Quan điểm của Việt Nam về cuộc chiến Nga – Ukraine tại Liên hợp quốc


Việt Nam tiếp tục bỏ phiếu trắng

Việt Nam cùng với 32 quốc gia khác đã bỏ phiếu trắng Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc yêu cầu Nga rút quân khỏi Ukraine.

Nghị quyết mới được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua trong phiên họp đặc biệt lần thứ 11 vào ngày 23/2 (giờ Mỹ) với 141 phiếu thuận, 7 phiếu chống và 32 phiếu trắng. Trong số các phiếu chống có Nga, Triều Tiên, Syria và trong số các phiếu trắng có Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi, Việt Nam, Pakistan, Sri Lanka, hầu hết các nước châu Phi và Trung Á. Cuộc bỏ phiếu lần này diễn ra nhân 1 năm ngày Nga tấn công Ukraine.

Trong ASEAN, có 2 nước bỏ phiếu trắng là Việt Nam và Lào; còn lại 8 nước bỏ phiếu thuận. Trong đó, Philippines và Myanmar bỏ phiếu thuận đối với cả 4 nghị quyết đã thông qua của Đại hội đồng Liên hợp quốc liên quan tới xung đột.

141 nước bỏ phiếu thuận gồm hầu hết các nước phương Tây và tất cả các nước châu Âu.

Ông Zachary Abuza, chuyên gia có nhiều năm theo dõi tình hình an ninh và chính trị Đông Nam Á tại Đại học Chiến tranh Quốc gia (Mỹ), bình luận: “Việt Nam và Lào tiếp tục từ chối lên án cuộc xâm lược của Nga, trong khi Philippines đã thể hiện là một người bạn của Ukraine”.

Đây là lần thứ 5 Việt Nam bỏ phiếu trắng đối với các nghị quyết lên án Nga xâm lược Ukraine. Việt Nam một lần bỏ phiếu chống Nghị quyết loại Nga khỏi Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc.

Nghị quyết mới nhất của Đại hội đồng Liên hợp quốc bao gồm 11 điểm, trong đó kêu gọi các nước thành viên Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế tăng gấp đôi nỗ lực ngoại giao nhằm đạt được một nền hòa bình toàn diện, công bằng và bền vững tại Ukraine phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc.

Liên hợp quốc tuyên bố việc thông qua Nghị quyết là một thông điệp mạnh mẽ của tổ chức này đối với cuộc xâm lược của Nga nhằm vào Ukraine. Ngoại trưởng Đức Annalena Baerbock lên án hành động xâm lược của Nga không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng với người dân Ukraine, mà còn gây tổn thương toàn thế giới.

Phó trưởng phái đoàn thường trực Trung Quốc tại Liên hợp quốc, ông Đới Bình tuyên bố đàm phán hòa bình nên là ưu tiên của cộng đồng quốc tế, bày tỏ lấy làm tiếc trước sự bế tắc hiện nay. Ông cũng khẳng định việc cung cấp vũ khí cho Ukraine sẽ không mang lại hòa bình.

Việt Nam bày tỏ quan ngại về chiến tranh

Theo đài VOA, trong bài phát biểu ngày 22/2 tại phiên họp khẩn cấp Đại hội đồng Liên hợp quốc, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, đã kêu gọi các bên liên quan trong cuộc xung đột ở Ukraine hãy “chấm dứt hành động thù địch, tránh các hành động làm leo thang căng thẳng”. Tuy nhiên, ông không nêu tên cụ thể bên nào trong cuộc xung đột kéo dài một năm này, tiếp tục phương châm không chọn phe của Hà Nội.

Trong bài phát biểu được kênh UN Web TV (kênh truyền hình của Liên hợp quốc) phát trực tiếp từ New York, đại diện Việt Nam bày tỏ quan ngại về tình hình Ukraine trong năm qua, những diễn biến đáng lo ngại gần đây, hậu quả của cuộc xung đột, bao gồm những thiệt hại nặng nề về người và của, tác động tiêu cực đến khu vực và thế giới cũng như những nỗ lực chung nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế và ứng phó với các thách thức toàn cầu.

Ông kêu gọi các bên liên quan khẩn trương nối lại đối thoại và hòa đàm nhằm đạt được một nền hòa bình toàn diện, công bằng và lâu dài ở Ukraine. Ông cũng nhấn mạnh lời kêu gọi của Việt Nam đối với Liên hợp quốc, các quốc gia, các tổ chức và đối tác quốc tế tiếp tục tăng cường nỗ lực cung cấp hỗ trợ cho những người bị ảnh hưởng bởi xung đột: “Việt Nam ủng hộ các nỗ lực và sáng kiến quốc tế, bao gồm cả những nỗ lực và sáng kiến của Liên hợp quốc và của Tổng thư ký nhằm gắn kết tất cả các bên lại với nhau. Việt Nam sẵn sàng đóng góp trong khả năng của mình vào các nỗ lực ngoại giao, tái thiết, phục hồi và cung cấp viện trợ tại Ukraine”.

Nguồn: TKNB – 27/02/2023

Anwar lên nắm quyền, Biển Đông sẽ dậy sóng? – Phần I


Theo bài viết trên trang mạng cn.apdnews.com mới đây, khoảng 17h ngày 24/11/2022 (theo giờ địa phương), ông Anwar Ibrahim đã chính thức tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng thứ 10 của Malaysia tại Cung điện Quốc gia Malaysia (Istana Negara). Anwar đã đạt được nguyện vọng trở thành thủ tướng sau cuộc tổng tuyển cử lần thứ 15 ở Malaysia, tình thế bế tắc chính trị nhiều ngày với “Quốc hội treo” đã chấm dứt, chính phủ mới của Anwar đã được công bố.

Thông qua các cuộc phỏng vấn các quan chức, học giả, chính trị và doanh nhân Malaysia là những người thân thuộc với Anwar, tìm hiểu con đường đi lên đỉnh cao danh vọng đầy gập ghềnh của ông, phân tích đặc điểm tính cách của ông, cũng như xem xét toàn diện tình hình đối nội và đối ngoại hiện tại ở Malaysia, bài viết đã có đánh giá về những thách thức trong nước của Chính phủ Thủ tướng Anwar, cũng như những xu hướng ngoại giao mới, đặc biệt là trong quan hệ Malaysia-Trung Quốc và Malaysia-Mỹ.

Anwar: Nhà cải cách vô cùng kiên trì

Anwar vừa mới trở thành tân Thủ tướng Malaysia. Tuy nhiên, điều này chỉ xảy ra sau gần 30 năm kể từ khi ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng và là người được cho là sẽ kế nhiệm vị trí thủ tướng năm 1993, và sau 24 năm kể từ khi Anwar thúc đẩy phong trào cải cách “Ngọn lửa không bao giờ tắt” (Refomasi Movement) và thành lập đảng Công Lý Nhân Dân (ban đầu là đảng Công Lý Quốc Gia) năm 1998. Nhìn lại con đường lên đến đỉnh cao của Anwar, có thể thấy đầy những khúc quanh, gập ghềnh và khó khăn. Điều đó cũng thể hiện phần lớn tính cách khác biệt của Anwar.

Thứ nhất, Anwar có tinh thần dân tộc và năng nổ tham gia phong trào xã hội. Anwar, 75 tuổi, sinh ra ở Penang, tốt nghiệp Khoa Nhgiên cứu Mã Lai của Đại học Malaya. Năm 1971, ông là người đồng sáng lập Phong trào Thanh niên Hồi giáo Malaysia, phong trào này tập trung vào các vấn đề như tình trạng nghèo khổ và nạn đói ở các vùng nông thôn Malaysia. Nhìn lại sự nghiệp chính trị của Anwar, có thể thấy ông bắt đầu sự nghiệp với các phong trào xã hội và lãnh đạo sinh viên tham gia biểu tình. Năm 1974, ông bị bắt giam 20 tháng vì vi phạm Đạo luật An ninh Nội bộ. Sau khi được thả tự do, ông trở nên nổi tiếng trong giới phong trào xã hội và được Thủ tướng Malaysia lúc đó là Mahathir đánh giá cao.

Chung Đại Vinh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Malaysia của Đại học Hoa Kiều, tin rằng Anwar có tư tưởng rất cấp tiến và làm việc hiệu quả trong những năm đầu sự nghiệp. Đại học Malaya mà ông theo học nổi tiếng với tư tưởng tiến bộ và bầu không khí tự do hóa và dân tộc hóa mạnh mẽ. Anwar là một người Hồi giáo giỏi điều phối, cân bằng giữa các lực lượng khác nhau và giành được sự ủng hộ của nhiều người.

Thứ hai, Anwar có sự kiên trì hiếm có cùng tinh thần đổi mới. Kể từ khi được Mahathir mời tham gia đảng Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất (UMNO) năm 1982, Anwar bắt đầu những năm tháng bất bình và thù hận với Mahathir, đồng thời cũng mở ra những thăng trầm của ông trên chính trường Malaysia. Năm 1993, Anwar là người được thế giới bên ngoài tin là sẽ kế vị Mahathir, nhưng cuộc Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã khiến mối quan hệ giữa Anwar và Mahathir rạn nứt và “sự cố Anwar” đã xảy ra vào năm đó, khi ông bị bãi chức vụ và bị trục xuất khỏi UMNO. Năm 2004, một năm sau khi Mahathir thôi giữ chức Thủ tướng, Anwar được trả tự do. Ông đã lãnh đạo đảng Công lý Nhân dân đối lập đạt được kết quả tích cực trong cuộc tổng tuyển cử năm 2008, nhưng sau đó lại bị buộc tội và bị kết án 5 năm tù.

Các học giả ở Malaysia nhìn chung đều cho rằng Anwar là người có năng lực, giỏi toàn diện, chính điều này đã khiến Mahathir hết sức cảnh giác khi ông ở thời kỳ đỉnh cao và lập được nhiều thành tựu to lớn. Sự nghiệp chính trị của Anwar có những giai đoạn thăng trầm, nhưng ông đã có thể trở lại chính trường sau hai lần bị cầm tù. Điều đó cho thấy ông có một ý chí và quyết tâm hiếm có.

Cát Hồng Lượng, Giám đốc Viện Nghiên cứu Malaysia thuộc Đại học Dân tộc Quảng Tây, tin rằng tinh thần hoạt động phong trào xã hội của Anwar đã khiến ông trở thành một nhà lãnh đạo cải cách nổi tiếng trong chính trường Malaysia. Dù Anwar nhiều lần đối mặt với các cáo buộc, bản án và nhà tù, nhưng ông vẫn lãnh đạo đảng Công lý Nhân dân và liên minh của đảng này tham gia các kỳ tổng tuyển cử năm 2008, 2013 và 2018 với khẩu hiệu “cải cách”, nhắm vào nạn tham nhũng trong chính phủ và đảng phái và kêu gọi cải cách. Chắc chắn, những điều này thể hiện đầy đủ tinh thần chiến đấu và sự kiên cường của Anwar với tư cách là một nhà lãnh đạo ủng hộ cải cách trong nền chính trị Malaysia.

Anwar có tính cách hòa nhã và kiến thức uyên thâm nên luôn được lòng dân, đồng thời cũng thẳng thắn và vui vẻ. Trong chuyến thăm Trung Quốc năm 1994, ông đã được tặng tác phẩm thư pháp “Tất cả chúng ta là một gia đình”. Anwar đồng tình với quan niệm này và treo bức thư pháp trong văn phòng làm việc của mình, hàm ý rằng tất cả các dân tộc ở Malaysia, bao gồm người Mã Lai, người Hoa và người Ấn Độ, là một gia đình. Trong lần tranh cử thủ tướng mới đây, ông lại một lần nữa đề xuất “tất cả chúng ta là một gia đình”. Câu nói này đã trở thành khẩu hiệu của ông.

Hứa Lợi Bình, nhà nghiên cứu tại Viện Chiến lược châu Á-Thái Bình Dương và Toàn cầu thuộc Viện Khao học Xã hội Trung Quốc, cho rằng không nên đánh giá thấp Anwar, ông ấy dám đấu tranh và biết cách thỏa hiệp. Dù mối quan hệ của ông với Mahathir và Azmin Ali (cựu Bộ trưởng công nghiệp và Thương mại quốc tế) đầy quý trọng và thù hận, nhưng Anwar vẫn cùng tranh cử với Mahathir năm 2018, hay việc thành lập nội các của Thủ tướng Anwar mới đây cũng là kết quả của sự thỏa hiệp với Liên minh Mặt trận Quốc gia (BN).

Tình hình nội bộ Malaysia đối mặt với 3 vấn đề lớn

Anwar đã tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng thứ 10 của Malaysia, nhưng mâu thuẫn đằng sau “Quốc hội treo” và thế bế tắc chính trị của chính phủ vẫn chưa được giải quyết triệt để. Nhà Nghiên cứu Cát Hồng Lượng tin rằng điều này sẽ khiến Chính quyền Anwar phải tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức về các vấn đề nội bộ và cần xử lý tốt ba mối quan hệ.

Đầu tiên, chính phủ được thành lập trong bối cảnh phải ổn định tình hình chính trị và xử lý các mối bất bình của các đảng phái và liên minh chính trị trong chính trường Malaysia hiện tại.

Người đứng đầu nhà nước Malaysia, Sultan Abdullah (Quốc vương Malaysia), là nhân vật then chốt khi xảy ra tình trạng hỗn loạn chính trị. Ông kỳ vọng Malaysia sẽ thành lập một chính phủ ổn định, thống nhất và các nghị sĩ Quốc hội sẽ hợp tác cùng nhau để phát triển đất nước và phục hồi kinh tế. Quốc vương Malaysia đã nhắc nhở tất cả các bên sau cuộc tổng tuyển cử lần thứ 15 rằng “không bên nào giành chiến thắng tất cả, cũng không có bên nào thua” trong cuộc tổng tuyển cử lần này, do đó các bên phải tái hợp tác vì lợi ích của đất nước và người dân.

Cũng với mục tiêu này, Anwar đã phát biểu rằng miễn là các nghị sĩ đối lập chấp nhận các nguyên tắc cơ bản về quản trị tốt và không tham nhũng để duy trì sự ổn định, tham gia thành lập chính phủ liên minh và chăm lo cho người dân, ông sẵn sàng chấp nhận các đảng phái chính trị khác, bao gồm cả Liên minh Quốc gia (PN), tham gia chính phủ. Tuy nhiên, như đã biết, Malaysia vẫn đang trong giai đoạn chuyển giao chính trị then chốt, sự đa dạng và chia rẽ giữa các đảng phái chính trị vẫn tồn tại. Trong hoàn cảnh như vậy, Anwar không đặt kỳ vọng quá cao dành cho chính phủ liên minh.

(còn tiếp)

Nguồn: TLTKĐB – 10/01/2023

Quan hệ Việt – Mỹ từ kẻ thù đến đối tác


27 năm đã trôi qua kể từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Mỹ. Trong 27 năm đó, mối quan hệ này đã đạt được những bước đột phá đáng kể. Hai kẻ thù trong Chiến tranh Lạnh hiện là đối tác an ninh và kinh tế gần gũi.

Hầu hết các chuyên gia đều chỉ rõ yếu tố quyết định quan trọng nhất là sự e ngại chung của cả hai nước đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ hơn lịch sử mối quan hệ, sẽ thấy rằng sự biến đổi phi thường từ kẻ thù trong thời chiến sang đối tác toàn diện là điều không phải diễn ra trong một sớm một chiều. Việc Mỹ rút khỏi Việt Nam năm 1975 là một sự thật khó chấp nhận đối với nhiều người Mỹ. Việc để mất Sài Gòn vào tay những người Cộng sản ở miền Bắc đã làm xói mòn vị thế của Mỹ trên thế giới và niềm tin của người Mỹ vào chính họ. Trong khi đó, dù chiến thắng, những tàn tích của chiến tranh như chất độc da cam, vật liệu chưa nổ và thiệt hại về người do binh lính Mỹ lẽ ra đã không thể xóa bỏ sự phản kháng và tâm lý bài Mỹ trong lòng người dân Việt Nam. Tuy nhiên, Mỹ và Việt Nam đã vượt qua những rào cản lịch sử dường như không thể vượt qua này để thúc đẩy một mối quan hệ hướng tới tương lai dựa trên lòng tin, với động lực là mối quan tâm chung về hòa giải thực sự, tăng trưởng kinh tế, an ninh khu vực và quan điểm chung về những lợi ích của một trật tự dựa trên nguyên tắc.

Từ thù địch đến tình hữu nghị

Các tài liệu chính sách đối ngoại của Việt Nam đã chỉ ra nhiều yếu tố khác nhau dẫn đến sự đảo chiều đầy ấn tượng trong quan hệ song phương. Hai trong số những yếu tố được trích dẫn thường xuyên nhất là chương trình cải cách kinh tế “Đổi mới” và Trung Quốc. Chính sách Đổi mới đã biến Việt Nam từ một nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, mở cửa cho đầu tư và vốn nước ngoài. Điều này khiến cho cách tiếp cận của Việt Nam với quan hệ đối ngoại bớt đi tính ý thức hệ và làm giảm những lo ngại an ninh của Mỹ. Yếu tố Trung Quốc đã trở thành mối quan ngại an ninh lớn đối với Hà Nội và Washington trong những năm gần đây, nhưng mối quan hệ gần gũi hơn giữa Việt Nam với Mỹ đã trải qua chặng đường thực hiện kéo dài 27 năm.

Đầu những năm 1990, các nước láng giềng Đông Nam Á không còn coi Việt Nam là một mối đe dọa an ninh và hoan nghênh nước này trở thành thành viên thứ sáu của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), một bước tiến đáng hoan nghênh về phía Mỹ. Chính quyền Clinton đã chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào năm 1995.

Nền tảng kinh tế

Trong hai thập kỷ qua, khía cạnh kinh tế đã giúp củng cố mối quan hệ chặt chẽ hơn. Ở Việt Nam, khi an ninh quốc gia bớt đi tính ý thức hệ và tính chính danh của Đảng gắn liền với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, quan hệ với Mỹ thậm chí còn được đánh giá là hấp dẫn hơn. Quan hệ kinh tế với Mỹ đã mở ra cánh cửa hội nhập kinh tế toàn cầu. Theo sau quyết định bình thường hóa quan hệ là cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại song phương, cuối cùng đã đi đến ký kết vào năm 2000. Những cải cách còn lại theo yêu cầu của hiệp định này đã giúp Việt Nam dễ dàng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007. Kể từ sau thời kỳ Đổi mới, trở thành thành viên ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Mỹ và gia nhập WTO, Việt Nam đã nằm trong nhóm các nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á.

Hiện nay, Mỹ là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, thậm chí còn lớn hơn cả nước láng giềng Trung Quốc. Thương mại của Mỹ với Việt Nam đã tăng vọt lên hơn 111 tỷ USD vào năm 2021, từ mức gần như bằng 0 vào năm 1975. Thương mại của Mỹ với Việt Nam hiện tại hiện lớn hơn so với hai đồng minh Đông Nam Á là Philippines và Thái Lan cộng lại. Trong 10 năm qua, Việt Nam đã nhận được tổng cộng 143 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Mỹ, phần lớn trong số đó đổ vào lĩnh vực sản xuất. Những số liệu thống kê kinh tế lạc quan này đã giúp tạo việc làm và thúc đẩy phát triển ở Việt Nam.

Nền tảng địa chính trị và an ninh

Dù hệ thống chính trị khác nhau, các mục tiêu an ninh quốc gia của Hà Nội và Washington ở Đông Nam Á đang ngày càng trở nên gắn kết. Hai bên đều chia sẻ mối quan ngại về hành vi của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và sông Mekong, cũng như về chính sách viện trợ nước ngoài và đầu tư bị cáo buộc là mang tính vụ lợi của Bắc Kinh.

Ở biển Nam Trung Hoa, Việt Nam là nước thường xuyên chịu ảnh hưởng từ hành vi quyết đoán của Trung Quốc. Kết quả của cuộc đụng độ ở Đá Gạc Ma giữa lực lượng Việt Nam và Trung Quốc năm 1988 đánh dấu khởi đầu của việc Trung Quốc hiện diện thường trực ở Trường Sa. Nhiều người Việt Nam hoan nghênh việc Mỹ tiếp tục hiện diện ở Đông Nam Á để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc và ngăn chặn những hành vi leo thang hơn nữa của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa. Việt Nam biết quyền tự do hàng hải là lợi ích trọng yếu của Mỹ trong khu vực. Mặc dù thể chế pháp lý trong nước có thể không nhất thiết ủng hộ các hoạt động tự do hàng hải (FONOP) của Hải quân Mỹ, đặc biệt là với các tàu quân sự nước ngoài đi qua lãnh hải Việt Nam một cách vô hại, Hà Nội đã ngầm ủng hộ các hoạt động của Mỹ bằng cách thường xuyên tham khảo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) liên quan đến các quyền tự do hàng hải.

Washington đã bắt đầu nhận ra mối quan tâm của Hà Nội. Ngoài các vấn đề về quyền tự do hàng hải, Mỹ đã nhắc lại những lo ngại của Việt Nam và các nước Đông Nam Á về biển Nam Trung Hoa. Chẳng hạn, vào ngày 13/07/2020, Washington đã làm rõ lập trường của mình, nhấn mạnh rằng mặc dù Mỹ không đưa ra lập trường về những tuyên bố chủ quyền đối với các cấu trúc địa hình bị tranh chấp, nước này có quan điểm rõ ràng về tài nguyên biển và quyền tài phán. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ nêu rõ: “Mỹ bác bỏ bất kỳ yêu sách nào của Trung Quốc đối với vùng biển bên ngoài lãnh hải 12 hải lý tính từ những đảo mà nước này tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Trường Sa (mà không ảnh hưởng đến yêu sách chủ quyền của các quốc gia khác đối với các đảo này)… Mỹ bác bỏ bất kỳ yêu sách hàng hải nào của Trung Quốc trong vùng biển xung quanh bãi Tư Chính (ngoài khơi Việt Nam), bãi cạn Luconia (ngoài khơi Malaysia), vùng biển trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Brunei và Natuna Besar (ngoài khơi Indonesia). Bất kỳ hành động nào của Trung Quốc nhằm quấy rối hoạt động đánh bắt cá hoặc phát triển dầu khí của các quốc gia khác trong những vùng biển này – hoặc đơn phương thực hiện các hoạt động như vậy – đều là bất hợp pháp”.

Việt Nam cũng nhận thấy giá trị của sự hỗ trợ Mỹ dành cho khu vực hạ lưu sông Mekong, đặc biệt trong bối cảnh quan ngại về các con đập của Bắc Kinh có nguy cơ góp phần gây ra thời kỳ hạn hán kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trong những năm gần đây. Đối với Việt Nam, vấn đề Mekong không chỉ là vấn đề chính trị mà còn ảnh hưởng đến sinh kế của người dân và nền kinh tế đất nước. Một số chuyên gia ước tính chính sách xây đập của Trung Quốc ở thượng nguồn sông Mekong tác động đến gần 10% diện tích trồng lúa của Việt Nam. Việt Nam hoan nghênh Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong, một nỗ lực đối tác đa quốc gia do Mỹ khởi xướng năm 2009 nhằm “thúc đẩy hợp tác lớn hơn ở tiểu vùng Mekong”, sau đó là thiết lập Quan hệ đối tác Mekong-Mỹ năm 2002 nhằm khởi động các dự án hợp tác liên quan đến chia sẻ dữ liệu thủy văn, quản lý thiên tai và hợp tác an ninh. Phó Thủ tướng Việt Nam Phạm Bình Minh mô tả những nỗ lực do Mỹ dẫn đầu bằng những thuật ngữ tích cực, cho biết những nỗ lực này đã “đóng góp vào sự phát triển bền vững của tiểu vùng sông Mekong và giúp các nước Mekong thu hẹp khoảng cách phát triển, nắm bắt cơ hội mới và vượt qua thức”.

Ngoài ra, trong khi công khai ủng hộ Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc, Việt Nam “vẫn khá do dự trong việc nhân các khoản vay của Trung Quốc trong khuôn khổ sáng kiến này”. Thay vào đó, Hà Nội đang tìm kiếm các giải pháp thay thế từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ. Các chuyên gia coi đây là một nỗ lực được cân nhắc kỹ lưỡng nhằm giảm sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc.

Trên thực tế, lợi ích an ninh của hai nước tiếp tục gắn kết. Có lẽ dấu hiệu mạnh mẽ nhất cho thấy hai nước đã thực sự bỏ lại quá khứ thù địch trong Chiến tranh Lạnh xuất hiện khi Hà Nội và Washington nâng cấp mối quan hệ thành quan hệ đối tác toàn diện vào năm 2013. Bước tiến hợp lý tiếp theo là nâng tầm quan hệ thành mối quan hệ chiến lược chính thức, cho dù hầu hết các nhà phân tích đều khẳng định mối quan hệ song phương đã đạt mức này, chỉ là chưa được chính thức gọi tên.

Thật vậy, hợp tác an ninh đang trên đà phát triển ổn định. Tháng 9/2011, Hà Nội và Washington đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương, tập trung vào an ninh hàng hải, tìm kiếm và cứu nạn, hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, và trao đổi giữa các trường đại học quốc phòng và các viện nghiên cứu. Đối thoại Chính trị, An ninh và Quốc phòng Việt – Mỹ (PSDD) đã được tiến hành gần như hàng năm kẻ từ khi được khởi động vào năm 2008. Tương tự như vậy, Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt – Mỹ (DPD) đã trở thành một sự kiện chính thức được tổ chức thường niên kể từ năm 2010. Năm 2016, Washington dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kéo dài hàng thập kỷ đối với việc bán vũ khí sát thương cho Hà Nội. Trong thập kỷ qua, ít nhất ba tàu sân bay Mỹ đã ghé cảng Việt Nam – USS George Washington, USS Carl Vinson và USS Theodore Roosevelt – cùng với các tàu Hải quân Mỹ nhở hơn khác thỉnh thoảng tiến hành các chuyến thăm thiện chí.

Những hạn chế trong việc thúc đẩy quan hệ

Bất chấp sự phát triển ổn định của các mối quan hệ an ninh, kinh tế và chính trị song phương, một số hạn chế vẫn còn tồn tại. Việt Nam vẫn thận trọng về những tác động mà quan hệ với Washington sẽ gây ra đối với mối quan hệ quan trọng không kém với Bắc Kinh. Như hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam dường như không muốn chọn bên trong mối quan hệ được coi là đối đầu hoặc cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung. Những luận điệu chính sách đối ngoại của Washington nhấn mạnh “sự cạnh tranh với Trung Quốc” khi đề cập đến cái gọi là chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và cởi mở (FOIP) cũng không mấy hữu ích. Một số nhà phân tích chỉ ra “yếu tố Trung Quốc” khi giải thích cho việc Hà Nội không muốn chính thức nâng cấp quan hệ với Washington thành quan hệ đối tác chiến lược.

Hơn nữa, vẫn còn tồn tại những vấn đề về lòng tin. Một số người Việt Nam vẫn nghi ngờ ý định của Mỹ, coi những tuyên bố của Mỹ về nhân quyền và dân chủ là mối đe dọa đối với sự cầm quyền và tính chính danh của Đảng Cộng sản, và nói rộng ra, đối với sự ổn định chính trị lâu dài của Việt Nam. Tại Washington, những lo ngại về quyền tự do dân sự thường cản trở các điều luật quốc Mỹ có lợi cho Việt Nam.

Nguồn: Asia-pacific Forum

CVĐQT số 01/2023

Công nghiệp quốc phòng – công cụ xây dựng quyền lực và quan hệ địa chính trị của Ấn Độ – Phần cuối


Israel

Israel là tác nhân mới trong cuộc chạy đua vũ trang của Ấn Độ. Sự hội tụ các yếu tố khiến Ấn Độ trở nên hấp dẫn đối với Isreal, điều này giải thích cho các hợp đồng mà các công ty Israel thực hiện với Bộ Quốc phòng Ấn Độ. Ngày 2/6/2022, trong chuyến thăm New Delhi của Bộ trưởng Quốc phòng Israel Benjamin Gantz, hai nước đã ký kết Tầm nhìn Hợp tác quốc phòng Ấn Độ – Israel. Trong lịch sử, Ấn Độ và Israel cùng đấu tranh chống Đế quốc Anh và hiện đều đối mặt với những mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo. Bên cạnh đó, hai nước còn có chung những giá trị dân chủ ở châu Á. Đại sứ Israel tại Ấn Độ Ron Malka từng phát biểu: “Nhìn về phía Đông của Israel, Ấn Độ là quốc gia dân chủ đầu tiên và duy nhất. Tương tự, quốc gia dân chủ nhất mà Ấn Độ tìm thấy ở phía Tây của họ là Israel. Bên cạnh những nền văn minh giàu có và lâu đời, hai nước cũng phải đối mặt với những thách thức và mối đe dọa như nhau, điều này khiến Ấn Độ và Israel trở thành những đồng minh tự nhiên, chứ không chỉ là những đối tác chiến lược. Israel nhỏ hơn 150 lần so với Ấn Độ nhưng quy mô hợp tác giữa hai nước là rất lớn”. Tiếp đó, ông liệt kê những yếu tố thúc đẩy Ấn Độ trở thành đồng minh đặc biệt của Israel: lực lượng lao động dồi dào, gồm cả lành nghề và không lành nghề, khả năng của Ấn Độ trong việc tháo gỡ hoặc giảm thiểu xung đột với các quốc gia láng giềng, cùng chung cuộc chiến chống khủng bố, cùng tìm cách bảo vệ biên giới bằng những bức tường hay chướng ngại vật không thể vượt qua, cùng nghiên cứu trong những lĩnh vực hiện đại nhất như phòng thủ mạng, viễn thông và không gian vũ trụ. Bán vũ khí cho Ấn Độ không chỉ mang lại sự hấp dẫn về kinh tế, mà trên hết, về mặt chiến lược, đó là một sự đầu tư dài hạn bằng cách tạo ra đồng minh trước những mối đe dọa của Iran đối với sự tồn vong của Israel. Cũng như Nga, Israel không ngần ngại bán công nghệ mới nhất của mình cho Ấn Độ, khách hàng quan trọng nhất cho ngành công nghiệp quốc phòng Israel.

Năm 2017, Tập đoàn Hàng không Vũ trụ Israel (IAI) đã bán hệ thống phòng không Barak 8 cho Ấn Độ với giá 630 triệu USD, và một hợp đồng bổ sung đã được hai bên ký kết năm 2018 trị giá 777 triệu USD. Tháng 8/2019, một nhà máy đã được khánh thành ở thành phố Hyderabad (Ấn Độ) để sản xuất tên lửa chống tăng với sự hợp tác giữa công ty quốc phòng Rafael Advanced Defense Systems của Israel và công ty Astra Microwaves của Ấn Độ. Có thể nhận thấy, liên minh Israel-Ấn Độ hứa hẹn tương lai tươi sáng vì các công ty quốc phòng Israel chấp thuận chuyển nhượng một phần hoạt động sản xuất của họ cho Ấn Độ, và trên hết Israel đã thử nghiệm vũ khí của họ trong chiến đấu và không ngần ngại bán vũ khí đó cho Ấn Độ khi nước này muốn sử dụng chúng để chống lại Pakistan!

Anh

Anh chiếm vị trí đặc biệt trong nhóm các quốc gia xuất khẩu vũ khí cho Ấn Độ. Vào đầu những năm 2020, Anh cung cấp 3% vũ khí nhập khẩu của Ấn Độ và trong triển lãm quốc phòng DefExpo 2020, 13 công ty Anh đã giới thiệu sản phẩm của họ cho quân đội Ấn Độ. Chính phủ Anh tìm cách phát triển việc bán hàng sang Ấn Độ vì những lý do chính trị: hai nước cùng chia sẻ các giá trị dân chủ, cùng chống khủng bố. Ngoài ra còn có những lý do địa chiến lược và kinh tế: phát triển ảnh hưởng của Anh trên quy mô toàn cầu thông qua Ấn Độ, chủ yếu ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Cộng đồng đông đảo người Ấn Độ ở Anh cũng là yếu tố thúc đẩy sự phát triển troa đổi thương mại giữa hai nước.

Tháng 4/2019, hai nước đã ký kết biên bản ghi nhớ nhằm tăng cường sự hợp tác công nghiệp trong dài hạn. Biên bản ghi nhớ này sẽ mang lại lợi ích cho quân đội Anh và Ấn Độ. Ngày 30/4/2019, khi được hỏi tại Hạ viện về chủ đề này, Bộ trưởng Quốc phòng Anh Stuart Andrews đã trả lời: “Biên bản ghi nhớ nhấn mạnh mong muốn của Anh và Ấn Độ trong việc tăng cường mối quan hệ quốc phòng song phương. Nó sẽ giúp chúng tôi xác định những nhu cầu chung về năng lực quốc phòng và an ninh và từ đó cho phép các ngành công nghiệp quốc phòng và an ninh của chúng tôi tập trung và hợp tác hiệu quả hơn vào các cơ hội sở hữu vũ khí cả ở Anh và ở Ấn Độ. Những cải tiến công nghệ và năng lực công nghiệp có được từ sự hợp tác này sẽ tăng cường an ninh chung và sự thịnh vượng của chúng tôi trong dài hạn”. Biên bản ghi nhớ này cho thấy Anh coi Ấn Độ là một thị trường ưu tiên cần phát triển, và điều này đã được chứng minh vào tháng 4/2022 trong chuyến thăm của Thủ tướng Boris Johnson tới New Delhi khi ông và người đồng cấp Ấn Độ Narendra Modi đã khẳng định sẽ đưa quan hệ hợp tác giữa hai nhà nước lên tầm đối tác chiến lược toàn diện với lộ trình đến năm 2030, trong đ1o hai bên sẽ cùng nhau hợp tác nghiên cứu và sản xuất.

Bản đồ các quốc gia cung cấp vũ khí cho thị trường quốc phòng Ấn Độ cho thấy thị trường này rất hạn chế và chỉ các quốc gia có cùng mục tiêu địa chính trị với Ấn Độ mới lọt vào danh sách các nhà cung cấp. Một số quốc gia, có mặt tại triển lãm quốc phòng DefExpo 2020 nhưng không được Ấn Độ đặt hàng, đang tìm cách khẳng định thâm nhập thị trường nước này, và điều thú vị là trong số những ngước này có Australia và Nhật Bản, các đồng minh của Ấn Độ và Mỹ trong khuôn khổ Đối thoại An ninh Bốn bên (Bộ tứ). Đơn đặt hàng quân sự củng cố quan hệ chiến lược giữa các đồng minh, nhưng cũng kéo theo hoạt động đầu tư vào Ấn Độ vì luật pháp Ấn Độ quy định nhà cung cấp có nghĩa vụ bù đắp công nghiệp khi các hợp đồng vượt quá mức tiền nhất định (296 triệu USD theo Thủ tục Mua sắm Quốc phòng 2016). Công ty bán vũ khí trên thị trường Ấn Độ phải mua các linh kiện ở Ấn Độ, hoặc trực tiếp sản xuất ở nước này thông qua liên doanh bằng cách đầu tư vốn vào một công ty Ấn Độ hay chuyển giao công nghệ. Do vậy, có một nghịch lý là Ấn Độ càng nhập khẩu nhiều thì nước này càng sử dụng sự phụ thuộc này để buộc các nhà cung cấp chuyển giao bí quyết và công nghệ. Tuy nhiên, phương pháp này không thuyết phục lắm đối với sự phát triển công nghiệp của Ấn Độ, bởi những người bán thường đưa ra nhiều cam kết để đủ điều kiện ký hợp đồng bán vũ khí nhưng sau đó dường như họ ít sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ của mình.

So với nhập khẩu, lượng xuất khẩu vũ khí của Ấn Độ không đáng kể, với mức thâm hụt hơn 3 tỷ USD trong năm 2017. Tờ rơi dành cho khách tham quan tại triển lãm quốc phòng DefExpo 2020 trích dẫn 84 quốc gia nhập khẩu sản phẩm quốc phòng của Ấn Độ. Tuy nhiên, số liệu về xuất khẩu của Ấn Độ hoàn toàn không giống với số liệu của SIPRI và đều cao hơn đáng kể.

Người ta nhận thấy rằng ngoài các mặt hàng bảo hộ, mũ bảo hiểm, áo chống đạn, thậm chí xe cộ, các sản phẩm của Ấn Độ thể hiện một trình độ công nghệ ở mức bình thường. Không quốc gia nào sản xuất máy bay, tàu chiến hay tên lửa đặt hàng từ Ấn Độ. Điểm đến các sản phẩm quốc phòng của Ấn Độ thường là những thị trường bị phong tỏa (như Afghanistan và Nepal) – hầu như buộc phải mua sản phẩm của Ấn Độ vì lý do an ninh, các nước láng giềng (như Myanmar, Sri Lanka), các thị trường đảo quốc được tài trợ (Seychelles, Muritius nhận tàu tuần duyên cho lực lượng bảo vệ bờ biển của họ) – giúp mở rộng ảnh hưởng của Ấn Độ ở Ấn Độ Dương, và cuối cùng là các nước châu Phi (Mozambique, Namibia) đánh dấu bước mở cửa mới của Ấn Độ đối với thị trường này.

Nguồn: www.diploweb.com

TLTKĐB – 07/11/2022

Công nghiệp quốc phòng – công cụ xây dựng quyền lực và quan hệ địa chính trị của Ấn Độ – Phần đầu


Cuộc chiến mà Nga phát động ở Ukraine thu hút lại sự chú ý vào tầm quan trọng của việc có một ngành công nghiệp quốc phòng. Vậy Ấn Độ, một trong hai gã khổng lồ châu Á thì sao? Ấn Độ nhập khẩu số lượng lớn hàng quốc phòng, vừa để trang bị quân đội quốc gia, vừa để tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với Nga, Mỹ, Israel, Pháp và Anh. Qua đó, Ấn Độ tìm cách buộc các cường quốc này đầu tư vào Ấn Độ để phát triển sản xuất quốc gia và có được bí quyết và công nghệ. Đồng thời, Ấn Độ đang cố gắng chinh phục các thị trường quốc tế và thành công một cách khiêm tốn theo hai cách. Đầu tiên, bằng cách xuất khẩu linh kiện cho các nhà cung cấp hoặc các quốc gia khách hàng của họ. Sau đó, bằng cách xuất khẩu các sản phẩm quốc gia đã được quân đội Ấn Độ kiểm chứng và sử dụng. Chiến lược khôn ngoan này cho phép Ấn Độ khẳng định được vị thế trong một thị trường rất khắt khe và tự định vị như một cường quốc cung cấp cho các nước thuộc khu vực xung quanh Ấn Độ Dương và đặc biệt là các nước châu Phi.

Kể từ năm 2014, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã không ngừng đặt mục tiêu tự chủ chiến lược trong lĩnh vực sản xuất quốc phòng. Năm 2015, tại Triển lãm hàng không vũ trụ quốc tế Aero India, trước các tập đoàn sản xuất vũ khí trên toàn cầu, ông phát biểu: “Đối với nhiều người trong số các bạn, Ấn Độ là một cơ hội kinh doanh lớn. Chúng tôi nổi tiếng là nhà nhập khẩu thiết bị quốc phòng lớn nhất trên thế giới. Nhưng đó là lĩnh vực mà chúng tôi không muốn trở thành số một”. Năm 2020, trong lễ khánh thành triển lãm Defexpo, ông nhấn mạnh vào sức mạnh tổng hợp có thể được tạo ra giữa Ấn Độ và các nhà cung cấp vũ khí với khẩu hiệu “sản xuất ở Ấn Độ, cho Ấn Độ, cho thế giới”. Ngày 18/7/2022, ông nhắc lại những lợi ích của việc tự chủ về sản xuất quốc phòng: “Không phải là khôn ngoan khi trang bị cho binh sĩ của chúng ta cùng một loại vũ khí được trang bị cho binh sĩ của 10 nước khác. Họ có thể tài năng hơn, họ được đào tạo tốt hơn, họ sử dụng vũ khí tốt hơn. Nhưng tôi còn phải chấp nhận rủi ro này cho đến khi nào đây? Tại sao binh sĩ của tôi phải mang vũ khí giống như những binh sĩ của các nước khác?”, và “phụ thuộc vào nước ngoài cho mọi nhu cầu nhỏ của quốc phòng không chỉ là một sự đe dọa nghiêm trọng đến lòng tự trọng của đất nước chúng ta, mà hơn thế còn là một tổn thất kinh tế mang tính chiến lược”. Do vậy, ông coi sản xuất vũ khí là một nhu cầu thiết yếu: “Nếu chúng ta không tôn trọng vũ khí được sản xuất ở Ấn Độ, thì làm sao chúng ta có thể mong đợi thế giới coi trọng chúng? Điều đó là không thể. Chúng ta phải tự bắt đầu và tên lửa Brahmos là một ví dụ về công nghệ bản địa của chúng ta. Các bạn của tôi, Ấn Độ đã phát triển Brahmos và ngay nay cả thế giới đang xếp hàng để mua được nó. Chúng ta nên tự hào về những gì chúng ta phát triển”. Việc tìm kiếm độc lập và xây dựng quyền lực thông qua sự phát triển Cơ sở Công nghiệp và công nghệ quốc phòng Ấn Độ (BITD) đã trở thành mục tiêu khi giành độc lập vào năm 1947.

Để đạt được mục tiêu này, trước tiên Ấn Độ củng cố các liên minh chiến lược thông qua việc nhập khẩu vũ khí có mục tiêu và yêu cầu sản xuất một phần vũ khí ở trong nước, sau đó phát triển sản xuất quốc gia theo mọi hướng và thông qua các đơn đặt hàng quân sự, đưa các công ty sản xuất của Ấn Độ ra thị trường quốc tế.

Số liệu của Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) đưa  ra đánh giá về nhập khẩu vũ khí của Ấn Độ, và các nước cung cấp có thể được chia thành 4 nhóm: 1 nhà cung cấp chính (Nga với 62%); 2 nhà cung cấp quan trọng (Mỹ và Israel với lần lượt 15% và 11%), 2 nhà cung cấp phụ (Pháp và Vương quốc Anh với lần lượt 4,5% và 3,2%), và nhóm các nhà cung cấp nhỏ (dưới 1,2%). Chỉ riêng 4 nhóm nhà cung cấp vũ khí lớn nhất đã góp phần tới 95,7% vào hoạt động nhập khẩu của Ấn Độ.

Sở dĩ Ấn Độ tập trung vào Nga, Mỹ, Israel và Anh, đó là vì họ đều cung cấp các vũ khí hữu ích cho quân đội Ấn Độ, nhưng trên hết vì họ có các mối quan hệ lâu đời và cùng chung những lợi ích với Ấn Độ.

Nga

Nga là đối tác lịch sử của Quốc phòng Ấn Độ. Kể từ năm 1962 và thất bại trước Trung Quốc, Ấn Độ có niềm tin vững chắc vào Nga, bởi nước này đã luôn sát cánh cùng Ấn Độ khi xảy ra khủng hoảng trong kỷ nguyên Xô viết. Do đó, kho vũ khí của Ấn Độ gồm những vũ khí được nhập trực tiếp từ Liên Xô, sau đó từ Nga. Một trong những vũ khí gần đây nhất mà Ấn Độ mua của Nga có thể kể đến hệ thống phòng thủ tên lửa S-400. Hệ thống này được Ấn Độ đặt hàng nhân Hội nghị thượng đỉnh song phương Ấn Độ-Nga thường niên lần thứ 19 được tổ chức tại New Delhi vào ngày 5/10/2018. Hệ thống này, được đưa vào sử dụng ở Nga trong năm 2007, có thể tấn công các mục tiêu cách xa 400 km và đạt tới độ cao 30 km. Do đó, nó thể tiêu diệt một máy bay, một tên lửa và thậm chí cả các cơ sở trên mặt đất. Như Vladimir Putin phát biểu tại Vladivostok nhân hội nghị thượng đỉnh song phương năm 2019, nước Nga là “một người bạn toàn diện và một đối tác tin cậy” của Ấn Độ, và quả thực với 14,5 tỷ USD đơn đặt hàng trong năm 2019, Ấn Độ không thể bị coi nhẹ. Đổi lại, năm 2019 Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Rajnath Singh đã kêu gọi các nhà sản xuất Nga chuyển một phần hoạt động sản xuất sang Ấn Độ những vũ khí mà nước này mua của Nga. Tháng 11/2019, một vài doanh nghiệp nhà nước và tư nhân Ấn Độ đã tháp tùng Bộ trưởng Bộ quốc phòng nước này đến Nga tham dự hội nghị về hợp tác quân sự và kỹ thuật giữa hai nước. Ấn Độ đã không thoát khỏi sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp của Nga và chính Nga đã dành những khoản đầu tư lớn cho ngành công nghiệp Ấn Độ. Ấn Độ cũng gợi ý với đối tác Nga rằng các doanh nghiệp Ấn Độ có thể sản xuất linh kiện, hay thậm chí toàn bộ hệ thống vũ khí của Nga cho một nước thứ ba. Tại Hội nghị thượng đỉnh Ấn Độ-Nga lần thứ 21 tại New Delhi vào ngày 6/12/2021, hiệp ước hợp tác quân sự song phương đã được ký kết cho đến năm 2031.

Mỹ

Kể từ khi bức tường Berlin bị dỡ bỏ (năm 1989) và khối Liên Xô sụp đổ, Mỹ đã giành được một số lợi thế so sánh nhất định, khiến cho các sản phẩm của Mỹ được bán ngày càng nhiều cho Ấn Độ. Trước hết, sự gián đoạn nguồn cung các phụ kiện tháo rời của Liên Xô đã ảnh hưởng đến quân đội Ấn Độ trong suốt những năm 1990. Sau đó, ở cấp độ địa chính trị, kể từ năm 2001 và sau vụ khủng bố ngày 11/9, Ấn Độ đã trở thành một đồng minh khách quan của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, do vậy, việc bán vũ khí cho Ấn Độ trở nên dễ dàng.

Trong các nhiệm kỳ tổng thống của Obama và Trump, vai trò của Ấn Độ không ngừng được cải thiện trong liên minh chiến lược Mỹ – Ấn và do vậy cả trong quan hệ thương mại và lĩnh vực xuất khẩu vũ khí hay các hệ thống tinh vi phục vụ quốc phòng Ấn Độ. Mục tiêu chiến lược của Mỹ trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trùng khớp với mục tiêu của Ấn Độ trong không gian Ấn Độ Dương. Tháng 12/2019, trong cuộc đối thoại 2+2 cấp bộ trưởng Mỹ – Ấn, danh sách lợi ích chung của hai nước đã được Ngoại trưởng Michael R. Pompeo và Bộ trưởng Quốc phòng Mark T. Esper cùng những người đồng cấp Ấn Độ, Bộ trưởng Quốc phòng Rajnath Singh và Bộ trưởng Ngoại giao S. Jaishankar, đồng khẳng định. Hai nước mong muốn hòa bình và thịnh vượng cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và hợp tác trong lĩnh vực này cùng với Nhật Bản và Australia. Hai nước cũng có mục tiêu ở cấp khu vực đối với Ấn Độ Dương, cụ thể là biến nơi đây thành khu vực lưu thông tự do trên biển, và bảo vệ các vùng đánh bắt cá, chống ô nhiễm và thực hiện thăm dò khoa học biển ở khu vực này. Về mặt chính trị, cả hia nước đều đấu tranh cho hòa bình và tự do, do đó Mỹ ủng hộ Ấn Độ ứng cử vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Cả hai nước cũng đang chiến đấu chống lại chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo dưới mọi hình thức.

Các công nghệ liên quan đến hàng không vũ trụ và vũ khí hạt nhân cũng được quan tâm. Điều này cho phép các hoạt động đầu tư của Mỹ để xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ấn Độ trở nên dễ dàng hơn. Trên thực tế, Ấn Độ đang trở thành đồng minh lớn và khách hàng không thể thiếu của Mỹ. Những công nghệ hiện đại nhất đã được Mỹ bán cho Ấn Độ, do vậy, có thể khẳng định rằng các công ty Ấn Độ sẽ hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia Mỹ.

(còn tiếp)

Nguồn: www.diploweb.com

TLTKĐB – 07/11/2022

Quan hệ Trung Quốc – Philippines và bài học với các quốc gia Đông Nam Á


Trang mạng aspistrategist.org.au của Viện Chính sách Chiến lược Australia ngày 13/2 đăng bài viết đánh giá về những thay đổi trong quan hệ Trung Quốc và Philippines thời gian gần đây và một số bài học cho các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á trong quan hệ với Bắc Kinh.

Gần 4 năm sau, việc Trung Quốc không ngừng bắt nạt và áp dụng chính sách “bên miệng hố chiến tranh” đối với Philippines và các quốc gia Đông Nam Á khác liên quan tới những yêu sách mâu thuẫn nhau và những đặc quyền trên Biển Đông đã phá hỏng thời kỳ “đầy thiện ý” của ông Duterte dành cho Bắc Kinh và kéo Manila lại gần hơn với Washington. Trước khi đặt chân đến Bắc Kinh, ông Marcos Jr. thừa nhận rằng “các vấn đề hàng hải… không phải là tất cả mối quan hệ giữa hai nước” nhưng nhấn mạnh rằng xung đột ở Biển Đông vẫn là một “mối quan ngại đáng kể”.

Áp dụng nghệ thuật “xoay trục” địa chính trị, Chủ tịch Tập Cận Bình chủ yếu tránh né xung đột Biển Đông trong cuộc gặp với ông Marcos Jr. và tiếp tục đưa ra những hứa hẹn như trước đây về việc hai nước tăng cường phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Một loạt sáng kiến được đưa ra trong cuộc gặp, bao gồm các dự án phát triển dầu khí chung, đầu tư năng lượng tái tạo, tăng cường thương mại và một đường dây nóng giải quyết khủng hoảng để giải quyết các tranh chấp hàng hải.

Hành trình điều chỉnh hướng tới hòa bình trên biển là cơ sở thúc đẩy Bắc Kinh quyết định khôi phục quan hệ với Manila và các nước láng giềng khác bằng cách quay trở lại câu chuyện cũ về không can thiệp và “hợp tác” liên châu Á. Các hành động và tuyên bố gần đây, như cam kết rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ sử dụng sức mạnh quân sự để “bắt nạt” các quốc gia nhỏ hơn, cho thấy Trung Quốc thừa nhận chiến dịch kéo dài hàng thập kỷ của họ nhằm thống trị Biển Đông đã gây hại nhiều hơn là có lợi. Bằng cách chấp nhận “các kết quả hòa bình”, Bắc Kinh tìm cách biến mình thành một lực lượng tốt trong khu vực, một cường quốc có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo các vấn đề châu Á được giải quyết bởi các nước châu Á – chứ không phải những nước ngoài khu vực “hung hăng” như Mỹ. Khi làm như vậy, Trung Quốc “tử tế và ôn hòa hơn” này cam kết hợp tác chứ không phải đối đầu, hài hòa chứ không hiếu chiến, để theo đuổi “kết quả đôi bên cùng có lợi”. Theo tờ Thời báo Hoàn Cầu, những kết quả này sẽ mở ra một “thời kỳ hoàng kim mới” trong quan hệ Trung Quốc – Philippines. Nhưng như người ta vẫn nói, “không phải tất cả những thứ lấp lánh đều là vàng”. Nếu chính quyền của ông Marcos Jr. kiên quyết duy trì các yêu sách của mình trên Biển Đông bất chấp chủ nghĩa trả đũa của Trung Quốc, Manila không thể quá thoải mái với cách tiếp cận “hợp tác” của Bắc Kinh.

Việc kiểm soát “các vùng biển gần” mang lại nhiều lợi ích cho phép Trung Quốc hiện thực hóa khái niệm chống tiếp cận/chống xâm nhập, củng cố triển khai sức mạnh trên khắp chuỗi đảo thứ nhất và nâng cao khả năng chống can thiệp đối với Washington và các đồng minh, đồng thời mở rộng vùng đệm an ninh để bảo vệ Trung Quốc. Ngoài ra, quyền kiểm soát “các vùng biển gần” (hay Biển Đông) hợp pháp hóa việc tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và chưa được khai thác, đồng thời bảo vệ các tuyến đường biển quan trọng mà giới lãnh đạo Trung Quốc tin rằng có thể bị đe dọa trong một cuộc xung đột với phương Tây.

Tuy nhiên, sau một thập kỷ cải tạo các rạn san hô đang tranh chấp thành các căn cứ quân sự, các màn phô diễn thể hiện chủ quyền, đánh chìm tàu các tàu cá, quấy rối các tàu khảo sát và tiếp tế, rùm beng tuyên truyền các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với 9/10 Biển Đông, chiến dịch “kiểm soát biển” của Trung Quốc đã phải trả giá đắt về địa chiến lược.

Theo báo cáo khảo sát Tình hình Đông Nam Á năm 2022, đánh giá quan điểm của các nhà lãnh đạo Đông Nam Á về một loạt vấn đề chính sách khu vực, chỉ 26,8% số người được hỏi tin tưởng Trung Quốc “làm điều đúng đắn”. Trong số những người được hỏi không tin tưởng Trung Quốc, có một nửa cho rằng Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự của mình để đe dọa lợi ích và chủ quyền của quốc gia họ”. Đồng thời, một số nước ASEAN đã tự tách mình khỏi Bắc Kinh bằng cách tăng cường quan hệ đối tác trong ASEAN và với “Nhóm Bộ tứ”. Các quốc gia khác, như Malaysia đã tăng ngân sách quốc phòng để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông.

Sự kiểm soát của Trung Quốc đối với Biển Đông không phải là một kết luận có thể đoán trước. Bắc Kinh đã điều chỉnh tính toán rủi ro khi cái giá phải trả của việc bị quốc tế lên án lớn hơn lợi ích của hành động hiếu chiến trên biển. Philippines, các quốc gia ASEAN và Nhóm “Bộ tứ” có thể tiếp tục áp đặt và báo hiệu cái giá mà Trung Quốc sẽ phải trả đó. Và điều nay sẽ cần tới việc triển khai sức mạnh cứng, bao gồm: máy bay phản lực, tàu hộ tống, tàu tuần tra, tàu tuần duyên và tên lửa.

Các đối tác Nhóm “Bộ tứ” nên bắt đầu đưa Philippines (và các quốc gia sẵn sàng khác) tham gia Sáng kiến Đối tác Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương về nhận thức trong lĩnh vực hàng hải để cùng đưa ra các nhận thức chung, chia sẻ thông tin và các giải pháp có mục tiêu. Các nhà lãnh đạo Nhóm “Bộ tứ” cũng nên đưa ra các chương trình kinh tế để đối phó với các đề xuất của Trung Quốc.

Hiện tại, quyết định của ông Marcos Jr. trong tháng này về việc cho phép Mỹ tạm thời và luân phiên tiếp cận 4 căn cứ quân sự và nối lại các cuộc tuần tra chung trên biển ở Biển Đông là một quyết định khôn ngoan vì điều này sẽ giúp tăng cường khả năng phòng thủ của Philippines, khả năng tương tác với các đồng minh và cam kết chống lại hành vi hung hăng trên biển của Bắc Kinh. Cần phải có nhiều sự hợp tác và phối hợp hơn nữa, mặc dù Marcos Jr. đã nói rõ rằng mối quan hệ quân sự đang phát triển giữa Mỹ và Philippines không gây ra mối đe dọa trực tiếp nào đối với Trung Quốc, cho dù đó rõ ràng là một phản ứng trực tiếp đối với hoạt động quân sự hóa và hủy hoại Biển Đông của Trung Quốc.

Nguồn: TKNB – 17/02/2023

Cuộc đối đầu bất khả kháng: Hoa Kỳ, Trung Quốc và bi kịch của chính trị giữa các cường quốc – Phần cuối


Liên Xô không những nghèo hơn Hoa Kỳ; mà trong Chiến tranh Lạnh, vẫn đang phải phục hồi sau sự tàn phá khủng khiếp của Đức Quốc xã. Trong Thế chiến thứ Hai, Liên Xô đã mất 24 triệu dân, chưa kể hơn 70.000 thị trấn và làng mạc, 32.000 công xưởng và 40.000 dặm đường ray. Họ không có lợi để đối đầu với Hoa Kỳ. Ngược lại, Trung Quốc đã tham chiến lần cuối vào năm 1979 (tấn công biên giới Việt Nam) và trong những thập kỷ sau đó đã trở thành một đầu tàu kinh tế.

Liên Xô còn vướng vào rào cản khác mà Trung Quốc không gặp phải: đó là các đồng minh phiền hà. Trong suốt cuộc Chiến tranh Lạnh, một số lượng lớn quân đội Liên Xô vẫn duy trì hiện diện ở Đông Âu và tham gia sâu vào nền chính trị của hầu hết mọi quốc gia trong khu vực đó. Họ phải đối đầu với các cuộc nổi dậy ở Đông Đức, Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc. Trong khi đó, Albania, Romania và Nam Tư thường xuyên thách thức các chính sách an ninh và kinh tế của Moscow. Liên Xô cũng phải bận rộn với Trung Quốc, nước này đã đổi phe giữa chừng trong Chiến tranh Lạnh. Những đồng minh này giống con chim hải âu quanh cổ Moscow khiến các nhà lãnh đạo Liên Xô bị phân tán sự chú ý khỏi đối thủ chính của họ: Hoa Kỳ. Trung Quốc hiện nay có ít đồng minh, chẳng hạn như Bắc Triều Tiên nhưng quan hệ đồng minh còn lạnh nhạt hơn so với quan hệ Liên Xô đối với họ. Nói tóm lại, Bắc Kinh có khả năng linh hoạt hơn nhiều khi vươn ra bên ngoài khu vực.

Còn về vấn đề hệ tư tưởng? Giống như Liên Xô, trên danh nghĩa Trung Quốc do chính phủ cộng sản lãnh đạo. Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh từng sai lầm khi coi Moscow là một hiểm họa cộng sản, quyết tâm truyền bá hệ tư tưởng xấu trên toàn cầu, và cũng sẽ là một sai lầm khi nhận định Trung Quốc là một hiểm họa ý thức hệ ngày nay. Chính sách đối ngoại của Liên Xô bị chi phối bởi tư duy cộng sản; Joseph Stalin là một người theo chủ nghĩa hiện thực cứng rắn, giống như những người kế nhiệm ông. Trung Quốc đương đại ít chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản hơn, diễn giải rõ nhất thì đó là một nhà nước độc tài kèm theo chủ nghĩa tư bản. Hoa Kỳ nên mong rằng Trung Quốc là một nước cộng sản; vì khi đó nền kinh tế của nó sẽ chậm chạp.

Trung Quốc còn đeo đuổi một chủ nghĩa nữa, có khả năng làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa họ với Hoa Kỳ: đó là chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc là hệ tư tưởng chính trị mạnh mẽ nhất thế giới, nhưng lại có tầm ảnh hưởng hạn chế ở Liên Xô vì nó mâu thuẫn với chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc đã nổi lên từ đầu những năm 1990. Điều khiến nó trở nên đặc biệt nguy hiểm là vì nó nhận mạnh vào “thế kỷ đất nước bị sỉ nhục” của Trung Quốc, thời kỳ bắt đầu từ Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất, khi đó Trung Quốc là nạn nhân của các cường quốc, đặc biệt là Nhật Bản, và cả Hoa Kỳ theo như lời người Trung Quốc thuật lại. Ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ này được thể hiện khi Trung Quốc và Nhật Bản tranh chấp trên quần đảo Điếu Ngư/Senkaku vào những năm 2012 – 2013, các cuộc biểu tình chống Nhật Bản đã nổ ra trên khắp Trung Quốc. Trong những năm tới đây, tranh chấp an ninh ngày càng gay gắt ở Đông Á chắc chắn sẽ làm gia tăng mâu thuẫn giữa Trung Quốc với Nhật Bản và Hoa Kỳ, làm gia tăng khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh vũ trang.

Ngoài ra, những tham vọng của Trung Quốc trong khu vực làm gia tăng khả năng chiến tranh. Các nhà lãnh đạo Liên Xô phải tập trung phục hồi sau Thế chiến thứ Hai và quản lý đế chế của họ ở Đông Âu, nên phần lớn trong số họ hài lòng với hiện trạng ở khu vực. Ngược lại, Trung Quốc dấn sâu vào chương trình nghị sự bành trướng ở Đông Á. Mặc dù các mục tiêu chính mà Trung Quốc khao khát chắc chắn có giá trị chiến lược đối với Trung Quốc, nhưng chúng đồng thời cũng được coi là lãnh thổ thiêng liêng, người dân ở đó có sự ràng buộc với chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc. Điều này đặc biệt đúng với Đài Loan: người Trung Quốc cảm thấy gắn bó tình cảm với hòn đảo này, điều mà người Liên Xô chưa bao giờ cảm nhận được đối với Berlin, cho nên cam kết che chở hòn đảo này của Washington mang lại nhiều nguy cơ hơn.

Cuối cùng, vị trí địa lý của cuộc chiến tranh lạnh mới có khả năng xảy ra cao hơn so với cuộc chiến tranh lạnh cũ. Mặc dù tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trên phạm vi toàn cầu, nhưng trung tâm của nó là Bức màn Sắt ở châu Âu, nơi cả hai bên đều tập trung quân đội và lực lượng không quân khổng lồ được trang bị hàng nghìn vũ khí hạt nhân. Rất ít khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường ở châu Âu, bởi vì các nhà hoạch định chính sách của cả hai bên đều hiểu rõ những nguy cơ đáng sợ của leo thang hạt nhân. Không một nhà lãnh đạo nào sẵn sàng khơi mào một cuộc xung đột có khả năng sẽ phá hủy đất nước của mình.

Ở châu Á, không có chiến trường phân chia rõ ràng như Bức màn Sắt. Thay vào đó, có một số khu vực tiềm ẩn xung đột mà có thể kiểm soát và triển khai vũ khí thông thường, những nơi này có thể trở thành chiến trường, bao gồm các cuộc chiến giành quyền kiểm soát Đài Loan, Biển Đông, quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và các tuyến hàng hải chạy giữa Trung Quốc và Vịnh Ba Tư. Những cuộc xung đột này chủ yếu diễn ra ở các vùng biển rộng giữa các lực lượng không quân và hải quân đối địch, và trong những trường hợp giành quyền kiểm soát trên một hòn đảo, thì các lực lượng quân đội mặt đất quy mô nhỏ có thể tham chiến. Trong cuộc chiến giành Đài Loan, Trung Quốc đã triển khai quân đội đổ bộ chứ không sử dụng đội quân trang bị vũ khí hạt nhân.

Điều này không có nghĩa là những kịch bản chiến tranh kiểm soát này được tính đến, nhưng vẫn hợp lý hơn một cuộc chiến tranh lớn giữa khối NATO và khối Warsaw. Tuy nhiên, không ai có thể chắc chắn rằng không có leo thang hạt nhân giữa Bắc Kinh và Washington trong cuộc tranh giành Đài Loan hoặc Biển Đông. Thật vậy, nếu một bên bị thua nặng, thì ít nhất bên đó cũng sẽ tính đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân để cứu vãn tình hình. Một số người có quyền ra quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân mà kiểm soát được nguy cơ leo thang, miễn là các cuộc tấn công diễn ra trên biển và ngoài lãnh thổ của Trung Quốc, Hoa Kỳ và các đồng minh. Cuộc chiến giữa các cường quốc và cả việc sử dụng hạt nhân đều không dễ nổ ra trong cuộc chiến tranh lạnh mới.

Đối thủ do Hoa Kỳ tạo nên

Mặc dù số lượng đã giảm đi nhưng những người ủng hộ chính sách hỗ trợ Trung Quốc vẫn còn, và họ vẫn nghĩ rằng Hoa Kỳ có thể tìm thấy tiếng nói chung với Trung Quốc. Vào cuối tháng 7 năm 2019, 100 chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc đã ký một bức thư ngỏ gửi Trump và các thành viên Quốc hội bác bỏ ý kiến cho rằng Bắc Kinh là một mối đe dọa. Họ nhận định nhiều quan chức và giới tinh hoa Trung Quốc hiểu rằng cư xử ôn hòa và có tinh thần thực sự hợp tác với phương Tây phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc và kêu gọi Washington hợp tác với các đồng minh và đối tác để tạo nên một thế giới tự do và thịnh vượng hơn trong đó Trung Quốc được trao cơ hội tham gia.

Thế nhưng các cường quốc chỉ đơn giản là không muốn để các cường quốc khác phát triển mạnh hơn. Động lực thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các cường quốc này là do cấu trúc, có nghĩa là vấn đề không thể được loại bỏ nhờ vào việc hoạch định chính sách khéo léo hơn. Điều duy nhất có thể thay đổi tiềm lực này là một cuộc khủng hoảng lớn ngăn cản sự trỗi dậy của Trung Quốc – điều này dường như khó có thể xảy ra nếu xét đến quá trình phát triển ổn định, về năng lực và tăng trưởng kinh tế của đất nước này. Do đó, nguy cơ của một cuộc đối đầu an ninh là không thể tránh khỏi.

Tốt nhất là các bên phải kiểm soát sự thù địch để tránh chiến tranh. Điều đó đòi hỏi Washington phải duy trì các lực lượng mạnh và thường trực ở Đông Á để thuyết phục Bắc Kinh rằng một cuộc đụng độ vũ trang sẽ chỉ mang lại chiến thắng kiểu Pyrros. Ngăn chặn chiến tranh bằng cách thuyết phục đối thủ rằng họ không thể đạt được chiến thắng nhanh chóng và dứt khoát. Hơn nữa, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ phải liên tục nhắc nhở chính họ – cũng như các nhà lãnh đạo Trung Quốc – về khả năng leo thang hạt nhân trong thời chiến. Xét cho cùng, vũ khí hạt nhân là biện pháp răn đe cuối cùng. Washington cũng có thể thiết lập các quy tắc rõ ràng trong quá trình tiến hành cuộc đối đầu an ninh này – ví dụ, các thỏa thuận để tránh các va chạm trên biển hoặc các cuộc xung đột quân sự ngẫu nhiên khác. Nếu mỗi bên đều nắm vững ý nghĩa của việc vượt qua ranh giới đỏ của bên kia, thì chiến tranh sẽ ít xảy ra hơn.

Những biện pháp này chỉ có thể làm giảm thiểu những nguy cơ tiềm tàng trong cuộc đối đầu ngày càng gia tăng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tuy nhiên đó là cái giá mà Hoa Kỳ phải chịu cho việc phớt lờ quan điểm của chủ nghĩa hiện thực và để Trung Quốc thành một quốc gia hùng mạnh, quyết thách thức Hoa Kỳ trên mọi phương diện.

Người dịch: Tạ Thanh Hải

Nguồn: John J. Mearsheimer (2021) – The Inevitable Rivalry: America, China, and the Tragedy of Great-Power Politics – Foreign Affairs, 100 (6), 48 – 59.

TN 2022 – 1, 2

Cuộc đối đầu bất khả kháng: Hoa Kỳ, Trung Quốc và bi kịch của chính trị giữa các cường quốc – Phần III


Chính quyền Obama cũng như vậy, mục tiêu vẫn là tiếp tục hợp tác với Trung Quốc, kiểm soát mâu thuẫn giữa đôi bên và tối đa hóa cơ hội hợp tác với sự tin tưởng rằng sự phát triển của Trung Quốc mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ. Nếu ai đó cho rằng chiến lược “xoay trục sang châu Á”, do Ngoại trưởng Hillary Clinton công bố vào năm 2011, thể hiện sự chuyển hướng từ hỗ trợ sang kiềm chế, thì hoàn toàn sai lầm. Bà Clinton là người ủng hộ chính sách hỗ trợ, và bài báo Chính sách đối ngoại của bà viết về vấn đề xoay trục chứa đựng những lời hùng biện tự do về các ưu điểm của thị trường mở, trong đó nhấn mạnh một Trung Quốc thịnh vượng là điều tốt đối với Hoa Kỳ.

Hỗ trợ cho Trung Quốc nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ phía cộng đồng doanh nhân Hoa Kỳ, những người coi Trung Quốc là cơ sở sản xuất cũng như là một thị trường khổng lồ, với hơn một tỷ khách hàng tiềm năng. Các tổ chức thương mại như Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ, Hội nghị Bàn tròn Kinh doanh và Hiệp hội các nhà sản xuất Hoa Kỳ đã tham gia vào chiến dịch mà Thomas Donohue, Chủ tịch Hiệp hội Thương mại vào thời điểm đó, gọi là “chiến dịch vận động hành lang rầm rộ” để giúp Trung Quốc gia nhập WTO. Những người đứng đầu trong lĩnh vực truyền thông, bao gồm hội đồng biên tập của The Wall Street Journal, The New York TimesThe Washington Post cũng đều tham gia ủng hộ. Bình luận viên Thomas Friedman đã viết: “Thời gian qua, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đơn giản chỉ là không thể kiểm soát và giám sát thị trường tự do đang bùng nổ của họ, hoặc không thể ngăn cản những người dân nhỏ bé khỏi bị lừa và sau đó nổi loạn chống lại chính phủ, thiếu các thể chế phù hợp với thị trường tự do – từ lợi tức chứng khoán và giao dịch hiệu quả tới báo chí tự do ngôn luận và có trách nhiệm dựa trên pháp quyền”. Sự ủng hộ cũng được hoan nghênh không kém trong giới học thuật. Chỉ một vài chuyên gia hoặc học giả quan hệ quốc tế về Trung Quốc đặt vấn đề về việc giúp Bắc Kinh phát triển mạnh mẽ hơn liệu có khôn ngoan hay không. Và có lẽ điểm nhấn rõ nét nhất cho thấy sự áp đảo trong việc ủng hộ chính sách đối ngoại này là cả Zbigniew Brzezenski và Henry Kissinger – thành viên Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa nổi bật nhất trong Chiến tranh Lạnh – đều ủng hộ chính sách này.

Cũng có người ủng hộ chính sách này cho rằng chính sách của họ có khả năng thất bại, sẽ không đi đến đâu hoặc không có sự đảm bảo. Tuy nhiên, những ngờ vực như vậy rất hiếm. Quan trọng hơn là không ai trong số những người tham gia dự liệu được hệ lụy của sự thất bại. Họ tin rằng nếu Trung Quốc từ chối dân chủ hóa, nước này sẽ trở thành một quốc gia kém phát triển. Viễn cảnh Trung Quốc trở nên mạnh mẽ hơn và độc tài hơn đã không hề xuất hiện trong tính toán của họ. Bên cạnh đó, họ tin rằng chính sách thực dụng là tư duy lỗi thời.

Một số người ủng hộ chính sách này vẫn cho rằng Hoa Kỳ đã bảo hiểm rủi ro cho ván cược của mình, tiến hành ngăn chặn song song với chính sách hỗ trợ trong trường hợp tình hữu nghị với Trung Quốc không phát triển. Học giả Joseph Nye nhận định để đề phòng, nước Mỹ đã tạo ra một chính sách bảo hiểm trong trường hợp ván cược này thất bại. Tuyên bố này mâu thuẫn với chính sách kiềm chế định kỳ từ các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ khi mà họ không tính đến Trung Quốc. Chẳng hạn như vào năm 1997, Clinton diễn đạt chính sách của mình là “không phải ngăn chặn và xung đột” mà là “hợp tác”. Thế nhưng ngay cả khi các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ lặng lẽ kiềm chế Trung Quốc, thì chính sách ủng hộ này đã làm giảm nỗ lực của họ, bởi vì chính sách đó cuối cùng đã làm thay đổi cán cân quyền lực trên thế giới theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Tạo ra một đối thủ cạnh tranh ngang tầm hoàn toàn không nhất quán với việc ngăn chặn.

Chính sách hỗ trợ thất bại

Không ai có thể phát biểu rằng chính sách hỗ trợ không có nhiều cơ hội để phát huy tác dụng, cũng như không ai có thể khẳng định rằng Trung Quốc trở thành mối đe dọa bởi vì Hoa Kỳ không thể cải hóa được. Trải qua nhiều năm, việc hỗ trợ Trung Quốc rõ ràng là một thất bại. Nền kinh tế Trung Quốc đã có mức tăng trưởng vượt bậc, nhưng nước này lại không trở thành một nền dân chủ tự do hay một bên liên quan có trách nhiệm. Ngược lại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi các giá trị tự do là mối đe dọa đối với sự ổn định của đất nước họ, và giống như các nhà cầm quyền của các cường quốc mới nổi, họ đang theo đuổi một chính sách đối ngoại ngày càng hiếu chiến. Không có cách nào để sửa sai: chính sách hỗ trợ là một sai lầm lớn về mặt chiến lược. Từ đó dẫn đến việc Washington hiện đại đang phải đối mặt với đối thủ năng động và đáng gờm nhất trong lịch sử hiện đại.

Ông Obama đã tuyên bố sẽ có đường lối cứng rắn hơn chống lại Bắc Kinh trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, phản đối các tuyên bố chủ quyền hàng hải của nước này và đệ đơn kiện lên WTO, thế nhưng những nỗ lực nửa vời này không mấy hiệu quả. Chỉ đến năm 2017, chính sách của Hoa Kỳ, ông đã nhanh chóng từ bỏ chiến lược hỗ trợ mà bốn chính quyền trước đó đã áp dụng, thay vào đó là chiến lược ngăn chặn. Như trong báo cáo chiến lược của Nhà Trắng công bố trong năm đó đã giải thích, sự cạnh tranh giữa các cường quốc đã quay trở lại và Trung Quốc hiện đang tìm cách thách thức sức mạnh, tầm ảnh hưởng và lợi ích của Hoa Kỳ, cố gắng làm xói mòn an ninh và sự thịnh vượng của Hoa Kỳ. Với quyết tâm ngăn chặn Trung Quốc, ông Trump đã khởi xướng một cuộc chiến thương mại vào năm 2018 và cố gắng làm suy yếu gã khổng lồ công nghệ Huawei và các tập đoàn khác của Trung Quốc đang đe dọa vị thế thống trị công nghệ của Hoa Kỳ. Chính quyền của ông cũng đã gây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với Đài Loan và thách thức các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông. Chiến tranh Lạnh lần thứ hai sắp diễn ra.

Nhiều người trông chờ Tổng thống Joe Biden từ bỏ chính sách ngăn chặn và quay trở lại hỗ trợ, bởi vì ông từng là người ủng hộ trung thành chính sách hỗ trợ với tư cách là chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện trong chính quyền ông Obama . Nhưng trên thực tế, khi trở thành tổng thống, ông Biden đã thi hành chính sách kiềm chế và tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc như người tiền nhiệm của mình đã làm, cam kết cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc ngay sau khi nhậm chức. Quốc hội Hoa Kỳ cũng thống nhất như vậy. Vào tháng 6 vừa qua, Đạo luật Cạnh tranh và Đổi mới của Hoa Kỳ đã được Thượng viện thông qua với sự ủng hộ của lưỡng đảng. Dự luật đánh giá Trung Quốc là thách thức địa chính trị và kinh tế lớn nhất đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và tuyên bố gây xôn xao rằng Đài Loan là một quốc gia có chủ quyền mang ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng. Cuộc cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ không thể kết thúc trong một sớm một chiều. Trên thực tế, nó sẽ kéo dài bất kể ai nắm quyền ở Nhà Trắng.

Nguy cơ của cuộc chiến tranh vũ trang

Những người ủng hộ chính sách hỗ trợ Trung Quốc hiện nay mô tả vòng xoáy ốc đi xuống trong quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc là do một số cá nhân cố gắng tạo ra cuộc đối đầu kiểu Hoa Kỳ-Liên Xô. Theo họ, các động lực thúc đẩy tăng cường hợp tác kinh tế lấn át nhu cầu cạnh tranh quyền lực. Các lợi ích chung lấn át các lợi ích xung đột. Đáng tiếc, những người đề xuất chính sách đã không thể thành công. Cuộc Chiến tranh Lạnh II đang đến, và khi người ta so sánh hai cuộc chiến tranh lạnh thì rõ ràng cuộc xung đột giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc có nhiều khả năng dẫn đến một cuộc chiến vũ trang nhiều hơn so với cuộc xung đột giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.

Điểm khác biệt đầu tiên giữa hai cuộc xung đột liên quan đến tiềm lực. Xét về tiềm lực, Trung Quốc đã tiến gần đến với Hoa Kỳ hơn so với Liên Xô trước đây. Vào thời kỳ đỉnh cao của quyền lực giữa những năm 1970, Liên Xô chỉ có một lợi thế nhỏ về dân số (gấp 1,2 lần Hoa Kỳ) và nếu sử dụng GNP để đánh giá sơ bộ về sự giàu có, thì GNP của Liên Xô gần bằng 60% Hoa Kỳ. Trong khi đó, Trung Quốc hiện nay có số dân gấp 4 lần Hoa Kỳ và GNP khoảng 70% Hoa Kỳ. Nếu nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng với tốc độ ấn tượng khoảng 5%/năm như hiện nay, thì trong tương lai nước này sẽ có tiềm lực hơn hẳn Hoa Kỳ. Dự kiến vào năm 2050, Trung Quốc sẽ có lợi thế dân số ước chừng gấp 3,7 lần Hoa Kỳ. Nếu Trung Quốc có GDP bình quân đầu người bằng một nửa Hoa Kỳ vào năm 2050 – tương đương với Hàn Quốc ngày nay – thì Trung Quốc sẽ giàu hơn Hoa Kỳ gấp 1,8 lần. Còn nếu Trung Quốc phát triển vượt bậc và đạt tới 3/5 GDP bình quân đầu người của Hoa Kỳ vào thời điểm đó – tương đương với Nhật Bản hiện nay – thì nước này sẽ giàu gấp 2,3 lần Hoa Kỳ. Với tiềm lực như vậy, Bắc Kinh có thể xây dựng quân đội mạnh hơn nhiều so với Hoa Kỳ, quốc gia có vị trí địa lý cách Trung Quốc 6000 dặm.

(còn tiếp)

Người dịch: Tạ Thanh Hải

Nguồn: John J. Mearsheimer (2021) – The Inevitable Rivalry: America, China, and the Tragedy of Great-Power Politics – Foreign Affairs, 100 (6), 48 – 59.

TN 2022 – 1, 2

Cộng đồng Chính trị châu Âu: “Bình cũ rượu mới” – Phần cuối


Thứ hai, Cộng đồng Chính trị châu Âu cần chứng minh đối xử bình đẳng với tất cả các thành viên và tránh trở thành một cơ chế đẳng cấp của cơ cấu gồm trung tâm và rìa ngoài. Trong bài phát biểu vào tháng 5, Macron cho biết Ukraine có thể tham gia một “cộng đồng châu âu song song” trong khi chờ quyết định cho phép gia nhập EU, để các nền dân chủ có “cùng chí hướng” ở châu Âu, bao gồm cả các nước không thuộc EU, có thể tìm thấy một không gian hợp tác chính trị mới, nhằm giải quyết các thách thức chính trị và an ninh mà châu Âu đang phải đối mặt. Tuy nhiên, nếu Cộng đồng Chính trị do EU nắm vai trò chủ đạo, hoặc thông qua một phương thức bỏ phiếu đặc biệt để quyết định quyền hạn giải quyết của các thành viên khác nhau đối với công việc châu Âu, thì những thành viên không thuộc EU có thể bị phụ thuộc vào cơ chế này, khiến Cộng đồng Chính trị châu Âu cuối cùng trở thành cơ cấu không bình đẳng, do các nước hạt nhân kiểm soát, các quốc gia ngoài rìa tham gia hạn chế.

Vấn đề này phần lớn phụ thuộc vào hình thức tồn tại của Cộng đồng Chính trị châu Âu: Là tổ chức quốc tế dựa trên các hiệp ước và nền tảng quy tắc pháp lý, hay diễn đàn lỏng lẻo, không ràng buộc? Quyết định thông qua cơ chế biểu quyết đa số hay toàn bộ phải nhất trí? Liệu có trở thành công cụ để các nước ngoài EU gây sức ép lên tổ chức này? Những vấn đề này sẽ cần được làm rõ trong tương lai, nếu không sẽ không thể thực sự giải quyết các vấn đề lớn của châu Âu và đối mặt với rủi ro nhanh chóng bị gạt ra ngoài lề.

Thứ ba, Cộng đồng Chính trị châu Âu buộc phải đối mặt với sức ép mở rộng của EU. Cộng đồng Chính trị không có nghĩa vụ phải giải quyết vấn đề mở rộng và EU cũng không thể kết nạp thêm thành viên trong ngắn hạn, nhưng xét từ mục đích chủ yếu của việc thành lập Cộng đồng Chính trị châu Âu là nhằm khắc phục khiếm khuyết tạm thời của EU không thể nhanh chóng mở rộng, khiến cho các nước láng giềng không thể gia nhập EU trong tương lai gần, có thể giải quyết vấn đề chiến lược và an ninh chung thông qua phối hợp với các nước EU. Điều này trên thực tế là mối đe dọa tiềm ẩn: Cộng đồng Chính trị châu Âu sẽ giảm mạnh tính cấp bách việc mở rộng, hạ thấp triển vọng các nước EU nhanh chóng kết nạp các nước láng giềng, vì vậy liệu con đường Ukraine, các nước Kavkaz và Tây Balkan gia nhập EU sẽ càng dài hạn hơn? Thậm chí, trạng thái hiện tại trở thành vĩnh viễn?

Thứ tư, Cộng đồng Chính trị châu Âu đối mặt với sự thù địch lâu dài hơn từ Nga. Cộng đồng này phần lớn được khởi xướng để ứng phó với sức ép địa chính trị của Nga. Năm 2010, mâu thuẫn ở Ukraine giữa phe thân EU và phê thân Nga liên tục xuất hiện, cuối cùng tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị trong nước dẫn đến việc Nga sáp nhập Crimea vào phạm vi chủ quyền của mình. Sau đó, di sản của Thỏa thuận Minsk thất bại dẫn đến xung đột quân sự Nga-Ukraine. Hiện nay, EU không những coi những nước có xung đột an ninh với Nga như Ukraine, Gruzia, Moldova là ứng cử viên tiềm năng gia nhập EU, mà còn đưa họ vào Cộng đồng Chính trị châu Âu chuyên về các vấn đề chính trị và an ninh. Việc làm này chỉ làm gia tăng mâu thuẫn giữa Nga và EU trong lĩnh vực địa chính trị. Cộng đồng Chính trị châu Âu phần nhiều có thể được coi là bước tiến mới nhất trong cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa các quốc gia EU và Nga đối với các nước láng giềng. Trong bối cảnh đó, châu Âu lục địa (đặc biệt là các nước Trung và Đông Âu) có thể phải đối mặt với sự can thiệp chính trị và an ninh nhiều hơn từ Nga, cũng như phản ứng của Nga mang tính tấn công nhiều hơn về an ninh. Nếu trong tương lai, Nga không được mời tham gia vào hoạt động của Cộng đồng Chính trị châu Âu (điều gần như là không thể), thì đó chính là một “câu lạc bộ” chống Nga và khiến châu Âu rơi vào vòng xoáy cạnh tranh địa chính trị sâu sắc hơn.

Ảnh hưởng bên ngoài của các công cụ địa chính trị

Một phần nguyên nhân khiến ý tưởng về Liên bang châu Âu của Mitterrand thất bại là do Nga và Mỹ cùng gia nhập, hiện nay Cộng đồng Chính trị châu Âu đã loại bỏ cả hai nước này sau khi rút ra bài học. Việc làm đó cho thấy cơ chế này là một cuộc diễn đàn địa chính trị của châu Âu, phù hợp với mục tiêu nội tại tự chủ chiến lược của châu Âu đã được cổ súy trong những năm qua. Nói cách khác, Cộng đồng Chính trị châu Âu từ khởi xướng đã trở thành thực tế, là một phần để châu Âu theo đuổi quyền tự chủ chiến lược, xuất phát từ tự chủ chiến lược và phục vụ cho hiện thực hóa mục tiêu này.

Dễ thấy, cơ chế này sẽ là phương tiện đa phương để giải quyết những công việc chung cảu châu Âu như an ninh, nhân quyền và năng lượng của châu Âu. Với lịch sử và hiện trạng của EU, việc xây dựng và thúc đẩy chương trình nghị sự của tổ chức này sẽ bị chỉ đạo hoặc ảnh hưởng sâu sắc từ EU và các quốc gia thành viên Tây Âu, Cộng đồng Chính trị châu Âu sẽ duy trì lập trường ưu tiên tương tự hoặc thống nhất với EU và các thành viên trong các vấn đề đối ngoại. Cơ chế này có đòi hỏi mạnh mẽ về duy trì “nền dân chủ” của châu Âu, có thể thấy rằng Cộng đồng Chính trị châu Âu sẽ mang màu sắc EU sâu đậm về ý thức hệ.

Là công cụ mới để các nước châu Âu thực hiện các cuộc đấu tranh địa chính trị, có định hướng và yêu cầu ý thức hệ rõ ràng, lập trường đối ngoại (bao gồm quan hệ với Trung Quốc) của Cộng đồng Chính trị này sẽ duy trì sự thống nhất với EU. Tuy nhiên, chức năng chủ yếu của Cộng đồng Chính trị châu Âu sẽ tập trung vào địa chính trị và an ninh của châu Âu, thu hút các nước láng giềng không thể gia nhập EU trong tương lai gần tham gia quản lý công việc châu Âu. Do đó, trước khi trở thành một tổ chức đa phương mạnh (nếu có thể), Cộng đồng Chính trị châu Âu không thể hình thành tương tác thực chất với các nước bên ngoài khu vực, nếu có chăng thì chỉ được thực hiện thông qua các cơ chế đã hoàn thiện như EU hoặc chính sách độc lập của các nước thành viên. Tóm lại, Cộng đồng Chính trị châu Âu sẽ chủ yếu tập trung vào công việc nội bộ của châu Âu, là tổ chức của một châu Âu lớn hơn (44 quốc gia) có thể có những tranh cãi nội bộ phức tạp hơn, cơ cấu tổ chức không mấy phù hợp, dẫn đến tình trạng hệ thống ra quyết sách mang tính hình thức, thiếu kinh phí, nên không thể phát huy ảnh hưởng đối ngoại lớn hơn.

Nguồn: www.thepaper.cn

TLTKĐB – 02/11/2022

Cộng đồng Chính trị châu Âu: “Bình cũ rượu mới” – Phần II


Phản ứng của các bên: Ủng hộ, lo ngại, vui buồn lẫn lộn

Macron đã liên kết Cộng đồng Chính trị châu Âu với Liên bang châu Âu của Mitterrand, sử dụng trực tiếp khái niệm từng xuất hiện trong lịch sử liên kết châu Âu để đặt tên cho sáng kiến, khiến sáng kiến này có màu sắc của Pháp, đồng thời cũng kích hoạt sứ mệnh lịch sử của người châu Âu. Điều quan trọng hơn là có ý nghĩa thiết thực để cố gắng giải quyết vấn đề cấp bách nhất của châu Âu hiện nay. Những điều này đã làm cho sáng kiến của Macron nhìn chung nhận được đồng thuận rộng rãi hơn của các bên, mặc dù cũng có một số ít ý kiến phản đối.

Sáng kiến này ít nhất giành được sự ủng hộ của EU. Tháng 6/2022, Borrell, Đại diện cấp cao về đối ngoại và chính sách an ninh của EU, đã khẳng định sáng kiến Cộng đồng Chính trị châu Âu, cho rằng sáng kiến này có thể cho phép các nước ứng cử viên tham gia ngay lập tức vào các chính sách khác nhau của EU. Nếu họ đồng ý, có thể tác động đến một số nước chưa muốn gia nhập EU như Na Uy, Thụy Sĩ hoặc Anh. Tháng 9/2022, trong bài phát biểu của mình, Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Von der Leyen bày tỏ sự ủng hộ của EC đối với ý tưởng Cộng đồng Chính trị châu Âu. Bà cho rằng châu Âu cần cố gắng mở rộng hạt nhân của những quốc gia dân chủ này, phương pháp trực tiếp nhất là làm sâu sắc hơn mối quan hệ của EU với các nền dân chủ. Điều này phải bắt đầu từ những quốc gia đang trên con đường gia nhập EU. Chủ tịch Hội đồng châu Âu Michel đã phản hồi đề xuất của Macron theo cách riêng của mình, khoảng một tuần sau khi Macron khởi xướng Cộng đồng Chính trị châu Âu trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn thể Ủy ban kinh tế và xã hội châu Âu, Michel nói: “Từ Reykjavik đến Baku hoặc Yerevan, từ Oslo đến Ankara, có một cộng đồng địa chính trị… Tôi tin chắc rằng chúng ta cần phải mang lại cho khu vực địa lý này một thực tế chính trị. Tôi kêu gọi xây dựng một cộng đồng địa chính trị châu Âu”.

Ngày nay, Cộng hòa Czech, nước giữ chức Chủ tịch luân phiên của Hội đồng EU, đã tổ chức phiên họp đầu tiên của Cộng đồng Chính trị châu Âu, EU không chỉ ủng hộ bằng lời nói mà còn tham gia sâu vào quá trình xây dựng cộng đồng này bằng hành động.

Đức là thành viên quan trọng của EU, Thủ tướng Đức Scholz nhận định: “Sáng kiến của Pháp là một phương pháp thú vị để ứng phó thách thức to lớn mà chúng ta phải đối mặt, mặc dù ông ủng hộ việc cải cách cơ chế bỏ phiếu của Ủy ban châu Âu (từ toàn bộ nhất trí trở thành đa số hiệu quả) để thúc đẩy thành tựu liên kết châu Âu trong các lĩnh vực an ninh và ngoại giao. Nhưng Vương quốc Anh là ngoại lệ. Chính quyền Truss của Anh do dự khi tham gia hội nghị đầu tiên của Cộng đồng Chính trị châu Âu, vì lo ngại cộng đồng này sẽ trở thành cơ chế đa phương mới của châu Âu và có thể bị EU lãnh đạo. Đảng Bảo thủ lo ngại Anh buộc phải rơi vào tình thế phức tạp của lục địa châu Âu sau Brexit (Anh rời EU) và gánh vác trách nhiệm không cần thiết. Việc làm này không có lợi cho quan hệ của Anh với Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Nhóm các nền công nghiệp phát triển (G7), hai tổ chức này là tổ chức quốc tế chủ yếu để Anh tham gia vào các vấn đề quốc tế và duy trì địa vị của mình ở phương Tây.

Nhưng cũng có người lo ngại sâu sắc, vào ngày Macron đề xuất sáng kiến Cộng đồng Chính trị châu Âu, 13 quốc gia EU, bao gồm cả Bulgaria và Thụy Điển, đã bày tỏ lập trường tập thể đối với những sáng kiến cải cách châu Âu khác nhau: “Không ủng hộ tiến trình sửa đổi hiệp ước thiếu cân nhắc và thử nghiệm quá sớm. Việc làm này sẽ dẫn đến rủi ro nghiêm trọng khi sức mạnh chính trị bị chuyển hướng khỏi nhiệm vụ quan trọng là tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề mà công dân của chúng ta kỳ vọng câu trả lời, đối phó với những thách thức địa chính trị cấp bách đặt ra trước châu Âu”. Tuyên bố một phần được hiểu là hoài nghi về những cải cách cực đoan, bao gồm Cộng đồng Chính trị do Macron đề xuất.

Có thể có nhiều vui mừng và lo ngại lẫn lộn về việc các nước Tây Balkan mong muốn gia nhập EU. Nhưng cho dù thế nào, tất cả các quốc gia châu Âu được xác định trong “cộng đồng” này cuối cùng đều tham gia hội nghị đầu tiên của Cộng đồng Chính trị châu Âu (Vương quốc Anh cũng tham gia sau khi cân nhắc ưu và nhược điểm). Điều này cho thấy cho dù Na Uy và Thụy Sĩ không tìm cách gia nhập EU, cũng như các thành viên EU phản đối  những cải cách triệt để, đều có kỳ vọng khi tham gia một cộng đồng non trẻ.

Một số thách thức gây cấn bên trong, bên ngoài

Việc tổ chức Hội nghị của Cộng đồng Chính trị châu Âu sẽ biến sáng kiến của Pháp thành sự đồng thuận của châu Âu, thành cơ chế đa phương bao gồm tất cả các nước châu Âu. Tuy nhiên, trong tương lai, sáng kiến này cần phải xử lý nhiều thách thức, bao gồm quan hệ với các tổ chức quốc tế như EU, sự phối hợp rõ ràng về cơ cấu và chức năng, liên quan đến vấn đề mở rộng EU.

Thứ nhất, về mặt tổ chức và chức năng, Cộng đồng Chính trị châu Âu cần có sự khác biệt với các tổ chức khác của châu Âu như EU. Đến nay, không có dấu hiệu rõ ràng cho thấy phương châm Cộng đồng Chính trị châu Âu trong việc xử lý quan hệ với EU. Theo như ý định ban đầu, vì Hội đồng châu Âu thiếu hiệu quả lý tưởng trong việc giải quyết những vấn đề chính trị và an ninh quan trọng ở châu Âu, không thể thu hút sự tham gia của các nước không thuộc EU ở châu lục này. Việc thành lập Cộng đồng Chính trị châu Âu nhằm cung cấp phương tiện để có thêm quốc gia châu Âu cùng tham gia giải quyết công việc quan trọng của châu Âu, nhưng hiện nay, hội nghị đầu tiên của Cộng đồng Chính trị châu Âu đang do Chủ tịch luân phiên EU đứng ra tổ chức, việc làm này gây ấn tượng EU sẽ nắm vai trò chủ đạo cộng đồng mới, cho dù EU tuyên bố đây là phương tiện phối hợp, Cộng đồng Chính trị châu Âu không thể thiết lập, cũng không thể thay thế bất kỳ tổ chức, cơ cấu hoặc quy trình hiện có nào.

Ngoài ra, lĩnh vực quản lý của Cộng đồng Chính trị châu Âu bao gồm an ninh, năng lượng, khí hậu, chuyển dịch nhân sự, nhân quyền và phát triển kinh tế…, không phân biệt rõ ràng các chức năng của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Hội đồng châu Âu, và đặc biệt là EU trong các lĩnh vực có liên quan. Rõ ràng, muốn Cộng đồng Chính trị châu Âu thành công, không thể đơn giản là bộ phận mở rộng của EU hoặc các tổ chức khác, mà cần duy trì sự độc lập của tổ chức này thông qua các chức năng riêng biệt và thiết thực, tránh sự trùng lặp về chức năng với các tổ chức đa phương của châu Âu.

(còn tiếp)

Nguồn: www.thepaper.cn

TLTKĐB – 02/11/2022