chiến lược và trật tự bá quyền – Phần cuối


Các chiến lược soán ngôi

Bằng cách nào một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc có thể tìm cách soán ngôi một siêu cường tại vị như Mỹ mà không dẫn đến chiến tranh? Nếu vị thế của siêu cường trong trật tự xuất hiện từ “các hình thức kiểm soát” như gây sức ép, thu phục và tạo tính chính danh, thì cạnh tranh về trật tự sẽ xoay quanh các nỗ lực nhằm tăng cường và làm suy yếu các hình thức kiểm soát này. Theo đó, các quốc gia đang trỗi dậy như Trung Quốc có thể soán gnôi các cường quốc bá chủ như Mỹ một cách hòa bình thông qua hai chiến lược lớn thường được thực hiện theo trình tự:

1/ Thứ nhất, làm suy yếu khả năng thực hiện các hình thức kiểm soát của cường quốc bá chủ, đặc biệt là khi các hình thức kiểm soát này được thực hiện đối với một cường quốc đang trỗi dậy; tuy nhiên, không một cường quốc đang trỗi dậy nào có thể soán ngôi cường quốc bá chủ nếu nước này vẫn ở thế “bảo sao nghe vậy”.

2/ Thứ hai, tạo dựng thương lượng nhằm các hình thức kiểm soát đối với các quốc gia khác, cũng như đặt nền móng cho các cuộc thương lượng nhằm thu phục và tạo tính chính danh. Thực tế cho thấy, không một quốc gia đang trỗi dậy nào có thể trở thành cường quốc bá chủ nếu không thể hạn chế quyền tự chủ của các quốc gia khác hoặc lôi kéo các quốc gia khác bằng cách thu phục và tạo tính chính danh để bảo đảm rằng các quốc gia này luôn tuân theo những yêu cầu của cường quốc đang trỗi dậy.

Đối với các cường quốc đang trỗi dậy, quyết định triển khai các đại chiến lược này diễn ra dưới cái bóng của quyền lực cũng như ảnh hưởng của cường quốc bá chủ và điều này tiềm ẩn những rủi ro đáng kể. Một cường quốc đang trỗi dậy nếu công khai theo đuổi việc tạo dựng trật tự quá sớm có thể khiến cường quốc bá chủ can thiệp vào khu vực sân sau của cường quốc đang trỗi dậy, tập hợp các nước láng giềng của cường quốc đang trỗi dậy để bao vây nước này, hoặc cắt đứt nước này khỏi nguồn cung cấp hàng hóa trong trật tự bá quyền. Vì những lý do này, các chiến lược làm suy yếu với mục đích làm suy yếu trật tự bá quyền thường xảy ra trước các chiến lược tạo dựng nhằm mục đích tạo dựng trật tự của một cường quốc đang trỗi dậy. Hơn nữa, cả hai chiến lược thường được theo đuổi ở cấp độ khu vực trước khi cường quốc đang trỗi dậy chuyển sang chiến lược thứ ba là mở rộng ảnh hưởng ra toàn cầu tức là làm suy yếu và tạo dựng ở cấp độ toàn cầu để soán ngôi trật tự bá quyền.

Khi nào một cường quốc có thể theo đuổi việc mở rộng ảnh hưởng khi nào? Một số học giả như Giáo sư John Mearsheimer của Đại học Chicago cho rằng, một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc phải đạt được bá quyền trong khu vực trước khi theo đuổi tham vọng lớn hơn ở phạm vi toàn cầu, sogn tiêu chí này có lẽ vẫn còn quá hạn hẹp. Một số học giả khác như Giáo sư Robert Gilpin của Đại học Princeton lại cho rằng, một cường quốc đang trỗi dậy dù chưa đạt được bá quyền trong khu vực nhưng vẫn có thể thách thức bá quyền ở phạm vi toàn cầu khi sử dụng các “hình thức kiểm soát”  song hành như kinh tế, tài chính, công nghệ và thông tin để duy trì trật tự bá quyền toàn cầu của mình. Đức đã thách thức sự thống trị toàn cầu của Anh trong các lĩnh vực này trước khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra mặc dù quốc gia này chưa đạt được vị thế bá quyền khu vực ở châu Âu, và ngày nay, Trung Quốc dường như cũng đang làm như vậy. Điều quan trọng không phải là việc một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc đã hoàn toàn nắm trong tay quyền lãnh đạo khu vực hay chưa, mà là liệu việc thực hiện chiến lược làm suy yếu và tạo dựng trong khu vực sân sau của họ đã đủ mạnh để họ tự tin rằng mình có thể quản lý rủi ro từ sự can thiệp của cường quốc bá quyền nếu muốn theo đuổi việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra toàn cầu.

Một số người có thể nghi ngờ rằng, một cường quốc đang trỗi dậy như Trung Quốc có thể làm bất kỳ điều gì, nhưng giống như hầu hết các quốc gia, cường quốc đang trỗi dậy thường theo chủ nghĩa xét lại. Một số khác có thể cho rằng tuyên bố trên gây tranh cãi, nhưng cũng có một nhận định khá chừng mực rằng, hầu hết các quốc gia đều có quan điểm riêng về cách thức hoạt động của trật tự khu vực và toàn cầu, và không có gì đáng ngạc nhiên khi các quốc gia này hành động để hiện thực hóa quan điểm đó nếu cái giá phải trả thấp. Thực tế cho thấy, khi cái giá phải trả thấp thì các cường quốc thường thể hiện cái gọi là “sự chuyển dịch bá quyền” hướng tới việc tạo dựng trật tự trong khu vực láng giềng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Ngay cả khi Mỹ buộc phải hành xử như một cường quốc ở bên ngoài vào thế kỷ XIX, thì nước này vẫn tiến tới việc thực thi bá quyền ở Tây Bán cầu. Câu hỏi quan trọng đặt ra không phải là liệu các quốc gia mới trỗi dậy có các ưu tiên nào khác đối với trật tự hay không, mà là liệu họ có quyết định hành động hay không, và họ hành động thì đó là khi nào và bằng cách nào.

Vì bá quyền thường là mối quan tâm lớn nhất trong các tính toán chiến lược của một cường quốc đang trỗi dậy nên tác giả lập luận rằng, việc lựa chọn “sửa lại” trật tự cũ sẽ dựa trên nhận thức về bá quyền. Hai biến số cực kỳ quan trọng là: (1) khoảng cách về tương quan sức mạnh được ghi nhận với một bá quyền bên ngoài, tức là hàm ý năng lực của cường quốc bá chủ torng việc gây tổn hại đến lợi ích của cường quốc đang trỗi dậy; (2) mối đe dọa được ghi nhận từ bá quyền bên ngoài, tức là việc cường quốc bá chủ sẵn sàng sử dụng quyền lực đó để gây tổn hại. Việc xác định các biến số này một cách trực quan là rất quan trọng vì những gì liên quan nhất đến việc xây dựng chiến lược là đánh giá một quốc gia về sức mạnh và mối đe dọa từ đối thủ, chứ không phải là thước đo khách quan về quyền lực và mối đe dọa (khó có thể nắm bắt được trong mọi trường hợp). Để đơn giản hóa, cả hai biến số này được phân tích trong Bảng 2 với hai tiêu chí cao và thấp.

Bảng 2: Các đại chiến lược của cường quốc đang trỗi dậy hướng tới trật tự bá quyền

 Khoảng cách về tương quan sức mạnh được ghi nhận với một cường quốc bá quyền bên ngoài
CaoThấp
Mối đe dọa được ghi nhận từ cường quốc bá quyền bên ngoàiCaoChiến lược làm suy yếuChiến lược tạo dựng
ThấpChiến lược thích ứngChiến lược thống trị

Cuối cùng, trong khi làm suy yếutạo dựng là các chiến lược nhằm thay đổi trật tự thì các cường quốc cũng có thể theo đuổi các chiến lược khác, như được phân tích dưới đây.

Thứ nhất, khi cườgn quốc đang trỗi dậy coi cường quốc bá chủ mạnh hơn mình nhiều nhưng không phải là mối đe dọa đặc biệt, thì cường quốc đang trỗi dậy đó có xu hướng thích ứng với trật tự bá quyền ngay cả khi các ưu tiên của mình khác với ưu tiên của cường quốc bá chủ bên ngoài. Sự thích ứng có thể do họ muốn tránh việc biến bá quyền bên ngoài thành thế lực thù địch, hoặc mong muốn thu lợi từ quan hệ đối tác với bá quyền nhằm chống lại bên thứ ba. Theo đó, một cường quốc đang trỗi dậy có thể cho phép hoặc thậm chí ủng hộ sự hiện diện quân sự của cường quốc bá chủ tại khu vực, lãnh đạo các tổ chức khu vực và tài trợ cho các sáng kiến kinh tế khu vực. Một ví dụ của chiến lược này là sự thích ứng của Ấn Độ đối với sự hiện diện của Mỹ tại khu vực Nam Á vì Ấn Độ cho rằng Mỹ hùng mạnh song không phải là mối đe dọa đặc biệt và vai trò của Mỹ là hữu ích trong việc đối trọng với Trung Quốc. Một ví dụ khác có thể là chính sách của Trung Quốc đối với Mỹ trong những năm 1980.

Thứ hai, khi một cường quốc đang trỗi dậy nghĩ rằng cường quốc bá chủ mạnh hơn mình rất nhiều và là mối đe dọa lớn thì cường quốc đang trỗi dậy đó sẽ theo đuổi chiến lược làm suy yếu các hình thức kiểm soát của bá quyền, bao gồm khả năng gây sức ép, thu phục và tạo tính chính danh ở khu vực hoặc toàn cầu. Trong kịch bản này, cường quốc đang trỗi dậy không thể thích ứng với một bá quyền mà nó coi là mối đe dọa, cũng như không thể công khai chống lại một nước bá quyền mà nó coi là đang nắm quyền lực. Điều này buộc cường quốc đang trỗi dậy phải dùng đến “vũ khí của kẻ yếu” để làm suy giảm đòn bẩy của nước bá quyền. Về mặt quân sự, cường quốc đang trỗi dậy có thể theo đuổi các năng lực phòng thủ quân sự để ngăn chặn cường quốc bá chủ can thiệp và khu vực, đồng thời tránh việc khích động các nước láng giềng đang trỗi dậy và khiến mình bị bao vây; về mặt chính trị, có thể tìm cách giảm bớt vai trò của cường quốc bá chủ bên ngoài trong các cơ chế khu vực; và về mặt kinh tế, có thể tìm cách bảo vệ mình trước việc sử dụng các chính sách quản lý kinh tế của bá chủ. Trung Quốc đã theo đuổi một phiên bản của chiến lược này trong suốt những năm 1990 cho đến khoảng năm 2008.

Thứ ba, khi một cường quốc đang trỗi dậy nghĩ rằng nước bá quyền bên ngoài không mạnh hơn mình quá nhiều nhưng vẫn là mối đe dọa lớn thì cường quốc đang trỗi dậy sẽ theo đuổi chiến lược tạo dựng để xây dựng nền móng cho trật tự của mình bằng cách đầu tư tạo dựng các hình thức kiểm soát của riêng mình gồm năng lực gây sức ép, thu phục và tạo tính chính danh. Cường quốc đang trỗi dậy đủ mạnh để chấp nhận rủi ro khi chống lại nước bá quyền, nhưng không đủ mạnh để có thể tự do thống trị ở khu vực của mình, vì làm như vậy có thể tạo ra khe hở cho nước bá quyền bên ngoài can thiệp. Về mặt quân sự, cường quốc đang trỗi dậy có thể theo đuổi các năng lực cho phép gây sức ép, can thiệp, triển khai sức mạnh quân sự và kiểm soát (thay vì từ vhối sự kiểm soát) trên đất liền, trên không và trên biển; về mặt chính trị, có thể thiết lập các thể chế mới để quản lý khu vực và khiến nước bá quyền phải đứng ngoài cuộc, và về mặt kinh tế, có thể cố tình duy trì sự phụ thuộc bất đối xứng, tuy có vẻ có lợi song thực tế lại kiềm chế các quốc gia khác. Những nỗ lực này thậm chí có thể tương tự các hình thức chiến lược về xây dựng trật tự tự do mà các học giả như Giáo sư John Ikenberry của Đại học Princeton tin rằng sẽ bảo đảm thu phục các quốc gia yếu hơn và tránh sự cân bằng. Khi đã thực hiện thành công ở khu vực sân sau, cường quốc đang trỗi dậy có thể theo đuổi việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở cấp độ toàn cầu. Trung Quốc đã theo đuổi chiến lược này kể từ năm 2008 và nó đã trở thành nền móng cho chiến lược mở rộng phạm vi ảnh hưởng mà Trung Quốc theo đuổi sau năm 2016.

Thứ tư, khi một cường quốc đang trỗi dậy nghĩ răng nước bá quyền bên ngoài không mạnh hơn mình nhiều và không có tính chất đe dọa đặc biệt thì cường quốc đang trỗi dậy sẽ tự do hơn trong việc theo đuổi chiến lược thống trị đối với những quốc gia khác trong trật tự, vì họ không quan tâm đến những nỗ lực xây dựng trật tự của đối thủ hoặc sự can thiệp của nước bá quyền. Chiến lược tạo dựng có thể kết hợp giữa gây sức ép và thu phục, song chiến lược thống trị có thể làm quá tải các công cụ gây sức ép do thiếu thách thức trong trật tự hoặc có thể tạo ra liên minh đối trọng. Về mặt quân sự, một quốc gia đang trỗi dậy có thể triển khai lực lượng quân sự thường xuyên hơn; về mặt chính trị, có thể tạo ra các quy tắc và chuẩn mực để “khóa chặt” lợi ích của quốc gia đang trỗi dậy và làm suy yếu tất cả các thể chế cạnh tranh; và về mặt kinh tế, có thể theo đuổi việc khai thác bên cạnh việc duy trì sự phụ thuộc bất đối xứng. Ví dụ như, chiến lược của Mỹ ở khu vực Mỹ Latinh vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi đó tương quan sức mạnh của châu Âu vẫn yếu và các mối đe dọa của châu Âu đối với khu vực Mỹ Latinh ít nghiêm trọng hơn so với những thập kỷ trước.

Bốn chiến lược này thường diễn ra tuần tự, từ chiến lược thích ứng, đến chiến lược làm suy yếu, chiến lược tạo dựng và sau đó là chiến lược thống trị, song vẫn có những ngoại lệ: một quốc gia có thể chuyển từ chiến lược làm suy yếu sang chiến lược thích ứng sau khi thiết lập quan hệ hữu nghị với nước bá quyền bên ngoài; hoặc có thể chuyển từ chiến lược thích ứng sang chiến lược thống trị nếu một nước bá quyền ôn hòa được coi là đã suy yếu.

Trong trường hợp của Trung Quốc, trình tự thông thường dường như đang diễn ra: Trung Quốc ban đầu thích ứng với một nước Mỹ hùng mạnh nhưng không mang tính đe dọa sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ; Trung Quốc tìm cách làm suy yếu Mỹ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc khiến Trung Quốc cho rằng Mỹ là mối đe dọa lớn hơn; Trung Quốc bắt đầu xây dựng trật tự của riêng mình sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi nhận thấy M4y đang suy yếu; và Trung Quốc có thể theo đuổi chiến lược thống trị trong khu vực nếu Mỹ chấp nhận hoặc bị đánh bại trong một cuộc xung đột khu vực. Phần lớn lý thuyết, thực tiễn và bằng chứng thực nghiệm về đại chiến lược này của Trung Quốc gắn liền với thế giới quan và tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bây giờ chúng ta sẽ bàn luận về thể chế này và vai trò của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Lenin trong việc định hình Đảng, và sau đó là đại chiến lược của Trung Quốc.

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Rush Doshi – Cuộc chiến dài hơi, đại chiến lược của Trung Quốc nhằm thay đổi trật tự của Mỹ – NXB CTQGST 2022

Định hướng châu Phi trong chính sách đối ngoại của Nga – Phần III


Thứ tự ưu tiên

Khi đặt tất cả các mảnh ghép vào một bức tranh duy nhất, có thể thấy rằng ở châu Phi, vốn thường không hoạt động tích cực nhất, ngành ngoại giao của Nga phải nỗ lực rất nhiều, bởi Hội nghị thượng đỉnh không còn xa, và Hội nghị này không chỉ liên quan đến lợi ích thiết thực của Nga trên lục địa, mà còn ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh truyền thông của Moskva.

Một điểm để đối chiếu rất có thể sẽ là Hội nghị Thượng đỉnh các nhà lãnh đạo Mỹ-châu Phi và cũng là hội nghị lần thứ hai trong lịch sử (tổ chức vào giữa tháng 12/2022). Ở cấp nguyên thủ quốc gia hoặc chính phủ, 45 quốc gia trong khu vực đã có đại diện ở Washington, trong khi các phái đoàn của Burkina Faso, Guinea, Mali, Sudan vả Eritrea (do bị đình chỉ tư cách thành viên của Liên minh châu Phi) không được mời. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là Nam Phi đã có đại diện tại Hội nghị Thượng đỉnh ở cấp Bộ trưởng Ngoại giao – cùng với Gambia, Nam Sudan và Zimababwe. Và sự tham gia của Tổng thống Cyril Ramaphosa trong Hội nghị Thượng đỉnh ở St-Petersburg đã được xác nhận trên thực tế.

Rõ ràng, Moskva sẽ cố gắng đảm bảo rằng Hội nghị Thượng đỉnh vào tháng 7 tới không ít các đại diện. Ít nhất, điều quan trọng là phải đạt được “số cử tri đi bỏ phiếu” như năm 2019. Tại Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên, như đã biết, 43 nguyên thủ quốc gia và chính phủ các quốc gia thuộc lục địa châu Phi đã có mặt tại Sochi, Nga. Tính đại diện, tất nhiên, bản thân nó không phải là mục đích. Tuy nhiên, chính trên cơ sở này, báo chí sẽ đánh giá sự thành công của Hội nghị Thượng đỉnh, viết về các chủ đề liên quan đến sự cô lập Nga trong quan hệ quốc tế đương đại. Ngoài ra, cần phải liên hệ bức tranh truyền thông về “sự gia tăng ảnh hưởng của Nga” với thực tiễn. Cho tới nay, chính một số quốc gia ở Tây Phi có mức độ ủng hộ đối với vị thế của Nga là yếu nhất (đặc biệt là so với bối cảnh của các quốc gia Nam Phi), dựa trên số liệu bỏ phiếu của các quốc gia trong Đại hội đồng Liên hợp quốc.

Xét đến giai đoạn chuẩn bị tích cực cho Hội nghị Thượng đỉnh ở St-Petersburg, chuyến công du châu Phi của Ngoại trưởng Sergey Lavrov có thể được coi là thông điệp chính mà Moskva gửi tới những người tham gia tiềm năng.

Thứ nhất, thu hút sự chú ý ngày càng tăng của các bên vào hợp tác kinh tế. Bất chấp những tuyên bố liên tục về việc mở rộng và chiều sâu hợp tác kinh tế, chính vấn đề này luôn là mặt yếu của đại diện Nga trên lục địa này. Ví dụ, trong quan hệ thương mại với Nam Phi, Nga đứng ở mức hoàn toàn tương ứng với những gì đạt được trong khuôn khổ quan hệ chính trị. Theo đó, vào năm 2022, xuất khẩu của Nam Phi sang Liên bang Nga đạt 4,47 tỷ rand, chiếm chưa đến 3% tổng khối lượng xuất khẩu của nước này (để so sánh: xuất khẩu của Nam Phi sang Đan Mạch là 5,24 tỷ rand). Xuất khẩu của Nga sang Nam Phi đạt 8,58 tỷ rand, đây cũng chỉ là con số nhỏ so với các nước như Thổ Nhĩ Kỳ (28,1 tỷ rand), Italy (373 tỷ rand), Thái Lan (45,8 tỷ rand) hay Ấn Độ (119,5 tỷ rand). Không cần phải nói tới khối lượng thương mại với Trung Quốc ở đây. Sự chênh lệch “chính trị-thương mại” như vậy là điển hình cho mối quan hệ của Nga với hầu hết các quốc gia ở lục địa này. Trong chuyến công du của mình, bình luận về kết quả chuyến thăm đầu tiên của một vị Bộ trưởng Ngoại giao Liên bang Nga tới Vương quốc Eswatini, ông Lavrov đã nói: “Những nỗ lực chính hiện nay cần hướng đến phát triển kinh tế, lĩnh vực mà xét về các chỉ số vẫn còn tụt hậu nghiêm trọng so với các lĩnh vực hợp tác khác của chúng ta, trước hết là do mức độ tuyệt vời của đối thoại chính trị”. Do đó, hoàn toàn hợp lý khi Moskva đang cố gắng đưa quan hệ kinh tế với các nước châu Phi đi theo hướng thiết thực hơn trước thềm Hội nghị Thượng đỉnh. Theo đó, trong cuộc gặp với Bộ trưởng Quan hệ và Hợp tác Quốc tế Nam Phi Naledi Pandor, đã có thông báo rằng ngay trong quý đầu tiên của năm 2023, cuộc họp lần thứ 17 của Ủy ban Hỗn hợp Liên Chính phủ về Thương mại và Hợp tác kinh tế sẽ được tổ chức (một sự kiện có hình thức tương tự được tổ chức vào cuối tháng 4 tại Angola, trong khi với Eritrea, cơ chế này vừa mới được thiết lập).

Ngoài ra, mong muốn phát triển hợp tác trong lĩnh vực năng lượng, vấn đề nội bộ gay gắt nhất của Nam Phi vào lúc này đã được bày tỏ. Thật không may, hợp tác trong lĩnh vực này đã gặp phải những trở ngại. Kể từ năm 2014, sau khi ký kết thỏa thuận với Nam Phi về quan hệ đối tác chiến lược về năng lượng hạt nhân, Rosatom đã thông báo về thỏa thuận đạt được liên quan xây dựng tới 8 tổ máy điện hạt nhân ở tỉnh Western Cap, nhưng sau đó những kế hoạch này đã bị chôn vùi do các cuộc tranh cãi gay gắt giữa các đảng, tranh cãi trong nội bộ đảng và các vụ bê bối tham nhũng (vụ kiện cựu Tổng thống Jacob Zuma vẫn đang kéo dài). Đến cuối năm 2017, dự án có lẽ đã bị lãng quên. Hiện vẫn chưa rõ liệu phía Nga có ý định đề xuất với ban lãnh đạo mới của Nam Phi xem xét lại vấn đề này hay không, có tính đến xu hướng khủng hoảng đang gia tăng nhanh chóng trong việc cung cấp điện của nước này hay không. Cũng không rõ thỏa thuận nào sẽ được thực hiện thực tế ở mức độ nào trong tình hình quốc tế hiện nay, bởi vì bất kỳ thỏa thuận nào như vậy sẽ phải được thảo luận tại Quốc hội Nam Phi, và đó là lý do tại sao Liên minh Dân chủ tự do và thân phương Tây có thể lại tạo ra một làn sóng chỉ trích chống lại dự án này.

Thứ hai, Nga thể hiện sẵn sàng đầu tư vào các công cụ quyền lực mềm để thúc đẩy hợp tác với các quốc gia thuộc lục địa châu Phi. Đặc biệt, số lượng sinh viên Nam Phi có thể học tại các trường đại học của Nga bằng chi phí ngân sách liên bang sẽ được tăng lên đáng kể. Điều tương tự cũng được thực hiện đối với sinh viên đến từ Eswatini và Angola. Điều quan trọng nữa là Nga sẵn sàng mở các trung tâm văn hóa mới ở châu Phi – hiện tại đang không có đủ. Nếu hoạt động của các trung tâm này ở mức độ lớn hơn và không chỉ giới hạn ở các cuộc triển lãm và lễ khai mạc tượng bán thân Yuri Gagarin thì hình ảnh truyền thông của Nga ở châu Phi không chỉ trở nên dễ nhận biết hơn, mà còn rộng rãi hơn về ý nghĩa. Và tất nhiên, các nước châu Phi rất quan tâm đến khả năng đào tạo nhân sự ở Nga: chẳng hạn, Bộ trưởng Ngoại giao Eswatini Dladla lưu ý rằng nhiều bác sĩ làm việc trong các bệnh viện của vương quốc này là bằng chứng rõ ràng và thực tế nhất về cách tiếp cận có trách nhiệm của Nga đối với việc xây dựng quan hệ song hương và liên hệ giữa các dân tộc. Mối quan hệ với Eritrea, rất có thể, cũng sẽ đi theo hướng này trong tương lai gần: ví dụ, các bên đang chuẩn bị cho một thỏa thuận công nhận lẫn nhau về giáo dục, điều này sẽ cho phép sinh viên từ Eritrea nhận được học bổng để học tập tại Liên bang Nga.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 08/05/2023

Định hướng châu Phi trong chính sách đối ngoại của Nga – Phần II


Đồng thời, một làn sóng bất ổn quét qua Tây Phi vào năm 2022. Tại Burkina Faso vào tháng 9, quân đội do Paul-Henri Damiba đứng đầu bị lật đổ. Hồi tháng 01, chính họ lên nắm quyền trong cuộc đảo chính (khi đó họ đã lật đổ Tổng thống R. Kabore – người cai trị đất nước trong 6 năm). Một nhóm sỹ quan cấp dưới lên nắm quyền, đứng đầu là Đại úy Ibrahim Traore, 34 tyổi, đã vô hiệu hóa hiến pháp. Tại Mali, vào tháng 5, có thông báo rằng một âm mưu đảo chính đã thất bại. Nếu thành công thì đây sẽ là lần đảo chính thứ 4 ở đất nước này trong 10 năm qua, và Tổng thống chuyển tiếp của Mali Assimi Goita, tích cực tham gia vào 2 năm vừa qua (2020 và 2021). Âm mưu đảo chính cũng diễn ra ở Guinea-Bissau (vào tháng 2) và Gambia (vào tháng 12). Tại Sierra Leone, trong bối cảnh các cuộc biểu tình rầm rộ do tình hình kinh tế khó khăn gây ra, Tổng thống J. Biot gần như sắp phải từ chức.

Trên truyền thông có quan điểm rất phổ biến rằng tất cả những sự kiện này đều có lợi cho Nga (ít nhất, nhiều nhà bình luận phương Tây chắc chắn về điều này). Một phần, tất cả điều này đã được xác nhận trong thực tế: chẳng hạn, trong bối cảnh tâm lý chống Pháp gia tăng, Thủ tướng Burkina Faso A. De Tambela hy vọng tăng cường quan hệ đối tác giữa hai quốc gia bằng cách mở một cơ quan ngoại giao của Nga tại nước này. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là một thế hệ khác, trẻ hơn hiện đang nắm quyền ở hầu hết các quốc gia trong khu vực, vì vậy những lập luận truyền thống của Nga, phần lớn dựa trên di sản từ thời Liên Xô, có thể cần phải được điều chỉnh. Tuy nhiên, tại thời điểm này, logic về sự giúp đỡ nhận được từ Liên Xô trong cuộc chiến chống chủ nghĩa thực dân đã được chuyển hoàn hảo thành mong đợi giúp đỡ từ Nga trong cuộc chiến chống chủ nghĩa thực dân mới. Câu hỏi duy nhất là việc xây dựng các mối quan hệ lâu dài chỉ dựa trên cơ sở này sẽ thực dụng đến mức nào.

Trước cuộc bầu cử tổng thống, tình hình đang nóng lên ở Nigeria. Như trường hợp của Nam Phi, nhiều thách thức hiện nay của nước này được tiếp diễn từ năm 2022. Theo đó, vào tháng 11/2022, Cục Thống kê Quốc gia Nigeria buộc phải thừa nhận nước này đang có tỷ lệ lạm phát chưa từng có (trên 21%), đó là lý do tại sao ngày càng có nhiều người rơi xuống mức nghèo khổ – con số hiện nay là 63% tương đương khoảng 133 triệu người. Tình hình trở nên trầm trọng hơn do mưa lớn và lũ lụt trên diện rộng, ảnh hưởng đến ít nhất 1,5 triệu người. Ở phía Tây Bắc của nước này, hoạt động của các nhóm khủng bố đang gia tăng, và chính quyền trung ương vẫn chưa thể đối phó. Tất nhiên, những sự kiện này ảnh hưởng tới việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống, đi kèm với đó còn là sự chia rẽ trong đảng Đại hội Toàn dân Tiến bộ (APC) cầm quyền và sự rời xa của giới trẻ đối với giới tinh hoa cầm quyền. Bằng cách này hay cách khác, tại Hội nghị Thượng đỉnh ở St-Petersburg, Nigeria không còn được đại diện bởi Muhammadu Buhari như ở Sochi vào năm 2019, vì ông không thể tái đắc cử nhiệm kỳ thứ 3, theo hiến pháp nước này.

Các nước khác của lục địa này có xu hướng đáng lo ngại của riêng họ. Theo đó, thỏa thuận được ký kết ở Pretoria về việc chấm dứt chiến sự ở phía Bắc Ethiopia (bang Tigary) là bước quan trọng hướng tới sự ổn định trong tiểu vùng, nhưng điều này không xóa bỏ được các câu hỏi về tốc độ và chất lượng của việc triển khai thực tế, cũng như vấn đề ly khai ở Ethiopia, bao gồm cả hoạt động rất tích cực của Mặt trận Giải phóng Oromo. Mặc dù thỏa thuận về việc chấm dứt chiến sự với chính quyền trung ương và xóa nhãn “khủng bố” đã được ký kết từ năm 2018, nhưng vào ngày 23/01/2023, tức là ngày Ngoại trưởng Sergey Lavrov đến thăm Nam Phi, Mặt trận đã công bố bản tuyên ngôn với các yêu cầu đối với chính quyền chính thức của Addis Ababa. Tài liệu đề cập đến việc chấm dứt đàn áp các nhà lãnh đạo và những người ủng hộ Mặt trận, chấm dứt tiến hành các hoạt động quân sự ở đất nước, trao vị thế chính thức cho ngôn ngữ Oromo, cũng như đưa thủ đô Addis Ababa hòa nhập vào thành phần của đất nước. Sau 2 ngày, ngày 25/01, các cuộc đụng độ vũ trang gia tăng giữa các đại diện của Amhara và Oromo đã diễn ra.

Nhiều vấn đề cũng đang gia tăng ở Trung Phi. Do các cuộc giao tranh liên tục giữa chính phủ quốc gia Cộng hòa Dân chủ Congo và thành viên phong trào 23/3 (M23) ở tỉnh Bắc Kivu, quan hệ giữa Cộng hòa Dân chủ Congo và Rwanda đã xấu đi đáng kể, bằng chứng là không chỉ bởi những lời buộc tội lẫn nhau của các bên, mà còn bởi sự cố gần đây với vụ bắn hạ máy bay Su-25 của Congo khi xâm phạm không phận của Rwanda. Diễn biến các sự kiện theo hướng tiêu cực không chỉ khiến dân thường buộc phải xin tỵ nạn ở các nước láng giềng, mà còn tới toàn bộ Cộng đồng Đông Phi. Cho tới nay, chưa có cuộc trao đổi thành công nào cho những xung đột này: hội đàm giữa các nhà lãnh đạo Cộng hòa Dân chủ Congo và Rwanda tại Qatar, dự kiến diễn ra vào ngày 23/01 (một lần nữa, ngày bắt đầu chuyến công du châu Phi của Ngoại trưởng Sergey Lavrov), đã không diễn ra. Có lẽ việc để Paul Kagame và Felix Tshisekedi tham gia cùng một sự kiện sẽ là một trong những thách thức đối với nền ngoại giao của Nga trong quá trình chuẩn bị cho Hội nghị thượng định sắp tới, do mức độ xa lánh hiện tại trong quan hệ giữa Congo và Rwanda.

Cuối cùng, không thể không ghi nhận một mức độ áp lực đáng kể từ bên ngoài đang được tất cả các bên tạo ra đối với các nước châu Phi bên trong một bức tường của Liên hợp quốc. Với việc Nga bắt đầu chiến dịch quân sự đặc biệt, phiên họp đặc biệt khẩn cấp lần thứ 11 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua một số nghị quyết lên án Nga. Nếu trước đây, hầu hết các nước châu Phi cố gắng tranh thể hiện quan điểm của họ đối với loại nghị quyết này, thì giờ đây, nhiều nước trong số họ không thể giữ quan điểm trung lập.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 08/05/2023

Định hướng châu Phi trong chính sách đối ngoại của Nga – Phần I


Trang mạng của Hội đồng Nga về các vấn đề quốc tế (RIAC) có bài viết cho biết vào ngày 23/01/2023, người đứng đầu Vụ báo chí của Bộ Ngoại giao Nga Maria Zakharova đã thông báo về chuyến công du châu Phi của Bộ trưởng Sergey Lavrov. Trong suốt một tuần, phái đoàn cấp cao của Nga đã đến thăm một số quốc gia là “trụ cột” truyền thống trong chính sách đối ngoại của Nga ở châu Phi là Nam Phi, vương quốc nhỏ nhất lục địa Eswatini, quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha thân thiện với Nga là Angola, cũng như quốc gia không gần gũi và có khi bị Nga trừng phạt Eritrea. Trong khi đó, ở Moskva, trong một thời gian nhất định đã không công bố thời điểm kết thúc chuyến thăm – ở đây, rõ ràng đã bị ảnh hưởng bởi tình trạng đ1ong cửa quốc gia của Eritrea.

Đúng 6 tháng trước đó, ngày 23/7/2022, ông Sergey Lavrov đã đến thăm một số quốc gia ở lục địa châu Phi trong chuyến thăm làm việc: khi đó chuyến công du bao gồm 4 quốc gia là Ai Cập, Cộng hòa Congo, Uganda vả Ethiopia.

Có dấu hiệu cho thấy ngay sau khi Bộ trưởng ngoại giao trở về Nga, tại trụ sở Bộ Ngoại giao, ông Lavrov đã gặp đại diện riêng của Tổng thống Cộng hòa Congo về các vấn đề chiến lược và đàm phán quốc tế F. Joly.

Việc Nga tăng cường nỗ lực hướng về châu Phi như vậy không phải là ngẫu nhiên. Trong bối cảnh chuẩn bị cho Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 2 và Diễn đàn kinh tế Nga-châu Phi, sau nhiều lần bị trì hoãn, sẽ được tổ chức tại St-Petersburg vào tháng 7/2023, Moskva cần đảm bảo không chỉ một chương trình nghị sự mang tính xây dựng cho các cuộc họp, mà còn tính đại diện cao của những người tham gia trong điều kiện địa chính trị phức tạp hơn nhiều so với hồi năm 2019.

Bối cảnh đầy thách thức

Tính phức tạp của bối cảnh trước Hội nghị Thượng đỉnh sắp tới là các diễn biến bên trong lục địa châu Phi, chứ không phải do Chiến dịch quân sự đặc biệt đang diễn ra ở Ukraine.

Ngay cả khi chúng ta chỉ tập trung vào các ưu tiên rõ ràng của Nga trong khu vực, có thể dễ dàng nhận thấy tình hình chính trị nội bộ khu vực đã trở nên trầm trọng hơn vào năm 2022 ở một số lĩnh vực. Theo đó, ở Nam Phi, theo đúng nghĩa đen ngay trước Đại hội của Đảng ANC (đảng cầm quyền ở nước này từ năm 1994), nơi sẽ bầu Chủ tịch đảng, một vụ bê bối lớn đã xảy ra xung quanh nhân vật đang là chủ tịch hiện nay của ANC và Tổng thống của đất nước Cyril Ramaphosa. Công bố hồi cuối tháng 11/2022, một báo cáo đã nêu kết quả điều tra của một ủy ban độc lập về cáo buộc của cựu giám đốc Tình báo Nam Phi A. Fraser rằng ông Ramaphosa đã cố ý che giấu vụ biển thủ vài triệu USD thuộc tài sản cá nhân ở tỉnh Limpopo, bởi vì số tiền này đã không được kê khai theo quy định của pháp luật. Kết luận của báo cáo nói trên là Tổng thống đã có những hành động không phù hợp với tinh thần của Hiến pháp Nam Phi, vốn là cơ sở để luận tội ông. Bất chấp những tin đồn về việc ông Ramaphosa có thể từ chức, ông vẫn giữ được chức vụ đứng đầu đảng ANC – điều rất có thể đảm bảo cho ông tái đắc cử. Tổng thống Nam Phi sau một năm nữa, khi các cuộc bầu cử quốc gia được tổ chức ở nước này. Ít nhất thì đây là logic tồn tại suốt thời kỳ hậu phân biệt chủng tộc trong lịch sử đất nước.

Tuy nhiên, mọi thứ có thể khác đi vào năm 2024, khi uy tín của đảng ANC trong dân chúng tiếp tục giảm: đặc biệt, Viện Nghiên cứu An ninh Nam Phi trong một dự báo của mình đã nói rằng cuộc đấu tranh giữa các phe phái trong chính dảng, diễn ra trong bối cảnh bất ổn kinh tế xã hội, có thể làm giảm xếp hạng của đảng ANC trước thềm cuộc bầu cử, và sau đó, khả dĩ nhất là chính phủ của Nam Phi hiện tại lần đầu tiên theo hình thức liên minh.

Đối với quan hệ song phương Nga-Nam Phi, trước hết, một kết quả như vậy sẽ cho thấy cần phải linh hoạt hơn. Giờ đây, các bên hài lòng ghi nhận sự phát triển của quan hệ giữa ANC và đảng Nước Nga thống nhất với tư cách là hai đảng cầm quyền, nhưng lại bỏ qua các lực lượng có ảnh hưởng khác ở trong nước. Có lẽ, vào một thời điểm nào đó, cách tiếp cận như vậy sẽ phải được điều chỉnh khẩn cấp, và điều này cần được tính đến ngay bây giờ, khi chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đỉnh St-Petersburg, và nhất là chuẩn bị cho diễn đàn Nghị viện Nga-châu Phi.

Như đã lưu ý trước đó, những thăng trầm trong các nhánh quyền lực làm phức tạp hóa cuộc khủng hoảng quy mô lớn trong hệ thống năng lượng của đất nước mà không chính phủ nào có thể giải quyết. Hiện tại, tình hình căng thẳng đến mức công ty quản lý nhà nước Eskom phải kích hoạt lại các nhà máy nhiệt điện than đã lỗi thời, vì không còn cách nào khác để giải quyết tình trạng mất điện liên tục. Mặc dù thực tế là vào năm 2022, số ngày ngừng hoạt động lên tới 200 ngày (một kỷ lục trong suốt những năm xảy ra cuộc khủng hoảng kể từ năm 2007), và vào tháng 9, do sự cố trong quá trình phát điện làm mất 50% công suất, công ty này thừa nhận rằng tình hình vào năm 2023 có thể còn tồi tệ hơn. Ngày 30/01/23, Tổng thống Nam Phi C. Ramphosa nói r8àng đảng ANC đang xem xét khả năng ban bố tình trạng khẩn cấp – trước đó, chỉ có làn sóng đại dịch COVID-19 mới gây ra tình trạng tương tự. Tình trạng này của ngành năng lượng Nam Phi không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống thường ngày của người dân và khiến họ ngày càng trở nên bất bình (vào tháng 12/2022, quân đội đã được triển khai để bảo vệ cơ sở hạ tầng quan trọng trước các hành vi “phá hoại, trộm cắp và tham nhũng”), mà còn ảnh hưởng tới tiềm năng công nghiệp (nông nghiệp) của Nam Phi, quốc gia cho tới nay vẫn được coi là có mức độ công nghiệp hóa cao nhất lục địa. Nếu cộng thêm cả hai trận lụt lớn nhất đã làm rung chuyển tỉnh KwaZulu-Natal vào tháng 4/2022 (thiệt hại lên tới 17 tỷ rand, tương đương khoảng 68 tỷ ruble), và nhớ lại hậu quả của đại dịch COVID-19, thì mọi chuyện sẽ rõ ràng tại sao lạm phát lần đầu tiên kể từ năm 2008 – 2009 lại tăng lên tới 7%, tỷ lệ thất nghiệp lên tới mức chưa từng có là 34% và 63% dân số cả nước ở dưới mức nghèo khổ (dưới 6, 85 USD/ngày).

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 08/05/2023

Động cơ của Riyadh đằng sau thỏa thuận Saudi-Iran – Phần cuối


Có hai điểm bất lợi khi Bắc Kinh chọn nhấn mạnh quyền sở hữu khu vực đối với thỏa thuận này. Thứ nhất, Trung Quốc thể hiện mình là “người bạn đáng tin cậy của hai nước”, giữ khoảng cách ngang nhau với cả hai nước. Đó là lập trường mà Saudi Arabia không ủng hộ một cách đương nhiên, ngay cả khi nước này hưởng lợi từ lợi thế đòn bẩy của Trung Quốc đối với Iran. Thứ hai, Trung Quốc có vẻ như đang tránh kết quả cuối cùng, mặc dù lặp lại lời hứa rằng họ “sẽ tiếp tục vai trò mang tính xây dựng của mình”. Các ưu tiên của Trung Quốc ở Trung Đông chủ yếu vẫn là kinh tế, trong khi an ninh chỉ là một phần trong số đó.

Tầm nhìn của Saudi Arabia cho đến năm 2030

Việc giảm căng thẳng giữa Saudi Arabia với Iran là một phần trong chính sách đối ngoại tổng thể tập trung vào việc hỗ trợ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Saudi Arabia, được gọi là Tầm nhìn 2030. Vương quốc này đang đầu tư hàng tỷ USD để thực hiện kế hoạch nói trên, và căng thẳng leo thang với Iran sẽ đe dọa nguồn tài trợ của dự án, chặn nguồn đầu tư rất cần thiết từ nuớc ngoài và dập tắt ước mơ của Saudi Arabia là trở thành trung tâm khu vực và toàn cầu, đặc biệt là về điện toán đám mây, logistics, thương mại và công nghiệp.

Vai trò hòa giải của Trung Quốc xuất hiện vào thời điểm cán cân sức mạnh về kinh tế và ngoại giao trong khu vực đang nghiêng về phía Saudi Arabia. Giá dầu cao cho phép vương quốc này thúc đẩy các kế hoạch phát triển kinh tế và tăng cường chính sách ngoại giao, tài chính “Saudi Arabia trước tiên” để giành lại ảnh hưởng trong khu vực và quốc tế. Kể từ năm 2018, giới lãnh đạo Saudi Arabia đã nỗ lực củng cố vị thế quốc tế của đất nước bằng cách cải tổ quy trình hoạch định chính sách đối ngoại, chấm dứt các cuộc đối đầu ngoại giao và cải thiện quan điểm quốc tế về vai trò của nước này trong cuộc chiến Yemen. Mỹ đang nỗ lực giảm khoảng cách trong phòng thủ của Saudi Arabia với Iran và lực lượng dân quân nước này. Israel trở thành đối tác an ninh trên thực tế trong Bộ chỉ huy Trung tâm Mỹ và việc nước này háo hức bình thường hóa quan hệ với Saudi Arabia đã đặt ra mối đe dọa đối với Iran. Điều quan trọng là việc Saudi Arabia đưa tin về tình trạng bất ổn trong nước ở Iran và khoản đầu tư tư nhân rõ ràng của nước này vào các phương tiện truyền thông phe đối lập ở Iran đã cung cấp cho vương quốc này một quân bài thương lượng mạnh mẽ.

Ở phía bên kia của vùng Vịnh, Iran đang chịu sức ép từ các cuộc biểu tình trong nước cũng như các biện pháp trừng phạt kinh tế quốc tế và cô lập ngoại giao. Những yếu tố này ngày càng khiến Iran cần thêm hỗ trợ kinh tế, không chỉ từ Trung Quốc mà còn từ các nước láng giềng giàu có, dẫn đầu là Saudi Arabia. Mặc dù điều này có vẻ là tình huống lý tưởng đối với Riyadh, nhưng thực tế không phải vậy: Iran từng tấn công các nước láng giềng khi sự ổn định của chế độ bị đe dọa. Chẳng hạn như các cuộc tấn công tháp Khubar năm 1996 và các cuộc tấn công năm 2019 vào cơ sở hạ tầng dầu mỏ ở Abqaiq và Khurais, dẫn đến báo cáo về việc “Iran chuẩn bị tiến hành tấn công” sau các mối đe dọa đối với Saudi Arabia trong bối cảnh các cuộc biểu tình của Iran vào tháng 11/2022. Tehran cũng đang tiến gần hơn đến việc đạt được urani làm giàu ở cấp độ vũ khí, điều này có thể sẽ nâng khả năng răn đe của Iran lên một tầm cao mới và gây ra nhiều hành động thù địch hơn đối với nước láng giềng vùng Vịnh. Trung Quốc có thể hỗ trợ về mặt kinh tế và ngoại giao cho quá trình giảm leo thang giữa Iran và Saudi Arabia, nhưng điều đó không nhất thiết đồng nghĩa với việc Bắc Kinh sẽ can thiệp nếu Tehran quyết định vi phạm thỏa thuận.

Những bài học chính

Thỏa thuận này làm nổi bật sự khác biệt giữa mối quan hệ của Saudi Arabia với Trung Quốc và quan hệ đối tác với Nga. Khi nhắc đến chính sách đối ngoại, thỏa thuận trọng tâm giữa Nga và Saudi Arabia là thỏa thuận OPEC mở rộng. Trên thực tế, thỏa thuận của Nga về việc cung cấp cho Iran các thiết bị quân sự tiên tiến và khả năng chiến tranh mạng để đổi lấy máy bay không người lái của Iran và Nga đã sử dụng ở Ukraine là mối đe dọa trực tiếp đối với an ninh của Saudi Arabia. Thỏa thuận ngày 10/3 mang lại cho Saudi Arabia  lợi ích trong việc kéo Trung Quốc ra khỏi trục Nga-Iran-Trung Quốc, khi trục này có khả năng khuyến khích Iran tiến hành các hành động tấn công trong khu vực, tiếp tục giúp nước này thoát khỏi các lệnh trừng phạt của Mỹ và quốc tế đối với nền kinh tế của mình, đồng thời khiến Nga và Iran tiếp tục chiếm thị phần dầu mỏ của Saudi Arabia tại Trung Quốc. Cuộc cạnh tranh quyền lực toàn cầu giữa Mỹ và Trung Quốc, việc phương Tây xa lánh Nga và Iran vì cuộc chiến ở Ukraine, và sự đình trệ của thỏa thuận hạt nhân Iran đang kéo ba nước lại gần nhau hơn. Thỏa thuận này nên được coi là nỗ lực của Saudi Arabia nhằm bảo vệ mình khỏi bị mắc kẹt giữa sự leo thang của phương Tây với Iran, Nga và Trung Quốc.

Cuối cùng, lập trường cơ bản của Saudi Arabia là Iran không có vai trò gì trong thế giới Arab. Đây sẽ vẫn là một hướng đi giúp Ryiadh tăng cường hợp tác với Mỹ và các cường quốc phương Tây để chuyển từ phòng thủ sang răn đe chống lại Iran. Hiện tại, Saudi Arabia đang lựa chọn đối phó với Iran bằng chủ nghĩa thực dụng khách quan; về cơ bản là, “chúng ta không thể loại bỏ họ, và họ cũng không thể loại bỏ chúng ta”. Dựa trên logic này, Saudia Arabia đang dựa vào gnuyên tắc cùng tồn tại có kiểm soát ở vùng Vịnh, và sự kết hợp giữa cạnh tranh và ngăn chặn ở Syria và Iraq.

Việc giải quyết xung đột với Iran sẽ không dễ dàng, ngay cả khi hai nước tôn trọng các quy tắc mà họ đã nhất trí ở Bắc Kinh. Riyadh sẽ cần xử lý mối liện hệ phức tạp giữa một bên là kỳ vọng của Iran về lợi ích kinh tế từ việc giảm leo thang với Saudi Arabia và bên kia là sự leo thang của các biện pháp trừng phạt do Mỹ dẫn đầu đối với hợp tác kinh tế với Iran. Saudi Arabia cũng cần phải giảm thiểu hậu quả tiềm tàng từ cuộc chiến ủy nhiệm của Israel với Iran, mối quan hệ cạnh tranh của Iran với Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) và các hành động bất lợi từ lực lượng bảo vệ cách mạng của Iran cũng như lực lượng dân quân do Iran hậu thuẫn trên khắp khu vực. Ở thời điểm hiẹn tại, có vẻ như cả chính phủ Riyadh và Tehran đều quyết tâm xích lại gần nhau hơn.

Nguồn: Carnegie Endowment

TLTKĐB – 08/05/2023

Động cơ của Riyadh đằng sau thỏa thuận Saudi-Iran – Phần đầu


Đối với Saudi Arabia, thỏa thuận do Trung Quốc làm trung gian là một lựa chọn an ninh thực dụng, không chỉ nhằm mục tiêu phòng ngừa và cân bằng với Washington.

Ngày 10/3, Saudi Arabia, Iran và Trung Quốc đã ra tuyên bố chung công bố thỏa thuận nối lại quan hệ ngoại giao giữa Riyadh và Tehran. Sau 7 năm thù địch về quân sự và ngoại giao, hai cường quốc vùng Vịnh đã nhất trí hợp tác hướng tới giải quyết bất đồng giữa hai nước trên quy tắc quốc tế và hai thỏa thuận song phương được ký kết vào năm 1998 và 2001. Thỏa thuận năm 2023 đạt được sau 5 ngày đàm phán toàn diện và căng thẳng ở Bắc Kinh và 2 năm đàm phán kín đáo giữa Saudi Arabia và Iran ở Iraq và Oman.

Phần lớn các phân tích tập trung vào vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc ở Trung Đông trong bối cảnh cạnh tranh quyền lực toàn cầu. Nhưng động cơ của Saudi Arabia không chỉ ở việc phòng ngừa trước hành động Mỹ rút khỏi khu vực hoặc cân bằng giữa cường quốc này với cường quốc khác.

Tại sao vai trò của Trung Quốc lại quan trọng?

Cả bản chất của thỏa thuận lẫn quá trình ký kết đều là nghiên cứu tình huống điển hình cho thấy cách Trung Quốc và Saudi Arabia nhận thức về trật tự quốc tế dựa trên quy tắc và an ninh quốc tế. Đây là thỏa thuận về nguyên tắc giải quyết xung đột giữa hai quốc gia chứ không phải là thỏa thuận về các giải pháp cần đạt được. Nó nhắc nhở rằng Saudi Arabia và Trung Quốc luôn tuân thủ các quy tắc vốn là trụ cột bền vững của quan hệ đối tác song phương kể từ năm 2006, chẳng hạn như quy tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, được thể hiện trong tuyên bố chung và hành động của hai nước trong hệ thống Liên hợp quốc và trong Sáng kiến an ninh toàn cầu (GSI) của Trung Quốc.

Vai trò hòa giải của Trung Quốc cũng giúp giải quyết tranh chấp lâu dài giữa Saudi Arabia và Iran liên quan đến cuộc xung đột ở Yemen. Lập trường ban đầu của Riyadh bao gồm các điều kiện tiên quyết cho bất kỳ cuộc đàm phán nào với Iran là Tehran “phải trả Yemen cho người Yemen”, vì Saudi Arabia coi như sự ủng hộ của Iran đối với lực lượng Houthi là trở ngại chính cho việc xuống thang căng thẳng. Nhưng trong 2 năm qua, lập trường của Saudi Arabia đã thay đổi và Trung Quốc giúp làm trung gian cho một thỏa hiệp, theo đó Riyadh đồng ý với yêu cầu của Tehran về việc tuyên bố khôi phục quan hệ ngoại giao trước khi Iran ngừng hỗ trợ cho lực lượng Houthi.

Tuyên bố ba bên công khai không đề cập đến bất kỳ động thái nào của Iran trong vấn đề Yemen, nhưng ngôn ngữ trong tuyên bố và các báo cáo liên tiếp xác nhận rằng vai trò hòa giải của Trung Quốc cuối cùng đã đưa các bên đi đến một thỏa thuận, cho phép họ có thêm 2 tháng để thể hiện thiện chí trước khi thỏa thuận khôi phục quan hệ ngoại giao có hiệu lực. Saudi Arabia không thể đảm bảo rằng Iran sẽ đóng vai trò mang tính xây dựng, nhưng nước này trông cậy vào sự hiểu biết nhất định của Trung Quốc, dù còn thiếu sót, về vị thế của Iran ở Yemen. Saudi Arabia cũng đang đặt cược vào quyền lợi bất di bất dịch của Trung Quốc nếu Bắc Kinh thành công trong lần đầu tiên thể hiện vai trò lãnh đạo ngoại giao trong khu vực.

Ngoài ra, các tuyên bố của Saudi Arabia xác định các cam kết của Iran theo thỏa thuận này là lời hứa với Trung Quốc. Một quan chức Saudi Arabia giấu tên đã liệt kê vai trò của Trung Quốc là một trong những vấn đề khó giải quyết nhất trong các cuộc đàm phán. Không giống như các bên trung gian hòa giải trước đây (gần đây nhất là Oman và Iraq), Trung Quốc có lợi thế đòn bẩy để đảm bảo Iran tôn trọng các cam kết của họ trong tiến trình ba bên này, ít nhất là từ góc nhìn của Saudi Arabia. Bắc Kinh đã khiến Riyadh hài lòng bằng cách tiếp xúc với các quan chức an ninh cấp cao chứ không chỉ các nhà ngoại giao Iran, những người mà Saudi Arabia cho là bị hạn chế quyền kiểm soát đối với hành vi của Iran trong khu vực. Riyadh vốn thiếu các công cụ ngoại giao cưỡng chế và răn đe quân sự để gây sức ép buộc các cơ quan an ninh và quân sự bên trong Iran, đặc biệt là Lực lượng vệ binh cách mạng Hồi giáo, phải thỏa hiệp. Vai trò hòa giải của Trung Quốc có thể bù đắp cho điểm yếu này, nhưng nó cũng đặt Bắc Kinh vào tầm ngắm nếu Tehran vi phạm các cam kết của nước này với Bắc Kinh.

Cuối cùng, những kinh nghiệm thất bại là trụ cột trong cách tiếp cận của Saudi Arabia đối với bất kỳ cuộc đàm phán nào với Iran, bao gồm cả việc dựa vào các cường quốc phương Tây và khu vực để cố gắng gây sức ép buộc Iran phải thỏa hiệp. Trung Quốc lần đầu tiên đóng vai trò “nhà bảo trợ” và hưởng lợi từ sự ưu ái của Riyadh. Đây là cường quốc toàn cầu đầu tiên sử dụng lợi thế đòn bẩy của mình với Iran để giải quyết các yêu cầu cụ thể của Saudi Arabia lei6n quan đến chính sách khu vực của Tehran, mà không công khai coi chúng là các sáng kiến an ninh của Trung Quốc hay một thỏa thuận hạt nhân.

(còn tiếp)

Nguồn: Carnegie Endowment

TLTKĐB – 08/05/2023

“Thống nhất suy nghĩ và hành động”: Đại chiến lược và trật tự bá quyền – Phần II


Nhìn chung, các cách tiếp cận đặt ra một số câu hỏi quan trọng được liệt kê trong Bảng 1 nhằm xác định đại chiến lược của Trung Quốc. Giáo sư Barry Posen của Học viện Công nghệ Massachusetts từng nói rằng, để tìm ra đại chiến lược, chúng ta phải “thống nhất trong suy nghĩ và hành động” và các câu hỏi dưới đây giúp định hình cách xác định này.

Bảng 1: Các câu hỏi để xác định đại chiến lược

Xác định đại chiến lược: Các câu hỏi chính
Các nội hàm (Các văn bản)1. Mục tiêu: Liệu có một quan điểm nhất quán cho rằng trong số các mối đe dọa mà một quốc gia phải đối mặt, thì các mối đe dọa an ninh nào là quan trọng nhất hoặc cơ bản nhất?
2. Cách thức: Liệu có một tập hợp nhất quán các quan điểm về việc làm thế nào để giải quyết các mối đe dọa quan trọng hoặc cơ bản này trong các văn bản cốt lõi?
3. Phương tiện: Liệu có một lý thuyết về vai trò của từng biện pháp quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước để xử lý mối đe dọa an ninh cụ thể trong các văn bản cốt lõi?
Năng lực (Các thể chế)4. Sự điều phối: Liệu chúng ta có tìm ra bằng chứng cho thấy các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng các thể chế mang tính quan liêu để điều phối nhiều công cụ quản lý nhà nước?
5. Sự tự chủ: Các thể chế chính sách đối ngoại và nhà nước có mức độ tự chủ đối với xã hội và các lực lượng khác nhau ở trong nước liệu có thể thay thế đại chiến lược.
Triển khai (Hành vi)6. Sự biến đổi trong phạm vi các phương tiện: Liệu lý thuyết của chúng ta về đại chiến lược của một quốc gia nhất định có giải thích được sự thay đổi hành vi trong các lĩnh vực chính sách cụ thể tốt hơn các lý thuyết phổ biến về hành vi của nhà nước trong các lĩnh vực đó không?
7. Sự biến đổi giữa các phương tiện: Liệu lý thuyết của chúng ta về đại chiến lược của một quốc gia nhất định có thể áp dụng không chỉ cho một mà cho nhiều lĩnh vực chính sách như quân sự, kinh tế và chính trị?
8. Sự biến đổi đã được đồng bộ hóa: Khi đại chiến lược thay đổi, liệu chúng ta có nhận thấy sự thay đổi trong hành vi đã được đồng bộ hóa giữa một trong ba phương tiện thực thi hoạt động quản lý nhà nước nói trên?

Bên cạnh đó, những câu hỏi này không chỉ hỗ trợ xác định liệu một đại chiến lược có tồn tại hay không, mà còn giúp xác định nó là gì cũng như khi nàotại sao nó thay đổi. Đại chiến lược thường rất hiếm gặp và những thay đổi trong đại chiến lược còn hiếm gặp hơn nữa. Học giả Daniel Drezner của Đại học Tufts lưu ý rằng, thay đổi đại chiến lược “giống như cố gắng bắt một tầu sân bay quay đầu: tốt nhất là nó nên diễn ra từ từ”, để “đại chiến lược là một hằng số thay vì một biến số”. Tính “kết dính” torng đại chiến lược của quốc gia đến từ cả yếu tố tâm lý và tính tổ chức. Nghiên cứu tâm lý học cho thấy, “mọi người không sẵn sàng thay đổi niềm tin của họ về thế giới và không dễ dàng đối mặt với sia lầm của chính mình”, và “một khi họ đã cam kết với một quan điểm, nhận định hoặc hành động cụ thể, thì rất khó để thay đổi suy nghĩ của họ”. Nghiên cứu về tính tổ chức phát hiện ra rằng, “những hạn chế về nguồn lực, chi phí giao dịch, chính trị nội bộ và môi trường trong nước”, kết hợp với các quy tắc chính thức và quy trình vận hành tiêu chuẩn, cùng giúp giải thích “tại sao những nhà hoạch định chính sách thường cảm thấy áp lực để tránh không đi chệch hướng khỏi nguyên trạng”. Những yếu tố này kết hợp với nhau sẽ tạo nên một đại chiến lược.

Nếu các đại chiến lược có tính “kết dính” thì điều gì khiến chúng thay đổi? Tôi lập luận rằng, các đại chiến lược phụ thuộc vào nhận thức về quyền lực và mối đe dọa, và sự thay đổi về nhận thức “được thúc đẩy nhiều hơn bởi các sự kiện, đặc biệt là các cú sốc, hơn là các biện pháp thống kê”, giống như sự thay đổi dần dần của tỷ lệ tăng trưởng GDP hoặc quy mô của các hạm đội tàu chiến. Bằng cách so sánh các mô tả về quyền lực và mối đe dọa trong các văn bản của Trung Quốc trước và sau khi xảy ra các cú sốc về chính sách đối ngoại như sự kiện Thiên An Môn, chiến tranh vùng Vịnh, sự tan rã của Liên Xô và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,… ta có thể xác định liệu nhận thức về quyền lực và mối đe dọa có thay đổi, và điều này cũng sẽ dẫn đến sự điều chỉnh về chiến lược hay không.

Tranh đấu để tạo dựng trật tự

Khi sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng trong vài năm trở lại đây, một số nhà hoạch định chính sách và học giả thường xuyên đặt lại câu hỏi: “Cuộc cạnh tranh này là vì điều gì?”. Tôi cho rằng, cạnh tranh Mỹ – Trung xoay quanh vấn đề ai sẽ lãnh đạo trật tự khu vực và toàn cầu.

Mặc dù các học giả chuyên ngành quan hệ quốc tế thường cho rằng thế giới là vô chính phủ, nhưng thực tế, thế giới thường mang tính thứ bậc, trong đó một số quốc gia sử dụng quyền lực đối với các quốc gia khác. Số lượng, phạm vi và mật độ của các mối quan hệ thứ bậc này tạo ra trật tự, hoặc “các quy tắc và dàn xếp giữa các quốc gia” có thể chi phối cả hành vi bên trong và bên ngoài của họ. Trong một trật tự bá quyền, quốc gia ưu việt hơn sẽ ưu tiên “sử dụng quyền lãnh đạo của mình” cao nhất trong hệ thống thứ bậc để cơ cấu mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau và trong phạm vi các quốc gia. Các trật tự bá quyền bao hàm khái niệm mà Giáo sư Robert Gilpin của Đại học Princeton gọi là một số “hình thức kiểm soát” của một quốc gia thống trị để quản lý các quốc gia dưới quyền, và việc kiểm soát đó thường bao hàm sự kết hợp năng lực gây sức ép (để bắt buộc tuân thủ), thu phục (để thuyết phục tuân thủ) và tạo tính chính danh (để sử dụng quyền lực lãnh đạo hợp pháp).

Việc gây sức ép xuất phát từ mối đe dọa trừng phạt. Năng lực gây sức ép có thể xuất phát từ sức mạnh quân sự của một quốc gia hoặc sức mạnh cấu trúc quốc gia đó đối với các lĩnh vực quan trọng của hệ thống, bao gồm tiền tệ, thương mại và công nghệ,… Thu phục là khả năng khuyến khích hoặc thậm chí “mua chuộc” sự hợp tác thông qua giao kèo hoặc cám dỗ cùng có lợi. Điều này thường bao hàm các cơ hội được phát ngôn, bảo đảm an ninh, cung cấp lợi ích chung hoặc riêng, hoặc thu hút nhóm tinh hoa. Cuối cùng, tạo tính chính danh là năng lực chỉ huy có được nhờ đặc tính hoặc hệ tư tưởng của quốc gia thống trị. Tính chính danh có thể xuất phát từ mối quan hệ về tư tưởng, vốn biểu tượng, hoặc các nguồn lực khác và có thể hoạt động như một loại quyền lực. Ví dụ, nhiều thế kỷ trước, do vai trò tín ngưỡng của mình mà Vatican vẫn có thể chỉ huy các quốc gia cho dù không sử dụng nhiều sức mạnh vật chất. Sự kết hợp khả năng gây sức ép, thu phục và tạo tính chính danh đã bảo đảm sự tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia trong trật tự.

Sự kết hợp này hiếm khi tạo nên sự đồng nhất và do đó, các trật tự bá quyền có thể thay đổi về nội dung và phạm vi địa lý. Một số hình thức của trật tự như đế chế thường dựa nhiều hơn vào việc gây sức ép; những hình thức khác như trật tự tự do của Mỹ nhấn mạnh đến sự thu phục và tính chính danh. Đa số các trật tự sẽ mạnh hơn ở một số khu vực so với những khu vực khác, và cuối cùng, hầu hết đều phải đối mặt với những thách thức cạnh tranh có thể khiến các trật tự này thay đổi.

Trật tự thay đổi như thế nào là một câu hỏi đã có từ lâu, song vẫn là một câu hỏi phù hợp trong bối cảnh ngày nay. Các trật tự bá quyền giống trật tự do Mỹ dẫn dắt hiện nay được cho là đã thay đổi một cách cơ bản thông qua chiến tranh quy mô lớn giữa các cường quốc cùng với các cuộc xung đột như Chiến tranh thế giới thứ hai đã khép lại một trật tự cũ và mở ra một trật tự mới. Ngày nay, chiến tranh giữa các cường quốc ít có khả năng xảy ra hơn so với trước đây do khả năng răn đe hạt nhân, điều này khiến một số người lầm tưởng rằng trật tự hiện tại về cơ  bản là ổn định. Quan điểm đó đã đánh giá thấp bản chất cạnh tranh giữa các nước lớn trong thời bình và khả năng thay đổi trật tự trong bối cảnh “xung đột ngầm” mà không cần tới chiến tranh. Các trật tự có thể thay đổi một cách hòa bình khi các hình thức kiểm soát gồm năng lực gây sức ép, thu phục và tạo tính chính danh bị suy yếu, đồng thời các trật tự này có thể cường thịnh khi các hình thức kiểm soát này được củng cố. Những quá trình này có thể xảy ra từ từ hoặc cùng lúc, nhưng giống như sự tan vỡ tương đối hòa bình của Liên Xô, không nên để xảy ra chiến tranh.

(còn tiếp)

TH: T.Giang – CSCI

Nguồn tham khảo: Rush Doshi – Cuộc chiến dài hơi, đại chiến lược của Trung Quốc nhằm thay đổi trật tự của Mỹ – NXB CTQGST 2022