Những năm giữa thế kỷ XX chứng kiến sự phát triển của lý thuyết quyết định thống kê đa mục đích, lý thuyết này có thể dễ dàng thích ứng với các hoàn cảnh thay đổi và, trên nguyên tắc, có thể phân tích bất kỳ lựa chọn nào. Nó làm được điều đó bằng cách định lượng các phán đoán của người ta quyết định về các mục tiêu, phương án và kết quả (cho dù những yếu tố này có thể không được xác định rõ ràng) và bằng cách suy ra lựa chọn ưu tiên. Ứng dụng thực tiễn của lý thuyết này là Lý thuyết Quyết định ứng dụng (ADT).
Vào đầu những năm 1960, các nhóm nghiên cứu tại Harvard và Stanford đã phát triển và quảng bá ADT như một phương pháp luận phổ quát để cải thiện lý tính trong một thế giới mà những quyết định kém cỏi đang gây tổn hại đến cuộc sống và cộng đồng. Các tập đoàn hàng đầu (như Dupont, General Electric và Kodak), và sau đó là các bộ ngành nhà nước (như Bộ Quốc phòng và Năng lượng) bắt đầu áp dụng phân tích quyết định cho các quyết định khó khăn nhất (và gây tranh cãi nhất) của họ. Nhiều thành công ấn tượng đã được ghi nhận, và chúng tôi, những người từng tham gia vào phân tích quyết định ngay từ những ngày đầu tiên nhìn nhận nó với vô vàn nhiệt huyết.
Phân tích quyết định đã trải qua nhiều giai đoạn gối sóng nhau, đặc trưng bởi các phương thức hỗ trợ khác nhau, mỗi giai đoạn được xây dựng dựa trên các giai đoạn trước đó.
+ Giai đoạn lý thuyết đặt nền móng cho chuyên ngành tổng quát, lý thuyết quyết định thống kê (khoảng từ năm 1950 đến 1970);
+ Giai đoạn kỹ thuật tập trung vào các quy trình mô hình hóa cụ thể và tìm kiếm các ứng dụng minh họa (khoảng từ năm 1960 đến 1980);
+ Gian đoạn vấn đề lựa chọn trong số các kỹ thuật phân tích quyết định có sẵn và điều chỉnh chúng cho phù hợp với một loạt vấn đề cụ thể, chẳng hạn như dự thảo ngân sách vốn hoặc bảo vệ môi trường (khoảng từ năm 1975 đến 1990);
+ Giai đoạn sử dụng và người dùng giải quyết tất cả các yêu cầu để có được phương pháp hỗ trợ hữu ích trong một bối cảnh nhất định, trong đó trọng tâm là tính hữu ích đối với một người ra quyết định và một bối cảnh cụ thể.
Việc thực hành ADT trên thực tế chắc chắn không thể đúng chuẩn hoàn toàn trong những phạm trù này. Các giới hạn và thời điểm của các phạm trù thường kém rõ ràng hơn nhiều nhưng chúng có thể giúp ta hiểu hơn về sự thay đổi và phát triển của ADT. Theo một cách nào đó, tôi xem cuốn sách này như một tuyên ngôn cho cuộc cách mạng của phân tích quyết định “hướng đến sử dụng” (thay vì ADT hướng đến kỹ thuật hoặc hướng đến vấn đề). Cuốn sách dựa trên cả logic, con người và kỹ năng thực hành (thay vì chỉ dựa trên logic). Tôi tin rằng việc tập trung như vậy có thể chống lại được những áp lực đã làm chậm quá trình thực hành ADT thành công trong quá khứ. Phương pháp luận ADT, mặc dù đã được chứng minh là hữu ích, vẫn là một công trình chưa hoàn thiện.
4.1/ Các phương pháp ADT
Vào thời điểm ADT được tạo ra, giới làm nghề và học thuật đều tin rằng bất kỳ người ra quyết định nào cũng có thể cải thiện được khả năng ra quyết định của họ bằng cách hành động dựa trên những gì mà mô hình này gợi ý. Mô hình ADT bắt đầu được dạy cho những người ra quyết định trong suốt quá trình đào tạo chuyên môn (Brown, Kahr & Peterson, 1974). Người ta dự kiến rằng sớm muộn gì việc sử dụng ADT cũng sẽ trở thành tiêu chuẩn trong quản lý và các lĩnh vực ứng dụng khác. Thật vậy, nhiều doanh nghiệp và chính phủ các tổ chức lớn của đất nước đã bắt đầu vận dụng ADT vào các quyết định của họ (Brown & Ulvila, 1982).
Tuy nhiên, dù vẫn được thực hành như thông thường và như vốn dĩ ban đầu, ADT kể từ đó đã không còn nhận được sự quan tâm rầm rộ như trước nữa. Và quả thật, ADT không còn là khóa học bắt buộc tại Trường Kinh doanh Harvard, trong khi đây là nơi nó bắt đầu. ADT đã cho thấy rằng nó hầu như không có giá trị thực tiễn do ba sai sót chết người: không thích ứng với năng lực nhận thức của con người; các phân tích ADT rõ ràng gây tốn thời gian; và phớt lờ đi những kiến thức mà một mô hình ADT không yêu cầu. Hành động mà các phân tích ADT ủng hộ dựa trên một mô hình số đơn nhất và phần lớn bỏ qua các nguồn thông tin khác, chẳng hạn như trực giác, lời khuyên của người khác và các phân tích thay thế. Kết quả là các phân tích ADT thường không hiệu quả hơn các quyết định không được hỗ trợ – ít nhất cũng là không đáng để bỏ công sức.
Nguyên nhân gốc rễ của các vấn đề kỹ thuật của ADT, các vấn đề đã cản trở việc đặt ra các quy chuẩn một cách hiệu quả (thay vì mô tả), nằm ở chỗ công cụ ADT đã được phát triển, áp dụng và giảng dạy bởi những nhà thống kê theo định hướng toán học và những người tương tự như thế, những người vừa thiếu đào tạo về tâm lý học liên quan và vừa không quen với bối cảnh ngoài đời thực. Họ có thể kiểm tra tính hợp lý về mặt logic, nhưng không thể kiểm tra về mặt nhận thức hay tính phù hợp đối với tổ chức hoặc sự cân bằng có lợi về mặt chi phí. Các đãi ngộ khuyến khích trong sự nghiệp học thuật không tạo được động lực cho họ để làm được những điều đó.
4.2/ Quá trình phát triển ADT của riêng bản thân tôi
Công việc đầu tiên của tôi sau khi tốt nghiệp vào năm 1958 là về tư vấn quản lý, bao gồm việc cố gắng giúp các khách hàng đưa ra quyết định trong những năm 1960. Sau khi không thể tìm được một vài nguyên tắc logic để làm điểm tựa cho các lời khuyên của mình, tôi biết đến một công trình liên quan tới ADT được thực hiện bởi các nhà htống kê Howard Raiffa và Robert Schlaifer (1961) ở Harvard. Tôi tham gia vào nhóm của họ và dành năm năm để tiếp thu các phương pháp ADT của họ rồi dạy lại cho các thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA).
Khi tôi thử nghiệm các phương pháp này cho khách hàng doanh nghiệp, tôi (cũng như những người khác) cảm thấy thất vọng khi phát hiện ra rằng mặc dù ADT thực sự thuyết phục về mặt logic, những người ra quyết định hiếm khi sử dụng nó hoặc thấy nó hữu ích. Tôi nghĩ nguyên nhân là do phiên bản ADT của chúng tôi đã không cân nhắc đến các năng lực cũng như giới hạn của con người.
Vì thế trong bốn năm sau đó, tôi chuyển đến Đại học Michigan để học hỏi từ các nhà tâm lý học, đứng đầu là Ward Edwards, người đã mô tả cách con người đưa ra quyết định và đặc biệt là những lỗ hổng trong logic của họ. Tôi nhận ra rằng việc trau dồi, củng cố kiến thức đã phần nào cải thiện khả năng hỗ trợ ra quyết định của tôi. Tôi đã kết hợp nó vào một khóa hỗ trợ ra quyết định, cộng tác với một nhà tâm lý học và một nhà thống kê có hứng thú, đây là những người đã đồng hành từ những ngày đầu trong kinh nghiệm hỗ trợ ra quyết định thực tế của tôi (Brown, et al., 1974). Biến thể này của ADT là một cải tiến, nhưng các công cụ quyết định của nó rõ ràng vẫn thiếu đi sự thích ứng với các năng lực của con người.
Vào năm 1973, tôi quay lại công việc tư vấn ban đầu của mình. Tôi dành hai thập kỷ tiếp theo hỗ trợ những nhà hoạch định chính sách chuyên nghiệp (ví dụ như quản lý doanh nghiệp và quan chức chính phủ), phát triển những công cụ quyết định mới (thường là được các cơ quan nghiên cứu tài trợ), dạy cho các nhà quản lý tương lai (ví dụ như các thạc sĩ quản trị kinh doanh) và truyền kiến thức cho công chúng (thông qua báo chí và các chương trình phát sóng). Tôi đan xen công việc tư vấn cho những người ra quyết định đang hành nghề và làm việc ở các khoa liên quan, đặc biệt là Lí thuyết quyết định thống kê (Đại học London), Lí thuyết quyết định thuộc hành vi (Trường Kinh tế London) và Quản lý (Harvard, Michigan, George Mason) và, khi thích hợp, thì cộng tác với những người khác trong lĩnh vực này.
Nhà tâm lý học John Baron và tôi đã phát triển các tài liệu giảng dạy và tiến hành dạy thử ở các trường tại địa phương (xem Baron & Brown, 1991). Trải nghiệm này đã xác nhận rằng những người đưa ra quyết định riêng tư cũng cần được hỗ trợ như những người đưa ra quyết định chuyên nghiệp, nhưng ở một dạng rất khác. Ví dụ, những người đưa ra quyết định riêng tư thường không phải định lượng lý do của họ một cách rõ ràng, cũng như không phải giải thích lý do của họ cho người khác, trong khi đây là một đặc điểm chính trong việc hỗ trợ ra quyết định chuyên nghiệp.
TH: T.Giang – CSCI
Nguồn tham khảo: Rex V. Brown – Khoa học & nghệ thuật của việc ra quyết định – NXB TN 2021.